Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Thực hiện quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của đại hội đồng cổ đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (18.77 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

VĂN DIỆU THƠ

THỰC HIỆN QUYỀN YÊU CẦU HỦY BỎ
NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

THỰC HIỆN QUYỀN YÊU CẦU HỦY BỎ
NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Định hƣớng ứng dụng
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Thị Thanh Bình
Học viên: Văn Diệu Thơ
Lớp: Cao học Luật Kinh tế, Khóa 23

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ với đề tài “Thực hiện quyền yêu cầu hủy
bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đơng” là cơng trình nghiên cứu của bản thân
dưới sự hướng dẫn khoa học của Phó giáo sư, Tiến sĩ Hà Thị Thanh Bình. Nội dung
của luận văn này là do tôi nghiên cứu và soạn thảo một cách độc lập, không sao
chép bất kỳ luận án, luận văn hay văn bản tương tự khác. Các dữ liệu và thơng tin
trong luận văn hồn toàn trung thực. Các nội dung tham khảo, kế thừa đều được
trích dẫn một cách đầy đủ và cẩn thận.
Tơi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về các cam đoan nêu trên của mình.
Tác giả luận văn

Văn Diệu Thơ


BẢNG DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt

Từ/Cụm từ đầy đủ

1

BKS

Ban kiểm soát

2

BLDS

Bộ Luật dân sự


3

BLTTDS

Bộ Luật tố tụng dân sự

4

CĐTS

Cổ đông thiểu số

5

Công ty TNHH

Công ty trách nhiệm hữu hạn

6

CTCP

Công ty Cổ phần

7

ĐHĐCĐ

Đại hội đồng cổ đông


8

GĐ, TGĐ

Giám đốc, Tổng giám đốc

9

HĐQT

Hội đồng quản trị

10

Luật các TCTD 2010

Luật các Tổ chức tín dụng 2010

11

Luật DN

Luật Doanh nghiệp

12

Nxb

Nhà xuất bản


13

TAND

Tòa án nhân dân

14

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. CHỦ THỂ CÓ QUYỀN YÊU CẦU HỦY BỎ NGHỊ QUYẾT
CỦA ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐƠNG ..........................................................................7
1.1. Quy định pháp luật về chủ thể có quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết Đại
hội đồng cổ đông ....................................................................................................7
1.2. Vƣớng mắc trong thực tiễn thực hiện quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết
Đại hội đồng cổ đông của các chủ thể ..................................................................8
1.3. Một số kiến nghị liên quan đến các quy định về chủ thể có quyền yêu cầu
hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông ....................................................13
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................14
CHƢƠNG 2. CĂN CỨ HỦY BỎ NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ
ĐÔNG .......................................................................................................................15
2.1. Căn cứ hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đơng liên quan đến trình
tự, thủ tục triệu tập họp ......................................................................................15
2.1.1. Quy định pháp luật về trình tự, thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ

đông ....................................................................................................................15
2.1.2. Một số vướng mắc trong thực tiễn hủy nghị quyết Đại hội đồng cổ đơng
liên quan đến trình tự, thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông ..................17
2.1.3. Một số kiến nghị liên quan đến các quy định về trình tự, thủ tục triệu tập
họp ......................................................................................................................22
2.2. Căn cứ hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông liên quan đến trình
tự, thủ tục ra quyết định .....................................................................................22
2.2.1. Quy định pháp luật về trình tự, thủ tục ra quyết định của Đại hội đồng cổ
đông ....................................................................................................................22
2.2.2. Một số vướng mắc trong thực tiễn hủy nghị quyết Đại hội đồng cổ đơng
liên quan đến trình tự, thủ tục ra quyết định ......................................................24
2.2.3. Một số kiến nghị liên quan đến các quy định về trình tự, thủ tục ra quyết
định .....................................................................................................................30
2.3. Căn cứ hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông liên quan đến nội
dung nghị quyết....................................................................................................31
2.3.1. Quy định pháp luật về nội dung nghị quyết .............................................31


2.3.2. Vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các căn cứ hủy do nội dung của nghị
quyết Đại hội đồng cổ đông vi phạm pháp luật .................................................32
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................36
CHƢƠNG 3. TRÌNH TỰ, THỦ TỤC THỰC HIỆN QUYỀN YÊU CẦU HỦY
BỎ NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG ......................................37
3.1. Quy định pháp luật về trình tự, thủ tục thực hiện quyền yêu cầu hủy bỏ
nghị quyết Đại hội đồng cổ đông ........................................................................37
3.2. Một số vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định về trình tự, thủ
tục hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông ..............................................38
3.3. Một số kiến nghị liên quan đến các quy định về trình tự, thủ tục thực
hiện quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hồi đồng cổ đông ...................44
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................45

KẾT LUẬN ..............................................................................................................46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của nhà đầu tư là một đòi hỏi tất yếu
của nền kinh tế thị trường. Xuất phát từ bản chất tự nhiên, sự đe dọa xâm phạm về
quyền và lợi ích khơng chỉ đến từ cạnh tranh trên thị trường kinh doanh mà còn từ
những cá nhân, tổ chức cùng góp vốn vì mục đích riêng. Vì vậy, khả năng được bảo
vệ bằng các cơng cụ pháp luật luôn được nhà đầu tư quan tâm. Để tự bảo vệ quyền
lợi, các nhà đầu tư là cổ đông trong CTCP không thể chỉ trông chờ vào các biện
pháp phòng ngừa vi phạm mà còn đòi hỏi sự hiệu quả từ các biện pháp khắc phục
khi có hành vi vi phạm xảy ra, trong đó, phải kể đến hiệu quả từ việc thực hiện
quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ khi có hành vi vi phạm xảy ra liên
quan đến nghị quyết của ĐHĐCĐ.
Đóng vai trò là một đạo luật quan trọng trong việc tạo lập môi trường đầu tư
kinh doanh thuận lợi và là đạo luật cơ bản nhất điều chỉnh việc tổ chức quản lý và
hoạt động của các doanh nghiệp tại Việt Nam,1 Luật DN 2014 đã quy định các
trình tự và thủ tục cần thiết với những điều kiện chặt chẽ để thông qua nghị quyết
ĐHĐCĐ của CTCP cũng như dự phòng cơ chế hủy bỏ khi xảy ra vi phạm. Trong
những năm vừa qua, cùng với sự phát triển về số lượng cũng như quy mô của các
CTCP, những vụ việc yêu cầu hủy nghị quyết của ĐHĐCĐ ngày càng đa dạng về
mặt tình tiết, mức độ nghiêm trọng và độ phức tạp. Cũng từ đó, cho thấy sự hạn
chế trong việc áp dụng các quy định pháp luật và nhu cầu cần được điều chỉnh một
cách đầy đủ và chi tiết hơn. Chẳng hạn như các quy định tại Luật DN 2014 chỉ
nhận diện và điều chỉnh chung những vấn đề liên quan đến nghị quyết của
ĐHĐCĐ trong các CTCP có quy mơ vừa và nhỏ, trong khi đó, ở các CTCP lớn

bao gồm cơng ty đại chúng, cịn có những mối quan hệ khác phát sinh mà chưa
được nhận diện và điều chỉnh đầy đủ. Bên cạnh đó, về nguyên tắc, các quy định
(thuộc văn bản quy phạm pháp luật) trong hệ thống pháp luật phải đảm bảo tính
thống nhất. Nhưng, một số quy định như quy định về cổ đông lớn hay cơ sở áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời v.v.. tại Luật DN 2014 và các văn bản quy
phạm pháp luật khác hiện chưa có sự thống nhất, cịn nhiều hạn chế và khó thực
thi. Đặc biệt, trong nhiều trường hợp, những quy định này lại trở thành căn cứ để
1

Trường Đại học Luật TP.HCM (2019), Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh, PGS.TS. Bùi Xuân Hải,
Nxb Hồng Đức, tr. 12.


