Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Thực tiễn giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ từ tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.29 KB, 42 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VÕ THỊ THU THẢO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------

LUẬT KINH TẾ

VÕ THỊ THU THẢO

THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP
PHÁT SINH TỪ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM CHÁY, NỔ
KHĨA I - BÌNH DƢƠNG

TỪ TÒA ÁN

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ

TP HỒ CHÍ MINH - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------

THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP
PHÁT SINH TỪ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM CHÁY, NỔ
TỪ TÒA ÁN

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thủy
Học viên: Võ Thị Thu Thảo
Lớp, khóa: Bình Dƣơng – Khóa 1

TP HỒ CHÍ MINH – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
bản án được sử dụng để lập luận và trích dẫn trong luận văn được tác giả
thu thập tại Tòa án nhân dân các cấp. Vì vậy đảm bảo độ tin cậy, chính xác,
trung thực và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Những kết luận khoa học
của luận văn chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả

Võ Thị Thu Thảo


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TRANH CHẤP VỀ ĐỐI TƢỢNG BẢO HIỂM, MỨC BỒI THƢỜNG VÀ
THỜI GIAN BỒI THƢỜNG BẢO HIỂM ............................................................................. 6
1.1. Quy định pháp luật về đối tƣợng hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ. ............................... 6
1.2. Thực trạng tranh chấp về đối tƣợng, mức bồi thƣờng thiệt hại của hợp đồng bảo
hiểm. ....................................................................................................................................... 7
1.3. Kiến nghị ...................................................................................................................... 17
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ....................................................................................................... 18
CHƢƠNG 2: TRANH CHẤP VỀ THỜI HẠN ĐĨNG PHÍ, THỜI ĐIỂM PHÁT SINH
HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM ........................................................................ 20

2.1. Thời hạn đóng phí trong hợp đồng bảo hiểm. .......................................................... 20
2.2. Quy định pháp luật về nghĩa vụ đóng phí, thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp
đồng. ..................................................................................................................................... 20
2.3. Thực trạng tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ đóng phí và hiệu lực của hợp đồng
.............................................................................................................................................. 22
2.4. Vƣớng mắc, kiến nghị ................................................................................................. 30
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ....................................................................................................... 33
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 34
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Luật tổ chức Tòa án quy định chức năng nhiệm vụ của Tòa án: Tòa án nhân
dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp1.
Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ
án hình sự, dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, hành
chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật 2. Tranh chấp bảo
hiểm là một loại tranh chấp về hợp đồng và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án. So với các loại tranh chấp khác thì tranh chấp bảo hiểm có những đặc điểm
riêng. Do đó, khi giải quyết các tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm tại Tòa án, Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, Luật sư, Kiểm sát viên phải nắm vững kiến thức pháp
luật về bảo hiểm, đồng thời những người tham gia tố tụng khác cần có cái nhìn
đúng đắn và tồn diện.
Thực tiễn cho thấy khi thụ lý và giải quyết vụ án liên quan đến hoạt động bảo
hiểm, đòi hỏi những người tiến hành tố tụng khơng những nắm vững kiến thức về

bảo hiểm mà cịn phải tìm hiểu các quy định pháp luật khác có liên quan nhằm nâng
cao chất lượng xét xử, hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ án bị hủy, sửa do lỗi chủ
quan của Thẩm phán. Từ đó, thống nhất được đường lối giải quyết giữa Tòa án
nhân dân các cấp, các Tòa án ở địa phương khác nhau cho cùng một quan hệ tranh
chấp, để thực hiện mục tiêu theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020". Bên
cạnh đó, việc giải quyết tốt các tranh chấp về bảo hiểm sẽ góp phần tiết kiệm ngân
sách Nhà nước về chi tiêu cho hoạt động xét xử, hạn chế đến mức thấp nhất các
mâu thuẫn, bất đồng cũng như thời gian của những người tham gia tố tụng, cụ thể là
các đương sự trong vụ án.
Cùng với quá trình hội nhập và phát triển của nền kinh tế, các doanh nghiệp
được thành lập ngày càng tăng và nhu cầu về phòng tránh các rủi ro của các tổ chức,
cá nhân ngày một tăng lên, thị trường bảo hiểm phát triển nhanh và rộng khắp. Từ
1

Khoản 1 Điều 2 Luật tổ chức Tòa án năm 2014.

2

Khoản 2 Điều 2 Luật tổ chức Tòa án năm 2014.


2

đó số lượng các vụ án tranh chấp bảo hiểm được Tòa án thụ lý giải quyết cũng tăng
lên theo tỷ lệ thuận cả về số lượng cũng như tính chất phức tạp của từng vụ việc.
Là người tiến hành tố tụng khi tham gia giải quyết một số vụ việc có tranh
chấp liên quan về kinh doanh bảo hiểm tại Tòa án, trong phạm vi đề tài tác giả
muốn đề cập đến việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm
cháy nổ được quy định tại Điểm e Khoản 2 Điều 7 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm

2000.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp về kinh doanh bảo hiểm, hầu hết
nguyên nhân dẫn đến phát sinh tranh chấp là do doanh nghiệp bảo hiểm từ chối bồi
thường bảo hiểm đối với bên mua bảo hiểm, khi phát sinh sự kiện bảo hiểm. Tuy
nhiên, việc giải quyết các tranh chấp này như thế nào thì giữa Tịa án nhân dân các
cấp, các địa phương, giữa các bên tranh chấp vẫn cịn gặp nhiều vướng mắc, thậm
chí việc giải quyết các loại tranh chấp này trong thời gian qua còn có những quan
điểm và quyết định trái ngược nhau giữa các cấp Tòa án. Điều này làm ảnh hưởng
rất lớn đến chất lượng xét xử của ngành Tịa án nói chung, đồng thời gây nên những
tác động tâm lý không nhỏ đối với người tiến hành tố tụng, cụ thể là tỷ lệ án bị hủy,
sửa cao làm ảnh hưởng trực tiếp đến cơng tác tái bổ nhiệm thậm chí có trường hợp
tạm dừng cơng tác.
Qua tìm hiểu và nghiên cứu tác giả nhận thấy đã có một số cơng trình nghiên
cứu về bảo hiểm tuy khơng nhiều nhưng cũng đề cập đến hoạt động bảo hiểm và
được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau cụ thể như:
Về luận án, luận văn có các luận án, luận văn sau:
Nguyễn Thị Thủy (2009) Xây dựng và phát triển pháp luật bảo hiểm tài sản
tại Việt Nam, luận án tiến sĩ, Trường Đại học luật TP.HCM.
Trần Thị Lan Thanh (2013) Quản lý Nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm
cháy nổ bắt buộc, luận văn thạc sĩ, Trường Đại học luật TP. HCM.
Về sách: Bảo hiểm phi nhân thọ, Nhà xuất bản tài chính, Hà Nội (2010).
Về các bài viết có liên quan:


3

Nguyễn Thị Thủy (2007), “Về nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm và vấn đề xác
định thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm”. Tạp
chí KHPL, số 5 (42)/2007.

