Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
-------------***------------

BAN ĐIỀU HÀNH
CÁC CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

TRẦN BÁ QUANG

THỦ TỤC TỐ TỤNG TRUY CỨU
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ PHÁP NHÂN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khoa: Luật Hình sự
Niên khóa: 2012 – 2016

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Lê Huỳnh Tấn Duy
Người thực hiện: Trần Bá Quang
MSSV: 1253801012247
Lớp: 34 – CLC37C

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp “Thủ tục tố tụng truy cứu trách
nhiệm hình sự pháp nhân” là kết quả của quá trình học tập và cơng trình nghiên
cứu của bản thân. Những nguồn tư liệu tham khảo đều được trích dẫn đầy đủ và
chính xác với tài liệu tác giả tiếp cận được trong quá trình thực hiện khóa luận.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm trước nhà trường về lời cam đoan này.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 7 năm 2016


Tác giả

TRẦN BÁ QUANG


LỜI CÁM ƠN
Đầu tiên, tác giả xin gửi lời cám ơn đến quý thầy cô trong Ban giám hiệu,
giảng viên, nhân viên đáng kính của trường Đại học Luật TP. HCM vì đã gỉảng dạy,
chỉ bảo, tạo mơi trường học tập thân thiện và hiệu quả để tác giả có được nền tảng
kiến thức pháp lý, là yếu tố cơ bản trong việc thực hiện đề tài nghiên cứu khóa luận
tốt nghiệp của mình.
Tác giả xin gửi lời cám ơn đến cô Lương Thị Mỹ Quỳnh, cô đã gợi ý nghiên
cứu ban đầu và chia sẻ một số nguồn tài liệu luật học hữu ích liên quan đến đề tài
mà tác giả chọn làm khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt, xin được bày tỏ sự kính trọng và tri ân sâu sắc đến giảng viên
hướng dẫn Ts. Lê Huỳnh Tấn Duy – thầy đã tận tâm hướng dẫn tác giả và tận tình
hỗ trợ hết mức có thể về nguồn tài liệu, định hướng, quan điểm nghiên cứu. Trong
quá trình thực hiện khóa luận, tác giả nhận được sự giúp đỡ nghiên cứu không thể
nào tốt hơn, cùng với sự chia sẻ kinh nghiệm, hướng dẫn kỹ năng nghiên cứu căn
bản, hữu dụng cho bản thân khơng chỉ khóa luận tốt nghiệp mà quá trình học tập
sau này. Một lần nữa, xin được gửi lời cám ơn chân thành nhất đến thầy.
Tác giả cũng xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè đã tạo mọi điều kiện
giúp đỡ, động viên trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Do kiến thức còn hạn hẹp, kỹ năng nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài khó
tránh được sai phạm, thiếu sót nên tác giả mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ
quý thầy cô và bạn bè khi tham khảo khóa luận này.
Tác giả

TRẦN BÁ QUANG



MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƢƠNG I. PHÁP NHÂN VÀ THỦ TỤC TỐ TỤNG TRUY CỨU TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ PHÁP NHÂN
1.1 Pháp nhân.......................................................................................................... 1
1.1.1 Khái niệm pháp nhân ............................................................................ 1
1.1.2 Các điều kiện của pháp nhân ............................................................... 6
1.1.3 Đặc điểm của pháp nhân..................................................................... 11
1.1.4 Phân loại pháp nhân ............................................................................ 14
1.2 Pháp nhân trong tố tụng hình sự .................................................................. 17
1.2.1 Pháp nhân là cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ................. 18
1.2.2 Pháp nhân là cơ quan, tổ chức tham gia tố tụng .............................. 19
1.2.3 Pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự ..................................... 20
KẾT LUẬN CHƢƠNG I ........................................................................................ 25
CHƢƠNG II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ
QUỐC GIA VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ CỦA PHÁP NHÂN
2.1 Trình tự, thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân ......... 27
2.1.1 Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam .................................................. 27
2.1.2 Pháp luật một số quốc gia trên thế giới ............................................. 31
2.2 Ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình
sự ............................................................................................................................... 34
2.2.1 Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam .................................................. 34
2.2.2 Pháp luật một số quốc gia trên thế giới ............................................. 39
2.3 Quyền và nghĩa vụ của ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị
truy cứu trách nhiệm hình sự ................................................................................ 42
2.3.1 Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam .................................................. 42
2.3.2 Pháp luật một số quốc gia trên thế giới ............................................. 44



2.4 Các biện pháp cƣỡng chế áp dụng đối với pháp nhân bị truy cứu trách
nhiệm hình sự .......................................................................................................... 45
2.4.1 Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam .................................................. 45
2.4.2 Pháp luật một số quốc gia trên thế giới ............................................. 47
2.5 Vấn đề cần phải chứng minh khi tiến hành tố tụng đối với pháp nhân bị
buộc tội ..................................................................................................................... 48
KẾT LUẬN CHƢƠNG II....................................................................................... 52
CHƢƠNG III. NHỮNG KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ KHI ÁP DỤNG THỦ TỤC
TỐ TỤNG TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ PHÁP NHÂN VÀ KIẾN
NGHỊ SỬA ĐỔI, HỒN THIỆN
3.1 Những hạn chế trong quy định của BLTTHS năm 2015 về thủ tục tố tụng
truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân ............................................................. 53
3.1.1 Những quy định chung........................................................................ 53
3.1.2 Quy định về các giai đoạn tố tụng ...................................................... 58
3.2 Kiến nghị sửa đổi, hoàn thiện thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự
pháp nhân ................................................................................................................ 62
3.2.1 Thuật ngữ “Pháp nhân phạm tội” ..................................................... 62
3.2.2 Những vấn đề cần chứng minh khi tiến hành tố tụng đối với pháp
nhân bị buộc tội ....................................................................................................... 63
3.2.3 Thay đổi hình thức tổ chức hoặc chấm dứt sự tồn tại của pháp
nhân .......................................................................................................................... 63
3.2.4 Biện pháp cƣỡng chế ........................................................................... 64
3.2.5 Thời hạn trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử ..................... 66
3.2.6 Quyền và nghĩa vụ của pháp nhân bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố
................................................................................................................................... 66
KẾT LUẬN CHƢƠNG III ..................................................................................... 67
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để điều hành, quản lý một xã hội mỗi nhà nước mỗi quốc gia đều sử dụng
pháp luật như một công cụ thiết yếu, hữu hiệu nhất. Pháp luật được thực hiện nhằm
đảm bảo trật tự cơng cộng, sự an tồn và quyền lợi chính đáng của con người, cơng
dân trong một quốc gia xác định. Pháp luật nói chung, luật Hình sự và luật Tố tụng
hình sự nói riêng có nhiệm vụ đấu tranh, phòng chống tội phạm, thực hiện việc
trừng trị, răn đe người phạm tội và giáo dục cho tồn xã hội.
Q trình hình thành và phát triển của Luật hình sự ở Việt Nam đến trước Bộ
luật Hình sự năm 2015 luôn ghi nhận nguyên tắc trách nhiệm hình sự cá nhân và
ngun tắc có lỗi, tội phạm chỉ có thể tiến hành bởi một thực thể là con người thông
qua hành vi khách quan, cùng với yếu tố tâm lý đạo đức chủ quan để xác định hành
vi đó có cấu thành tội phạm[50-tr. 25]. Pháp nhân là một thực thể pháp lý được hình
thành bởi pháp luật nên theo quan niệm truyền thống thì pháp nhân khơng có lý trí,
nhận thức tồn tại các yếu tố tâm lý, đạo đức nên không thể là đối tượng điều chỉnh
của luật hình sự. Do đó, pháp luật hình sự nước ta không chấp nhận pháp nhân là
chủ thể của tội phạm. Khi chưa bắt đầu thực hiện xây dựng dự án hai bộ luật cốt lõi
trong lĩnh vực pháp lý hình sự thì vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân cũng
gây ra khơng ít tranh cãi trong giới nghiên cứu về khoa học luật hình sự[73-tr.52].
Những người phản đối quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân cho rằng do
tính trừu tượng pháp lý của chủ thể, pháp nhân khơng thể tự mình thực hiện hành vi
phạm tội mà tội phạm là do cá nhân thực hiện nên khơng thể quy kết trách nhiệm
hình sự cho pháp nhân được. Dự án Bộ luật Hình sự (sửa đổi) và Bộ luật Tố tụng
hình sự (sửa đổi) được đưa ra lấy ý kiến xã hội, bản dự thảo được các chuyên gia
pháp lý, cơ quan, tổ chức, người dân góp ý, đã ghi nhận rất nhiều ý kiến đồng thuận
và phản đối về chế định pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi Quốc hội
thơng qua Bộ luật Hình sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì vẫn
tiếp tục tồn tại các quan điểm trái chiều về vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp
nhân. Luật Hình sự và luật Tố tụng hình sự có mối quan hệ khăng khít, liên quan