2
hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ. Điều này làm nảy sinh các quan điểm trái chiều
và không thể đưa ra được lập luận thuyết phục.
Trước tình hình đó, trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật về quyền
yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ trong CTCP, kết hợp với thực tiễn giải
quyết các yêu cầu hủy nghị quyết và tham khảo các cơng trình nghiên cứu trước
đây, tác giả chọn đề tài “Thực hiện quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội
đồng cổ đông” với mong muốn đóng góp một số ý kiến cho việc hồn thiện quy
định pháp luật về vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề về quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ của CTCP nói chung được
đề cập đến trong một số tài liệu nghiên cứu về Luật Doanh nghiệp, tiêu biểu như:
- Trong Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh của Trường Đại học Luật
TP.HCM (NXB Hồng Đức, 2019), Chương V “Công ty cổ phần” điểm qua một
cách ngắn gọn các nội dung có liên quan đến nghị quyết của ĐHĐCĐ trong phần
trình bày về thẩm quyền của ĐHĐCĐ; trình tự, thủ tục triệu tập họp và ra quyết
định của ĐHĐCĐ; vấn đề cổ đông nhỏ làm nền tảng lý thuyết cho những vấn đề cần

nghiên cứu.
- Sách “Luật Doanh nghiệp - Bảo vệ cổ đông: Pháp luật và thực tiễn” của
PGS.TS. Bùi Xuân Hải (NXB Chính trị quốc gia, 2011) có nội dung chủ yếu đề cập
về quyền của cổ đông, thành viên; cách thức, biện pháp bảo vệ quyền; có các tình
huống thực tiễn, hạn chế và đề xuất hoàn thiện pháp luật. Trong đó, tổng quan về
quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đơng được trình bày tại
Chương 5 cùng những vướng mắc thực tiễn và những đề xuất giá trị. Các vướng
mắc còn tồn đọng liên quan đến vấn đề trách nhiệm của chủ thể thực hiện nghị
quyết trong thời gian nghị quyết bị yêu cầu hủy và những vi phạm nhỏ, đơn giản về
mặt trình tự, thủ tục.
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Hủy quyết định của Đại hội đồng cổ đông, Hội
đồng quản trị theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Trương Thanh Hòa (2012). Mặc
dù cùng nghiên cứu về vấn đề hủy quyết định của ĐHĐCĐ, song, luận văn thạc sỹ
của tác giả Trương Thanh Hòa còn nghiên cứu về vấn đề hủy quyết định của Hội
đồng quản trị trong bối cảnh Luật DN 2005 vẫn còn hiệu lực. Luận văn đề cập tới các
vấn đề và vụ việc thực tiễn làm ví dụ cho quyền yêu cầu hủy quyết định của ĐHĐCĐ
và bên cạnh đó, cịn có những đánh giá, so sánh với các quy định của Luật DN 1999.
Tuy nhiên, các vấn đề về trình tự, thủ tục và nội dung làm căn cứ hủy bỏ nghị quyết


3
vẫn còn bị bỏ ngỏ. Tác giả luận văn chỉ nêu sơ lược về vấn đề bằng các vụ việc thực
tiễn hủy bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đơng. Chưa nêu lên được cụ thể vướng
mắc là gì và hướng giải quyết. Những bất cập còn lại của luận văn đã được Luật DN
2014 giải quyết triệt để hoặc đơn giản hơn là những bất cập không quá nghiêm
trọng hay có tầm ảnh hưởng.
Ngồi ra, cịn có những luận văn thạc sỹ, khóa luận tốt nghiệp, các bài viết,
nghiên cứu, bình luận đăng trên các báo, tạp chí đã nhận diện, đánh giá, phân tích
các vấn đề liên quan ở nhiều khía cạnh lý luận và thực tiễn khác nhau mà có thể kể
đến như: (1) Luận văn thạc sỹ luật học năm 2014 của Nguyễn Công Phú:“Quyền

khởi kiện của cổ đông, thành viên công ty theo pháp luật Việt Nam”; (2) Luận văn
thạc sỹ luật học năm 2010 của Phạm Thị Xuân Mỹ “Các vấn đề pháp lý về họp đại
hội đồng cổ đông của công ty đại chúng tại Việt Nam”; (3) Luận văn thạc sỹ luật
học năm 2009 của Nguyễn Hoàng Thùy Trang: “Bảo vệ cổ đông thiểu số trong
công ty cổ phần - So sánh giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật Vương quốc
Anh”… và bài viết “Vấn đề hủy bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông theo pháp
luật doanh nghiệp Việt Nam” của PGS.TS. Bùi Xuân Hải, tạp chí Nghiên cứu lập
pháp (2011); bài viết “Biện pháp bảo vệ cổ đơng, thành viên cơng ty: Lí luận và
thực tiễn” cũng của PGS.TS. Bùi Xuân Hải, tạp chí Luật học số 3/2011; bài viết
“Tạo thuận lợi hơn cho việc thực hiện quyền cổ đông trong luật liên minh Châu Âu
và luật Đức kinh nghiệm cho Việt Nam” của PGS.TS. Phan Huy Hồng, Kỷ yếu hội
thảo trường Đại học Luật TP.HCM (2010); bài viết “Bảo vệ cổ đông thiểu số trong
công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2014” của Huỳnh Thị Trúc Linh, tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp số 06/2015 và một số bài viết khác đề cập đến một vài
khía cạnh nhỏ của việc yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ, chủ yếu liên quan
đến vấn đề bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số.
Trong các công trình được liệt kê ở trên, có luận văn thạc sỹ của tác giả
Trương Thanh Hòa và bài viết, sách của PGS.TS. Bùi Xuân Hải đã nghiên cứu
khá chi tiết về các vấn đề của quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ theo
Luật DN 2005. Những tài liệu nghiên cứu khác chủ yếu trình bày về vấn đề bảo vệ
quyền lợi của cổ đông hoặc cổ đông thiểu số. Tương đồng trong phạm vi nghiên
cứu nhưng khác nhau về cơ bản. Luận văn thạc sỹ của tác giả Trương Thanh Hòa
là một luận văn theo định hướng nghiên cứu nên đào sâu vào nghiên cứu lý luận,
đánh giá các quy định pháp luật doanh nghiệp và dừng lại ở việc nêu các vụ việc
làm ví dụ. Do đó, chưa đi sâu vào cụ thể từng vướng mắc, hạn chế cũng như


4
khơng thực sự sử dụng các tình huống, vụ việc thực tiễn để phân tích các hạn chế
trong áp dụng quy định pháp luật một cách chi tiết và đầy đủ. Chính vì thế, cơng

trình nghiên cứu này bổ sung vào các cơng trình nghiên cứu đã được thực hiện
trước đây, góp phần nghiên cứu một cách tồn diện các quy định pháp luật hiện
hành và thực tiễn áp dụng các quy định liên quan đến quyền yêu cầu hủy bỏ nghị
quyết của ĐHĐCĐ.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là nhằm xây dựng được một cơng trình
nghiên cứu đánh giá thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về quyền yêu cầu hủy bỏ
nghị quyết của Đại hội đồng cổ đơng một cách tồn diện và có tính thời sự thơng
qua những tình huống cụ thể phát sinh trên thực tế và một số vụ việc đã xảy ra, từ
đó chỉ ra những điểm còn hạn chế của quy định pháp luật hiện hành về cơ chế hủy
bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ và đưa ra các ý kiến góp phần hồn thiện pháp luật để
nâng cao hiệu quả bảo vệ cổ đông trong CTCP nói chung và cơng ty đại chúng nói
riêng. Cũng từ đó, mong rằng luận văn sẽ trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho
những ai quan tâm đến đề tài.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề thực hiện quyền yêu cầu hủy bỏ
nghị quyết của ĐHĐCĐ. Trong đó, bao gồm ba vấn đề chính cần được nghiên cứu
tương ứng với ba chương của đề tài, cụ thể là: (i) chủ thể của quyền yêu cầu; (ii) các
căn cứ hủy bỏ nghị quyết và (iii) cơ chế thực hiện quyền yêu cầu.
Đây là luận văn được thực hiện trong chương trình đào tạo thạc sỹ định
hướng ứng dụng nên tác giả không nghiên cứu sâu các vấn đề thuộc về lý luận mà
chú trọng tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hiện hành liên quan
trực tiếp đến quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông theo Luật
DN 2014 và các văn bản hướng dẫn có liên quan.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với mục tiêu giải quyết các vấn đề đặt ra trong phạm vi nghiên cứu của đề
tài, tác giả chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
Thứ nhất là phương pháp tổng hợp. Phương pháp này được sử dụng khi tìm
hiểu và tổng hợp các quy định pháp luật để giới thiệu vấn đề và khung pháp lý cơ
bản của nội dung cần nghiên cứu. Thể hiện rõ ở phần đầu của mỗi vấn đề trong ba

chương của đề tài, các quy định pháp luật liên quan đến việc thực hiện quyền yêu
cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ về cơ bản có thể kể đến là những quy định về:


5
(i) chủ thể của quyền yêu cầu; (ii) trình tự, thủ tục triệu tập họp ĐHĐCĐ; (iii) trình
tự, thủ tục ra quyết định của ĐHĐCĐ; (iv) nội dung nghị quyết; (v) trình tự, thủ tục
thực hiện quyền u cầu. Ngồi ra, tác giả còn sử dụng phương pháp so sánh để
nhận biết được sự đổi mới, khác biệt giữa các quy định mới và quy định cũ. Từ đó,
có được các nhận định chính xác về quy định pháp luật hiện hành.
Thứ hai là nhóm các phương pháp phân tích vụ việc; phương pháp giải thích
luật và phương pháp so sánh. Các phương pháp nghiên cứu này được sử dụng để
phân tích nhận định và quyết định của tịa án trong các vụ việc được đề cập ở phần
“Một số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật” tại chương 2 và
chương 3 của luận văn. Theo đó, trên cơ sở các tình tiết khách quan của vụ việc, tác
giả phân tích và đánh giá việc áp dụng pháp luật của tịa án. Trường hợp có sự khác
nhau trong quan điểm giải thích, áp dụng luật giữa các tịa, phương pháp giải thích
luật (bao gồm phương pháp ngữ pháp, phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống,
phương pháp mục đích) sẽ được áp dụng để xác định mục đích, chức năng và nội
hàm của quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, phương pháp so sánh cũng được sử dụng
tại phần này để so sánh quy định pháp luật với tình hình thực tế hoạt động của các
CTCP ở Việt Nam hiện nay trong phạm vi nghiên cứu của đề tài. Từ đó, tổng hợp
được những điểm còn hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định pháp luật liên quan
đến việc thực hiện quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ.
Thứ ba là phương pháp chuyên gia. Với mục đích đề xuất ý kiến cho các nội
dung nghiên cứu, sử dụng phương pháp trình bày là phương pháp quy nạp để tổng
kết vấn đề từ kết quả nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định pháp luật. Kết hợp với
phương pháp chuyên gia, tác giả chú trọng việc tham khảo ý kiến của những chuyên
gia có trình độ cao, nhiều kinh nghiệm, am hiểu sâu về lĩnh vực nghiên cứu của đề
tài để đưa ra những đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật ở cuối các nội dung

nghiên cứu trải dài ba chương đề tài.
6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả
nghiên cứu
Dự kiến đề tài sẽ đạt được kết quả trong hai khía cạnh sau: một là, phát hiện
được những khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền yêu cầu hủy bỏ
nghị quyết của ĐHĐCĐ; hai là, đề xuất được hướng giải quyết những khó khăn đó
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ
trong thực tế.


6
Do đó, đề tài sẽ là một tài liệu tham khảo cho những ai muốn nghiên cứu, tìm
hiểu sâu hơn về lĩnh vực quyền của cổ đơng trong CTCP nói chung và yêu cầu hủy
bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ nói riêng. Ngoài ra, các nội dung trong đề tài chủ yếu
thể hiện sự đánh giá các vấn đề liên quan đến việc thực hiện quyền yêu cầu hủy bỏ
nghị quyết của ĐHĐCĐ từ góc độ thực tiễn. Vì vậy, đề tài sẽ mang giá trị tham
khảo nhằm góp phần hồn thiện pháp luật của Việt Nam về quyền yêu cầu hủy bỏ
nghị quyết của ĐHĐCĐ trong thời gian tới.


7
CHƢƠNG 1
CHỦ THỂ CÓ QUYỀN YÊU CẦU HỦY BỎ NGHỊ QUYẾT
CỦA ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐƠNG
Cổ đơng và quyền của cổ đông luôn là đề tài thu hút sự chú ý của các nhà đầu
tư và nhà nghiên cứu. Các quyền của cổ đơng có thể được chia thành hai nhóm lớn,
đó là nhóm các quyền mang tính phịng ngừa và nhóm các quyền mang tính khắc
phục.2 Quyền u cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ là một trong các quyền mang
tính khắc phục. Ngồi ra, đây cịn là một trong những quyền được đặt ra nhằm bảo
vệ CĐTS. Lo ngại sự chèn ép đến từ các cổ đông lớn trong CTCP, pháp luật CTCP

tạo cơ hội cho cổ đông nhỏ thực hiện quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của
ĐHĐCĐ nếu có căn cứ cho rằng nghị quyết này được ban hành không đúng quy
định pháp luật và vi phạm quyền, lợi ích của cổ đơng. Chương này sẽ trình bày và
phân tích về chủ thể của quyền u cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ.
1.1. Quy định pháp luật về chủ thể có quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết
Đại hội đồng cổ đông
Luật DN 2014 đặt ra một cơ chế pháp lý cho việc hủy bỏ nghị quyết
ĐHĐCĐ của CTCP tại Điều 147 khi xảy ra vi phạm liên quan đến nghị quyết và
họp ĐHĐCĐ. Theo quy định tại Điều này, chỉ có cổ đơng và nhóm cổ đông thỏa
mãn các điều kiện tại khoản 2 Điều 114 mới được phép thực hiện quyền yêu cầu
hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ, đó là cổ đơng và nhóm cổ đông sở hữu từ 10%
tổng số cổ phần phổ thơng trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một
tỷ lệ khác nhỏ hơn được quy định tại Điều lệ công ty.
Nếu Luật DN 2005 quy định cho nhiều đối tượng có quyền yêu cầu hủy bỏ
nghị quyết của ĐHĐCĐ3 thì Luật DN 2014 chỉ cho phép “cổ đơng hoặc nhóm cổ
đơng” tại khoản 2 Điều 114 được thực hiện quyền này. Nói cách khác, phạm vi các
chủ thể có quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ bị thu hẹp bằng các điều
kiện về tư cách (cổ đông), thời hạn và tỷ lệ nắm giữ cổ phần tối thiểu. Không giống
như trước đây, quy định dàn trải cho nhiều chủ thể bao gồm thành viên HĐQT,
Giám đốc, Tổng giám đốc không phải là cổ đơng cũng có quyền u cầu (Điều 107
Luật DN 2005). Điều này góp phần hạn chế việc sử dụng quyền một cách tùy tiện
2

Bùi Xuân Hải (2011), Luật doanh nghiệp: Bảo vệ cổ đông – pháp luật và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc
gia, tr. 198.
3
Điều 107 Luật DN 2005 cho phép cổ đông, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc,
Ban kiểm soát thực hiện quyền yêu cầu hủy bỏ quyết định của ĐHĐCĐ.