Ngọc Lan (2012), “Bảo hiểm cháy nổ rủi ro đặc biệt, cần nâng phí”. Báo Đầu
tư chứng khốn ngày 07/8/2012.
Nguyễn Thị Thủy (2006), “Nhận diện hành vi trục lợi trong bảo hiểm tài
sản”. Tạp chí nghiên cứu lập pháp, Văn phịng Quốc hội (số 9).
Các cơng trình trên đã nghiên cứu các vấn đề liên quan đến bảo hiểm như
hành vi trục lợi bảo hiểm, phí bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản, quản lý Nhà nước về
bồi thường trong bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, hoặc pháp luật về bảo hiểm tài sản –
thực trạng áp dụng. Nhìn chung đây là những tài liệu tham khảo rất có giá trị, là
nguồn cơ bản giúp cho tác giả định hướng việc nghiên cứu đề tài của mình, tuy
nhiên các cơng trình nghiên cứu trên đề cập đến vấn đề quản lý Nhà nước, các vấn
đề mang tính lý luận chung. Đối với đề tài tác giả lựa chọn chính là thực tiễn khi
giải quyết các loại tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ từ Tịa án.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khi tham gia ký
kết hợp đồng bảo hiểm, hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp tranh chấp, góp
phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế, tăng cường hiệu lực quản lý
của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Đề tài nghiên cứu hướng đến
mục đích chung là giúp các chủ thể hiểu rõ hơn về bản chất, ý nghĩa khi tham gia ký
kết hợp đồng bảo hiểm, từ đó dự đốn được các rủi ro, hạn chế đến mức thấp nhất
các tranh chấp có thể xảy ra khi phát sinh sự kiện bảo hiểm. Ngoài ra, việc nghiên
cứu về hợp đồng bảo hiểm còn giúp những người tiến hành tố tụng có cái nhìn tồn
diện hơn về hoạt động bảo hiểm. Qua đó vận dụng để áp dụng pháp luật một cách
đúng đắn và phù hợp, hạn chế đến mức thấp nhất hành vi trục lợi bảo hiểm của
người mua bảo hiểm. Do vậy, khi nghiên cứu thực tiễn giải quyết các tranh chấp
phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm cháy nổ tại Tòa án, về nguyên tắc phải xuất phát từ
bản chất của quan hệ pháp luật có tranh chấp, tính tất yếu và khách quan của quan
hệ pháp luật. Nhận thức vấn đề từ lý luận đến thực tiễn, từ đó sẽ định hướng được
đường lối giải quyết một cách đúng đắn, mang lại kết quả tốt nhất cho tất cả chủ thể
khi tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm. Luận văn nhằm đạt được các mục đích sau:



4

Thứ nhất: Nhận diện các loại tranh chấp có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm
cháy, nổ.
Thứ hai: Áp dụng pháp luật của Tòa án khi giải quyết các tranh chấp liên
quan đến cháy nổ trong hợp đồng bảo hiểm.
Thứ ba: Khó khăn, hạn chế và hướng hồn thiện trong việc giải quyết tranh
chấp hợp đồng bảo hiểm tại Tòa án.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ của chuyên ngành luật kinh tế. Đặc biệt khi chọn đề tài liên
quan đến hợp đồng bảo hiểm, đây là loại quan hệ tranh chấp khá phức tạp và cịn
mới mẻ. Vì vậy, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu, đánh giá về kết quả giải quyết một
số vụ án tại Tòa án. Luận văn chủ yếu tập trung vào phân tích thực tiễn giải quyết
các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm cháy nổ tại Tòa án theo quy định tại
Điểm e Khoản 2 Điều 7 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, những khó khăn,
vướng mắc, quan điểm của Tòa án các cấp trong việc thụ lý giải quyết các tranh
chấp có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm. Sau khi phân tích, đánh giá được khó
khăn, vướng mắc sẽ giúp cho đội ngũ thẩm phán càng hồn thiện hơn về chun
mơn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của
Bộ Chính trị.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu và hoàn thành luận văn trước hết dựa trên quan điểm của
Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà
Nước, Nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách tư pháp. Đồng thời, với đề tài cụ thể
trên người viết sử dụng phương pháp nghiên cứu như sau:
- Phương pháp phân tích tổng hợp: phương pháp này được sử dụng hầu hết
trong toàn bộ các chương của luận văn trong đó người viết sử dụng phương pháp
này để trình bày một cách tổng quan các căn cứ về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm
khi Tòa án thụ lý giải quyết.

- Phương pháp so sánh kết hợp lý luận với thực tiễn được sử dụng làm sáng
tỏ những khác biệt của vấn đề từ đó chỉ ra những khó khăn và vướng mắc trong quá
trình áp dụng pháp luật. Đặc biệt là việc áp dụng pháp luật khác nhau của Tòa án
nhân dân các cấp.


5

- Ngồi ra, người viết cịn sử dụng phương pháp phân tích thực tiễn để làm
cho việc phân tích đề tài thêm sinh động.
6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả
nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhầm chỉ ra những vấn đề còn bất cập trong việc áp
dụng pháp luật khi giải quyết các tranh chấp của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng, đặc biệt giúp đội ngũ thẩm phán có cái nhìn tồn diện hơn
về hoạt bảo hiểm mà chủ yếu là tranh chấp có liên quan đến cháy, nổ do Tòa án thụ
lý giải quyết. Ngoài ra, giúp cho những người tham gia tố tụng khác rút ra bài học
kinh nghiệm khi tham gia ký kết các hợp đồng bảo hiểm.
7. Bố cục luận văn
Ngoài lời nói đầu, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận, tác giả dự kiến bố
cục đề tài luận văn sẽ thực hiện trong khoảng 40 trang chia thành hai chương gồm:
Chương 1: Tranh chấp về đối tượng bảo hiểm, mức bồi thường và thời gian
bồi thường bảo hiểm.
Chương 2: Tranh chấp về thời hạn đóng phí, thời điểm phát sinh hiệu lực của
hợp đồng bảo hiểm.


6

CHƢƠNG 1

TRANH CHẤP VỀ ĐỐI TƢỢNG BẢO HIỂM, MỨC BỒI THƢỜNG VÀ
THỜI GIAN BỒI THƢỜNG BẢO HIỂM
1.1. Quy định pháp luật về đối tƣợng hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ
Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp
bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo
hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được
bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm3. Khi các bên tiến hành ký kết hợp đồng bảo
hiểm và để đảm bảo hiệu lực của hợp đồng, về nguyên tắc hợp đồng phải đảm bảo
về mặt hình thức lẫn nội dung và một trong những nội dung khơng thể thiếu của
hợp đồng chính là “đối tượng”. Đối với bảo hiểm cháy, nổ đối tượng bảo hiểm là tài
sản, bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền về tài sản
khác4. Ngoài ra, tài sản tham gia bảo hiểm cháy nổ bắt buộc là: nhà, cơng trình kiến
trúc và các trang thiết bị kèm theo; máy móc thiết bị; các loại hàng hóa, vật tư, tài
sản khác5.
Đối tượng hợp đồng bảo hiểm chính là yếu tố bên mua bảo hiểm và doanh
nghiệp bảo hiểm hướng đến khi ký kết hợp đồng bảo hiểm. Việc xác định tài sản
nào thuộc đối tượng được mua và bán bảo hiểm cần dựa vào quy định pháp luật để
thực hiện. Tuy nhiên, việc xác định đối tượng để các bên hướng đến khi tham gia
bảo hiểm là do doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm quyết định. Theo quy
định của pháp luật đối tượng của hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc chính là các
cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ.
Cơ sở là từ gọi chung cho nhà máy, xí nghiệp, kho tàng, trụ sở làm việc,
bệnh viện, trường học, rạp hát, khách sạn, chợ, trung tâm thương mại, doanh trại lực
lượng vũ trang và các cơng trình khác6.
Riêng đối tượng của hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ thông thường là tất cả
những gì thuộc về tài sản mà bên mua bảo hiểm muốn tham gia bảo hiểm và doanh
nghiệp bảo hiểm có thể xem xét để chấp nhận bảo hiểm, bao gồm: nhà, cơng trình
3

Khoản 1 Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000.


