Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Thực trạng giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng về lãi suất tại tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
------------

NGUYỄN THỊ BÍCH HỒNG

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP.HCM - 2010


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
VỀ LÃI SUẤT TẠI TỊA ÁN

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ BÍCH HỒNG
Khóa:
31
MSSV: 3120053
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN THANH TÚ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2010




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi. Các số liệu và
tham khảo là trung thực, chính xác và được trích dẫn đầy đủ.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả

Nguyễn Thị Bích Hồng


BẢNG DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS:

Bộ luật Dân sự

BLTTDS:

Bộ luật tố tụng Dân sự

HĐTD:

Hợp đồng tín dụng

NHNN:

Ngân hàng Nhà nước

NHTM:


Ngân hàng thương mại

TCTD:

Tổ chức tín dụng

TAND:

Tịa án nhân dân

TANDTC:

Tịa án nhân dân tối cao

TMCP:

Thương mại cổ phần

TP.HCM:

Thành phố Hồ Chí Minh


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG............................................................ 4
1.1 Lãi suất và tranh chấp hợp đồng tín dụng .................................................... 4

1.1.1 Lãi suất trong hợp đồng tín dụng ................................................................. 4
1.1.1.1 Khái quát về lãi suất tín dụng ngân hàng ..................................................... 4
1.1.1.2 Cơ chế điều hành lãi suất từ 1996 đến nay................................................... 8
1.1.1.3 Lãi suất cho vay trong mối quan hệ với lãi suất cơ bản và lãi suất huy động11
1.1.2 Tranh chấp hợp đồng tín dụng................................................................... 17
1.1.2.1 Khái quát về tranh chấp hợp đồng tín dụng................................................ 18
1.1.2.2 Tranh chấp hợp đồng tín dụng về lãi suất. ................................................. 21
1.2
Quy định pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
về lãi suất..................................................................................................................21
1.2.1 Cơ chế giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng về lãi suất. ...................... 22
1.2.1.1 Thương lượng ........................................................................................... 22
1.2.1.2 Hòa giải..................................................................................................... 22
1.2.1.3 Giải quyết tranh chấp bằng cơ chế tài phán................................................ 23
1.2.2 Thủ tục tố tụng đối với việc giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng về lãi
suất............................................................................................................................24
1.2.2.1 Thẩm quyền giải quyết tranh chấp............................................................. 24
1.2.2.2 Thời hiệu khởi kiện của tranh chấp hợp đồng tín dụng về lãi suất.............. 27
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1...................................................................................... 29
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG VỀ LÃI SUẤT TẠI TỊA ÁN ......................................................... 30
2.1
Tình hình tranh chấp hợp đồng tín dụng trong thời gian qua .............. 30
2.2
Tranh chấp hợp đồng tín dụng về lãi suất tại tòa án ............................. 32
2.2.1 Những điểm cần xem xét về lãi suất trong các quy định pháp luật thời gian
qua.............................................................................................................................32
2.2.2 Thực trạng giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng về lãi suất tại tòa án. . 39
2.2.2.1 Tranh chấp hợp đồng tín dụng về lãi suất cho vay ..................................... 40
2.2.2.2 Tranh chấp về lãi suất đối với khoản nợ quá hạn ....................................... 46

2.2.2.3 Một số vấn đề về phạt do vi phạm hợp đồng tín dụng................................ 55
2.3
Một số nhận xét ....................................................................................... 59
2.3.1 Nguyên nhân của tranh chấp hợp đồng tín dụng về lãi suất........................ 59
2.3.2 Kiến nghị .................................................................................................. 63
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2...................................................................................... 64
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 65


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cơ chế chính sách của nhà nước hiện nay tạo điều kiện cho tất cả các
cá nhân, tổ chức tham gia vào hoạt động kinh doanh; nhưng ngược lại, áp lực cạnh
tranh cũng từ đó mà nặng hơn. Doanh nghiệp ln phải cải thiện chất lượng, giảm
giá thành sản phẩm để cạnh tranh trên thị trường. Vì thế mà họ có nhu cầu cần vốn
kinh doanh, mở rộng sản xuất rất lớn. Họ tìm đến nguồn vốn của ngân hàng như
một điều tất yếu. Song, với việc ngân hàng luôn là bên chủ động trong việc quyết
định mức lãi suất thì quyền quyết định việc cho vay đã phần nào buộc các doanh
nghiệp vào thế bị động. Doanh nghiệp nhỏ và vừa dễ bị đặt vào tình thế bị “ép” mức
lãi suất. Nhu cầu cần vốn khiến các doanh nghiệp này đành phải chấp nhận những
mức lãi suất gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của mình, khả năng khơng trả
được nợ và phá sản bởi sức ép của khoản gốc vay và trả lãi là rất cao. Chính vì thế
có thể nói hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp chịu tác động rất lớn của
chính sách tiền tệ ngân hàng. Ở một giới hạn nhất định, các bên đều có gắng hịa
hợp “cùng có lợi”, nhưng nếu mức lãi suất cứ tiếp tăng thêm thì sẽ là quá sức chịu
đựng cho các doanh nghiệp nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Hậu quả tất
yếu là hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, của ngân hàng đều bị ảnh hưởng:
Những người có tiền sẽ khơng muốn đầu tư, vì mức độ rủi ro cao mà lợi nhuận thu
về chưa chắc đã hơn việc gửi tiết kiệm ngân hàng. Doanh nghiệp đã chấp nhận vay
vốn thì gồng mình “gánh” khoản nợ ngân hàng hoặc lại cố tình “chạy nợ”. Ngân

hàng có vốn nhưng lại khơng thể đầu tư hiệu quả nguồn vốn đó, những khoản nợ đã
cấp tín dụng ngân hàng gặp khó khăn trong việc thu hồi nợ gốc và lãi. Điều tất yếu
cũng sẽ đến đó là việc phát sinh những tranh chấp HĐTD nói chung và HĐTD về
lãi suất nói riêng .
Năm 2010 Nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản chuyên ngành tín
dụng điều chỉnh trực tiếp vấn đề thỏa thuận lãi suất như Thơng tư 12/2010/TTNHNN, Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12, Luật Ngân hàng Nhà nước số
46/2010/QH12… Theo những quy định mới này thì lãi suất được đưa về cơ chế
thỏa thuận, tự điều chỉnh giữa các bên trong HĐTD. Cơ chế này mở ra một thời kỳ
cạnh tranh mới trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng hiện nay. Với quy
định này, các ngân hàng là người chủ động trong việc quyết định mức lãi suất cho
vay, lãi suất huy động và chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng, góp phần hạn
chế rủi ro. Nhưng chính những quy định này cũng đã gây nhiều tranh luận trong
giới chun mơn và những người nghiên cứu: có những câu hỏi được đặt ra đó là
liệu cơ chế điều chỉnh lãi suất mới này có gì khác với cơ chế điều chỉnh lãi suất
1


trước đây? Những quy định mới của Ngân hàng Nhà nước có thể phần nào giảm
thiểu được những bất cập đang tồn tại trong các quy định về lãi suất và hạn chế
được tranh chấp HĐTD về lãi suất đã và đang xảy ra như hiện nay hay không?
Thực tế cho thấy số lượng cũng như tính chất phức tạp của những tranh chấp
HĐTD nói trên đang khơng ngừng tăng lên. Có những vụ tranh chấp về HĐTD
tưởng như rất đơn giản nhưng lại do chính sự khơng thống nhất trong quan điểm xét
xử của Tòa án (chủ yếu phần quyết định về lãi suất) đã khiến cho vụ án kéo dài gây
lãng phí về thời gian cũng như tiền bạc, công sức của các bên trong tranh chấp và cả
của chính cơ quan xét xử tranh chấp.
Nhận thấy ảnh hưởng lớn của chính sách lãi suất đối với nền kinh tế và xuất
phát từ thực trạng giải quyết tranh chấp HĐTD trong thời gian qua, tác giả đã quan
tâm và quyết định lựa chọn đề tài “Thực trạng giải quyết tranh chấp hợp đồng
tín dụng về lãi suất tại Tịa án” cho khóa luận tốt nghiệp của mình.