8
và gây thiệt hại cho doanh nghiệp.4 Từ đó, cho thấy sự tiến bộ trong quy định của
Luật DN, phù hợp hơn với ý nghĩa và mục đích của quyền yêu cầu hủy bỏ nghị
quyết của ĐHĐCĐ.
1.2. Vƣớng mắc trong thực tiễn thực hiện quyền yêu cầu hủy bỏ nghị
quyết Đại hội đồng cổ đông của các chủ thể
Luật DN quy định chung về đối tượng được quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết
của ĐHĐCĐ (dẫn chiếu nhóm chủ thể tại khoản 2 Điều 114). Xét từ khía cạnh bảo vệ
CĐTS, khoản 2 Điều 114 Luật DN 2014 cho phép các cổ đơng nhỏ hay cịn gọi là cổ
đơng thiểu số (CĐTS) có thể phối hợp với nhau để thực hiện một số quyền, trong đó
có quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ.5 Tuy nhiên, việc xác định CĐTS
(hoặc một tỷ lệ đủ lớn để cần được bảo vệ) theo quy định tại Điều này đang thể hiện
sự hạn chế không nhỏ đối với việc thực hiện quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết
ĐHĐCĐ của CĐTS trong CTCP đại chúng.
Mặc dù Luật DN không đưa ra khái niệm rõ ràng về CĐTS,6 nhưng trong các
quy phạm pháp luật hiện đang tồn tại những con số để nhận diện loại cổ đông đặc biệt
này: (i) Luật DN 2014 xác định cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng sở hữu từ 10% tổng số
cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác
nhỏ hơn quy định tại Điều lệ có các quyền được quy định tại khoản 2 Điều 114; (ii)
Theo Luật Chứng khốn và Luật các Tổ chức tín dụng, cổ đông lớn là cổ đông sở hữu
từ 5% số cổ phần có quyền biểu quyết7 nhưng cũng khơng thể hiểu cổ đông nhỏ là cổ
đông sở hữu dưới 5% cổ phần có quyền biểu quyết.8 Nhiều quan điểm cho rằng tỷ lệ
5%, 10% cũng không phải là cơ sở để xác định cổ đơng nhỏ, đó chỉ là những con số
4

Xem thêm Trương Thanh Hòa (2012), Hủy quyết định của Đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị theo
pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 80.
5
Căn cứ vào quy định tại điểm đ) khoản 2 Điều 114 Luật DN 2014: “Cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng sở hữu từ
10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn

quy định tại Điều lệ công ty có các quyền sau đây:… đ) Các quyền khác theo quy định của Luật này và Điều
lệ công ty.”. Vì vậy, có thể hiểu rằng, quyền u cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ cũng được xem là một
quyền thuộc Điều khoản này.
Xem thêm: Trường Đại học Luật TP.HCM (2019), tlđd (1), tr. 269.
6
Tham khảo Nguyễn Hoàng Thùy Trang (2009), Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần - So sánh giữa pháp
luật Việt Nam và pháp luật Vương quốc Anh, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 10.
Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu cố gắng đưa ra định nghĩa về CĐTS nhưng tựu trung “Cổ đông thiểu số
được hiểu là những người nắm giữ số lượng cổ phần nhỏ so với tổng số cổ phần của công ty và khó có khả
năng thực hiện được việc kiểm sốt hoạt động quản lý của công ty”.
7
Khoản 9 Điều 6 Luật Chứng khốn 2006 quy định “Cổ đơng lớn là cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp
từ năm phần trăm trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành.”
Khoản 26 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 quy định: “Cổ đơng lớn của tổ chức tín dụng cổ phần là cổ
đơng sở hữu trực tiếp, gián tiếp từ 5% vốn cổ phần có quyền biểu quyết trở lên của tổ chức tín dụng cổ phần đó.”
8
Nguyễn Thị Thu Hương (2014), “Nhận diện cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ở Việt Nam”, Dân chủ
và pháp luật: hàng tháng, Bộ Tư pháp, Số 268, tr. 30.


9
mang tính ước lệ và tương đối.9 Nhưng, nếu pháp luật khơng quy định nắm giữ bao
nhiêu cổ phần thì được xem là CĐTS sẽ dẫn đến hệ quả không thể xác định được đối
tượng nào là CĐTS. Vì vậy, pháp luật mỗi nước đều đưa ra những túc số về tỷ lệ vốn
góp để nhận diện loại cổ đơng đặc biệt này. Ở mỗi quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện
kinh tế, xã hội, trình độ phát triển mà có cách nhận diện CĐTS khác nhau. Các con số
1%, 3%, 5%, 10% theo quy định pháp luật của một số nước như Pháp, Nhật Bản,
Trung Quốc... cũng xuất phát từ lý do này.10
Khơng khó để nhận thấy sự chênh lệch giữa quy định Luật DN và Luật
Chứng khoán, Luật các TCTD. Luật DN với vai trò là luật chung trong điều chỉnh

các vấn đề về tổ chức hoạt động của CTCP mà Luật Chứng khốn và Luật các
TCTD khơng có nhiệm vụ điều chỉnh, đã đưa ra một con số khá lớn (tối thiểu 10%
tổng số cổ phần phổ thông). Tỷ lệ này được các nhà nghiên cứu cho rằng đây là
một tỷ lệ rất khó đạt được11 và khá cao so với rất nhiều nước trên thế giới, có thể
gây khó khăn cho các cổ đơng nhỏ “thấp cổ, bé họng” bởi chẳng dễ dàng gì để các
cổ đông liên kết được với nhau và sở hữu một vài phần trăm vốn cổ phần.12 Thực
tiễn cho thấy các CTCP hiện nay có vốn điều lệ rất lớn, đặc biệt là cơng ty đại
chúng. Ví dụ: tỷ lệ sở hữu 0,1% cổ phần trong công ty PVFC Land đã là 500 triệu
đồng và tỷ lệ 5% là rất lớn; tỷ lệ 5% của CTCP nhựa Bình Minh là hơn 7 tỷ đồng;
tỷ lệ 2% của CTCP Gốm sứ Thanh Hà đã là hơn 500 triệu đồng…13 Thêm nữa,
điều kiện vốn để được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khốn TP. Hồ Chí Minh
là 120 tỷ VNĐ, Sở giao dịch chứng khoán TP. Hà Nội là 30 tỷ VNĐ.14 Vậy nên,
chưa cần đến 10% vốn, chỉ 5% đã là một khoản tiền không nhỏ.
Sự không hợp lý về tỷ lệ cổ phần tối thiểu mà các cổ đông hoặc nhóm cổ
đơng phải sở hữu càng trở nên nổi bật trong quy định về chủ thể có quyền yêu cầu
hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ của công ty đại chúng, cụ thể như sau:
9

Xem: Bùi Xuân Hải (2010), “Bảo vệ cổ đông thiểu số: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Bảo vệ cổ đông
những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo, Trường Đại học
Luật Tp.Hồ Chí Minh, tr. 11.
10
Nguyễn Thị Thu Hương (2014), tlđd (8), tr. 30.
11
Huỳnh Thị Trúc Linh (2016), “Bảo vệ cổ đông thiểu số trong cơng ty cổ phần theo Luật DN 2014”, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, số 06(310) T3/2016, tr. 49.
Lê Minh Thắng (2014), “Một số ý kiến liên quan đến các quy định về bảo vệ cổ đông thiểu số trong dự
thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi)”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 09, tr. 51.
12
Bùi Xuân Hải (2009), “Bảo vệ cổ đông: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn trong Luật doanh nghiệp 2005”,

Khoa học pháp lý, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Số 01 (50), tr. 27-28.
13
Trương Vĩnh Xuân (2010), “Quyền dự họp Đai hội cổ đông của cổ đông nhỏ công ty cổ phần hiện nay”,
Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 5 (166), tr. 48.
14
Điều 53, 54 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/07/2012 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật chứng khoán. Theo
Luật Chứng khoán 2019, điều kiện vốn điều lệ cần có để trở thành cơng ty đại chúng là ít nhất 30 tỷ VND.