mật thiết với nhau, Bộ luật Hình sự là luật nội dung, Bộ luật Tố tụng hình sự là luật
hình thức[36-tr.17]. Trong khi nhiệm vụ của Bộ luật Hình sự là xác định những
hành vi nguy hiểm cho xã hội, quy định về các tội phạm, hình phạt, chế tài dành cho
các tội phạm thì Bộ luật Tố tụng hình sự điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Bởi lẽ, khi có tội phạm xảy ra thì địi hỏi
vụ án hình sự cần được giải quyết và Bộ luật Tố tụng hình sự tạo nên khung pháp lý
cho các hoạt động tố tụng. Những vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự của
như: điều kiện, căn cứ, chế tài, biện pháp cưỡng chế luôn được cơ quan lập pháp
thận trọng ghi nhận. Nhiều quốc gia, bao gồm cả hệ thống Thông luật (Common
law) và Dân luật (Civil law) đã ghi nhận trách nhiệm hình sự của pháp nhân, nên
việc chấp nhận pháp nhân là một chủ thể của tội phạm theo ý kiến của nhiều chuyên
gia và của bản thân tác giả là đáp ứng xu thế phát triển chung của pháp luật hình sự
trên thế giới[59-tr.57]. Nhưng cách tiếp cận, áp dụng vào thực tiễn cần có sự tham
chiếu, học tập có chọn lọc ở các quốc gia đã thực hiện vấn đề này. Nếu như trách
nhiệm hình sự của pháp nhân phạm tội gây ra nhiều tranh cãi và nhận được nhiều
lời cảnh báo đến từ các chuyên gia trong việc quy định, thì khi thực hiện dự án về
Bộ luật Tố tụng hình sự, ghi nhận các quy phạm liên quan đến thủ tục tố tụng của
pháp nhân phạm tội trong tố tụng hình sự cũng gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Mối
quan hệ giữa luật Hình sự và luật Tố tụng hình sự là thống nhất, bổ trợ, làm nền
tảng cho nhau để áp dụng vào thực tiễn xử lý tội phạm. Lần đầu tiên ghi nhận các
quy phạm điều chỉnh các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự liên quan tới pháp nhân
sẽ khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Cần xem xét cụ thể, đánh giá rõ ràng
các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự trên cơ sở tham khảo quy định của các
quốc gia khác về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân.
Từ những yêu cầu của pháp luật Việt Nam và xu hướng phát triển của pháp
luật hình sự thế giới về pháp nhân, việc đầu tư nghiên cứu thủ tục tố tụng truy cứu
trách nhiệm pháp nhân là một vấn đề hết sức cấp thiết trên bình diện lý luận và thực
tiễn. Đó là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm

hình sự pháp nhân” làm khóa luận tốt nghiệp.


2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Khi tìm hiểu về trách nhiệm hình sự của pháp nhân, chúng ta có thể tìm được
rất nhiều tài liệu đa dạng về nội dung và hình thức từ sách, tạp chí, cơng trình
nghiên cứu khoa học sinh viên, khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ. Liên quan
đến nội dung này với hình thức khóa luận tốt nghiệp có các đề tài được thực hiện,
bao gồm: Trần Thúy Kiều – “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân – Những vấn đề
lý luận”; Nguyễn Thị Anh Thư – “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân những vấn
đề lý luận”; Ngơ Thị Hồng Thơ – “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân một vài
vấn đề về lý luận”… Ngồi ra, chúng ta cịn có thể tìm thấy một số luận văn thạc sĩ
như : Hồng Thị Tuệ Phương – “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân”; Dương Văn
Vũ – “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân – Lý luận và thực tiễn”. Về tạp chí, thì
có thể tìm thấy rất nhiều bài viết liên quan được đăng tải trên các tạp chí như:
Nghiên cứu lập pháp, Khoa học pháp lý, Nhà nước và pháp luật, Dân chủ pháp luật,
Kiểm sát, Luật học, Tòa án nhân dân và các tạp chí khác. Nhưng khi tìm kiếm tài
liệu về chủ đề thủ tục tố tụng đối với pháp nhân thì khơng thấy được nhiều nguồn
tài liệu trong nước, chủ yếu là tài liệu, sách nước ngoài. Điều đó cho thấy tính mới
của đề tài, là một lĩnh vực pháp luật chưa được đào sâu nghiên cứu. Đây vừa là ưu
điểm, vừa là khó khăn cho tác giả khi thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Lý luận và
thực trạng áp dụng các quy định về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự của
pháp nhân đặt ra rất nhiều vấn đề có thể khai thác, nghiên cứu cho nên để có được
một khóa luận đạt chuẩn nghiên cứu, đề tài của tác giả đi theo một hướng cụ thể,
định hướng được thể hiện trong mục đích, nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu nằm
trong chủ đề rộng lớn liên quan đến thủ tục tố tụng đối với pháp nhân.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của tác giả với đề tài là xác định loại pháp nhân chịu
trách nhiệm hình sự dựa vào các căn cứ, điều kiện luật định đồng thời xem xét tính

khả thi của các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự khi truy cứu trách nhiệm hình sự