2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những kiến thức lý luận về lãi suất và việc phân tích cơ chế điều
hành lãi suất trong thời gian vừa qua, đề tài chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong
hành lang pháp lý điều chỉnh vấn đề lãi suất, gây khó khăn cho việc áp dụng trong
thực tế. Khóa luận cũng xem xét quan điểm, cách giải quyết trong những bản án để
thấy được sự khác biệt trong việc vận dụng quy định pháp luật để giải quyết tranh
chấp HĐTD về lãi suất của các tòa địa phương khác nhau, trong từng tòa án ở
những thời điểm khác nhau. Từ việc xem xét thực trạng giải quyết tranh chấp
HĐTD về lãi suất, đề tài chỉ ra một số nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh tranh
chấp và đưa ra những kiến nghị (mà tác giả cho rằng phù hợp) để khắc phục sự gia
tăng số lượng các tranh chấp về lãi suất trong HĐTD.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề lãi
suất, đặc biệt là các quy định về lãi suất cho vay, lãi suất quá hạn; làm rõ sự mâu
thuẫn giữa các quy định pháp luật chung trong Bộ luật Dân sự 2005 với những quy
định pháp luật chuyên ngành ngân hàng về lãi suất. Khóa luận cũng tập trung đi sâu
vào việc bình luận, phân tích những bản án có tranh chấp về vấn đề lãi suất mà tác
giả tập hợp được trong thời gian vừa qua.
Khóa luận chủ yếu trình bày, xem xét cơ chế điều hành lãi suất và những văn
bản pháp luật điều chỉnh vấn đề lãi suất từ năm 1996 trở lại đây (giai đoạn Ngân
hàng Nhà nước tiến hành xóa bỏ lãi suất sàn, thực hiện tự do lãi suất đầu vào của

2


ngân hàng thương mại và linh hoạt trong cơ chế trần lãi suất cho vay trong hoạt
động cho vay ngắn hạn, trung- dài hạn). Việc phân tích, nhìn nhận thực trạng tranh
chấp HĐTD về lãi suất cũng chỉ dừng lại ở những tranh chấp có sự tham gia của
một bên là ngân hàng chứ không mở rộng ở chủ thể là Tổ chức tín dụng1. Khóa luận
thực hiện việc phân tích, bình luận những bản án về tranh chấp lãi suất phát sinh

trong giai đoạn từ năm 2006 trở lại đây được đưa ra giải quyết tại một số Tòa án lớn
như TAND TP.Hà Nội, TAND TP. Đà Nẵng, TAND TP.Hồ Chí Minh, TAND tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu mà tác giả có điều kiện tìm hiểu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong q trình thực hiện khóa luận, tác giả sử dụng tổng hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ
yếu là thu thập số liệu (tình hình giải quyết tranh chấp, số tranh chấp HĐTD thụ lý,
phương thức giải quyết tranh chấp chủ yếu…), phương pháp thống kê, diễn dịch,
quy nạp, phân tích, so sánh, bình luận quy định pháp luật và những bản án có liên
quan.

1

Khoản 1 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp
thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín
dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mơ và quỹ tín dụng nhân dân.”

3


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
1.1 Lãi suất và tranh chấp hợp đồng tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng ngân hàng đã có những
bước phát triển trở thành hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Các bên khi tham gia vào quan hệ tín dụng được tự do
trao đổi, thỏa thuận với nhau trong giới hạn những gì mà pháp luật không cấm. Sự
thỏa thuận ấy được ghi nhận và đảm bảo thông qua HĐTD giữa ngân hàng và khách
hàng. HĐTD là hợp đồng song phương, ghi nhận những thỏa thuận quan trọng liên

quan đến quá trình thực hiện và những biện pháp đảm bảo cho thỏa thuận của các
bên được tơn trọng thi hành. Cũng vì thế, HĐTD là cơ sở, biểu hiện pháp lý để cơ
quan có thẩm quyền tiến hành giải quyết những tranh chấp phát sinh giữa các bên.
Lãi suất là một trong những điều khoản quan trọng, điều khoản không thể thiếu
trong mỗi HĐTD2. Xuất phát từ việc lãi suất ảnh hưởng đến lợi ích của các bên
trong hợp đồng nên nó ln được hết sức lưu ý, quan tâm khi tiến hành thương
lượng và giao kết HĐTD. Về nguyên tắc, các bên trong quan hệ tín dụng được tự do
thỏa thuận, định đoạt lãi suất với điều kiện là sự thỏa thuận ấy không vượt quá
những giới hạn cho phép mà pháp luật quy định.
1.1.1 Lãi suất trong hợp đồng tín dụng
1.1.1.1 Khái qt về lãi suất tín dụng ngân hàng
Khái niệm
Khơng chỉ có ý nghĩa đối với lĩnh vực tín dụng ngân hàng, trong nền kinh tế
thị trường hiện nay cũng như đối với cuộc sống hàng ngày, lãi suất có phạm vi tác
động rất lớn. Sự tác động ấy không chỉ dừng lại ở những góc độ tiêu dùng, sinh hoạt
như việc các cá nhân xem xét lãi suất để có những quyết định liên quan đến việc chi
tiêu, mua nhà, mua xe… mà các doanh nghiệp cũng căn cứ trên lãi suất để xem xét
việc có nên hay khơng nên đầu tư vào cơ sở thiết bị máy móc cho sản xuất, mở rộng
kinh doanh. Chính vì thế lãi suất được xem là một vấn đề thời sự, được theo dõi
hàng ngày, cập nhập liên tục trên những phương tiện truyền thông.
Tùy theo phương thức tiếp cận mà lãi suất có thể hiểu dưới những mức độ
khác nhau: Lãi suất là phần thưởng cho người tiết kiệm tiền, lãi suất là giá trị thời

2

Điều 51 Luật Các tổ chức tín dụng 2004

4



gian của tiền tệ, là giá cả của quyền sử dụng một đơn vị vốn vay trong một đơn vị
thời gian, là một phần lợi nhuận trích ra để trả cho người cho vay…
Giá trị của đồng tiền thay đổi theo thời gian. Thông thường giá trị đồng tiền
ở thời điểm trước có giá trị hơn so với giá trị đồng tiền ở thời điểm sau này. Vì thế
để đảm bảo quyền lợi cho bên cho vay khi họ chuyển nhượng lại quyền sử dụng
phần vốn trong một thời gian cho bên vay thì cần có một phần giá trị để bù đắp
thêm cho phần vốn ban đầu. Nghĩa là ngoài phần vốn sẽ được hoàn trả sau thời gian
nhất định, bên cho vay sẽ còn nhận được phần giá trị mới. Phần giá trị này được coi
là để bù đắp cho giá trị thời gian của tiền tệ và nó mang tên là lãi suất.
Lãi suất cũng có thể được hiểu là “giá cả” của một thứ hàng hóa đặc biệt. Đó
là giá cả của hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng vốn, giá của việc sử dụng một
khoản tiền vay thuộc sở hữu của một chủ thể khác trong một thời gian nhất định.
Bên cho vay sẽ nhận được lãi suất từ việc cho vay tiền, từ sự hi sinh việc tiêu dùng
tiền trước mắt để nhận lại tiền muộn hơn.
Cũng từ nhiều phương thức tiếp cận mà lại có nhiều định nghĩa về lãi suất.
Suất theo âm Hán là một phần, và lãi suất là phần (suất) lãi trả tính trên đơn vị nào
đó3 hay có thể được định nghĩa là “Lãi suất là tỷ lệ phần trăm giữa lãi so với vốn”4.
Lãi suất cũng lại được định nghĩa “là khoản tiền bên vay, huy động vốn hoặc
bên thuê trả cho bên vay, đầu tư chứng khoán, gửi tiền hoặc bên cho thuê về việc sử
dụng vốn vay, vốn huy động hoặc tài sản cho thuê. Lãi được tính tốn căn cứ vào số
vốn, thời gian sử dụng vốn và lãi suất”5.
Hoạt động đặc thù của ngân hàng là đi vay để cho vay, yếu tố lợi nhuận ln
được đặt ra, chính vì thế ngân hàng cũng vừa có thể đóng vai trị là bên đi vay
(trong quan hệ tín dụng vay vốn với Ngân hàng Nhà nước, giữa các ngân hàng với
nhau, giữa ngân hàng với khách hàng), vừa đóng vai trị là bên cho vay (trong quan
hệ tín dụng cho vay với khách hàng hoặc với các ngân hàng khác). Sự thay đổi tư
cách chủ thể của ngân hàng dẫn đến việc hình thành nhiều loại lãi suất với tên gọi
khác nhau như lãi suất tiền vay, lãi suất tiền gửi, lãi suất tái cấp vốn…..
Một số cách phân loại lãi suất tín dụng ngân hàng phổ biến
Trong hoạt động của mình, ngân hàng tham gia vào mối quan hệ với khách

hàng trên cơ sở hoạt động vay và cho vay, quan hệ giữa các ngân hàng với Ngân
3

Ví dụ: % trong một năm
Viện ngơn ngữ hoc (2006), Từ điển Tiếng Việt , nhà xuất bản Đà Nẵng, tr.537.
5
Điều 2 khoản 1 Quy định phương pháp tính và hoạch tốn thu, trả lãi của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
và các tổ chức tín dụng Ban hành kèm theo Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17-5-2001 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước.
4