4

Điều 40 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000.

5

Điều 3 Thông tư 220/2010/TT–BTC ngày 30/12/2010 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện chế độ bảo
hiểm cháy, nổ bắt buộc.
6

Khoản 3 Điều 3 Luật Phòng cháy chữa cháy 2001.


7

kiến trúc và các trang thiết bị kèm theo; máy móc thiết bị; các loại hàng hóa, vật tư,
tài sản khác7.
Nhìn chung, đối tượng của hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ là tài sản của bên
mua bảo hiểm đề cập và cũng là tài sản mà các doanh nghiệp bảo hiểm hướng đến
khi các bên tham gia ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, khi phát sinh sự kiện bảo hiểm
không phải tất cả các tài sản đều là đối tượng được doanh nghiệp bảo hiểm xem xét
bồi thường bảo hiểm, đây là vấn đề dẫn đến tranh chấp khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Trong tất cả các tranh chấp có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm được giải quyết tại
Tịa án, tranh chấp dễ phát sinh nhất chính là tranh chấp có liên quan đến đối tượng
cháy, nổ. Cụ thể là các vụ cháy, nổ xảy ra tại các nhà máy, xí nghiệp, chợ và trung
tâm thương mại. Nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp là do các bên không
thống nhất được đối tượng đã tham gia bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm tiến
hành bồi thường bảo hiểm.
1.2. Thực trạng tranh chấp về đối tƣợng, mức bồi thƣờng thiệt hại của

hợp đồng bảo hiểm
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây các vụ cháy, nổ xảy ra ngày càng
nhiều. Theo số liệu báo cáo của Cục Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn
cứu hộ, Bộ Cơng an năm 2015 thì trong năm 2015, cả nước xảy ra gần 2.800 vụ
cháy, làm chết 62 người, bị thương 264 người, thiệt hại về tài sản trị giá 1.498 tỷ
đồng8. Trong năm 2016 cả nước đã xảy ra 3006 vụ cháy, trong đó có 1229 vụ cháy
tại các cơ sở, 1290 vụ cháy nhà dân, 169 vụ cháy phương tiện giao thông, và 318 vụ
cháy rừng, làm chết 98 người, bị thương 180 người, thiệt hại về tài sản trị giá ước
tính trên 1240 tỷ đồng và 1800 ha rừng9. Gần đây nhất là vụ cháy tại Cơng ty Trách
nhiệm hữu hạn KwongLung - MeKo đóng tại Khu Cơng nghiệp Trà Nóc, Quận
Bình Thủy, Thành phố Cần Thơ, vụ cháy đã gây thiệt hại hàng trăm tỷ đồng. Từ số
liệu báo cáo của ngành Công an về tình hình cháy, nổ diễn ra trong cả nước thấy
7

Điều 3 Thơng tư 220/2010/TT–BTC ngày 30/12/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện chế độ bảo
hiểm cháy, nổ bắt buộc.
8

Cục Cảnh sát phòng cháy chữa cháy (2016), Báo cáo Tổng kết công tác năm 2015 và triển khai công tác
năm 2016, Hà Nội.
9

Bộ công an (2016), Báo cáo đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp bảo đảm an tồn phịng cháy chữa
cháy, Hà Nội.


8

rằng: tình hình cháy, nổ ngày càng nhiều, gây thiệt hại nghiêm trọng về người lẫn
tài sản. Do đó, việc Tịa án thụ lý giải quyết các vụ việc có tranh chấp liên quan đến

bảo hiểm tài sản nói chung và bảo hiểm cháy, nổ nói riêng giữa doanh nghiệp bảo
hiểm và bên mua bảo hiểm ngày một tăng cả về số lượng cũng như tính chất phức
tạp của từng vụ việc. Trong đó có khơng ít tranh chấp liên quan đến đối tượng của
hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ. Hầu hết các tranh chấp có liên quan đến đối tượng bảo
hiểm xuất phát từ việc bên mua bảo hiểm tiến hành khởi kiện. Nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến tranh chấp là do doanh nghiệp bảo hiểm không chấp nhận những đối tượng
mà bên mua bảo hiểm yêu cầu bồi thường trong đơn bảo hiểm.
Trong những năm qua Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một thụ lý giải
quyết “tranh chấp hợp đồng bảo hiểm” đối với các vụ án sau:
Vụ án giữa Công ty cổ phần đầu tư và phát triển cơng nghệ mơi trường Bình
Phước và Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO): Ngày 18/3/2013
Công ty cổ phần đầu tư và phát triển công nghệ mơi trường Bình Phước (gọi tắt là
bên mua bảo hiểm) và Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (gọi tắt là doanh
nghiệp bảo hiểm) do Công ty bảo hiểm Petrolimex – chi nhánh Bình Dương ký hợp
đồng bảo hiểm số 13/BDU/BPH/3120/00013. Nội dung doanh nghiệp bảo hiểm
đồng ý nhận bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm toàn bộ máy móc thiết bị, nhà cửa, vật
kiến trúc… trong đó bao gồm hệ thống lị đốt rác sinh hoạt. Phí bảo hiểm cho toàn
bộ tài sản trên là 33.256.636 đồng (ba mươi ba triệu hai trăm năm mươi sáu nghìn
sáu trăm ba mươi sáu đồng). Thời gian bảo hiểm từ 16 giờ ngày 18/3/2013 đến 16
giờ ngày 18/3/2014. Giá trị bảo hiểm cho toàn bộ hợp đồng 7.200.000.000đồng
(bảy tỷ hai trăm triệu đồng). Lúc 22 giờ ngày 11/10/2013 xảy ra sự kiện cháy, nổ
gây thiệt hại cho toàn bộ hệ thống lị đốt rác. Sau khi có kết luận của cơ quan
chun mơn, bên mua bảo hiểm đã có văn bản và gửi toàn bộ hồ sơ cho doanh
nghiệp bảo hiểm yêu cầu bồi thường. Ngày 21/01/2014 doanh nghiệp bảo hiểm có
văn bản từ chối bồi thường với nhiều lý do khác nhau. Tuy nhiên, lý do chính của
doanh nghiệp bảo hiểm cho rằng: “Hệ thống lò đốt rác sinh hoạt được đưa vào sử
dụng nhiều năm, quá trình đốt rác sinh hoạt được duy trì liên tục trong suốt thời
gian vận hành đến thời điểm xảy ra vụ nổ. Việc bị tác động nhiệt mạnh trong thời
gian dài và liên tục làm lò bị giảm khả năng chịu nhiệt, chịu lực và độ bền của lị,
dẫn đến nóc trụ lị đốt rác bị sập xuống, gây tiếng động như tiếng nổ…”, phía