10
- Khoản 2 Điều 4 Nghị định số 71/2017/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 2017 của
Chính phủ hướng dẫn về Quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng dẫn
chiếu đến quy định Luật DN 2014 (Điều 147 và Điều 148) đối với các vấn đề liên
quan đến hủy bỏ quyết định của ĐHĐCĐ. Theo nội dung của quy định này, trường
hợp quyết định của Đại hội đồng cổ đông vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ cơng ty
gây thiệt hại cho cơng ty, cổ đơng có quyền đề nghị hủy hoặc đình chỉ quyết định đó
theo quy định Luật DN.
- Thêm vào đó, quy định tại khoản 3 Điều 12 và Điều 24 Phụ lục 01 Điều lệ
mẫu Thông tư 95/2017/TT-BTC hướng dẫn một số điều của Nghị định số
71/2017/NĐ-CP đã hướng dẫn công ty đại chúng quy định tại Điều lệ tỷ lệ cổ phần
tối thiểu cho nhóm cổ đơng đặc biệt này theo tỷ lệ được quy định tại Luật Chứng
khốn 2006. Đó là quy định cho cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng chỉ cần nắm giữ từ 5%
tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất sáu (06) tháng đã có
thể thực hiện quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ.
Tuy nhiên, quy định tại Điều lệ mẫu chỉ mang tính chất tham chiếu chứ khơng
phải là quy định bắt buộc (khoản 2 Điều 6 Nghị định 71/2017/NĐ-CP và Điều 3
Thông tư 95/2017/TT-BTC). Vậy nên, yêu cầu hủy nghị quyết ĐHĐCĐ vẫn có thể
được thực hiện theo Luật DN 2014 căn cứ vào khoản 2 Điều 4 Nghị định
71/2017/NĐ-CP. Và như vậy, tỷ lệ 10% vẫn sẽ được áp dụng đối với công ty đại

chúng trong trường hợp Điều lệ viện dẫn quy định tại Luật DN cũng như trong trường
hợp Điều lệ công ty không có quy định và điều này hồn tồn phù hợp với quy định
pháp luật. Đây là một điểm bất cập trong quy định về quản trị của Luật DN đối với
công ty đại chúng. Điều này làm mất đi ý nghĩa bảo vệ CĐTS không chỉ riêng đối với
quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ. Với quy định hiện nay, cổ đông nhỏ
trong công ty đại chúng hầu như không thể thực hiện được quyền yêu cầu hủy bỏ
nghị quyết của ĐHĐCĐ trong thực tế do yêu cầu về tỷ lệ sở hữu cổ phần quá cao
(gấp đôi tỷ lệ xác định cổ đông lớn trong công ty đại chúng - 5%).
Ngoài ra, Điều 24 của Điều lệ mẫu đang quy định khơng chính xác về mặt chủ
thể có quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ so với Luật DN 2014. Cụ thể,
Điều lệ mẫu cho phép thành viên HĐQT, Kiểm sốt viên, GĐ/TGĐ khơng phải là cổ
đơng vẫn có quyền u cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ. Điều này là không phù
hợp với tinh thần đổi mới của Luật DN 2014 và cần phải được sửa đổi.
Về nguyên tắc, các CTCP có thể quy định một tỷ lệ khác nhỏ hơn tại điều lệ
công ty nhưng trên thực tế, điều lệ công ty được quy định khá sơ sài. Thêm vào đó,


11
khả năng các cổ đông lớn đồng ý thông qua một tỷ lệ nhỏ hơn nhằm tăng cường bảo
vệ cổ đơng nhỏ là rất thấp. Vì vậy, vấn đề này phải được quy định bởi pháp luật
nhằm tạo điều kiện cho CĐTS thực hiện các quyền của mình,15 bao gồm quyền yêu
cầu hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ.
Đa số các kiến nghị cho rằng nên sửa tỷ lệ này tại Luật DN cho thống nhất
với tỷ lệ tại Luật Chứng khoán và Luật các TCTD16 nhằm giảm tỷ lệ tối thiểu và
tăng khả năng thực hiện quyền của các CĐTS. Tuy nhiên, điều này cũng chưa thực
sự hợp lý vì “một cổ đơng chiếm 5% vốn điều lệ có thể là cổ đơng lớn trong một
cơng ty cổ phần có hàng ngàn, hàng vạn cổ đơng nhưng lại có thể bị coi là CĐTS
(nhỏ bé) trong một công ty cổ phần chỉ có 5 cổ đơng mà 4 cổ đơng kia đều sở hữu
khơng dưới 20% tổng số cổ phần. Vì thế, cổ đông sở hữu 5% tổng số cổ phần có
quyền biểu quyết trong một cơng ty niêm yết mà Luật Chứng khoán quy định thực

sự khác với một cổ đông sở hữu 5% tổng số cổ phần của một CTCP không phải là
công ty đại chúng.”17 Và như vậy, đối với những CTCP có quy mơ nhỏ, việc trao
cho cổ đơng, nhóm cổ đơng sở hữu từ 5% tổng số cổ phần phổ thông quyền yêu cầu
hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ sẽ bị xem là bảo vệ quá mức cổ đơng nhỏ và có khả
năng gây ra những trở ngại khơng cần thiết.
Bên cạnh đó cịn có ý kiến cho rằng, pháp luật nên quy định rõ trong mỗi loại
hình CTCP thì CĐTS sẽ được xác định bằng các tỷ lệ vốn góp khác nhau tùy thuộc
vào quy mô vốn.18 Nhằm nhận định một cách rõ ràng hơn, tác giả tham khảo đề xuất
về cấu trúc pháp luật của tác giả Phan Huy Hồng, theo đó, cần phải có sự phân biệt
giữa CTCP vừa và nhỏ và CTCP có quy mơ lớn trên một số phương diện pháp lý
quan trọng trong pháp luật về CTCP. Việc áp dụng cùng một quy định cho các loại
CTCP có quy mơ khác nhau làm cho nhiều quy định pháp luật trở nên cứng nhắc,
khơng cơng bằng và thậm chí dẫn đến bế tắc khi áp dụng. Sự phân biệt đó phải được
thực hiện ngay trong Luật DN. Pháp luật về chứng khoán chỉ điều chỉnh các mối quan
hệ về thị trường chứng khoán khi CTCP tham gia vào thị trường này.19 Đồng tình với
15

Bùi Xuân Hải (2011), “Biện pháp bảo vệ cổ đơng, thành viên cơng ty: Lí luận và thực tiễn”, Luật học, Đại
học Luật Hà Nội, 2011, Số 3(130), tr. 11.
16
Xem thêm Trương Vĩnh Xuân (2010), tlđd (13), tr. 48.
Tham khảo: Nguyễn Thị Dung, Nguyễn Như Chính (2009), “Đảm bảo quyền lợi của cổ đông công ty cổ phần
theo các nguyên tắc quản trị công ty của OECD”, Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 10 (113), tr. 28.
17
Bùi Xuân Hải (2011), tlđd (2), tr. 130.
18
Nguyễn Thị Thu Hương (2014), tlđd (8), tr. 30.
19
Phan Huy Hồng (2010), “Tạo thuận lợi hơn cho việc thực hiện quyền cổ đông trong luật liên minh Châu
Âu và luật Đức kinh nghiệm cho Việt Nam”, Bảo vệ cổ đông những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật

doanh nghiệp Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo, Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, tr. 36.