5


hàng Nhà nước trong hoạt động tái cấp vốn, quan hệ giữa các ngân hàng với nhau
trong thị trường liên ngân hàng… Với từng mối quan hệ khác nhau lại phát sinh
những loại lãi suất khác nhau.
Dựa theo tiêu chí quan hệ tín dụng, lãi suất tín dụng ngân hàng được chia thành6:

Lãi suất tiền gửi (lãi suất huy động): là lãi suất ngân hàng trả cho các
khoản tiền gửi vào ngân hàng, được tính bằng tỉ lệ phần trăm trên số tiền khách gửi
vào ngân hàng. Lãi suất tiền gửi đóng vai trị là một nguồn vốn bổ sung cho hoạt
động tín dụng của ngân hàng, lãi suất tiền gửi cao thì khả năng huy động vốn nhàn
rỗi từ thị trường lớn, điều này có hiệu quả rất lớn trong việc giảm thiểu lạm phát,
điều chỉnh khối lượng tiền mặt giao dịch ngồi thị trường, mặt khác cịn tăng khả
năng cạnh tranh giữa các nhân hàng với nhau. Chính vì thế nghiên cứu và điều
chỉnh lãi suất tiền gửi luôn là vấn đề được các ngân hàng quan tâm hàng đầu.

Lãi suất tiền vay là lãi suất mà người đi vay phải trả cho ngân hàng khi sử
dụng nguồn vốn do ngân hàng cấp cho. Lãi suất tín dụng ngân hàng cũng có nhiều

mức tuỳ theo loại hình vay (vay thương mại, vay trả góp, vay qua thẻ tín dụng…),
theo mức độ quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng (khách hàng tin cậy, khách
hàng thông thường), quy mô vay vốn, khả năng cung ứng nguốn vốn từ phía ngân
hàng, thời hạn vay, mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay và cũng như có thể phụ
thuộc cả vào sự thoả thuận giữa hai bên. Về nguyên tắc thì mức lãi suất tiền vay
bình quân sẽ phải cao hơn mức lãi suất tiền gửi bình quân.

Lãi suất chiết khấu: là loại loại lãi suất áp dụng khi ngân hàng trung gian
cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá
khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng và thỏa mãn các điều kiện chiết khấu
theo quy định. Nó được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá
và được khấu trừ ngay khi ngân hàng đưa tiền vay cho khách hàng. Mức chiết khấu
này phụ thuộc vào quan hệ cung- cầu vốn trên thị trường tín dụng, cũng phụ thuộc
vào chất lượng, loại giấy tờ có giá, thời hạn chiết khấu và chủ thể đem giấy tờ đi
chiết khấu.


Lãi suất tái chiết khấu: được áp dụng khi Ngân hàng Trung ương cho các

ngân hàng trung gian vay dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ
có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh tốn của các ngân hàng này. Nó cũng được tính
bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay
khi Ngân hàng Trung ương cấp tiền vay cho ngân hàng. Lãi suất tái chiết khấu do
Ngân hàng Trung ương ấn định căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu của chính sách tiền tệ
6

Học viện Ngân hàng (2005), Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng, Nxb Thống kê , tr.64.

6



trong từng thời kỳ và chiều hướng biến động lãi suất trên thị trường tiền tệ. Nó được
coi là cơ sở để kiểm soát và điều tiết sự biến động lãi suất trên thị trường đặc biệt là
mức lãi suất ngắn hạn.

Lãi suất cơ bản: Luật NHNN năm 1997 quy định lãi suất cơ bản “là lãi suất
do NHNN công bố làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh”7. Ở một
số nước lãi suất cơ bản có thể do chính bản thân ngân hàng tự xác định dựa trên căn
cứ là tình hình hoạt động cụ thể của bản thân (Mỹ, Anh…). Điều này cho thấy ở
một mức độ nào đấy, yếu tố thị trường được dùng làm căn cứ để hình thành lãi suất
cơ bản. Nhưng ở nước ta lãi suất cơ bản lại do chính Ngân hàng Nhà nước cơng bố
với mục đích là dùng làm cơ sở cho việc ấn định lãi suất của các TCTD. Từ khi ra
đời đến nay, lãi suất cơ bản chủ yếu được xác định trên cơ sở tham khảo lãi suất cho
vay thương mại tốt nhất của một nhóm ngân hàng (chiếm phần lớn thị trường tín
dụng) do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định8.
Luật Ngân hàng Nhà nước mới được ban hành ngày 16/6/2010 tuy không
trực tiếp định nghĩa về lãi suất cơ bản nhưng đã có sự thay đổi nội hàm lãi suất cơ
bản, thay đổi mục đích của lãi suất cơ bản theo hướng không công bố “trước” lãi
suất cơ bản để định hướng lãi suất thị trường mà thực hiện cơ chế cơng bố “sau” về
lãi suất đã được hình thành trên thị trường của các tổ chức tín dụng để làm cơ sở
cho việc phòng, chống cho vay nặng lãi trong nền kinh tế9.
Dựa theo tiêu chí tính ổn định lãi suất chia ra làm lãi suất cố định và lãi suất thả
nổi

Lãi suất cố định: là loại lãi suất được quy định cụ thể trong HĐTD và
không thay đổi trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng. Lãi suất này giúp cho bên
đi vay tiền xác định được số tiền lãi cụ thể mà mình phả trả là bao nhiêu sau thời
hạn vay, hạn chế được những tranh chấp liên quan đến việc không rõ ràng về lãi
suất trong HĐTD.


Lãi suất thả nổi là lãi suất cho phép được thỏa thuận, thay đổi lên xuống tùy
thuộc theo biến động của thị trường lãi suất. Việc thay đổi này có thể phải bắt buộc
báo trước hoặc là không, tùy theo thỏa thuận ban đầu giữa các bên. Lãi suất thả nổi
thể hiện nhiều ưu điểm đặc biệt là trong tình hình thị trường lãi suất đang có nhiều
biến động như hiện nay.

7

Điều 9, Luật Ngân hàng Nhà nước 1997.
Điều 2, Quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN1 ngày 02/8/2000.
9
Khoản 1 Điều 12 Luật Ngân hàng Nhà nước 2010: “Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi
suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi”.
8

7


Dựa theo tiêu chí thời hạn vay chia thành lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn

Lãi suất trong hạn là loại lãi suất mà bên vay sẽ phải trả cho bên cho vay
tương ứng với thời hạn vay tương ứng mà các bên đã thỏa thuận, lãi suất này được
ghi nhận rất rõ ràng trong HĐTD, mang tính thỏa thuận giữa các bên.