với pháp nhân đó, dự liệu những vướng mắc về mặt lý luận, và thực tiễn áp dụng
thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân trong thời gian tới.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Căn cứ vào mục đích nghiên cứu đề tài, tác giả tập trung vào các nhiệm vụ sau
đây:
- Nghiên cứu về pháp nhân là chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt
Nam, kết hợp tham khảo pháp luật một số quốc gia trên thế giới để có cái nhìn tổng
qt, nhận thức chính xác, đúng đắn về pháp nhân và thủ tục tố tụng truy cứu trách
nhiệm hình sự pháp nhân;
- Xem xét, phân tích cụ thể các quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân, đồng thời so sánh, đối chiếu
với pháp luật của một số quốc gia khác;
- Đánh giá những quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục tố tụng truy
cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân, từ đó nêu lên những khó khăn, hạn chế có thể
dự đốn được khi áp dụng vào thực tiễn bằng các lập luận khoa học, làm cơ sở để
định hướng sửa đổi, hoàn thiện hơn các quy định về thủ tục tố tụng truy cứu trách
nhiệm hình sự pháp nhân.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về pháp nhân, là chủ thể của tội phạm trong luật
Hình sự, tham gia vào trong quan hệ pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Vấn đề
về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân ở Việt Nam và một
số quốc gia trên thế giới cùng với việc dự liệu khó khăn trong áp dụng khi Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015 và đề xuất các giải pháp nhằm góp phần định hướng giải
thích luật và sửa đổi, hồn thiện tốt nhất những quy phạm pháp luật về thủ tục tố
tụng hình sự đối với pháp nhân.
4.2 Phạm vi nghiên cứu



Giới hạn về nội dung: Khóa luận nghiên cứu cơ sở lý luận, các quy định về thủ
tục tố tụng đối với pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong đó, tập trung
nghiên cứu về các vấn đề: pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự; các thủ tục tố
tụng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân; thực trạng quy định và dự
đốn khó khăn trong việc áp dụng thủ tục tố tụng hình sự đối với pháp nhân để đưa
ra một số kiến nghị nhằm hồn thiện thủ tục. Thơng qua đó, khóa luận có những
giải pháp xây dựng một cơ chế pháp lý phù hợp đối với pháp nhân nhằm đảm bảo
pháp chế và thực hiện có hiệu quả cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm là
nói chung và tội phạm do pháp nhân thực hiện nói riêng.
Giới hạn về văn bản pháp luật nghiên cứu: Các quy định của Bộ luật Hình sự
năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, pháp luật hình sự của một số quốc
gia trên thế giới có liên quan đến trách nhiệm hình sự pháp nhân và thủ tục truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân trong tố tụng hình sự.
Nguồn tài liệu tham khảo: Tác giả sử dụng những nguồn tài liệu chính thống
mang tính học thuật và độ tin cậy cao, bao gồm: giáo trình, sách tham khảo, các tạp
chí luật học, khoa học pháp lý, thư viện số, thư viện heinonline. Song song đó,
những thơng tin liên quan đến nội dung nghiên cứu từ những trang thông tin điện tử
có uy tín cũng được sử dụng và cập nhật đến thời điểm thực hiện đề tài.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được trình bày trên quan điểm nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, các cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin về
nhà nước và pháp luật. Việc sử dụng những phương pháp này cho phép tác giả nhận
thức rõ hơn bản chất của vấn đề về pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự và
thủ tục tố tụng đối với pháp nhân theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Từ đó,
đặt ra các lý luận dựa trên quy phạm pháp luật tố tụng hình sự dành cho pháp nhân
có thể gặp khó khăn trong thực tiễn áp dụng. Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khác như phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, phương
pháp lịch sử, thống kê để nghiên cứu đề tài. Việc sử dụng các phương pháp này



trong việc nghiên cứu đề tài cho phép tác giả xem xét vấn đề từ nhiều góc độ khác
nhau và tổng hợp lại để có một cái nhìn tồn diện khách quan về thủ tục tố tụng đối
với pháp nhân chịu trách nhiệm hình sự trong tố tụng hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đáp ứng nhu cầu nghiên cứu đề tài cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp
dụng khi chế định đi vào thực tế, khóa luận “Thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm
hình sự pháp nhân” có ý nghĩa lớn trên một số phương diện. Về lý luận, khóa luận
đã nghiên cứu những vấn đề liên quan đến căn cứ, đặc điểm để xác định pháp nhân,
kết hợp với việt đánh giá các quy phạm của pháp luật tố tụng đối với pháp nhân
trong pháp luật Việt Nam, đối chiếu với các quy định của pháp luật các nước đang
áp dụng trách nhiệm hình sự nhằm lựa chọn, tiếp thu các nội dung phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta, nâng cao pháp chế trong tố
tụng hình sự về pháp nhân. Trên cơ sở những phân tích về khái niệm, đặc điểm
pháp nhân, tác giả làm rõ bản chất chủ thể nào là pháp nhân tham gia vào thủ tục tố
tụng hình sự, bởi vì khơng phải mọi pháp nhân đều là chủ thể của tội phạm. Trong
quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã chỉ ra những khó khăn, thiếu sót mà pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam đối với pháp nhân có thể gặp phải, đặt cơ sở trên lý luận
khoa học pháp lý và dự liệu thực tiễn áp dụng trong hoàn cảnh khách quan và pháp
luật hiện hành. Bằng việc liên hệ với pháp luật tố tụng hình sự nước ngồi đối với
pháp nhân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm đưa ra các đề xuất hợp lý,
dựa trên thực tiễn hiện nay của nước ta làm cơ sở cho việc sửa đổi, hoàn thiện các
quy định điều chỉnh quan hệ pháp luật tố tụng hình sự có sự tham gia của pháp
nhân.
7. Cơ cấu của đề tài
Cơ cấu của khóa luận được quyết định bởi mục đích, nhiệm vụ và phạm vi
nghiên cứu. Ngoài phần lời mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo,
khóa luận được bố cục gồm 3 chương như sau:



- Chương I. Pháp nhân và thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp
nhân.
- Chương II. Quy định của pháp luật Việt Nam và một số quốc gia về thủ tục
tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân.
- Chương III. Những khó khăn, hạn chế khi áp dụng thủ tục tố tụng truy cứu
trách nhiệm hình sự pháp nhân và kiến nghị sửa đổi, hồn thiện.