12
quan điểm này, tác giả cho rằng, đối với việc xác định nhóm chủ thể là CĐTS nói
chung và chủ thể của quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ nói riêng, cần có
sự phân biệt giữa các CTCP có quy mơ khác nhau. Có thể thấy, nếu bỏ qua quy định
hướng dẫn mang tính tham chiếu tại Điều lệ mẫu thì hiện tại khơng có bất kì quy định
nào về quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ dành riêng cho công ty đại
chúng dẫn tới hệ quả vướng mắc về vấn đề chủ thể như đã trình bày bên trên. Việc
Điều lệ mẫu quy định tỷ lệ sở hữu cổ phần từ 5% đối với cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng
có quyền là minh chứng cho sự tồn tại nhu cầu phải điều chỉnh khác biệt đối với các
CTCP có quy mơ khác nhau.20
Hiện nay, dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) năm 2019 (tháng 10/2019) có
đề xuất sửa đổi tỷ lệ tổng số cổ phần phổ thơng mà cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng
phải nắm giữ từ 10% trở lên (Luật DN 2014) xuống còn từ 03% trở lên hoặc một tỷ
lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty. 21 Nhưng riêng đối với quyền yêu cầu
hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ, tác giả khơng đồng tình với sửa đổi này. Thứ nhất,
cách giải quyết này là khơng phù hợp do khơng có sự phân hóa giữa các nhóm
CTCP có quy mơ khác nhau. Thứ hai, cơ sở cho túc số 03% không được Bộ Kế
hoạch và đầu tư đưa ra một cách rõ ràng cũng như theo tác giả, sử dụng túc số 03%
là khơng thống nhất với Luật Chứng khốn 2019.
Ngồi ra, cịn có ý kiến cho rằng nên bỏ quy định về thời hạn nắm giữ cổ
phần của các cổ đơng khi xác định cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng tại khoản 2 Điều
114 Luật DN 2014 nhằm tăng khả năng thực hiện quyền cho CĐTS.22 Thế nhưng,
đối với quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ, việc yêu cầu cổ đông phải
nắm giữ số cổ phần trong thời hạn 6 tháng mới được thực hiện quyền này là điều
cần thiết để đảm bảo hoạt động ổn định của công ty và hạn chế sử dụng quyền một
cách tùy tiện gây khó khăn cho doanh nghiệp của những cổ đơng “lướt sóng”. Điều
này cịn thể hiện cam kết muốn gắn bó lâu dài của cổ đơng đối với cơng ty.


20

Xem: Phan Huy Hồng (2010), tlđd (19), tr. 36.
“… Nhưng các nhà quản lý hoạt động của thị trường chứng khốn lại nhận thấy cần có sự đối xử khác
biệt với công ty đại chúng, công ty niêm yết. Điều đó trên thực tế đã dẫn đến việc các cơ quan quản lý nhà
nước ban hành nhiều quy định dưới luật vừa không phù hợp với quy định của Luật DN, vừa khơng có căn cứ
theo Luật Chứng khốn.”
21
Khoản 2 Điều 114 Dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) năm 2019 choi.
vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=1773, 02/11/2019
22
Lê Thị Xuân Huế (2018), />N0lwstIgGIlynNTCcetlBP6N3NYlBgKaUNijISkpGqb3NWNmrUx17nk, 02/08/2019.


13
Như vậy, việc xác định nhóm chủ thể tại khoản 2 Điều 114 Luật DN 2014 vẫn
còn tồn tại nhiều ý kiến và đề xuất khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Cũng từ đó,
tác giả nhận thấy nhiều điểm khác biệt giữa nhóm chủ thể được quy định tại khoản 2
Điều 114 Luật DN 2014 và các đối tượng được quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của
ĐHĐCĐ. Ví dụ, nếu nhóm chủ thể tại khoản 2 Điều 114 Luật DN 2014 được xác
định bằng một tỷ lệ mới (1% hay 5%) hoặc bỏ hẳn quy định về thời hạn nắm giữ cổ
phần để nâng cao hiệu quả bảo vệ CĐTS thì việc nhóm chủ thể này trở thành chủ thể
của quyền yêu cầu hủy nghị quyết ĐHĐCĐ là hồn tồn khơng phù hợp (do các hạn
chế đã trình bày phía trên). Vì vậy, tác giả cho rằng Luật DN cần phải điều chỉnh
riêng đối với chủ thể của quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ.
1.3. Một số kiến nghị liên quan đến các quy định về chủ thể có quyền yêu
cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đơng
Từ những phân tích nêu trên, tác giả đề xuất bổ sung quy định về chủ thể của
quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ tại Điều 147 Luật DN 2014 như sau:

“Trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được biên bản họp Đại hội đồng cổ đông
hoặc biên bản kết quả kiểm phiếu lấy ý kiến Đại hội đồng cổ đông, cổ đơng, nhóm
cổ đơng sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thơng trở lên trong thời hạn ít nhất 6
tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ cơng ty có quyền u cầu
Tịa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ nghị quyết hoặc một phần nội dung nghị
quyết của Đại hội đồng cổ đông trong các trường hợp sau đây:

Riêng đối với công ty đại chúng, cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng sở hữu từ 5%
tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn ít nhất 6 tháng hoặc một tỷ lệ khác
nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có quyền u cầu Tịa án hoặc Trọng tài xem
xét, hủy bỏ nghị quyết hoặc một phần nội dung nghị quyết của Đại hội đồng cổ
đông trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.”
Bên cạnh đó, sửa đổi quy định tại Điều 24 Điều lệ mẫu Phụ lục 01 Thông tư
95/2017/TT-BTC cho phù hợp với quy định tại Luật DN 2014. Cụ thể, bỏ quy định
cho phép thành viên HĐQT, Kiểm soát viên, GĐ/TGĐ khơng phải là cổ đơng vẫn
có quyền u cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ, giữ nguyên nhóm chủ thể là cổ
đơng và nhóm cổ đơng.


14
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Một trong những đối tượng mà Luật DN hướng đến khi quy định quyền yêu
cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ là các cổ đông nhỏ trong CTCP. Song, với quy
định hiện nay, các cổ đông nhỏ trong công ty đại chúng không thể thực hiện được
quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ do tỷ lệ phần trăm (tổng số cổ phần
phổ thông) mà các cổ đông này buộc phải nắm giữ được xác định theo Luật DN
không phù hợp với quy định Luật Chứng khoán và thực tiễn của các CTCP đại
chúng. Cùng với việc nhận diện một số điểm khác biệt giữa chủ thể có quyền yêu
cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ và nhóm chủ thể của các quyền tại khoản 2
Điều 114 Luật DN 2014, tác giả đề xuất quy định riêng cho chủ thể của quyền yêu

cầu hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ.


15
CHƢƠNG 2
CĂN CỨ HỦY BỎ NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐƠNG
Luật DN quy định về trình tự, thủ tục họp và thông qua nghị quyết ĐHĐCĐ
cũng như ràng buộc để nội dung nghị quyết không trái với quy định pháp luật và
điều lệ công ty. Điều này thể hiện nguyên tắc pháp luật thừa nhận tính hợp pháp của
nghị quyết ĐHĐCĐ. Từ các quy định về cuộc họp và nghị quyết của ĐHĐCĐ, có
thể thấy rằng, tính hợp pháp của nghị quyết được đánh giá dựa trên việc tuân thủ
quy định pháp luật và Điều lệ công ty về: (i) trình tự, thủ tục triệu tập họp và thông
qua nghị quyết; (ii) nội dung của nghị quyết.23 Nếu như khơng đảm bảo tính hợp
pháp, nghị quyết sẽ có khả năng bị hủy. Chương này sẽ lần lượt giới thiệu, phân tích
và đánh giá thực tiễn áp dụng các vấn đề pháp lý thuộc phạm vi các căn cứ hủy nghị
quyết của ĐHĐCĐ.
2.1. Căn cứ hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đơng liên quan đến
trình tự, thủ tục triệu tập họp
2.1.1. Quy định pháp luật về trình tự, thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông
Theo quy định của pháp luật doanh nghiệp, việc khơng thực hiện đúng trình
tự, thủ tục triệu tập họp ĐHĐCĐ theo quy định của Luật này và Điều lệ cơng ty sẽ
khiến cho nghị quyết có khả năng bị hủy (khoản 1 Điều 147 Luật DN 2014). Trải
dài từ Điều 136 đến Điều 141, trình tự, thủ tục triệu tập họp ĐHĐCĐ được Luật
DN quy định bao gồm các vấn đề về: thời gian họp; các trường hợp họp bất
thường; thẩm quyền triệu tập họp; danh sách cổ đông có quyền dự họp; gửi thơng
báo, tài liệu mời họp; ủy quyền dự họp; địa điểm họp… Nếu trước đây Luật DN
2005 chỉ quy định địa điểm họp “phải ở trên lãnh thổ Việt Nam” thì Luật DN 2014
lại thể hiện sự cho phép cuộc họp được tiến hành “đồng thời ở nhiều địa điểm
khác nhau”. Điều này tạo sự thuận lợi hơn cho các bên trong việc tiến hành cuộc
họp, đặc biệt là CTCP có số lượng cổ đơng lớn và nằm dàn trải ở nhiều địa

phương khác nhau.24 Về thông báo mời họp, nay được gửi tới địa chỉ liên lạc của
cổ đơng thay vì địa chỉ thường trú như trước đây (khoản 2 Điều 139 Luật DN
2014). Điều này đã khắc phục tình trạng khó khăn khi áp dụng cho các cơng ty
niêm yết vì thơng thường, địa chỉ mà cổ đông cung cấp khi mở tài khoản giao dịch
chứng khoán là địa chỉ liên lạc của cổ đông chứ không phải là địa chỉ thường trú.
23