Lãi suất quá hạn là loại lãi suất cũng được quy định trong HĐTD, mà theo
đó bên cạnh lãi suất trong hạn bên vay phải trả cho bên cho vay thì khi mà bên vay
có sự vi phạm nghĩa vụ về thời hạn trả nợ thì bên vay phải chịu thêm khoản lãi suất
quá hạn. Về mặt ngun tắc thì lãi suất q hạn ln cao hơn lãi suất đúng hạn
nhằm mục đích bù đắp thiệt hại do sự vi phạm nghĩa vụ gây ra.
1.1.1.2 Cơ chế điều hành lãi suất từ 1996 đến nay

Giai đoạn từ năm 1996 đến tháng 7 năm 2000:
Trước năm 1996, lãi suất được điều hành theo cơ chế khung lãi suất, Ngân
hàng Nhà nước đưa ra mức lãi suất tiền gửi tối đa và tối thiểu10. Cơ chế này là bước
chuẩn bị cho sự thay đổi trong cơ chế điều hành lãi suất ở giai đoạn này. Đến giai
đoạn này, cơ chế điều hành trần lãi suất đã có sự thay đổi căn bản, đó là việc Ngân
hàng Nhà nước tiến hành xóa bỏ lãi suất sàn, thực hiện tự do lãi suất đầu vào của
ngân hàng thương mại và linh hoạt trong cơ chế trần lãi suất cho vay trong hoạt
động cho vay ngắn hạn, trung- dài hạn. Ngân hàng Nhà nước cũng khống chế mức
chênh lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là
0.35%/ tháng (tương đương 4,2%/ năm)11. Quy định này nhằm mục đích khắc phục
tình trạng hầu hết các ngân hàng thương mại thu được mức lợi nhuận quá cao trong
khi các doanh nghiệp lại gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn trong
tình hình nền kinh tế có nhiều biến động phức tạp. Đến cuối tháng 1/1998, đã xóa
bỏ quy định chênh lệch lãi suất này, chỉ giữ lại quy định trần lãi suất cho vay12.
Cùng với sự nới lỏng sự kiểm soát lãi suất, NHNN liên tục điều chỉnh trần lãi suất
cho vay theo hướng giảm ngưỡng trần và mức khống chế, đặc biệt trong năm các
năm 1998, 1999.
Trong năm 1997, NHNN đã thay đổi hình thức qui định lãi suất tái cấp vốn,
chuyển sang qui định mức lãi suất cụ thể. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều
chỉnh giảm xuống trong thời gian này (từ 1,1%/tháng năm 1997 xuống còn
0,7%/tháng từ 4/9/ 1999) để phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung- cầu vốn
trên thị trường và thực hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của Chính phủ. Đến tháng
10

Học viện ngân hàng, Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Nxb Thống kê, tr.95.
Khoản 2, Điều 1 Quyết định số 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995.
12
Quyết định 39/1998/QĐ-NHNN ngày 17/01/1998 quy định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của tổ
chức tín dụng đối với tổ chức kinh tế, dân cư và mức lãi suất tiền gửi bằng đôla Mỹ của tổ chức kinh tế.
11


8


11/1999 NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá
cho các NHTM, lãi suất tái chiết khấu được qui định ở mức thấp hơn 0,05%/tháng
so lãi suất tái cấp vốn. Từ tháng 7/2000, NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ thị
trường mở, lãi suất thị trường mở được hình thành qua các phiên giao dịch13.
Việc điều chỉnh chính sách lãi suất như trên nhằm tiến tới việc duy trì một
trần lãi suất cho vay, tạo điều kiện để áp dụng mức lãi suất cơ bản và từng bước tự
do hoá lãi suất, mặt khác nhằm mục đích kích cầu thúc đẩy đầu tư, tiêu dùng, hạn
chế lạm phát.
Giai đoạn từ tháng 8 năm 2000 đến tháng 5 năm 2002: Nhìn chung đây là giai
đoạn sử dụng lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn trong điều
hành chính sách tiền tệ.
Vào tháng 8/2000, NHNN đưa ra một cơ chế lãi suất mới trong đó lãi
suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do NHNN.
Tuy nhiên, các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản
cộng thêm 0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và cộng thêm 0,5%/tháng đối với vốn
trung, dài hạn. Lãi suất cơ bản và biên độ được NHNN công bố định kỳ hàng
tháng14.
Lãi suất cho vay lúc này phụ thuộc, thay đổi theo chiều biến động của lãi suất
cơ bản. Đặc biệt trong thời kỳ này mức chênh lệch giữa lãi suất tiền vay và tiền gửi
giảm đi rất nhiều. Giai đoạn cạnh tranh giữa các ngân hàng bắt đầu, chuẩn bị cho
giai đoạn tự do hóa lãi suất ở giai đoạn sau.
Đến tháng 11/2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ, từ đó cho
phép những người vay ngoại tệ trong nước có thể thương lượng lãi suất với các
ngân hàng nội địa và ngân hàng nước ngoài, quy định này cho thấy NHNN Việt
Nam đã quyết tâm đổi mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa và từng bước
gắn lãi suất trong nước vào thị trường khu vực và thế giới15.

Giai đoạn từ tháng 6 năm 2002 đến cuối năm 2008:
Ngày 30/05/2002 NHNN có quyết định bước ngoặt thay đổi việc điều hành
trần lãi suất, xóa bỏ biên độ khống chế lãi suất cho vay, mở đầu cho cơ chế tự do

13

Trần Trí Dũng , Nhìn lại cơ chế điều chỉnh lãi suất tại Việt Nam, Tạp chí Cộng sản điện tử số 9 (201) năm
2010.
14
Khoản 1 Điều 2, Quyết định 241/2000/QĐ-NHNN ngày 02/08/2000 về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi
suất cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
15
/>
9


thỏa thuận lãi suất bằng đồng Việt Nam giữa ngân hàng với khách hàng16. NHNN
tiếp tục công bố lãi suất cơ bản để tham khảo, định hướng lãi suất thị trường.
Năm 2008 tình hình thị trường có nhiều biến động, lãi suất cơ bản cũng như
các loại lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu đều được điều chỉnh tăng mạnh
so với thời gian trước đây. Trong khi đó, NHNN lại đưa ra mức trần lãi suất huy
động để hạn chế cuộc chạy đua huy động vốn khắc phục thiếu hụt của các ngân
hàng17.
Với cơ chế lãi suất thỏa thuận, các ngân hàng đã chủ động, linh hoạt hơn trong
việc xác định lãi suất. Ngân hàng toàn quyền quyết định trong việc cho các đối
tượng vay khác nhau với mức lãi suất khác nhau, cơ chế này vừa tạo thuận lợi cho
hoạt động kinh doanh của các TCTD, nâng cao năng lực tài chính, khả năng cạnh
tranh, một mặt lại thúc đẩy việc các doanh nghiệp vừa, nhỏ có thể tiếp cận nguồn
vốn ngân hàng với mức lãi suất phù hợp phục vụ cho quá trình sản xuất.
Giai đoạn từ khủng hoảng kinh tế tài chính tồn cầu cuối năm 2008 đến nay:

Để đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế, không chỉ riêng Việt Nam mà các
nước trên thế giới sử dụng lãi suất làm công cụ khắc phục những tác động nặng nề
từ cuộc khủng hoảng. Với Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN thì cơ chế lãi suất thả
nổi đã bị giới hạn không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản18, trần lãi suất lại được
thiết lập (Lãi suất cơ bản vào thời điểm này là 14%. Trần lãi suất cho vay lên tới
21%). Trần lãi suất huy động theo công điện 02/CĐ-NHNN hết hiệu lực19. Quyết
định 16/2008 có tác động rất lớn đến thị trường tiền tệ, giúp ngăn chặn sự xáo động
của thị trường tiền tệ cũng như khả năng mất thanh toán của các NHTM trong thời
gian này, tăng cường sự an toàn của hệ thống ngân hàng cũng như niềm tin của
khách hàng giao dịch. Nền kinh tế bắt đầu có những hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ
lạm phát, ổn định thị trường. Quy định này hài hịa hóa với quy định trong Bộ luật
Dân sự 2005 và Luật Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, cũng chính từ quy định này
mà làm phát sinh rất nhiều sự tranh luận xung quanh vấn đề lãi suất cho vay không
thống nhất trong các quy định của pháp luật.

16

Quyết định 546/2002/QĐ-NHNN về việc thực thi cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng
thương mại bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng với khách hàng.
17
Công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008.
18
Quyết định 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/05/2008 về cơ chế điều hành trần lãi suất bằng đồng Việt Nam
“Các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh ( lãi suất huy động, lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam
đối với khách hàng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố để áp dụng
trong từng thời kỳ”.
19
Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
hiện nay.