9

doanh nghiệp bảo hiểm cho rằng đây là hao mòn tự nhiên và không thuộc trường
hợp được bảo hiểm, từ đó dẫn đến khơng chấp nhận bồi thường.
Kết quả giải quyết của Tịa án: Chấp nhận tồn bộ u cầu khởi kiện của bên
mua bảo hiểm, buộc doanh nghiệp bảo hiểm phải thanh tốn cho bên mua bảo hiểm
tồn bộ số tiền bồi thường là 5.750.283.000đồng (năm tỷ bảy trăm năm mươi triệu
hai trăm tám mươi ba nghìn đồng).
Qua kết quả giải quyết vụ việc tranh chấp tác giả nhận thấy:
Xét về quan hệ pháp luật: Đây là tranh chấp hợp đồng bảo hiểm liên quan
đến cháy, nổ.
Tranh chấp giữa Công ty cổ phần đầu tư và phát triển công nghệ mơi trường
Bình Phước và Tổng cơng ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), được xác định
là tranh chấp về đối tượng của hợp đồng bảo hiểm đã được bên mua bảo hiểm và
doanh nghiệp bảo hiểm ký kết khi tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, doanh nghiệp bảo
hiểm không đồng ý bồi thường vì cho rằng đối tượng là lị đốt rác khơng được bảo
hiểm và ngun nhân hao mịn khơng thuộc trường hợp bồi thường bảo hiểm.
Về đánh giá chứng cứ: Việc đánh giá chứng cứ trong vụ việc trên không mấy
phức tạp, hầu hết các chứng cứ đã rõ ràng, cụ thể là đối tượng của hợp đồng bảo
hiểm. Đối tượng mà bên mua bảo hiểm yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi
thường là lò đốt rác và đối tượng này được ghi nhận tại hợp đồng bảo hiểm.
Điểm cần chú ý trong tranh chấp chính là giá trị được bảo hiểm tại thời điểm
tham gia bảo hiểm, giá trị bảo hiểm cho lò đốt rác khi tham gia bảo hiểm được xác
định hơn 7 tỷ đồng, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm bên mua bảo hiểm chỉ yêu cầu
doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hơn 5 tỷ đồng. Qua vụ việc trên thấy rằng: khi
giải quyết các tranh chấp liên quan đến đối tượng trong hợp đồng bảo hiểm, người
tiến hành tố tụng cần lưu ý trong việc đánh giá các chứng cứ liên quan đến giá trị tài
sản là đối tượng tại thời điểm tham gia bảo hiểm. Giá trị tài sản tại thời điểm xảy ra

sự kiện bảo hiểm để có thể xem xét nhận định; chấp nhận hoặc không chấp nhận
yêu cầu của bên mua bảo hiểm, hoặc tuyên buộc doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường
bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm một cách phù hợp nhất. Trong vụ việc trên bên
mua bảo hiểm chỉ yêu cầu hơn 5 tỷ, đây là yêu cầu tương đối phù hợp. Trường hợp
bên mua bảo hiểm u cầu 7 tỷ thì việc Tịa án chấp nhận hay không chấp nhận là
vấn đề cũng cần phải bàn luận.


10

Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, trước khi tiến hành ký kết hợp đồng hoặc
trước khi ra thông báo chấp nhận bảo hiểm, cần chú ý đến giá trị thực tế của đối
tượng bảo hiểm. Trường hợp không tiến hành đánh giá, thẩm định được giá trị tại
thời điểm tham gia giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có thể gặp
phải những rủi ro, đặc biệt rủi ro liên quan đến hành vi trục lợi bảo hiểm từ bên mua
bảo hiểm.
Về căn cứ áp dụng pháp luật khi giải quyết tranh chấp: Việc áp dụng pháp
luật khi giải quyết tranh chấp của những người tiến hành tố tụng là phù hợp. Người
tiến hành tố tụng đã áp dụng đúng quy định về pháp luật chuyên ngành, cụ thể là
Luật Kinh doanh bảo hiểm để lập luận, xem xét và đánh giá chứng cứ một cách
khoa học: người tiến hành tố tụng đã áp dụng Điều 14 và Điều 15 Luật Kinh doanh
bảo hiểm để nhận định về hình thức cũng như thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp
đồng bảo hiểm giữa các bên. Ngoài ra, tại cấp sơ thẩm người tiến hành tố tụng còn
lập luận, nhận định về điều khoản được quy định tại Khoản 1 Điều 13 hay Khoản 2
Điều 16 Luật Kinh doanh bảo hiểm để bác bỏ quan điểm của doanh nghiệp bảo
hiểm về trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm đối với bên mua bảo hiểm. Từ
nhận định và áp dụng các quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm một cách phù
hợp, đánh giá những mâu thuẫn một cách khách quan, khoa học các vấn đề giữa
doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm đang có tranh chấp, từ đó giải quyết
được tranh chấp một cách đúng đắn, mang lại sự đồng tình cao. Đây cũng là bài học

kinh nghiệm giúp cho các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng bảo hiểm hiểu
đúng bản chất của quan hệ hợp đồng bảo hiểm.
Đối với người tiến hành tố tụng: Khi người tiến hành tố tụng đánh giá chứng
cứ và áp dụng pháp luật một cách phù hợp để giải quyết tranh chấp sẽ nâng cao chất
lượng xét xử, đáp ứng được nhiệm vụ trọng tâm do ngành Tòa án đặt ra. Đồng thời,
với kết quả giải quyết vụ án như trên, ngành Tịa án có thể xem xét sử dụng bản án
làm án lệ cho những quan hệ tranh chấp hợp đồng bảo hiểm có liên quan đến đối
tượng bảo hiểm cháy, nổ.
Ngồi ra, năm 2016 Tịa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một còn thụ lý và
giải quyết “tranh chấp hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ” giữa Công ty Trách nhiệm hữu
hạn Ninh Sơn và Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Bảo Minh.


11

Nội dung vụ án: Ngày 22/12/2014, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ninh Sơn
và công ty Bảo Minh chi nhánh Bình Dương ký hợp đồng bảo hiểm số PFA
00822021. Nội dung hợp đồng là bảo hiểm cháy nổ bắt buộc mở rộng các rủi ro. Tài
sản được bảo hiểm là 04 nhà kho của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ninh Sơn Ninh
Sơn tổng diện tích 2.420,8m2. Số tiền được bảo hiểm là 3.300.000.000 đồng (Ba tỷ
ba trăm triệu đồng). Thời gian bảo hiểm từ ngày 22/12/2014 đến ngày 22/12/2015.
Ngày 03/3/2015, xảy ra sự cố cháy các kho A, B. Ngày 05/3/2015 cơ quan chuyên
môn khám nghiệm hiện trường, đồng thời có kết luận về nguyên nhân dẫn đến sự cố
cháy nổ tại 02 kho A và B là do sự cố chập điện trên kho B. Ngày 03/3/2015, khi
phát sinh sự kiện cháy Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ninh Sơn Ninh Sơn có thơng
báo tổn thất cho Bảo Minh thông qua công văn ngày 04/3/2015. Tuy nhiên, doanh
nghiệp bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ bồi thường với lý do:
Hợp đồng bảo hiểm giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ninh Sơn và Bảo
Minh là bảo hiểm tài sản thuộc nghiệp vụ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc theo quy định
tại Thông tư số 220/210/TT của Bộ tài chính. Theo quy định tại Điểm a Khoản 2