1

CHƢƠNG I. PHÁP NHÂN VÀ THỦ TỤC TỐ TỤNG TRUY CỨU TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ PHÁP NHÂN

1.1 Pháp nhân
1.1.1 Khái niệm pháp nhân
Khái niệm pháp nhân được đặt nền móng từ thời kỳ phát triển mạnh mẽ của
Tư bản chủ nghĩa trên thế giới. Từ thời đại La Mã, các phường hội đã hình thành và
giao thương bn bán, thực hiện các giao dịch rộng khắp nhưng ban đầu các tổ chức
này khơng có tài sản riêng, mà theo dạng sở hữu chung theo phần của nhiều thương
bn góp lại. Trong chế độ phong kiến, việc phân công lao động ngày càng phát
triển và hình thành nhiều hơn các tổ chức như thế và có sự xuất hiện của các cơng
ty khai thác thuộc địa của mẫu quốc trên lãnh thổ của các nước tại châu Mỹ La tinh,
châu Phi, châu Á. Cho đến khi xã hội phát triển đặt trong điều kiện của Chủ nghĩa
tư bản, vấn đề củng cố địa vị các tổ chức kinh tế bằng phương tiện pháp lý để các tổ
chức này tham gia vào các quan hệ dân sự và thương mại là nhu cầu cấp thiết với
các loại hình tổ chức khác nhau và cũng là phương tiện cạnh tranh giữa các nhà tư
bản với nhau trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa[41-tr.104]. Khái niệm pháp nhân
được hình thành và phát triển ở thời kỳ này.
Cá nhân là một thực thể tự nhiên, một chủ thể phổ biến của các quan hệ xã

hội. Cá nhân hay còn gọi là thể nhân, vừa là một thực thể sinh học tự nhiên, vừa là
một thực thể xã hội. Thể nhân ra đời, phát triển và tham gia vào các quan hệ pháp
luật một cách tự nhiên nên đương nhiên được Nhà nước thừa nhận, tạo hành lang
pháp lý điều chỉnh. Nhưng theo sự phát triển của kinh tế, đáp ứng yêu cầu của xã
hội, quá trình hội nhập theo xu hướng ngày càng sâu rộng về quy mô, cũng như là
mức độ, những cá nhân đơn lẻ tập hợp thành một nhóm người dưới một số hình thái
tổ chức nhất định, cùng thực hiện các hoạt động chung, vì mục đích, tơn chỉ chung
và lợi ích biệt lập với lợi ích của từng cá nhân, hoặc tổ chức do Nhà nước đứng ra
thành lập để thực hiện chức năng mà Nhà nước giao. Những cá nhân tập trung lại


2

với nhau thành nhóm nhưng khơng đơn thuần là số cộng của nhiều thể nhân, mà là
một thực thể xã hội độc lập. Đó có thể dưới hình thức cơng ty, doanh nghiệp, hiệp
hội, đoàn thể, nghiệp đoàn, đơn vị hành chính sự nghiệp và được gọi chung là các tổ
chức[31-tr.147]. Khi các tổ chức đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định, thì
được pháp luật thừa nhận một tư cách pháp lý, trở thành một thực thể pháp lý tham
gia vào các quan hệ xã hội, đồng thời, có tư cách chủ thể riêng biệt, thành một bên
độc lập trong các quan hệ pháp luật, pháp luật gọi đó là một pháp nhân.
Tuy vậy, khơng có một định nghĩa chung về pháp nhân ở bất cứ pháp luật
của một nước nào, mặc dù ngày nay pháp luật công nhận sự tồn tại của pháp nhân là
chủ thể của luật dân sự, luật thương mại, thậm chí là chủ thể trách nhiệm hình sự
được luật hình sự điều chỉnh. Vấn đề về khái niệm của pháp nhân còn bỏ ngỏ trong
hệ thống pháp luật của các quốc gia, bao gồm cả Việt Nam. Có rất nhiều văn bản
pháp luật điều chỉnh đối với chủ thể là pháp nhân trong các mối quan hệ xã hội mà
pháp nhân tham gia nhưng trên thực tế chưa có một văn bản pháp lý nào của nước
ta đưa ra định nghĩa một cách rõ ràng, cụ thể về pháp nhân. Trong các văn bản pháp
luật của Việt Nam, khái niệm pháp nhân được đề cập chủ yếu ở dạng mô tả các dấu
hiệu và điều kiện để thành lập pháp nhân. Cách quy định như vậy đã được thực hiện

từ lâu qua một quá trình xây dựng pháp luật của Nhà nước ta. Từ Thông tư số 525,
ngày 26/3/1975 của trọng tài kinh tế, đến Nghị định số 17, ngày 16/01/1990 hướng
dẫn thi hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Pháp lệnh hợp đồng dân sự ngày
01/7/1991; Điều 94 Bộ luật Dân sự năm 1995; Điều 84 Bộ luật Dân sự năm 2005 và
sắp tới là Điều 74 Bộ luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực vào ngày 01/01/2017)[41tr.106]. Tất cả các văn bản trên đều chứa đựng các quy phạm điều chỉnh hoạt động
của pháp nhân nhưng không đưa ra một khái niệm chính xác về pháp nhân.
“Pháp nhân” là một từ Hán – Việt, có thể dùng phương pháp chiết tự để làm
rõ nghĩa của nó. “Pháp” nghĩa là luật pháp, “nhân” là người, “pháp nhân” có tư cách
đối với pháp luật như một thực thể được thừa nhận[39-tr.1425]. Vậy, không như
pháp nhân, pháp luật công nhận thể nhân bởi vì con người là một thực thể tự nhiên,
sự ra đời của con người không phụ thuộc vào sự cho phép hay ý chí của Nhà nước


3

mà ở đây pháp luật chỉ có thể ghi nhận các quy phạm phù hợp điều chỉnh đối với
thực thể tự nhiên là cá nhân trong xã hội. Còn với pháp nhân thì cần được Nhà nước
thừa nhận để xác lập sự hiện diện của mình trong xã hội một cách hợp pháp. Một
pháp nhân sẽ không thể được xem là ra đời cho đến khi Nhà nước cho phép, cơng
nhận hoặc đích thân Nhà nước ra quyết định thành lập pháp nhân đó. Pháp nhân
cũng có thể được định nghĩa, làm rõ khái niệm theo hướng phân biệt với thể nhân.
Pháp nhân là chủ thể pháp luật độc lập không phải là con người, phân biệt với thể
nhân[47-tr.700].
Trong sự mở rộng của các nền kinh tế giao thương ngày một nhiều, đặt ra
yêu cầu cần phải tìm hiểu rõ ràng nghĩa của pháp nhân không chỉ theo tư duy, quan
điểm của Việt Nam mà là cịn phải được cơng nhận rộng rãi bởi cộng đồng luật học
trên toàn cầu. Pháp nhân được ghi nhận trong tiếng Anh là “legal entity” hay “legal
person”, cũng có thể dịch theo từ “judicial person”[44-tr1543]. Những từ ngữ trên
đều cho ra nghĩa giống nhau là “pháp nhân”[40-tr.746&771]. Bên cạnh đó các học
giả khoa học luật cũng sử dụng từ “legal person” theo ngữ nghĩa là pháp nhân trong

quá trình thực hiện nghiên cứu khoa học pháp lý[32-tr.192]. Trong từ điển luật học
của các chuyên gia pháp lý Anh quốc biên soạn thì pháp nhân được xem như là thực
thể được pháp luật công nhận, có quyền lợi tương tự với một thể nhân, một con
người pháp lý[53-tr.285]. Căn cứ vào từ điển luật học Black„s law dictionary, pháp
nhân có thể hiểu là một “cơ thể”, khác với con người tự nhiên, có chức năng theo
quy định của pháp luật, có thể thực hiện việc kiện tụng hoặc bị kiện, và các chính
sách, quyết định được thiết lập thông qua các nhân viên, người quản lý điều hành,
làm việc trong nó[51-tr.409]. Như vậy, theo cách hiểu luật học nước ngồi về pháp
nhân thì pháp nhân giải thích đơn giản là một con người, một thực thể nhân tạo
được tạo dựng, thành lập bởi một hoặc nhiều thể nhân. Dựa trên khái niệm mà từ
điển luật học Black„s law đưa ra, pháp nhân phải có đủ các yếu tố, về mặt cấu trúc
thì được cấu tạo như một “cơ thể”, nhưng khác với cơ thể của mỗi cá nhân, thực
hiện năng lực, chức năng trong phạm vi pháp luật cho phép, có quyền làm nguyên
đơn, bị đơn, tham gia tố tụng bằng tư cách, nhân danh chính pháp nhân đó và việc