10


Năm 2010, cơ chế điều hành lãi suất lại trở thành tâm điểm của sự chú ý với
việc NHNN cho phép các ngân hàng được tiến hành thỏa thuận lãi suất cho vay. Cơ
chế điều hành lãi suất quay trở lại với thời kỳ năm 200220. Ngày 16/6/2010, Luật
Các tổ chức tín dụng mới được đã Quốc hội thơng qua21 với những điều khoản công
nhận giá trị pháp lý của cơ chế tự do thỏa thuận lãi suất của các bên trong HĐTD22.
Quy định mới này một mặt phù hợp với đường lối chính sách của Đảng, mặt khác
đáp ứng được tình hình thực tế của hoạt động tín dụng ngân hàng. Vấn đề tự do thỏa
thuận lãi suất lần đầu tiên được nhìn nhận một cách cụ thể và rõ ràng trong văn bản
pháp luật chuyên ngành có giá trị cao nhất là Luật Các tổ chức tín dụng. Với quy
định mới này sẽ góp phần giải quyết một số vướng mắc đang tồn tại trong hoạt động
tín dụng ngân hàng, đặc biệt là trong việc giải quyết tranh chấp HĐTD về lãi suất.
Lãi suất trong HĐTD là một cơng cụ để tính lợi nhuận nhằm thỏa mãn nhu
cầu vật chất của các chủ thể trong HĐTD. Lãi suất trong HĐTD không tự nhiên
sinh ra mà chỉ sau khi các bên cùng thỏa thuận thống nhất về số tiền vay thì mới có
cơ sở để lãi suất phát sinh, điều này cho thấy nếu khơng có HĐTD và điều khoản về
số tiền vay thì thỏa thuận lãi suất sẽ khơng có hiệu lực phát sinh. Mặt khác, lãi suất
hình thành từ sự thỏa thuận của các bên trong HĐTD, các chủ thể được thể hiện ý
chí của mình, cùng bàn bạc thỏa thuận để thống nhất về một mức lãi suất mà mình
cho rằng hợp lý nhất trên cơ sở xem xét tất cả các yếu tố có ảnh hưởng như số tiền
gốc vay, thời hạn vay, uy tín của bên đi vay, khả năng đáp ứng vốn của tổ chức tín
dụng…
1.1.1.3 Lãi suất cho vay trong mối quan hệ với lãi suất cơ bản và lãi suất huy
động
Lãi suất cho vay trong HĐTD về nguyên tắc được hình thành theo sự thỏa
thuận của các bên trong hợp đồng. Bản chất HĐTD là sự thỏa thuận, các bên trong
hợp đồng tự do đề xuất nhu cầu, tiến hành đàm phán, thương lượng về nội dung của
hợp đồng để đi đến việc hình thành và thống nhất về các điều khoản trong HĐTD.

Trên cơ sở đó, lãi suất vốn dĩ là một điều khoản quan trọng của HĐTD nên bao giờ
khi các bên tiến hành thỏa thuận, thương lượng thì vấn đề này luôn luôn được các
bên quan tâm, chú ý. Tuy nhiên, trên thực tế thì khơng hẳn là vậy, lãi suất cho vay
20

Thông tư 12/2010/TT-NHNN ngày 14/04/2010 hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam
đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận.
Thông tư 07/2010/TT-NHNN ngày 26/02/2010 quy định về cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa
thuận của tổ chức tín dụng đối với khách hàng .
21
Luật Các tổ chức tín dụng mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2011 sẽ thay thế cho Luật các tổ chức tín dụng số
02/1997/QH10 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng số 20/2004/QH11.
22
Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng 2010: “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất,
phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật”.

11


được đưa ra chủ yếu là từ phía ngân hàng; sau quá trình đánh giá, thẩm định việc
cho vay, ngân hàng sẽ trên cơ sở xem xét nhiều yếu tố sẽ chủ động quyết định mức
lãi suất cho khách hàng vay. Khách hàng vay thường đứng ở thế bị động trong việc
quyết định mức lãi suất này. Nếu nhu cầu cần vốn lớn, khách hàng đôi khi phải
chấp nhận một mức lãi suất mà mình khơng mong muốn.
Bản thân ngân hàng là một đơn vị trung gian vì thế khơng có khả năng tạo ra
tiền mà chỉ là nơi huy động lượng tiền trong thị trường thông qua hoạt động đi vay
rồi lại thực hiện công việc cho vay khi thị trường có nhu cầu. Khi huy động vốn,
ngân hàng phải đưa ra một mức lãi suất để sao cho khi khách hàng gửi tiền cho
ngân hàng, họ sẽ nhận thêm được một phần giá trị dôi ra so với số tiền gửi ban đầu,
khi này ngân hàng sẽ sử dụng công cụ lãi suất huy động (lãi suất tiền gửi) để thu hút

được nguồn tiền đang lưu thông trong thị trường. Mặt khác, khi đem tiền đi kinh
doanh (hoạt động cho vay) để tìm kiếm lợi nhuận, lãi suất cho vay phải đáp ứng
những yêu cầu nhất định để vừa thu được lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng, vừa có
khả năng cạnh tranh trên thị trường đồng thời không vi phạm những giới hạn mà
pháp luật đặt ra. Chính vì vậy, để định giá được lãi suất tiền vay phù hợp cần xem
xét đến rất nhiều các yếu tố và đặt nó trong từng thời điểm, hồn cảnh cụ thể. Tổng
hợp các yếu tố đó để ngân hàng có thể chủ động đưa mức lãi suất phù hợp cho từng
đối tượng, từng loại tiền vay….
Việc ngân hàng được chủ động quyết định mức lãi suất cho vay đối với từng
loại hình tín dụng cũng như từng đối tượng vay vốn khác nhau cũng là đương nhiên.
Nó xuất phát từ việc bản chất ngân hàng là doanh nghiệp, lấy hoạt động kinh doanh
để tạo ra lợi nhuận. Quyền tự do kinh doanh cho phép ngân hàng có quyền quyết
định mức lãi suất phù hợp. Tuy nhiên, ngân hàng vốn là một doanh nghiệp với
ngành nghề kinh doanh đặc biệt, hoạt động kinh doanh đó có tầm ảnh hưởng, chi
phối lớn đến thị trường cũng như nền kinh tế nên đặt ra yêu cầu là hoạt động của nó
cũng chịu sự kiểm sốt gắt gao. Nhà nước (thơng qua Ngân hàng Nhà nước) điều
chỉnh, can thiệp vào hoạt động của ngân hàng qua nhiều công cụ khác nhau, trong
hoạt động cho vay thì chủ yếu là qua cơng cụ lãi suất. Tùy theo từng thời điểm, từng
tình hình thị trường, chính sách của Nhà nước có thể thắt chặt hoặc thả lỏng lãi suất
của hoạt động cho vay cũng như huy động vốn của ngân hàng. Xuất phát từ vấn đề
này, khi quyết định mức lãi suất cho vay, ngân hàng rất quan tâm đến yếu tố lãi suất
cơ bản do Ngân hàng Nhà nước ban hành cũng như xem xét mối tương quan với lãi
suất huy động.
Lãi suất cơ bản – cơ sở quyết định lãi suất cho vay

12


Lãi suất cơ bản được xem như một công cụ quan trọng, chủ yếu của chính
sách tiền tệ quốc gia, tham gia vào quá trình thực hiện những mục tiêu vĩ mơ của