Điều 6 của Thông tư số 220 quy định “Trường hợp đối tượng được bảo hiểm là tài
sản thì số tiền bảo hiểm là giá trị tính thành tiền theo giá trị còn lại hoặc giá trị
thay thế mới của tài sản tại thời điểm tham gia bảo hiểm do doanh nghiệp tham gia
bảo hiểm và bên mua bảo hiểm thỏa thuận”. Theo Thông tư 220, số tiền bảo hiểm là
giá trị tính thành tiền theo giá trị cịn lại hoặc giá trị thay thế mới. Căn cứ theo biên
bản giám định ngày 03/12/2015 thì giá trị cịn lại của kho A và B là 210.610.400
đồng. Về căn cứ để tính giá trị khơi phục lại trong vịng 06 tháng kể từ ngày xảy ra
sự cố Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ninh Sơn phải thông báo kế hoạch khắc phục
thay thế hoặc phục hồi. Do đó Cơng ty Trách nhiệm hữu hạn Ninh Sơn phải thực
hiện khôi phục hiện trạng trong thời gian 12 tháng tính từ ngày 03/3/2015 đến
03/3/2016. Theo công văn số 286/TB-NS-BM ngày 28/6/2016, Công ty Trách
nhiệm hữu hạn Ninh Sơn thông báo kế hoạch dự kiến khởi công xây dựng lại các
kho A, B, C và C2 từ ngày 01/7/2016 và theo giấy phép xây dựng 1808-GPXDSXD tỉnh Bình Dương cấp ngày 28/8/2016 vì vậy đã vượt quá thời gian quy định
khắc phục kho A và B.
Đồng thời, theo như công văn mà Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ninh Sơn
gửi cho Bảo Minh thì tổn thất chỉ có tại kho A và B mà khơng đề cập đến kho C và
C2. Căn cứ vào kết luận điều tra của cảnh sát phòng cháy chữa cháy tỉnh Bình


12

Dương vị trí cháy là kho A và B hồn tồn khơng đề cập đến C và C2. Doanh
nghiệp bảo hiểm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu
hạn Ninh Sơn đối với kho C và C2. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chấp nhận bồi
thường theo giá trị còn lại của nhà xưởng A và B với số tiền là 210.610.400 đồng.
Kết quả giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm: Chấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện của bên mua bảo hiểm là Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ninh Sơn buộc
doanh nghiệp bảo hiểm là Tổng Cơng ty Cổ phần Bảo Minh có nghĩa vụ bồi thường
cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ninh Sơn số tiền 1.962.162.163đ do cháy kho A
và B.

Không chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Ninh Sơn đối với công ty cổ phần Bảo Minh đối với kho C và C2 với số tiền
1.337.837.837đ.
Vụ việc đã bị kháng cáo theo trình tự thủ tục phúc thẩm. Sau khi xem xét yêu
cầu kháng cáo của các bên tham gia tố tụng, Tòa án cấp phúc thẩm quyết định tuyên
giữ y án sơ thẩm.
Từ quan hệ tranh chấp giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ninh Sơn và Tổng
công ty cổ phần bảo hiểm Bảo Minh thấy rằng: khi ký hợp đồng bảo hiểm các bên
khơng xác định cụ thể về diện tích từng kho, giá trị bảo hiểm của từng kho. Do đó
khi phát sinh sự kiện bảo hiểm rất khó xác định được mức độ thiệt hại cho từng kho,
để có mức bồi thường phù hợp.
Về đường lối giải quyết vụ việc: cả hai cấp xét xử thống nhất trong việc áp
dụng pháp luật và quan điểm giải quyết án, cả hai cấp đều nhận định và áp dụng
Điều 13 của Luật Kinh doanh bảo hiểm để nhận định về hình thức hợp đồng bảo
hiểm. Ngồi ra, cấp sơ thẩm cịn đề cập đến nội dung điều khoản thỏa thuận về thời
hạn, phương thức trả tiền hoặc bồi thường và quy định về giải quyết tranh chấp
trong hợp đồng để nhận định cho việc giải quyết án.
Bên cạnh đó, việc áp dụng quy định tại Điều 47 Luật Kinh doanh bảo hiểm,
Điều 15 Thông tư 220/2010/TT-BTC ngày 30/12/2010 để lập luận về bồi thường là
phù hợp. Tuy nhiên, bất cập trong vụ việc trên cần quan tâm chính là đối tượng bảo
hiểm, cụ thể là diện tích từng kho, giá trị bảo hiểm của từng kho cũng được những
người tiến hành tố tụng nhận định và làm rõ, cụ thể là dựa trên lời khai của các bên
về kết cấu của các kho giống nhau, chỉ khác nhau về diện tích. Căn cứ điểm c


13

Khoản 2 Điều 17, điểm d Khoản 1 Điều 18 Luật Kinh doanh bảo hiểm. Do đó cả hai
cấp xét xử đã chấp nhận yêu cầu của bên mua bảo hiểm đối với thiệt hại 02 kho A
và B.

Như vậy, qua kết quả giải quyết của hai cấp xét xử đối với vụ việc có tranh
chấp tác giả nhận thấy:
Xác định quan hệ pháp luật các bên tranh chấp là tranh chấp hợp đồng bảo
hiểm, cụ thể là đối tượng đã tham gia bảo hiểm, giá trị thiệt hại cũng như mức bồi
thường bảo hiểm.
Nguyên nhân dẫn đến việc tranh chấp là do các bên không thống nhất về
phương án bồi thường, mức thỏa thuận bồi thường và đối tượng phải được bồi
thường trong hợp đồng bảo hiểm. Như vậy, khi giải quyết vụ án trên cần phải xác
định được đối tượng được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm. Lý do tại sao cần
phải xác định đối tượng của hợp đồng bảo hiểm, nguyên nhân khi tiến hành giao kết
hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ các doanh nghiệp bảo hiểm đã xem xét và tính tốn
mức phí cho tồn bộ các tài sản mà bên mua bảo hiểm tham gia bảo hiểm. Tuy
nhiên, doanh nghiệp bảo hiểm thường ghi nhận, mơ tả một cách khái qt những tài
sản, ví dụ như: hợp đồng bảo hiểm được bảo hiểm cho nhà xưởng, cơng trình kiến
trúc của bên mua bảo hiểm… mà không thể hiện cụ thể, chi tiết cho từng đối tượng
nhà xưởng là những nhà xưởng nào, cơng trình là cơng trình gì, đặc điểm cụ thể đã
được doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm, số tiền bảo hiểm cho từng tài sản
là bao nhiêu. Tại thời điểm tham gia giao kết thì giá trị cịn lại là bao nhiêu. Khi xảy
ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra rất nhiều lý do nhằm từ chối
trách nhiệm bảo hiểm, trong đó có việc khơng thừa nhận tài sản của bên mua bảo
hiểm tham gia thuộc đối tượng được bảo hiểm. Bài học kinh nghiệm cho người tiến
hành tố tụng trong vụ việc trên là cần đánh giá cụ thể, chi tiết các đối tượng tham
gia bảo hiểm, giá trị bảo hiểm và đối tượng bị thiệt hại khi phát sinh sự kiện bảo
hiểm, khi đánh giá cần dựa trên sự thật khách quan tại thời điểm các bên tiến hành
giao kết hợp đồng. Trong vụ án này, cấp sơ thẩm đã đánh giá toàn diện về các
chứng cứ để chứng minh những đối tượng đã được bên mua bảo hiểm và doanh
nghiệp bảo hiểm thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, cũng như những đối tượng đã
bị thiệt hại khi phát sinh sự kiện bảo hiểm. Từ đó có cơ sở để cấp sơ thẩm chỉ chấp
nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bên mua bảo hiểm.