4

ra các chính sách liên quan đến pháp nhân được thực hiện thông qua những người
điều hành, quản lý pháp nhân. Đó là quan điểm nhận thức về pháp nhân của các luật
gia phương Tây nói chung, cịn quan niệm của các luật gia Việt Nam về pháp nhân
cũng tồn tại những điểm khác biệt và tương đồng nhất định khi đưa ra khái niệm về
“pháp nhân”. Quan điểm khoa học pháp lý của các học giả Việt Nam khi giải thích
khái niệm “pháp nhân” có nhiều nét giống nhau. Đa phần thường sử dụng các điều
kiện, yêu cầu của pháp nhân theo pháp luật Dân sự quy định để lý giải cho khái
niệm của chủ thể này[35-tr.264]. Nội dung về những điều kiện, dấu hiệu của pháp
nhân cơ bản có sự thống nhất qua nhiều giai đoạn lập pháp của Việt Nam bao gồm
vấn đề xoay quanh việc pháp nhân được thành lập hoặc được cho phép thành lập
bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay đăng ký hoặc cơng nhận; có cơ cấu chặt
chẽ; có tài sản riêng biệt với các cá nhân, tổ chức, pháp nhân khác; tự chịu trách

nhiệm bằng khối tài sản đó; nhân danh chính mình khi tham gia vào các quan hệ
pháp luật[45-tr.366]. Viện Khoa học pháp lý trực thuộc Bộ Tư pháp Việt Nam ghi
nhận pháp nhân trong “Từ điển Luật học” là tổ chức hội đủ các điều kiện cần và đủ
do pháp luật quy định, là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự; khác với thể nhân
(cá nhân) là một con người, một cá nhân riêng biệt; pháp nhân là một tổ chức có đủ
điều kiện do pháp luật quy định[46-tr.606]. Vậy, yêu cầu tiên quyết để một tổ chức
trở thành pháp nhân phải đáp ứng các điều kiện luật định, đồng thời, phải tham gia
vào các quan hệ pháp luật với tư cách là chủ thể độc lập, được pháp luật cho phép
hưởng địa vị pháp lý gần giống như cá nhân con người và bình đẳng với con người
trong các giao dịch dân sự và quan hệ xã hội nhằm thực hiện các hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật.
Theo quy định của pháp luật Dân sự, pháp nhân có thể được hiểu thơng qua
các dấu hiệu mà quy phạm pháp luật thể hiện. Những dấu hiệu của một tổ chức có
tư cách pháp nhân được xác định bởi các nhân tố như: sự tồn tại độc lập của pháp
nhân mà không phụ thuộc vào các thành viên trong pháp nhân đó; sở hữu tài sản
riêng, độc lập với tài sản của các thành viên; có quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản và thực hiện những hành vi pháp lý nhân danh mình; có quyền tham gia


5

hoạt động tố tụng bằng địa vị pháp lý của mình; chịu trách nhiệm độc lập về tài
sản[56-tr.14].
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định những dấu hiệu cơ bản giống với Bộ luật
Dân sự năm 2005 nhưng quy định chặt chẽ, cụ thể hơn. Điều 74 của Bộ luật Dân sự
năm 2015 quy định như sau:
- Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên
quan;
- Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách

nhiệm bằng tài sản của mình;
- Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, một tổ chức được công nhận là pháp nhân
khi hội đủ các yếu tố về tính hợp pháp khi thành lập; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ với
cơ quan điều hành, tổ chức nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan điều hành của pháp
nhân được quy định trong điều lệ hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân; sở
hữu tài sản độc lập, riêng biệt với các cá nhân, pháp nhân khác; tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản của pháp nhân đó khi tham gia vào các quan hệ pháp luật; có tư cách,
địa vị pháp luật để nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách
độc lập. Các điều kiện của pháp nhân là các dấu hiệu để một tổ chức được Nhà
nước công nhận với tư cách pháp nhân, chủ thể của quan hệ pháp luật.
Với cách hiểu phổ thơng thì pháp nhân là các tổ chức được pháp luật thừa
nhận tư cách chủ thể để tham gia vào các quan hệ pháp luật giống như thể nhân,
nhưng có địa vị pháp lý độc lập, khơng lệ thuộc vào bất kỳ tổ chức, cơ quan nào, có
tư cách bình đẳng với cá nhân và các chủ thể khác khi tham gia vào các quan hệ
pháp luật, được pháp luật trao cho những quyền hạn nhất định, song song đó, cũng
phải chịu những nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ mà pháp nhân tham gia. Với
quan điểm khoa học luật về pháp nhân, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh định
nghĩa: pháp nhân là một tổ chức được thành lập hợp pháp, có cơ cấu tổ chức chặt
chẽ, có tài sản độc lập nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một


6

cách độc lập và chịu trách nhiệm độc lập bằng tài sản của mình khi tham gia vào
các quan hệ đó[31-tr.99].
Theo quan điểm của Trường Đại học Luật Hà Nội, khái niệm về pháp nhân
được hiểu là một tổ chức thống nhất, độc lập, hợp pháp có tài sản riêng và chịu
trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp
luật một cách độc lập[37-tr.99].

Từ những phân tích, đánh giá các lập luận và quan điểm nêu trên, xin được
đưa ra một khái niệm đầy đủ, phù hợp, tổng hòa các quan điểm của các học giả Việt
Nam cũng như quốc tế và căn cứ trên nền tảng pháp luật Việt Nam về pháp nhân
như sau: Pháp nhân là một tổ chức hợp pháp được Nhà nước thừa nhận, có địa vị
pháp lý độc lập, được thành lập, hoạt động theo quy định của pháp luật, có tài sản
riêng, chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng, không lệ thuộc vào các cá nhân, tổ
chức, cơ quan khác, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật trong xã
hội.
1.1.2 Các điều kiện của pháp nhân
Dựa vào quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, một tổ chức để được công
nhận là pháp nhân phải thỏa mãn bốn điều kiện luật định. Những điều kiện để trở
thành pháp nhân của một tổ chức được xem như những dấu hiệu làm nổi bật sự
khác biệt giữa một pháp nhân và một tổ chức không được coi là pháp nhân theo
pháp luật dân sự Việt Nam.
Thứ nhất, tổ chức đó phải được thành lập hợp pháp. Một tổ chức được thừa
nhận là thành lập hợp pháp nếu một tổ chức đó được thành lập theo trình tự, thủ tục
tương ứng do pháp luật quy định cho loại pháp nhân và được Nhà nước thừa nhận.
Đó là những trình tự, thủ tục về thành lập, cho phép thành lập, đăng ký, hoặc công
nhận thành lập các tổ chức này. Bằng việc đưa ra các hành lang pháp lý phù hợp,
Nhà nước giữ được sự chi phối đối với pháp nhân đó trong sự ổn định, đồng thời
đảm bảo quyền và lợi ích của các thể nhân, tổ chức, pháp nhân khác trong xã hội.
Khác với pháp luật quy định về các loại hình pháp nhân hạn hẹp, ít về số lượng, chủ
yếu là doanh nghiệp quốc doanh, hợp tác xã vận hành trong nền kinh tế tập trung,