nền kinh tế, đồng thời có ý nghĩa to lớn trong việc định hướng tín dụng cho hệ
thống ngân hàng.
“Lãi suất cơ bản ngân hàng là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm
cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh”23. Tuy nhiên, việc ấn
định lãi suất của Ngân hàng Nhà nước trên cơ sở là một quyết định hành chính chủ
quan, khơng hề dựa trên cơ sở tính tốn giữa chi phí và lợi nhuận. Điều này xuất
phát từ lý do Ngân hàng Nhà nước vốn có chức năng tạo ra tiền và hoạt động của
Ngân hàng Nhà nước khơng phải là kinh doanh tiền tệ, tín dụng vì mục tiêu lợi
nhuận. Việc ấn định lãi suất cơ bản phản ánh sự nhìn nhận, đánh giá về tình hình
kinh tế vĩ mô của đất nước. Việc điều chỉnh mức lãi suất cơ bản được xem như một
tín hiệu rõ ràng nhất của Ngân hàng Nhà nước đối với việc mở rộng hay thắt chặt
chính sách tiền tệ của đất nước nói chung và của các ngân hàng nói riêng. Từ mức
lãi suất cơ bản mà Ngân hàng Nhà nước cơng bố, các ngân hàng sẽ xây dựng cho
mình một hệ thống lãi suất riêng, phù hợp với điều kiện huy động tiền gửi tiết kiệm
và cho vay của mỗi ngân hàng, với những mức lãi suất khác nhau phù hợp với thời
hạn, mức độ rủi ro khác nhau. Công cụ lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước còn
giữ một vai trò quan trọng trong việc điều tiết sự cạnh tranh và tự do hoạt động của
các ngân hàng, tạo nên một môi trường hoạt động sao cho cả ngân hàng và khách
hàng đều có lợi. Các ngân hàng có mơi trường cạnh tranh bình đẳng trong phạm vi
mà pháp luật cho phép.
Lãi suất cơ bản là một cơng cụ khơng thể thiếu trong việc thực thi chính sách
tiền tệ quốc gia. Như đã đề cập ở phần cơ chế điều hành lãi suất, tùy từng giai đoạn
và cách nhìn nhận, đánh giá chủ quan, Nhà nước thơng qua các quy định pháp luật
để đưa lãi suất cơ bản can thiệp sâu hay khơng vào hoạt động tín dụng. Có thời kỳ
lãi suất cơ bản cùng với cộng biên độ dao động được coi như một vành đai giới hạn
mức lãi suất cho vay, các ngân hàng tiến hành cho vay với mức lãi suất không được
vượt trần mức lãi suất cho phép đó. Lại có thời kỳ Ngân hàng Nhà nước thả lỏng
hoạt động cho vay đối với các ngân hàng bằng cơ chế lãi suất thỏa thuận, lãi suất cơ
bản lúc này chỉ còn giữ vai trị như một sự tham khảo chứ khơng cịn ràng buộc đối
với lãi suất cho vay của các ngân hàng nữa. Khi cuộc khủng hoảng kinh tế tiền tệ

xảy ra năm 2008, chính sách tiền tệ một lần nữa bị thắt chặt khi ràng buộc lãi suất
cho vay không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước
công bố để áp dụng trong từng thời kỳ. Lãi suất cơ bản bước vào thời kỳ gây nhiều
23

Điều 9, Luật Ngân hàng Nhà nước 1997.

13


tranh luận về tính pháp lý của nó, cũng như yêu cầu thống nhất trong cách hiểu. Gần
đây, khi nền kinh tế bắt đầu hồi phục, Ngân hàng Nhà nước lại có quyết định một
lần nữa thả nổi lãi suất, đưa lãi suất cho vay về con đường thỏa thuận. Sau gần hai
năm, lãi suất cơ bản đã mất dần đi vai trị ban đầu mà những người hoạch định
chính sách gắn cho nó. Một câu hỏi đặt ra là bắt đầu từ đây và đặc biệt là từ năm
2011 khi mà Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng mới có hiệu lực,
lãi suất cơ bản sẽ sử dụng như thế nào trong việc điều tiết thị trường tiền tệ? Lúc
này Luật Các tổ chức tín dụng đã trao quyền cho TCTD và khách hàng được thỏa
thuận mức lãi suất trong hoạt động ngân hàng mà không phụ thuộc vào quy định
của BLDS. Như vậy, từ đây lãi suất cho vay trong HĐTD khơng cịn bị ràng buộc
bởi giới hạn của mức lãi suất cơ bản (150% của lãi suất cơ bản). Khi này lãi suất cơ
bản sẽ chỉ được sử dụng trong quan hệ vay mượn dân sự, làm cơ sở cho việc xem
xét hành vi “cho vay nặng lãi”, mối quan hệ giữa lãi suất cơ bản với lãi suất cho vay
sẽ khơng cịn ràng buộc chặt chẽ như trước nữa24.
Hiện nay, quy định về lãi suất trong Điều 476 Bộ luật Dân sự 2005 vẫn có rất
nhiều quan điểm, tranh luận khác nhau:
1. Lãi suất do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.
2. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác
định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do

Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả
nợ.
Điều luật này có mục tiêu hết sức cần thiết là chống việc cho vay nặng lãi
trong quan hệ vay mượn giữa người dân với nhau nhưng nội dung của nó lại gây
nên rất nhiều cuộc tranh luận khác nhau25. Trong đó, chủ yếu là tranh luận về phạm
vi điều chỉnh của điều luật: có điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng hay khơng?
Nếu nó bao trùm hoạt động của các ngân hàng thì có nghĩa là khi các bên tham gia
quan hệ tín dụng, có sự thỏa thuận về lãi suất thì sự thỏa thuận đó phải nằm trong
giới hạn mà BLDS quy định.
Một tranh luận khác là về việc hiểu cách tính lãi suất theo điều luật như thế
nào? Đó là với quy định trong điều 476 BLDS 2005 thì ta cần quan niệm giá trị
150% là phần vượt quá so với lãi suất cơ bản hay là tỷ lệ so sánh đơn thuần giữa
chúng với nhau- lãi suất thỏa thuận với lãi suất cơ bản.
24
25

Điều 163 Bộ luật Hình sự 1999.
/>
14


Có quan điểm cho rằng xác định giới hạn lãi suất tối đa bằng cách so sánh tỷ
lệ thuần túy giữa mức lãi suất thỏa thuận với lãi suất cơ bản trong giới hạn luật định
là 150% (Mức lãi suất thỏa thuận tối đa cho phép = lãi suất cơ bản x 150%)26.
Nhưng cũng dựa trên việc so sánh cách diễn đạt của hai quy định về mức lãi
suất theo điều luật ở BLDS 2005 và BLDS 1995, lại phát sinh quan điểm khác27:
Theo BLDS 1995 thì mức lãi suất cho vay do các bên thỏa thuận nhưng không được
vượt quá 50% lãi suất trần do NHNN quy định đối với loại cho vay tương ứng28.
(Lãi suất cơ bản là A, lãi suất cho vay tối đa mà các Ngân hàng có thể áp dụng =
A+A x 50%= A x 1,5 lần). Tại thông tư 01- TT/LT ngày 19/06/1997 của Liên tịch

Tòa án nhân dân tối cao – Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao – Bộ Tư Pháp – Bộ Tài
Chính hướng dẫn về việc xét xử và thi hành án về tài sản cũng hướng dẫn theo cách
tính như trên. Đến BLDS 2005 đã sửa đổi Khoản 1 Điều 473 BLDS 1995 như sau:
“Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 150% của lãi suất cơ
bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với từng loại cho vay tương ứng”. Với
quy định này, Luật sư dùng cách suy luận đã sử dụng trong việc tính lãi suất theo
quy định cũ để hiểu rằng: Lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố là A, lãi
suất cho vay của các Ngân hàng sẽ không vượt quá: A + A x 150%= A( 1+150%)=
A x 250%= A x 2,5 lần29.
Hai quan điểm trên được coi như hai tranh luận tiêu biểu gay gắt trong cách
nhìn nhận việc tính lãi suất cho vay, hai quan điểm này cũng đã gây được nhiều
đồng tình cũng như phản đối trong dư luận, là cơ sở để cho mọi người tham khảo.
Tuy nhiên theo quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng cách tính giới hạn lãi suất cho
vay theo quan điểm không được vượt quá 250% là không hợp lý. Bởi một lẽ với
mức giới hạn quá lớn như vậy tạo nên mức lãi suất cho vay cao, điều này khơng có
lợi cho cả bên đi vay, bên cho vay và cả nền kinh tế.
Việc nghiên cứu về lãi suất cơ bản có ý nghĩa quan trọng đặc biệt là về phía
các ngân hàng, nó là cơ sở để các ngân hàng xem xét, quyết định mức suất cho vay
sao cho phù hợp với điều kiện của bản thân ngân hàng cũng như phù hợp với các
26

Trương Thanh Đức (2005), “Vấn đề lãi suất cơ bản và quy định lãi suất cho vay không được vượt quá
150% lãi suất cơ bản”, Tạp chí Ngân hàng tháng 11 năm 2005.
Ví dụ: nếu lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước cơng bố là 1% thì lãi suất cho vay tối đa là không vượt
quá 150% của 1% là mức 1.5% ( =1% x 150%.
27
/>Luật sư Lưu Trường Hận (Đoàn Luật sư Tp.HCM)- Trưởng Bộ phận Pháp Chế Ngân hàng Phương Đông
28
Khoản 1 Điều 473 Bộ luật Dân sự 1995.
29

Giả sử mức lãi suất cơ bản Ngân hàng Nhà nước cơng bố là 8,75 % thì mức lãi suất cho vay các Ngân hàng
không được vượt quá là : 8,75% x 250%=21,875 %. Nếu các Ngân hàng cho vay vượt quá mức này (
1,875%) thì là phạm luật.