14

Nhìn từ góc độ của người nghiên cứu thấy rằng: khi xảy ra tranh chấp mà
một trong các bên có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp liên quan đến đối tượng
của hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ thì xác định; đây là tranh chấp hết sức phức tạp.
Để giải quyết tốt các vụ việc liên quan đến tranh chấp này cần có đội ngũ những
người tiến hành tố tụng, cụ thể như: thẩm phán, hội thẩm nhân dân, luật sư… phải
vừa hồng, vừa chuyên, am hiểu về lĩnh vực bảo hiểm để có thể đánh giá chứng cứ
một cách khách quan, tồn diện, khoa học từ đó có thể áp dụng các quy định cách
phù hợp, giải quyết tốt các mâu thuẫn do các bên tranh chấp, đặc biệt là tranh chấp
giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm… Góp phần kiện tồn hơn ngành
tư pháp, xây dựng mục tiêu chung về chiến lược cải cách tư pháp từ nay đến năm
2020. Bên cạnh đó cịn giúp cho các Tịa án có cách đánh giá chứng cứ một cách
thống nhất, khách quan, tránh tình trạng án bị hủy, sửa không do lỗi chủ quan của
người tiến hành tố tụng và làm cơ sở cho việc ban hành án lệ. Từng bước hoàn thiện
để thực hiện việc công khai bản án trên phương tiện thông tin đại chúng để mọi
ngành, mọi cấp, mọi tầng lớp có thể tiếp cận, nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho
các chủ thể khi tham gia vào hợp đồng bảo hiểm, hạn chế đến mức thấp nhất các
tranh chấp về bảo hiểm có thể xảy ra trong tương lai.
Như vậy, qua xem xét đánh giá các vụ việc được giải quyết thấy rằng: mặc
dù nguyên nhân dẫn đến tranh chấp là do các bên không thống nhất về đối tượng
trong hợp đồng bảo hiểm. Trong từng vụ việc cụ thể khi xảy ra tranh chấp giữa các
bên. Ngoài việc tranh chấp về đối tượng, thì về thời gian bồi thường bảo hiểm cũng
là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp, điển hình là vụ việc giữa: Công ty Trách nhiệm
hữu hạn thương mại dịch vụ Vũ Hằng và Tổng công ty cổ phần bảo hiểm
Petrolimex (PJICO).
Về nội dung: Ngày 27/7/2012, Công ty Trách nhiệm hữu hạn thương mại
dịch vụ Vũ Hằng (bên mua bảo hiểm) và Tổng Công ty Cổ Phần Bảo Hiểm
Petrolimex (gọi tắt là doanh nghiệp bảo hiểm) do Công ty Cổ Phần Bảo Hiểm

Petrolimex chi nhánh Bình Dương thực hiện có ký kết hợp đồng bảo hiểm hỏa hoạn
và các rủi ro đặc biệt số 12/BDU/BPH/3120/0036. Nội dung: doanh nghiệp bảo
hiểm đồng ý bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm là 900 tấn Điều thơ, 60 tấn Điều
nhân. Phí bảo hiểm cho toàn bộ hợp đồng là 12.555.000đồng (mười hai triệu năm
trăm năm mươi lăm nghìn đồng). Thời hạn bảo hiểm từ ngày 27/7/2012 đến ngày
27/10/2012. Mức bồi thường bảo hiểm là 27.900.000.000đồng (hai mươi bảy tỷ


15

chín trăm triệu đồng). Ngày 07/8/2012, xảy ra sự kiện cháy tại kho chứa hàng nông
sản của Công ty Trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ Vũ Hằng. Hậu quả làm
thiệt hại toàn bộ số tài sản là hạt điều thơ, hạt điều nhân khoảng trên 1200 tấn, trong
đó có 194 tấn Điều thơ và 17 tấn Điều nhân đã thế chấp cho Ngân hàng thương mại
cổ phần Kỹ Thương Việt Nam. Sau khi cơ quan Công an bàn giao lại kho hàng,
phía Cơng ty Trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ Vũ Hằng đã nhiều lần có
văn bản đề nghị phía cơng ty bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ bồi thường nhưng phía
cơng ty bảo hiểm khơng thực hiện với lý do: chưa có kết luận về nguyên nhân dẫn
đến thiệt hại có thuộc trách nhiệm bảo hiểm của Tổng Công ty Cổ Phần Bảo Hiểm
Petrolimex không? Như vậy, tranh chấp giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn thương
mại dịch vụ Vũ Hằng và Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex là tranh chấp
liên quan đến thời hạn trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường theo Điều 29 Luật Kinh
doanh bảo hiểm.
Qua xem xét đánh giá tồn bộ các chứng cứ và tài liệu, Tịa án cấp sơ thẩm
giải quyết chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bên mua bảo hiểm là Công ty
Trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ Vũ Hằng, buộc doanh nghiệp bảo hiểm
Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex phải thanh tốn cho Cơng ty Trách
nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ Vũ Hằng số tiền bảo hiểm là
32.204.555.000đồng (ba mươi hai tỷ hai trăm lẽ bốn triệu năm trăm năm mươi lăm
nghìn đồng).

Khơng đồng ý với quyết định giải quyết của cấp sơ thẩm, doanh nghiệp bảo
hiểm kháng cáo. Kết quả giải quyết cấp phúc thẩm quyết định giữ nguyên mức bồi
thường như sơ thẩm đã tuyên, chỉ sửa về việc tính tốn số liệu liên quan đến phần
lãi suất.
Qua hai cấp giải quyết vụ việc tranh chấp tác giả nhận thấy: Nguyên nhân
xảy ra tranh chấp là do Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex chậm bồi thường
bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra lý do của việc chậm bồi thường bởi lý do
chưa có kết luận cuối cùng về nguyên nhân gây cháy từ cơ quan điều tra có thẩm
quyền.
Theo quy định pháp luật, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường và không thuộc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm. Doanh
nghiệp bảo hiểm phải bồi thường bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm, đây là nghĩa vụ


16

của doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên, khi phát sinh sự kiện bảo hiểm, không phải
doanh nghiệp bảo hiểm nào cũng tiến hành bồi thường ngay cho bên mua bảo hiểm.
Lý do của việc chậm thực hiện nghĩa vụ bồi thường có thể doanh nghiệp bảo hiểm
cố tình chiếm dụng vốn, hoặc có thể cần một quyết định cuối cùng của Tịa án mới
tiến hành bồi thường, với mục đích hợp thức hóa chứng từ tài chính. Từ rất nhiều lý
do, trong đó có lý do chưa tìm được ngun nhân gây cháy để chậm trể việc bồi
thường. Trong vụ việc tranh chấp trên, mặc dù doanh nghiệp bảo hiểm thống nhất
được mức bồi thường nhưng chưa bồi thường vì cho rằng chưa tìm ra nguyên nhân
gây cháy. Như vậy, việc doanh nghiệp bảo hiểm nại ra rằng chưa có kết luận cuối
cùng về nguyên nhân gây cháy để chậm thanh toán tiền bảo hiểm cho bên mua bảo
hiểm là chưa phù hợp, làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của bên mua bảo
hiểm. Do đó, khi giải quyết vụ việc hai cấp xét xử đã áp dụng Điều 577 Bộ luật Dân
sự năm 2005; Điểm e khoản 1 Điều 17 và Điều 49 Luật Kinh doanh bảo hiểm để
tuyên buộc Tổng công ty cổ phần bảo hiểm PJICO bồi thường cho Công ty Trách

nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ Vũ Hằng là phù hợp. Đồng thời cũng đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của Tổng cơng ty cổ phần bảo hiểm PJICO là có quyền
khởi kiện vụ án khác để yêu cầu bồi thường khi có kết quả xác định được đối tượng
gây ra vụ việc cháy. Việc giải quyết vụ việc của hai cấp đối với vụ án trên là phù
hợp, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ giao kết
hợp đồng bảo hiểm nhưng cũng không làm mất đi quyền yêu cầu của doanh nghiệp
bảo hiểm đối với người thứ ba.
Qua nghiên cứu, phân tích một số vụ việc đã được hai cấp Tòa án giải quyết,
tác giả nhận thấy: việc cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết các tranh chấp liên quan
đến đối tượng hợp đồng bảo hiểm hay tranh chấp liên quan đến việc thời gian bồi
thường bảo hiểm một cách kịp thời sẽ hạn chế đến mức thấp nhất những bức xúc
kéo dài của người tham gia tố tụng.
Đối với người tiến hành tố tụng, khi áp dụng pháp luật một cách phù hợp để
xem xét giải quyết các vụ việc có tranh chấp sẽ hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ án
bị hủy, sửa không do lỗi chủ quan của người tiến hành tố tụng.
Đối với người tham gia bảo hiểm: khi tham gia ký kết các hợp đồng bảo
hiểm cháy, nổ các bên cần ghi nhận chi tiết từng đối tượng được bảo hiểm, thời gian
bồi thường bảo hiểm nếu phát sinh sự kiện bảo hiểm, hậu quả pháp lý của việc


17

không ghi nhận hoặc ghi nhận không đầy đủ của doanh nghiệp bảo hiểm khi chấp
nhận bảo hiểm.
1.3. Kiến nghị
Về công tác tuyên truyền, cần thường xuyên tuyên truyền, đôn đốc nhắc nhở
tất cả các tầng lớp nhân dân nghiêm chỉnh chấp hành quy định về an tồn phịng
cháy chữa cháy, đặc biệt tại các nhà máy, xí nghiệp, cơ sở dễ xảy ra cháy, nổ. Tổ
chức tốt công tác thường trực, diễn tập về phòng cháy chữa cháy, tuần tra canh gác
để kịp thời phát hiện và dập tắt đám cháy ngay từ khi mới phát sinh.

Về công tác ban hành và áp dụng luật: Luật Kinh doanh bảo hiểm ra đời cách
nay đã hơn 10 năm ít nhiều đã bộc lộ nhiều bất cập và hạn chế. Hạn chế có thể dễ
nhìn thấy là những quy định liên quan đến đối tượng của hợp đồng bảo hiểm, cụ thể
là chưa tiên lượng những đối tượng được tham gia và được chấp nhận bảo hiểm,
chưa quy định rõ về quy trình đánh giá, khai thác và kinh doanh bảo hiểm. Vì vậy,
về pháp luật cần sửa đổi Luật Kinh doanh bảo hiểm theo hướng hoàn thiện hơn về
đối tượng khi tham gia hợp đồng bảo hiểm.
Đối với loại hình cháy, nổ bắt buộc theo danh mục cơ sở có nguy hiểm về
cháy, nổ10 cần có văn bản cụ thể liệt kê đối tượng bảo hiểm, văn bản này có thể ban
hành tương tự như bộ quy tắc bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc. Khi quy định chi tiết và
cụ thể hóa trong những văn bản dưới luật về đối tượng nào phải tham gia bảo hiểm
cháy, nổ bắt buộc thì sẽ hạn chế tranh chấp về đối tượng đã tham gia bảo hiểm giữa
bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm.
Đối với loại hình bảo hiểm tự nguyện, khi các bên tham gia ký kết hợp đồng
cần phải có thỏa thuận và ghi nhận rõ trong hợp đồng về đối tượng tham gia bảo
hiểm. Việc các bên không ghi nhận rõ đối tượng tham gia bảo hiểm trong hợp đồng
bảo hiểm, dễ dẫn đến tình trạng khi bên mua bảo hiểm lâm vào tình trạng thua lỗ sẽ
tham gia bảo hiểm để trục lợi bảo hiểm. Nguyên nhân bên mua bảo hiểm sau khi
tham gia bảo hiểm, có thể tạo ra một sự kiện bảo hiểm và khi có sự kiện bảo hiểm
xảy ra, bên mua bảo hiểm yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường bảo hiểm và
số tiền bồi thường từ doanh nghiệp bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm là một khoản
10

Thông tư liên tịch số 214/2013/TTLT-BTC-BCA ngày 31/12/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều
của Nghị định số 130/2006/NĐ-CP ngày 08/11/2006 và Nghị định số 46/2012/NĐ-CP ngày 22/5/2012 quy
định chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc.


18


tiền không nhỏ đối với bên mua bảo hiểm tại thời điểm bên mua bảo hiểm bị thua
lỗ. Như vậy, trường hợp không đánh giá đầy đủ đối tượng tham gia bảo hiểm cũng
như giá trị tài sản thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ gặp phải việc trục lợi bảo hiểm của
bên mua bảo hiểm. Đặc biệt cần lưu ý đến đối tượng tham gia bảo hiểm mà có sự
thay đổi về số lượng hoặc chất lượng, đối với những đối tượng này cần ghi nhận cụ
thể về chất lượng, chủng loại để đảm bảo cho doanh nghiệp bảo hiểm khi bảo hiểm.
Cần quy định rõ về đối tượng đăng ký khi ký kết hợp đồng bảo hiểm. Trường
hợp không ghi nhận cụ thể thì áp dụng ngun tắc có lợi cho bên mua bảo hiểm để
buộc doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường toàn bộ cho bên mua bảo hiểm11.
Cần quy định việc giám định, thẩm định tài sản để đánh giá giá trị của đối
tượng khi tham gia bảo hiểm nhằm thể hiện tính minh bạch khi ký kết hợp đồng,
đây là nguyên tắc cần có của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm. Trường hợp
những đối tượng đã được quy định cụ thể là cần đánh giá trước khi tham gia bảo
hiểm, nhưng không được doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện thì khi có sự kiện bảo
hiểm xảy ra đối với những đối tượng này doanh nghiệp bảo hiểm phải có trách
nhiệm bồi thường. Thực hiện tốt nguyên tắc trên sẽ hạn chế được các tranh chấp
giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm, thể hiện đúng bản chất của
doanh nghiệp bảo hiểm là đơn vị mua cái rũi ro cho bên mua bảo hiểm.
Đối với người tiến hành tố tụng, cần đánh giá một cách khách quan, toàn
diện các chứng cứ khi tham gia giải quyết các vụ việc có liên quan đến đối tượng
bảo hiểm. Cần áp dụng đúng quy định pháp luật chuyên ngành có liên quan để giải
quyết vụ việc, trong đó cần xem xét áp dụng quy định pháp luật về Luật Kinh doanh
bảo hiểm để giải quyết.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Tranh chấp về đối tượng trong hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ là một loại tranh
chấp phức tạp. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tranh chấp là do có sự mâu thuẫn
trong cách nhìn nhận và đánh giá chứng cứ liên quan đến đối tượng được bảo hiểm
trong hợp đồng bảo hiểm. Để tránh những tranh chấp giữa các bên và hạn chế số
lượng những vụ án do Tòa án thụ lý giải quyết, về nguyên tắc khi xác lập hợp đồng
bảo hiểm cháy, nổ các chủ thể khi tham gia ký kết hợp đồng cần phải bảo đảm

11

Điều 21 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000.