Trương Thanh Hịa (2012), tlđd (4), tr. 10.
Xem: Phạm Hồi Huấn (2019), Luật Doanh nghiệp Việt Nam: Tình huống – Dẫn giải – Bình luận, Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 253.
24


16
Tạo thuận lợi hơn cho những cổ đông thường xuyên thay đổi chỗ ở.25 Cũng giống
như việc nâng thời hạn nhận thông báo của cổ đông từ 7 ngày lên 10 ngày (khoản
1 Điều 139 Luật DN 2014), tất cả đều là những tiến bộ trong quy định về trình tự,
thủ tục triệu tập họp ĐHĐCĐ để ngày càng phù hợp với nhu cầu của thực tiễn.
Bên cạnh những quy định chi tiết về không gian và thời gian họp, pháp luật
CTCP còn quy định điều kiện để cuộc họp ĐHĐCĐ được tiến hành hợp lệ, bao
gồm: (i) 51% tổng số phiếu biểu quyết tham gia dự họp cho lần triệu tập đầu tiên;
(ii) tối thiểu 33% tổng số phiếu biểu quyết cho lần triệu tập thứ hai nếu lần triệu
tập đầu tiên khơng đủ số cổ đơng có tổng số phiếu biểu quyết theo quy định tham
dự. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ dự họp vẫn khơng đủ thì lần triệu tập thứ ba sẽ khơng cịn
bị ràng buộc bởi điều kiện về tỷ lệ tổng số phiếu biểu quyết của cổ đông dự họp
(Điều 144 Luật DN 2014). Theo quy định pháp luật, Điều lệ có thể quy định một
tỷ lệ khác nhưng không được nhỏ hơn tỷ lệ nêu trên. Có thể thấy, Luật DN 2014
đã hạ thấp điều kiện về tỷ lệ triệu tập họp. Nhờ đó, phù hợp hơn với thông lệ quốc
tế và giải quyết được tình trạng khó khăn cho các cơng ty cổ phần có q nhiều cổ
đơng, đặc biệt là các cơng ty niêm yết, trong việc triệu tập họp ĐHĐCĐ.26

Đối với loại CTCP được thành lập sau thời điểm Việt Nam gia nhập WTO
bởi sự hợp tác giữa cổ đông trong nước và cổ đơng nước ngồi (doanh nghiệp liên
doanh) hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ thuộc các nhóm ngành Việt
Nam có cam kết và các doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo Luật Đầu tư
nước ngoài 1996 mà chuyển đổi thành CTCP trong thời hạn 2 năm kể từ ngày Luật
DN 2005 có hiệu lực (đến ngày 01/07/2008) có thể quy định trong điều lệ số đại
diện cần thiết để tiến hành cuộc họp khác đi so với các quy định tại Luật DN. Nếu
Điều lệ khơng quy định thì quy định của luật này được áp dụng.27
25

Xem thêm Phạm Thị Xuân Mỹ (2010), Các vấn đề pháp lý về họp đại hội đồng cổ đông của công ty đại
chúng tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 36. Những khó khăn trong
việc gửi thơng báo mời họp đến “địa chỉ thường trú” của cổ đông, nhất là đối với các công ty niêm yết.
26
Tham khảo Phạm Thị Xuân Mỹ (2010), tlđd (25), tr. 60. Thực trạng mời họp công ty đại chúng.
Xem thêm Phan Huy Hồng, tlđd (19), tr. 33: “Luật Đức khơng quy định phải có số cổ đơng dự họp đại
diện ít nhất bao nhiêu phần trăm trong tổng số cổ phần có quyền biểu quyết để đại hội có thể tiến hành hoặc
có thể quyết nghị, nên điều lệ các CTCP được tự do quy định điều kiện này, và vì vậy ít xảy ra trường hợp
đại hội không tiến hành được do không đủ số lượng cổ đông cần thiết hiện diện.”
Xem thêm Bùi Xuân Hải, tlđd (2), tr. 264: “Luật DN 2005 đã quy định điều kiện để họp ĐHĐCĐ khá cao
so với nhiều nước trên thế giới nhằm bảo vệ mạnh CĐTS. Nhưng điều kiện cao như vậy đã gây quan ngại
cho nhiều thành viên WTO, cho nên Việt Nam đã phải chấp nhận cho phép giảm xuống còn một tỷ lệ là 51%
cho các công ty liên doanh ở một số lĩnh vực dịch vụ. Tỷ lệ quá cao như hiện nay cũng gây khó khăn cho các
cơng ty cổ phần có q nhiều cổ đơng, đặc biệt là các công ty niêm yết, trong việc tiến hành họp và thông
qua quyết định của ĐHĐCĐ.”
27
Xem Đoạn 502 và 503 Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO.


17

Ngồi ra, các cơng ty đại chúng cịn phải tn thủ các quy định tại Luật
Chứng khoán 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) và những quy định riêng về các nội
dung sau: (1) công ty phải công bố thông tin liên quan đến các vấn đề họp ĐHĐCĐ
trên website của công ty theo quy định tại Điều 101 Luật Chứng khốn 2006 và
Thơng tư 155/2015/TT-BTC ngày 06/10/2015 của Bộ Tài Chính hướng dẫn Cơng
bố thơng tin trên thị trường chứng khoán (Khoản 3 Điều 8); (2) cuộc họp ĐHĐCĐ
phải tuân theo các quy định tại Điều 8 Nghị định 71/2017/NĐ-CP và tham chiếu các
quy định hướng dẫn xây dựng Điều lệ công ty tại Điều lệ mẫu Phụ lục 01 Thơng tư
95/2017/TT-BTC.28
Ngồi ra, cần lưu ý rằng, các nghị quyết của ĐHĐCĐ được thông qua bằng
100% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là hợp pháp và có hiệu lực ngay cả khi trình
tự và thủ tục thơng qua nghị quyết đó khơng được thực hiện đúng như quy định.29
2.1.2. Một số vướng mắc trong thực tiễn hủy nghị quyết Đại hội đồng cổ
đơng liên quan đến trình tự, thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ đơng
Từ các quy định tại Luật DN 2014 về trình tự, thủ tục triệu tập họp ĐHĐCĐ,
có thể thấy pháp luật quy định rất chi tiết về vấn đề này. Việc quy định quá “cụ thể
và chi tiết” là một trong những nguyên nhân dẫn đến hàng loạt các khó khăn trong
thực tiễn áp dụng cũng như nhiều trường hợp nghị quyết ĐHĐCĐ bị hủy vì những
lý do chưa thực sự thỏa đáng. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng, 23 trên 24 vụ Tòa án
nhân dân hủy quyết định của ĐHĐCĐ có lý do là thủ tục, trình tự triệu tập và tiến
hành cuộc họp không đúng quy định.30
Trước hết, không thể phủ nhận việc Luật DN 2014 đã có những cải tiến góp
phần giải quyết khó khăn trong việc hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ có căn cứ liên quan
đến trình tự, thủ tục triệu tập họp ĐHĐCĐ. Cụ thể, Luật DN 2014 đã sửa đổi quy
định công nhận quyền dự họp của người sở hữu cổ phần được chuyển nhượng trong
thời gian từ ngày lập xong danh sách cổ đông đến ngày khai mạc họp Đại hội đồng
cổ đông (Khoản 5 Điều 101 Luật DN 2005). Thay vào đó, người nhận cổ phần được
chuyển nhượng chỉ trở thành cổ đơng cơng ty (và có quyền dự họp, biểu quyết) từ
thời điểm các thông tin của họ (theo quy định tại khoản 2 Điều 121 của Luật này)
Xem thêm Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), tlđd (1), tr. 294. Và nghị quyết số 71/2006/NQQH11 ngày 29/11/2006 về phê chuẩn nghị định thư gia nhập hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới

(WTO) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
28
Điều 18, 19 Điều lệ mẫu.
29
Khoản 2 Điều 148 Luật DN 2014.
30
Bùi Xuân Hải (2011), tlđd (2), tr. 220.