7

bao cấp thì Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật doanh nghiệp năm 2014 đã có những
bước tiến mới, ngày càng lược bỏ đi các rào cản cho pháp nhân khi thực hiện cơng
việc thành lập theo trình tự, thủ tục luật định. Điều này thể hiện tính cấp tiến trong

kỹ thuật lập pháp trước xu thế nền kinh tế thị trường và hội nhập ngày càng sâu
rộng của nước ta, là xác định cụ thể mục đích, mục tiêu, nhiệm vụ trong việc cơng
nhận đối với các loại hình tổ chức được coi là pháp nhân[58-tr.20]. Chú trọng đến
việc phát triển các loại hình doanh nghiệp và việc ban hành các văn bản pháp luật
điều chỉnh đối với mỗi loại pháp nhân, vì Nhà nước chi phối các tổ chức tồn tại
trong xã hội. Ngược lại, những tổ chức được thành lập không hợp pháp, tức là
không đúng với trình tự, thủ tục luật định khơng được Nhà nước thừa nhận, thì
khơng được coi là pháp nhân. Căn cứ vào tính chất của pháp nhân, trình tự thành
lập pháp nhân có thể là theo phương pháp đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hoặc mệnh lệnh. Đối với các pháp nhân là các tổ chức được thành lập xuất
phát từ yêu cầu đảm bảo tốt công tác của cơ quan nhà nước thì sự ra đời của pháp
nhân bằng một quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Cịn đối với các pháp nhân
được hình thành do yêu cầu của sáng lập viên hoặc một nhóm sáng lập viên thực
hiện vì mục đích kinh tế, kiếm lợi cho các thành viên pháp nhân thì phải thực hiện
theo trình tự, thủ tục xin phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét đơn xin
thành lập và điều lệ để phê chuẩn, chấp nhận pháp nhân đó như một pháp nhân hợp
pháp trên căn cứ của pháp luật. Bằng quy định về trình tự, thủ tục để thành lập pháp
nhân, nhà làm luật đặt các pháp nhân dưới sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, phòng tránh, ngăn ngừa các rủi ro, nguy hại mà pháp nhân có
thể gây ra cho xã hội, nhằm đảm bảo quyền lợi của pháp nhân song song với lợi ích
của Nhà nước và xã hội.
Thứ hai, tổ chức đó phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Điều 83 Bộ luật Dân sự
năm 2015 một pháp nhân phải có cơ quan điều hành, nhiệm vụ quyền hạn của cơ
quan quản lý điều hành này phải được ghi nhận trong Điều lệ hoặc quyết định thành
lập của pháp nhân thì mới được xem là có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Khi bàn đến tổ
chức, ta phải hiểu đó là nhóm người, là một tập thể người được hình thành, bố trí


8


theo một hình thái nhất định, đảm bảo trật tự trong quá trình thực hiện chức năng,
phù hợp với lĩnh vực hoạt động của tổ chức đó. Đảm bảo tính tổ chức, tính cố kết về
mặt cấu trúc hệ thống và tính hiệu quả cao khi được thành lập nhằm biến một tập
thể gồm nhiều cá thể thành một thể thống nhất có khả năng hồn thành những
nhiệm vụ nhất định, thực hiện những hoạt động tương ứng với loại hình của tổ chức
đó. Trên cơ sở mục đích, nhiệm vụ, tài sản và vốn góp, dựa vào loại hình tổ chức
(doanh nghiệp, công ty, trường đại học, hiệp hội, các quỹ bảo trợ, hợp tác xã…) và
có quyền chọn lựa ra loại hình tổ chức phù hợp với nguyện vọng, yêu cầu đặt ra của
nhóm sáng lập viên đồng thời phải đáp ứng các quy định của pháp luật. Sự tương
thích này ln được thể hiện trong những thủ tục pháp lý như quyết định thành lập,
điều lệ mẫu, điều lệ của những tổ chức, điều lệ của từng tổ chức đơn lẻ, nội quy tổ
chức và trong các văn bản pháp luật liên quan, tạo thành tính thống nhất cho suốt
thời gian hoạt động của tổ chức đó và sẽ chấm dứt khi có quyết định tuyên bố phá
sản, hoặc giải thể theo luật định. Tổ chức phải tồn tại với cơ cấu hoàn chỉnh, thống
nhất. Điều kiện này yêu cầu pháp nhân phải có một bộ máy hoạt động tương đối
hồn chỉnh trong đó phải đảm bảo có cơ quan điều hành mọi hoạt động của pháp
nhân, có đầy đủ các chức năng và các đơn vị chuyên môn và bộ phận nghiệp vụ
nhằm đảm bảo được nhiệm vụ chính và cơng việc chung[7-Điều 83]. Đồng thời
cũng cần phải có sự liên hệ chặt chẽ giữa các bộ phận của pháp nhân tạo thành một
chỉnh thể thống nhất, nhịp nhàng, đồng bộ, phụ thuộc lẫn nhau, tương hỗ và chịu sự
lãnh đạo thống nhất từ cá nhân hoặc cơ quan điều hành của pháp nhân. Theo đó, cơ
cấu chặt chẽ chỉ được cơng nhận khi nó hồn toàn tách biệt với các cá nhân, tổ chức
khác về tính độc lập ổn định trong cơ cấu tổ chức và nó khơng bị ảnh hưởng khi có
sự thay đổi về các thành viên hay tài sản, trừ trường hợp sự thay đổi đó lớn đến nỗi
làm thay đổi cơ cấu hoặc làm chấm dứt pháp nhân. Ngoài ra, bản thân pháp nhân đó
cũng phải có tính biệt lập so với các cá nhân, tổ chức, cơ quan, pháp nhân khác
trong xã hội.
Thứ ba, tổ chức phải có có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự
chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. So với các yêu cầu trên, nhà làm luật đòi hỏi về tài