19

nguyên tắc minh bạch, công khai, rõ ràng và cụ thể. Trong trường hợp cần thiết phải
qua quy trình về thẩm định: thẩm định về số lượng, mô tả chi tiết về đặc điểm và
cần ghi nhận rõ về giá trị tài sản được bảo hiểm. Trong trường hợp có xảy ra tranh
chấp cần chú ý đến thời điểm xác lập hợp đồng, những quy định về pháp luật
chuyên ngành bảo hiểm và quy định pháp luật có liên quan để có quan điểm giải
quyết đúng đắn và tồn diện. Như vậy, bảo đảm được nhiệm vụ của ngành Tòa án là
cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân. Tránh tình trạng vì lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân hoặc vì luật chưa
điều chỉnh để có những nhận định một cách tùy tiện, dẫn đến những sai phạm khi
ban hành bản án, quyết định. Từ đó từng bước hồn thiện hệ thống ngành tịa án
nhầm đạt được nhiệm vụ trọng tâm của ngành Tòa án vào thời gian sắp tới là việc
công khai bản án trên phương tiện thông tin đại chúng.


20

CHƢƠNG 2
TRANH CHẤP VỀ THỜI HẠN ĐĨNG PHÍ, THỜI ĐIỂM PHÁT SINH HIỆU
LỰC CỦA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
2.1. Thời hạn đóng phí trong hợp đồng bảo hiểm
Thời hạn là khoảng thời gian có giới hạn nhất định để thực hiện một cơng
12


việc . Như vậy, thời hạn đóng phí trong hợp đồng bảo hiểm là khoảng thời gian mà
doanh nghiệp bảo hiểm ấn định để bên mua bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ đóng phí
hoặc do các bên tự thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Trường hợp hết thời hạn
đóng phí nếu bên mua bảo hiểm khơng thực hiện nghĩa vụ đóng phí, các bên khơng
có thỏa thuận khác thì khơng làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng. Trong thời hạn
thỏa thuận đóng phí, các bên cịn có thể thỏa thuận cả phương thức đóng phí. Việc
quy định về thời hạn đóng phí và phương thức đóng phí là điều khoản cần quy định
rõ trong nội dung của hợp đồng bảo hiểm vì sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của
các bên khi tham gia bảo hiểm. Đây là điều khoản dẫn đến tranh chấp mỗi khi sự
kiện bảo hiểm xảy ra, là lý do để nhiều doanh nghiệp bảo hiểm từ chối bồi thường
bảo hiểm. Việc quy định về thời gian đóng phí, phương thức đóng phí chưa được cụ
thể hóa trong luật mà thời gian và phương thức đóng phí chủ yếu là do các doanh
nghiệp bảo hiểm tự ấn định. Từ việc luật còn bỏ ngõ quy định về thời gian đóng phí
nên khi xảy ra tranh chấp, doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm thường
hiểu sai những quy định của pháp luật về hiệu lực của hợp đồng và thời điểm phát
sinh trách nhiệm bảo hiểm. Đây là nguyên nhân chính mà các bên có tranh chấp và
khó khăn khi Tịa án thụ lý giải quyết các vụ việc tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm
liên quan đến thời gian đóng phí bảo hiểm.
2.2. Quy định pháp luật về nghĩa vụ đóng phí, thời điểm phát sinh hiệu
lực của hợp đồng
Thời gian đóng phí là nội dung cần được ghi nhận cụ thể trong hợp đồng bảo
hiểm, vì phí chính là giá cả của sản phẩm mà bên mua phải trả để được bên bán
cung ứng cho sản phẩm phù hợp. Nói một cách khác phí bảo hiểm là khoản tiền mà
bên mua bảo hiểm phải có nghĩa vụ đóng cho doanh nghiệp bảo hiểm theo thời hạn

12

Từ điển Tiếng việt.



21

và phương thức do các bên thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm 13. Luật Kinh doanh
bảo hiểm không quy định về khoảng thời gian là bao lâu để bên mua bảo hiểm phải
thực hiện nghĩa vụ đóng phí, nhưng Luật Kinh doanh bảo hiểm lại quy định về thời
điểm phát sinh trách nhiệm bồi thường bảo hiểm. Mặt khác, trong những điều khoản
được quy định trong hợp đồng, thì phí bảo hiểm là một trong những nội dung khơng
thể thiếu và có mức ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực của hợp đồng. Tuy nhiên,
trong hợp đồng bảo hiểm thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng khác với thời
điểm phát sinh trách nhiệm bồi thường bảo hiểm.
Lý do có sự khác nhau giữa hai thời điểm của hợp đồng bảo hiểm ít nhiều có
liên quan đến thời gian đóng phí bảo hiểm. Các tranh chấp liên quan đến thời gian
đóng phí thường do doanh nghiệp bảo hiểm không chấp nhận yêu cầu bồi thường
của bên mua bảo hiểm, lý do các doanh nghiệp bảo hiểm từ chối bảo hiểm là do bên
mua bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ đóng phí trong thời gian thỏa thuận nhưng sau khi
sự kiện bảo hiểm xảy ra, hoặc trước khi sự kiện bảo hiểm xảy ra vài giờ. Ngoài ra,
trong một số vụ việc tranh chấp, doanh nghiệp bảo hiểm đã cấp giấy chứng nhận
bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm chưa
thực hiện nghĩa vụ đóng phí, nhưng thời gian để bên mua bảo hiểm thực hiện nghĩa
vụ đóng phí do các bên thỏa thuận trong hợp đồng vẫn còn. Đối với loại tranh chấp
này doanh nghiệp bảo hiểm từ chối việc bồi thường vì cho rằng bên mua bảo hiểm
chưa thực hiện nghĩa vụ đóng phí. Tuy nhiên, bên mua bảo hiểm cho rằng, doanh
nghiệp bảo hiểm đã cấp chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm và thời hạn thỏa
thuận đóng phí vẫn cịn, điều đó có nghĩa là doanh nghiệp bảo hiểm đã chấp nhận
cho bên mua bảo hiểm nợ phí bảo hiểm đến thời gian đó, khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm thì nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải bồi thường và bên mua bảo
hiểm vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đóng phí.
Theo quy định pháp luật các trường hợp phát sinh trách nhiệm bảo hiểm
gồm: Hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết và bên mua bảo hiểm đã đóng đủ phí
bảo hiểm; Hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết, trong đó có thỏa thuận giữa doanh

nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm về việc bên mua bảo hiểm được nợ phí bảo
hiểm; Có bằng chứng về việc hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết và bên mua bảo
hiểm đã đóng đủ phí bảo hiểm14 nhưng thực tế, hợp đồng bảo hiểm phát sinh hiệu
13

Khoản 11 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000.

14

Khoản 3 Điều 15 sửa đổi bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000.


×