18
được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông. Cùng với việc giới hạn về chủ thể có
quyền yêu cầu hủy, việc nghị quyết ĐHĐCĐ bị hủy bởi người sở hữu cổ phần được
công nhận quyền dự họp trong thời gian nói trên mà khơng được dự họp đã khơng
cịn nữa.31
Bên cạnh những thay đổi tích cực, vẫn tồn tại một vài hạn chế chưa được
khắc phục, có thể kể đến là việc áp dụng quy định về thời hạn gửi thông báo, tài liệu
mời họp ĐHĐCĐ làm căn cứ hủy. Trong vụ việc cổ đông Trần Thanh Huy yêu cầu
Tòa án hủy kết quả họp ĐHĐCĐ ngày 25/03/2005 của CTCP sản xuất dịch vụ
thương mại Đay Sài Gòn, một trong những lý do khiến nghị quyết bị hủy là vì vi
phạm thời hạn gửi thơng báo (khoản 1 Điều 74 Luật DN 2005). Cụ thể, thư mời họp
và các tài liệu được gửi đi vào ngày 17/03/2005, các cổ đơng khó có thể nhận được
trước ngày 18/03/2005 (thời hạn chậm nhất để nhận thơng báo). Nhưng sau đó, Tịa
phúc thẩm có nhận định cho rằng, cuộc họp ĐHĐCĐ từ thời điểm đó cho đến nay
đã hơn một năm nên nếu chỉ dựa vào những thiếu sót trên mà hủy bỏ quyết định của
ĐHĐCĐ ngày 25/03/2005 thì việc tổ chức lại đại hội theo đúng trình tự thủ tục
cũng không thể làm khác đi nội dung của đại hội. Ông Huy cũng thừa nhận rằng
hầu hết các cổ đông đều được nhận thư mời, chỉ có một số trường hợp nhận không
đúng ngày nhưng không ai thắc mắc trong đại hội kể cả ơng Huy.32
Bên cạnh đó, cịn có những vụ việc gần đây hơn là vụ việc hủy nghị quyết
ĐHĐCĐ của một doanh nghiệp ở Đắc Lắc và vụ việc của CTCP phát triển kỹ thuật

và đầu tư (ITD):33
- Trong vụ việc của doanh nghiệp tại Đắc Lắc, theo thông báo mời họp,
doanh nghiệp tổ chức họp đại hội đồng cổ đông vào ngày 22/3/2017, nhưng công ty
gửi thư mời vào ngày 13/3/2017 và không gửi kèm các tài liệu liên quan, gồm
chương trình họp, các tài liệu sử dụng trong cuộc họp, dự thảo nghị quyết, phiếu
biểu quyết… cho cổ đông. Như vậy, công ty đã vi phạm thời hạn gửi thông báo và
cả quy định về việc gửi tài liệu họp khiến cho nghị quyết ĐHĐCĐ bị hủy.
- Năm 2013, TAND TP.Hà Nội đã ghi nhận vụ việc hủy nghị quyết ĐHĐCĐ
thường niên năm 2012 của CTCP Phát triển kỹ thuật và đầu tư (ITD) thuộc Viện
Máy và Công nghiệp – IMI. Nguyên nhân xuất phát từ việc công ty này không gửi
31

Xem thêm Bùi Xuân Hải (2011), tlđd (2), tr. 115-116. Ví dụ vụ việc hủy nghị quyết ĐHĐCĐ bởi người sở
hữu cổ phần chưa có tên trong sổ đăng ký cổ đơng có quyền dự họp nhưng lại bị công ty từ chối.
32
Trương Thanh Hòa (2012), tlđd (4), tr. 23.
33
Hà Linh, “Hủy nghị quyết đại hội đồng cổ đơng vì lỗi khơng ngờ”, 06/08/2019


19
các tài liệu bắt buộc sẽ đưa vào thảo luận và biểu quyết tại đại hội như báo cáo hội
đồng quản trị, báo cáo ban kiểm soát, báo cáo tài chính… kèm thơng báo mời họp
đến cho cổ đơng. Kết quả, nghị quyết ĐHĐCĐ bị hủy và ITD buộc phải tổ chức lại
đại hội.
Việc quy định phương thức gửi và thời hạn chậm nhất cho việc gửi thông báo
trước kỳ họp Đại hội nhằm đảm bảo cho cổ đơng có thời gian nghiên cứu tài liệu
họp, hiểu rõ về nội dung họp cùng các tài liệu khác để biểu quyết thơng qua với ý
chí tự nguyện nhất. Trường hợp hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ với lý do liên quan
đến trình tự, thủ tục triệu tập họp nói chung và do vi phạm thời hạn gửi thông báo,

tài liệu họp nói riêng, tác giả cho rằng cần xem xét hai yếu tố: thứ nhất, việc tổ
chức lại cuộc họp ĐHĐCĐ có làm thay đổi kết quả họp hay khơng?; thứ hai, vi
phạm này có phải là vi phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của cổ đơng hay khơng?
Ví dụ, trong vụ việc của cơng ty Đay Sài Gịn, từ nhận định của Tịa phúc thẩm, có
thể thấy rằng, thứ nhất, việc tổ chức lại cuộc họp sẽ không làm thay đổi kết quả
họp; thứ hai, trong thời gian thực hiện nghị quyết bị yêu cầu hủy, kinh doanh của
công ty Đay Sài Gịn vẫn đạt kết quả tốt, có nghĩa là việc thực hiện nghị quyết này
không gây thiệt hại về mặt tài sản cho cổ đơng. Thế nên, Tịa quyết định không hủy
nghị quyết ĐHĐCĐ của công ty Đay Sài Gòn trong trường hợp này. Vậy, những vi
phạm về trình tự, thủ tục triệu tập họp khơng thỏa mãn hai yếu tố trên không nên là
căn cứ để hủy nghị quyết của ĐHĐCĐ.
Liên quan đến thời hạn gửi thông báo, Luật DN 2014 quy định rằng thời
điểm bắt đầu thời hạn này là từ lúc thông báo và hồ sơ tài liệu được gửi đến cổ đông
(Khoản 1 Điều 139). Các Thẩm phán khi giải quyết vụ việc trên cũng có quan điểm
tương tự. Mặc dù Luật DN 2014 đã quy định rõ ràng nhưng vấn đề này lại được
Điều lệ mẫu (khoản 3 Điều 18) hướng dẫn khác đi, theo đó, thời hạn được tính từ
ngày mà thơng báo được gửi hoặc chuyển đi một cách hợp lệ, được trả cước phí
hoặc được bỏ vào hịm thư. Quy định này hồn tồn khơng phù hợp với cách xác
định thời điểm bắt đầu thời hạn tại Luật DN 2014. Thời hạn mà một bưu phẩm gửi
theo phương thức bảo đảm từ khi tiếp nhận đến khi giao đến địa chỉ người nhận
trung bình là từ 5 – 7 ngày đối với bưu phẩm trong nước. Nếu cổ đông ở nước
ngoài, thời gian gửi bưu phẩm sẽ kéo dài thậm chí gấp đơi thời hạn nêu trên34. Vì
thế, cách xác định thời hạn mà Điều lệ mẫu đề ra là hoàn toàn đi ngược lại với mục
34

Quyết định số 558/BĐVN-QLCL về việc hướng dẫn thực hiện chỉ tiêu thời gian tồn trình đối với dịch vụ
Bưu phẩm Bảo đảm trong nước.



×