9

sản là tiền đề quan trọng đánh dấu khả năng tài chính thuộc sở hữu riêng của pháp
nhân. Một tổ chức có thể tự chủ về tài chính, có tài sản riêng biệt mới đảm bảo được
tính độc lập khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, tạo sự đảm bảo cho các chủ thể
khác trong quan hệ đó, và đặt uy tín trước Nhà nước khi một tổ chức được coi là
thực thể xã hội tự do tham gia vào các quan hệ kinh doanh, kinh tế, tố tụng trong
lĩnh vực mà pháp nhân đó có thể thực hiện. Để xác định một tổ chức có tài sản độc
lập, tổ chức đó cần thỏa mãn tiêu chí là phải có khối lượng tài sản nhất định, có
quyền sở hữu, chiếm hữu, sử dụng đối với tài sản đó, phải có sự độc lập tuyệt đối
giữa tài sản của pháp nhân với tài sản của các thành viên, cơ quan chủ quản, cơ
quan cấp trên của pháp nhân, cơ quan nhà nước và với tài sản của cá nhân, tổ chức
khác. Tài sản độc lập này được hình thành từ nhiều nguồn vốn, nguồn kinh phí,
kinh doanh, sản xuất khác nhau chẳng hạn nguồn vốn góp của các thành viên; tài
sản tặng cho, thừa kế, viện trợ hoặc có thể do Nhà nước cung cấp cho pháp nhân
thực hiện công việc được giao. Và loại tài sản độc lập này tồn tại dưới nhiều dạng
khác nhau có thể là tài sản dưới dạng vật chất, các khoản tiền Việt Nam, ngoại tệ,
khoản lợi nhuận, các khoản đầu tư góp vốn, mua bán cổ phiếu, giá trị quyền sở hữu
trí tuệ, giá trị quyền sử dụng đất, cơng nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi
nhận trong Điều lệ của tổ chức đó. Chính yếu tố tài sản độc lập đã giúp tổ chức có
thể tự mình tham gia vào các quan hệ pháp luật để thực hiện các hoạt động chức
năng trong phạm vi quyền hạn và nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ pháp luật và tự
chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của tổ chức mình – trách nhiệm hữu hạn. Các
thành viên, các cơ quan chủ quản và tổ chức khác không phải chịu trách nhiệm thay
hoặc trách nhiệm bổ sung cho pháp nhân, tổ chức. Nói cách khác, sự độc lập về tài
sản của pháp nhân ln thể hiện sự rạch rịi về tiềm lực tài chính, quyền sở hữu
trong khối tài sản riêng của pháp nhân với sản nghiệp của thành viên, các tổ chức
khác. Tự chịu trách nhiệm bằng khối tài sản độc lập riêng biệt đó với trách nhiệm
hữu hạn đối với các rủi ro tài chính trong khi thực hiện các giao dịch theo luật định.

Trách nhiệm tài sản của pháp nhân là vơ hạn cịn trách nhiệm của thành viên pháp
nhân là hữu hạn[67-tr.26]. Đây là điểm hồn tồn khác với tính chịu trách nhiệm vơ


10

hạn. Tuy nhiên, trong một số loại hình doanh nghiệp đặc thù, mặc dù có tư cách
pháp nhân nhưng thành viên của pháp nhân vẫn phải chịu trách nhiệm bằng tài sản
của mình với khoản nợ của cơng ty. Điển hình là loại hình doanh nghiệp cơng ty
hợp danh, cơng ty đương nhiên có một khoản tài sản riêng để vận hành, điều hành
các hoạt động sản xuất kinh doanh theo phạm vi, lĩnh vực mình đăng ký nhưng nếu
các khoản nợ của pháp nhân này lớn hơn tài sản mà pháp nhân đang có, thì các
thành viên hợp danh có nghĩa vụ liên đới chịu trách nhiệm trong việc thanh tốn hết
khoản nợ cịn lại của cơng ty hợp danh[8-Điều 117]. Vấn đề liên quan đến nghĩa vụ
chịu khoản nợ với công ty hợp danh cũng được các học giả nhắc đến rất nhiều, vì
liệu quy định như thế thì cơng ty hợp danh có hội tụ các điều kiện và đủ tư cách của
một pháp nhân không? Đã là pháp nhân thì phải tự chịu trách nhiệm bằng tài sản
của mình, một khoản tài sản hữu hạn và không thể ép buộc các cá nhân thành viên
(thành viên hợp danh) gánh khoản nợ của công ty. Như thế, nếu chúng ta không kể
đến trường hợp đặc biệt về hình thức doanh nghiệp này thì điều kiện, yêu cầu chung
đối với pháp nhân vẫn phải đảm bảo có khoản tài sản riêng, đồng thời, chịu trách
nhiệm đối với các hoạt động kinh doanh, sản xuất trong khối tài sản của chính pháp
nhân đó, làm nền tảng để tổ chức nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp
luật thật sự độc lập và tự chủ.
Thứ tư, tổ chức đó nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách
độc lập. Ba điều kiện trước là nền tảng tạo nên sự độc lập về cơ cấu tổ chức, tài sản
đối với thành viên, tổ chức khác, từ đó đưa đến việc pháp nhân tham gia vào các
quan hệ pháp luật với tư cách một chủ thể độc lập. Sau khi đảm bảo tư cách chủ thể
tài sản độc lập, pháp nhân, tổ chức có quyền nhân danh chính mình, sử dụng tên gọi
của mình, khơng sử dụng danh nghĩa Nhà nước, tổ chức khác, hay thành viên khác

hoặc cơ quan chủ quản của mình. Điều này cũng không ngoại lệ đối với các pháp
nhân là những cơ quan tổ chức, đơn vị vũ trang, doanh nghiệp Nhà nước được
thành lập từ nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. Đồng thời, khi có tư cách pháp nhân
của một chủ thể độc lập, pháp nhân được quyền tham gia vào các quan hệ pháp luật
có tư cách riêng biệt. Nếu pháp nhân thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn trong


11

giới hạn pháp luật cho phép nhưng bị những cá nhân hoặc pháp nhận khác xâm
phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình, thì được pháp luật bảo vệ và pháp
nhân bị xâm hại sẽ trở thành nguyên đơn có quyền khởi kiện trước tồn án. Nếu
pháp nhân đã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn không phù hợp với quy định của pháp
luật, xâm phạm đến quyền lợi hoặc gây thiệt hại cho những cá nhân, pháp nhân
khác, thì pháp nhân đó có thể trở thành bị đơn trước Tòa án. Lý luận và thực tiễn
pháp nhân tham gia trong các hoạt động tố tụng dân sự là nền tảng cho tư cách của
pháp nhân trong pháp luật tố tụng hình sự khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy
rằng, tố tụng dân sự và tố tụng hình sự có những khác biệt đặc trưng, mang tính đặc
thù của mỗi ngành luật. Tổ chức mang tư cách pháp nhân nhân danh mình tham gia
vào các quan hệ pháp luật nên pháp nhân cũng sẽ là một chủ thể độc lập của quan
hệ pháp luật hình sự khi thuộc sự điều chỉnh của pháp luật hình sự. Pháp nhân có tư
cách tố tụng đầy đủ cả trong tố tụng dân sự và tố tụng hình sự, vì pháp nhân là chủ
thể của tội phạm, chịu trách nhiệm hình sự trước các hành vi phạm tội mà pháp
nhân gây ra[57-tr.9].
Như vậy, các dấu hiệu của pháp nhân là yếu tố mang tính bắt buộc cần và đủ
để xác lập tổ chức, đơn vị đó có tư cách pháp nhân, bởi giữa chúng ln có mối liên
hệ chặt chẽ ràng buộc nhau. Được Nhà nước thừa nhận là pháp nhân, có các tư cách
pháp lý theo luật định, tự do tham gia vào các quan hệ pháp luật, giữ địa vị pháp lý
như một thể nhân tự nhiên trong các quan hệ mà pháp nhân tham gia. Nếu thiếu một
trong các dấu hiệu trên, thì tổ chức, đơn vị đó sẽ có thể phù hợp một hình thức khác