15


quy định của pháp luật. Ngân hàng căn cứ vào sự thay đổi của lãi suất cơ bản để
điều chỉnh mức lãi suất cho vay của tổ chức mình. Nhưng với việc còn tồn tại quá
nhiều những tranh luận xung quanh vấn đề lãi suất cơ bản đã gây khó khăn trong
q trình áp dụng pháp luật. Việc khơng thống nhất trong cách hiểu về lãi suất cơ
bản còn tạo điều kiện cho một số đối tượng lợi dụng phục vụ vào mục đích riêng
bằng cách tìm cách giải thích điều luật sao cho có lợi nhất. Với những thay đổi về
quy định lãi suất trong Luật Các tổ chức tín dụng 2010 sẽ phần nào giải quyết được
những bất cập ở trên. Từ đây phạm vi điều chỉnh của BLDS chỉ dừng lại ở những
quan hệ vay tài sản mà những quan hệ này không nằm trong sự điều chỉnh của Luật
Ngân hàng Nhà nước 2010, Luật Các tổ chức tín dụng 2010. Các ngân hàng có cơ
sở rõ ràng đảm bảo tính pháp lý cho thỏa thuận lãi suất trong HĐTD, các tòa án sẽ
thống nhất trong quan điểm xét xử về những tranh chấp lãi suất trong HĐTD.
Lãi suất huy động trong mối tương quan với lãi suất cho vay
Với tư cách vừa là người đi vay vừa là người cho vay thì hoạt động huy động
vốn là một hoạt động quan trọng đối với các ngân hàng. Vấn đề đặt ra cho các ngân
hàng là phải tính tốn một mức lãi suất như thế nào để sao cho vừa có thể thu hút
được lượng vốn cần thiết phục vụ cho hoạt động cho vay, vừa đảm bảo lợi nhuận.
Chính vì thế trong q trình định giá tiền vay, luôn phải đặt lãi suất cho vay trong
mối quan hệ với lãi suất huy động.
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng tiến hành hoạt động của mình, tìm
kiếm lợi nhuận trong sự cạnh tranh với nhau. Bản thân các ngân hàng riêng lẻ
khơng thể tự mình “làm giá” mà phải có sự chấp nhận của thị trường. Vì thế, quyết
định mức lãi suất huy động cũng như lãi suất cho vay phải phù hợp với tình hình thị

trường. Về bản chất, lãi suất cho vay phải luôn cao hơn lãi suất huy động. Sự chênh
lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động tạo nên lợi nhuận cho ngân hàng. Nói
một cách khách quan thì bao giờ ngân hàng cũng muốn mở rộng sự chênh lệch đó.
Đã có thời gian Ngân hàng Nhà nước đưa ra mức khống chế mức chênh lệch
giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động (trong hai năm 1996, 1997)30. Mục đích
của quy định này chính là nhằm hạn chế trường hợp các ngân hàng đặt ra mức lãi
suất huy động thấp nhưng mức lãi suất cho vay cao để thu được lợi nhuận lớn, trong
khi các tổ chức, cá nhân lại thiệt hại trong cả hoạt động gửi tiền và đi vay tiền. Thiết
nghĩ trong thời điểm đó, khi nền kinh tế thị trường mới đang bước đầu được hình
thành thì quy định như vậy là hợp lý.

30

Khoản 2, Điều 1 Quyết định số 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995.

16


Từ năm 1998 đến nay khống chế mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi
suất huy động được xóa bỏ, ngân hàng tự quyết định mức lãi suất cho vay và lãi
suất huy động tùy thuộc vào điều kiện của từng ngân hàng. Nhìn chung có mối quan
hệ khăng khít giữa lãi suất huy động vay và lãi suất cho vay: khi lãi suất huy động
tăng thì lãi suất cho vay cũng tăng theo. Việc tăng lãi suất huy động trong thời gian
ngắn là nhằm mục đích khắc phục tình trạng thiếu vốn của ngân hàng, nhưng nếu
tình trạng huy động vốn với lãi suất tăng mà kéo dài thì địi hỏi các ngân hàng phải
tăng lãi suất cho vay thì mới đảm bảo được lợi nhuận cho hoạt động tín dụng ngân
hàng31.
Khi điều chỉnh tăng lãi suất huy động thì đó là quyết định đơn phương từ
phía các ngân hàng, tùy theo việc nhận định đánh giá tình hình thị trường cũng như
nhu cầu của ngân hàng. Và thực tế thì việc tăng lãi suất huy động bao giờ cũng xuất

phát từ nhu cầu vốn. Đặc biệt là với các ngân hàng thương mại thì nhu cầu vốn lớn
trong khi trình trạng “khơng đủ” vốn lại thường xuyên xảy ra. Cuộc chạy đua lãi
suất rất dễ xảy ra. Tuy nhiên, tăng lãi suất huy động không bao giờ là một giải pháp
dễ dàng đối với các ngân hàng. Bởi vì lãi suất cho vay của những HĐTD “cũ”, thậm
chí cả hợp đồng “mới” được thỏa thuận ngay trước thời gian kí kết hợp đồng,
thường là lãi suất cố định nên khơng dễ gì tăng lên tương ứng, khi đó, nếu tăng lãi
suất huy động sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận thu được từ lãi suất của ngân hàng.
Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, xuất phát từ nhu cầu cần vốn, cũng như
giữ chân khách hàng ta dễ dàng nhận thấy lãi suất bình quân vốn huy động của các
NHTM thường khá cao. Và đương nhiên lãi suất cho vay cũng bắt buộc phải được
đẩy lên cao. Với ưu điểm là thủ tục và điều kiện cho vay thường đơn giản, dễ dàng
hơn các ngân hàng quốc doanh nên các ngân hàng thương mại nhanh chóng thu hút
được khách hàng vay vốn chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ, vừa. Lãi suất tăng dù là
lãi suất cho vay hay huy động là vấn đề của lạm phát cao, tất cả đều khơng có lợi
cho các bên trong quan hệ tín dụng cũng như nền kinh tế.
1.1.2 Tranh chấp hợp đồng tín dụng
Xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận khi tham gia vào quan hệ tín dụng: ngân
hàng cho vay vốn để thu lợi nhuận trên cơ sở lãi, mong muốn sau hạn thời gian cấp
tín dụng sẽ thu về được cả vốn lẫn lợi tức, bên khách hàng vay vốn để đem nguồn
vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bên vay với mong muốn thu được
lợi nhuận bên cạnh việc phải bù đắp cho khoản lãi trả cho ngân hàng. Chính từ mục
31

La Hồng (2006), Giải quyết tranh chấp về lãi suất cho vay trong HĐTD của các TCTD tại Tòa án, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP.HCM, tr.19.

17


đích chung là thu lợi nhuận nên khơng tránh khỏi có sự xung đột, mâu thuẫn về lợi

ích. Mâu thuẫn thường xảy ra trong quá trình thực hiện HĐTD hoặc khi đến hạn
thực hiện HĐTD. Thông thường là do bên vay không trả được khoản nợ vay và lãi
phát sinh cho ngân hàng, bên vay cố tình dây dưa, “chây lì” khơng chịu trả nợ, tìm
mọi cách gây khó khăn trong quá trình thương lượng, đàm phán. Dù tranh chấp
HĐTD là điều mà chủ thể của quan hệ không hề mong muốn nhưng nó vẫn đang
xảy ra và ngày một gia tăng.
Trước xu hướng phát triển của nền kinh tế, u cầu có những quy trình giải
quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, hợp lý để khơng những bảo vệ quyền lợi
hợp pháp cho các bên, hạn chế tranh chấp mới phát sinh mà cịn góp phần tạo hành
lang an tồn cho hoạt động tín dụng của ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế nói
chung trên con đường phát triển và hội nhập.
1.1.2.1 Khái quát về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Tranh chấp trong HĐTD về bản chất cũng là một loại tranh chấp hợp đồng,
vì thế nó thể hiện sự bất đồng về lợi ích của những chủ thể đã tham gia kí kết, thực
hiện HĐTD, thường là một bên trong quan hệ tín dụng đã thực hiện một hoặc một
số hành vi vi phạm những nội dung điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng. Hành
vi vi phạm đó có thể hoặc đã làm phát sinh những thiệt hại cho lợi ích hợp pháp của
bên kia. Sự bất đồng về lợi ích này phải được biểu hiện ra bên ngồi thơng qua
những bằng chứng cụ thể, những u cầu giải quyết. Vì thế có thể nói tranh chấp
HĐTD thường phát sinh từ sự vi phạm, nhưng khơng đương nhiên có sự vi phạm
HĐTD thì sẽ có tranh chấp. Khi xuất hiện hành vi vi phạm, nhưng các bên trong
quan hệ HĐTD không tỏ thái độ, không biểu lộ sự phản đối thì đó cũng khơng được
xem như tranh chấp.
Như vậy, có thể phát biểu: Tranh chấp hợp đồng tín dụng là tranh chấp về
quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận trong các điều khoản của hợp đồng tín
dụng.
Tranh chấp HĐTD mang đầy đủ đặc điểm vốn có của một tranh chấp hợp
đồng đó là tranh chấp ln gắn với lợi ích của các bên, các bên trong quan hệ ln
là chủ thể có quyền lực cao nhất trong việc định đoạt sẽ giải quyết tranh chấp theo
hướng nào, nguyên tắc giải quyết tranh chấp trên cơ sở thỏa thuận, tự nguyện, bình

đẳng, lựa chọn phương thức giải quyết mà các bên cho là phù hợp và hiệu quả nhất.
Bên cạnh đó tranh chấp HĐTD ngân hàng cũng mang những đặc điểm riêng biệt để
có thể phân biệt với các loại tranh chấp khác trong nền kinh tế. Đó là:

18


Tranh chấp HĐTD ngân hàng thường mang giá trị lớn. Bản thân đối tượng
của HĐTD là vốn tiền tệ. Bên các ngân hàng cấp cho bên vay một khoản tín dụng
trên cơ sở thỏa thuận của hai bên. Khoản vốn tiền tệ ấy sẽ được chuyển cho bên vay
sau khi đã hồn thành xong các thủ tục kí kết hợp đồng. Bên vay sẽ sử dụng khoản
vốn ấy trong một thời hạn đã thỏa thuận, đến một thời điểm cụ thể, bên vay có trách
nhiệm phải hồn trả cho ngân hàng. Nếu bên vay không tuân thủ các quy định trong
hợp đồng, khơng hồn trả vốn và lãi cho ngân hàng sẽ xâm phạm đến lợi ích của
ngân hàng và tác động xấu đến hoạt động của ngân hàng- hoạt động cho vay từ đi
vay. Việc vi phạm của bên đi vay đặt ngân hàng vào hồn cảnh khơng thu hồi được
vốn, khơng thu được lợi nhuận, khơng xoay vịng được nguồn vốn từ đó ảnh hưởng
đến hoạt động.
Phần lớn tranh chấp về HĐTD xuất phát từ nguyên nhân bên đi vay, ngân
hàng thường là nguyên đơn khởi kiện để đảm bảo quyền lợi của mình trong những
vụ tranh chấp HĐTD tại Tòa án; bên đi vay ở vai trò là bị đơn, có những hành vi
xâm hại quyền lợi nguyên đơn.
Xuất phát từ giá trị trong HĐTD cao nên việc giải quyết tranh chấp HĐTD
thường thông qua con đường hòa giải, thương lượng. Bên đi vay và ngân hàng
thường xuyên có sự trao đổi, thảo luận lại những điều khoản quy định trong HĐTD
cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Ngân hàng tạo điều kiện cho bên vay
có thể gia hạn nợ, giảm lãi trong điều kiện bên vay gặp khó khăn trong việc thanh
tốn. Mặt khác, án phí cho việc giải quyết tranh chấp HĐTD là khá cao nên các bên
ln tìm cố gắng tìm được tiếng nói chung trong q trình thương lượng hịa giải,
giảm bớt chi phí về vật chất cũng như thời gian.

Tranh chấp HĐTD ngân hàng là tranh chấp hợp đồng phổ biến và mang tính
nhạy cảm. Điều này xuất phát từ một bên chủ thể của tranh chấp là ngân hàng. Ngân
hàng là loại hình doanh nghiệp đặc biệt và có một vị trí quan trọng trong nền kinh
tế. Hoạt động của ngân hàng không chỉ liên quan đến bản thân nó và những đối
tượng liên quan mà cịn ảnh hưởng, chi phối cả nền kinh tế. Vì thế, để giải quyết
tranh chấp HĐTD ngân hàng cần xem xét rất nhiều yếu tố khác nhau và đặt việc
giải quyết đó vào trong cách nhìn tổng thể của nền kinh tế. Với những tranh chấp
HĐTD có tác động lớn thì ln được sự quan tâm của dư luận và đòi hòi giải quyết
phải toàn diện.

19


Trong số các vụ tranh chấp dân sự, kinh tế thì tranh chấp hợp đồng chiếm tỷ
lệ lớn nhất trong đó phải kể đến tranh chấp HĐTD. Tranh chấp HĐTD không ngừng
gia tăng và phức tạp hơn trước đây rất nhiều32.
Tranh chấp HĐTD có thể xuất phát từ hành vi vi phạm nghĩa vụ của một hay
các bên trong hợp đồng, đó có thể là vi phạm nghĩa vụ hồn trả gốc, lãi của bên đi
vay khi đáo hạn. Đây là dạng tranh chấp xảy ra nhiều nhất trong các tranh chấp
HĐTD.
Một dạng tranh chấp cũng khá phổ biến của HĐTD đó là tranh chấp về việc
xử lý tài sản bảo đảm. Bảo đảm tín dụng ln được các ngân hàng coi như một biện
pháp an toàn, là nguồn thu nợ bổ sung nếu như nguồn thu nợ hoàn trả tiền trực tiếp
của bên đi vay không được thực hiện. Các ngân hàng được quyền theo đuổi tài sản
bảo đảm, được quyền ưu tiên thanh toán số tiền từ việc bán tài sản bảo đảm khi bên
đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên, thực tế không phải lúc nào
bên đi vay cũng tạo thuận lợi cho ngân hàng trong việc thu hồi vốn từ việc xử lý tài
sản bảo đảm, vì thế rất dễ phát sinh tranh chấp từ vấn đề này .
Dạng tranh chấp HĐTD phổ biến nữa là tranh chấp về chủ thể xác lập, thực
hiện hợp đồng. Tranh chấp này ngày càng đa dạng và phức tạp nhất là trong những

trường hợp có yếu tố nước ngồi. Tranh chấp này chủ yếu về chủ thể đi vay có thẩm
quyền để xác lập, thực hiện hợp đồng hay khơng, nó liên quan đến năng lực chủ thể,
thẩm quyền của chủ thể, các trường hợp hạn chế, cấm xác lập, thực hiện các giao
dịch tín dụng.
Tranh chấp HĐTD cũng có thể là tranh chấp về thẩm quyền của tịa án trong
q trình giải quyết tranh chấp. Theo BLTTDS 2004 thì đối tượng vay và mục đích
vay được dùng để xác định thẩm quyền của Tịa án nhưng trong q trình giải quyết
tranh chấp, khơng phải lúc nào Tòa án cũng xác định thẩm quyền của mình đúng
như vậy. Vì thế mà tranh chấp xảy ra33.
Tranh chấp HĐTD xuất phát từ nguyên nhân của bên đi vay trong việc cố
tình vi phạm mục đích đi vay đã thỏa thuận trong HĐTD. Điều khoản mục đích vay
luôn là một điều khoản quan trọng, quyết định việc hình thành hay khơng HĐTD.
Việc vi phạm điều khoản mục đích vay là sự đe dọa lợi ích đối với các ngân hàng,
nó thể hiện sự thiếu thiện chí, sự lừa dối từ phía bên đi vay.
Tranh chấp HĐTD phát sinh ngày càng nhiều và diễn biến cũng phức tạp
hơn. Yêu cầu giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, hợp lý được đặt ra bức
32
33

/>Điều 29, BLTTDS 2004.

20


×