(hội, hiệp hội…) và khơng được coi là có tư cách pháp nhân. Nhà lập pháp căn cứ
vào mục tiêu, nhiệm vụ cũng như những dấu hiệu, điều kiện cụ thể nhằm xác định
tư cách pháp nhân đối với một tổ chức và phân biệt hình thức sở hữu khác nhau.
1.1.3 Đặc điểm của pháp nhân
Đáp ứng đầy đủ các điều kiện luật định pháp nhân sẽ được công nhận là một
thực thể xã hội, có tư cách pháp lý, độc lập tham gia vào quan hệ pháp luật. Bên
cạnh những điều kiện của pháp nhân để phân biệt pháp nhân với các chủ thể khác
khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. Cịn có các đặc điểm của pháp nhân là


12

những đặc trưng, đặc tính khách quan của riêng pháp nhân, khác biệt so với các chủ
thể khác trong xã hội. Pháp nhân sở hữu những đặc điểm này không lệ thuộc vào sự
tác động mang ý chí chủ quan của thành viên hay người đại diện, cơ quan tổ chức
chủ quản, cấp trên của pháp nhân. Đặt trên cơ sở của khái niệm, điều kiện phân tích
ở trên của pháp nhân, có thể đưa ra những đặc điểm cụ thể như sau:
Thứ nhất, năng lực chủ thể của pháp nhân. Năng lực chủ thể của pháp nhân
khác với cá nhân, nếu như năng lực pháp luật của cá nhân phát sinh từ thời điểm
được sinh ra và chấm dứt khi chết đi thì năng lực pháp luật của pháp nhân có cùng
thời điểm với khi pháp nhân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc
cho phép thành lập hoặc vào thời điểm ghi vào sổ đăng ký nếu như pháp nhân thực
hiện các ngành nghề, lĩnh vực phải đăng ký[7-Điều 86]. Năng lực pháp luật của
pháp nhân cũng khơng cịn khi pháp nhân chấm dứt tồn tại bằng việc đình chỉ hoạt
động, chia, tách, sáp nhập hoặc hợp nhất với các pháp nhân khác. Quyền và nghĩa
vụ của mỗi pháp nhân tương ứng với phạm vi, lĩnh vực hoạt động, với nhiệm vụ,
mục đích của pháp nhân được ghi nhận trong Điều lệ của pháp nhân. Pháp nhân có
năng lực chủ thể mang tính chun biệt, đặc thù dựa vào lĩnh vực, phạm vi hoạt
động, sản xuất của pháp nhân đó.
Thứ hai, pháp nhân là chủ thể của quan hệ pháp luật có ý chí. Ý chí của pháp

nhân thể hiện sự mong muốn và mục đích của bản thân pháp nhân, thể hiện thơng
qua nội quy, điều lệ hay quyết định của pháp nhân chứ khơng phải ý chí của người
đại diện hay người quản lý điều hành pháp nhân[55-tr.9]. Ý chí của pháp nhân được
thực hiện thông qua hành vi của người đại diện chính pháp nhân đó. Ý chí giữa
pháp nhân và một cá thể có sự khác biệt rất lớn, nếu nhận thức của một cá nhân
được biểu hiện bằng hành vi khách quan của bản thân cá nhân đó. Thì pháp nhân lại
thể hiện ý chí bằng quan điểm của một tập thể người có nhiệm vụ quản lý, điều
hành pháp nhân và bộc lộ ra bên ngồi thơng qua hành vi của các thể nhân làm việc
cho pháp nhân hoặc của người đại diện nhân danh pháp nhân. Ngoài ra, ý chí của
pháp nhân cịn được thể hiện bằng hành vi làm việc trong phạm vi, khuôn khổ mà
pháp nhân trao cho trên cơ sở hợp đồng lao động. Khác với ý chí của một thể nhân,


13

pháp nhân gồm một tập thể người cùng thực hiện theo điều lệ, tơn chỉ, mục đích đề
ra và mọi cá nhân thực hiện nhiều công việc khác nhau trong pháp nhân nhưng đều
thống nhất hướng đến mục đích, lợi ích của pháp nhân.
Thứ ba, hoạt động của pháp nhân được thực hiện thông qua các cá nhân.
Hoạt động giao kết do cá nhân thực hiện nhưng là dựa trên danh nghĩa, nhân danh
pháp nhân thực hiện, và bản thân bên đối tác trong quan hệ pháp luật đó hiểu rằng
đang giao kết, xác lập quan hệ với pháp nhân chứ không phải với một cá nhân đơn
lẻ. Hoạt động của cá nhân này không phải đại diện cho quyền và nghĩa vụ hợp pháp
của họ, mà căn cứ vào quyền và nghĩa vụ của pháp nhân họ đại diện. Việc thực hiện
hoạt động của pháp nhân chủ yếu thông qua người đại diện theo pháp luật, đại diện
theo ủy quyền và thành viên của pháp nhân. Người đại diện theo pháp luật là đại
diện đương nhiên của pháp nhân, cá nhân đại diện đương nhiên có thể xác định dựa
trên pháp luật hoặc theo điều lệ của pháp nhân hoặc do cơ quan tài phán chỉ định
tùy vào mục đích, nhiệm vụ mà người đó đại diện cho pháp nhân[7-Điều 137]. Cá
nhân có tư cách đại diện theo ủy quyền khi được người đại diện theo luật định trao

quyền trong thời hạn, phạm vi bằng văn bản ủy quyền. Đại diện theo ủy quyền đặt
trong nhiều trường hợp, có thể nhằm đáp ứng một hoạt động của pháp nhân trong
thời hạn nhất định hoặc ủy quyền thường xuyên, chuyên biệt từ người đại diện theo
pháp luật cho một cấp phó về một mảng nhiệm vụ cụ thể và được thơng báo cho các
đối tác biết về việc đó, tạo sự thuận lợi cho cấp phó khi nhân danh pháp nhân tham
gia quan hệ pháp luật, đồng thời, gánh vác bớt một phần trách nhiệm cho người đại
diện theo pháp luật của pháp nhân. Với thành viên của pháp nhân, hoạt động của
pháp nhân thông qua hành vi của thành viên pháp nhân, khi hành vi đó nằm trong
phạm vi, nghĩa vụ trong hợp đồng lao động. Hành vi của thành viên pháp nhân lúc
này là trên danh nghĩa của pháp nhân, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của pháp
nhân. Nếu thành viên của pháp nhân khơng hồn thành nghĩa vụ hoặc gây thiệt hại
cho người khác thì pháp nhân phải đứng ra gánh chịu hậu quả pháp lý.
Thứ tư, pháp nhân có sự độc lập về tài sản. Tài sản của pháp nhân độc lập
với tài sản của thành viên pháp nhân, với các pháp nhân, tổ chức khác. Điều này có


×