Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Tranh tụng của bị hại theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ THU HỒI

TRANH TỤNG CỦA BỊ HẠI
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRANH TỤNG CỦA BỊ HẠI
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh
Học viên: Trần Thị Thu Hồi
Lớp: Cao học Luật, khóa 28

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Tranh tụng của bị hại theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu khoa học do bản thân tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh.
Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa
từng được ai cơng bố trong bất cứ cơng trình nghiên cứu nào trước đây. Trong quá
trình nghiên cứu, luận văn có kế thừa các quan điểm, ý kiến khoa học của những nhà
nghiên cứu đã từng thực hiện về vấn đề tranh tụng, về bị hại và những thông tin này
đều được thể hiện một cách trung thực, có trích dẫn nguồn đầy đủ trong luận văn.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày

tháng

Người cam đoan

TRẦN THỊ THU HOÀI

năm 2019


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra


HĐXX

Hội đồng xét xử

HSST

Hình sự sơ thẩm

KSV

Kiểm sát viên

TA

Tòa án nhân dân

TGTT

Tham gia tố tụng

THTT

Tiến hành tố tụng

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS


Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ TRANH TỤNG CỦA BỊ HẠI .........10
1.1. Một số khái niệm ..........................................................................................10
1.1.1. Khái niệm tranh tụng ..............................................................................10
1.1.2. Khái niệm bị hại .....................................................................................14
1.2. Đặc điểm của tranh tụng của bị hại ...........................................................16
1.2.1. Tranh tụng của bị hại là tổng hợp các hoạt động của bị hại, nhằm bảo
vệ quyền, lợi ích của bị hại ...............................................................................16
1.2.2. Tranh tụng của bị hại là một quá trình trải qua các giai đoạn tố tụng
khác nhau..........................................................................................................18
1.2.3. Tranh tụng của bị hại diễn ra rõ nét, mạnh mẽ nhất tại phiên tịa hình
sự sơ thẩm.........................................................................................................21
1.3. Cơ sở của tranh tụng của bị hại theo luật tố tụng hình sự Việt Nam .....23
1.3.1. Cơ sở lý luận của tranh tụng của bị hại .................................................23
1.3.2. Cơ sở pháp lý của tranh tụng của bị hại ................................................25
1.3.3. Cơ sở thực tiễn của tranh tụng của bị hại ..............................................27
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................29
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRANH TỤNG CỦA BỊ HẠI VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG .........................................................................................30
2.1. Quy định pháp luật về tranh tụng của bị hại trong giai đoạn khởi tố và
thực tiễn áp dụng ................................................................................................30
2.1.1. Tranh tụng của bị hại trong trường hợp vụ án được khởi tố theo thủ tục

chung và thực tiễn áp dụng ..............................................................................30
2.1.2. Tranh tụng của bị hại trong vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại và
thực tiễn áp dụng ..............................................................................................37
2.2. Quy định pháp luật về tranh tụng của bị hại trong giai đoạn điều tra và
thực tiễn áp dụng ................................................................................................42


2.2.1. Quy định pháp luật về tranh tụng của bị hại trong giai đoạn điều tra ..42
2.2.2. Thực tiễn áp dụng ...................................................................................45
2.3. Quy định pháp luật về tranh tụng của bị hại trong giai đoạn truy tố và
thực tiễn áp dụng ................................................................................................47
2.4. Quy định pháp luật về tranh tụng của bị hại trong giai đoạn xét xử và
thực tiễn áp dụng ................................................................................................48
2.4.1. Trong thủ tục bắt đầu tại phiên tòa ........................................................48
2.4.2. Trong thủ tục xét hỏi ..............................................................................54
2.4.3. Trong thủ tục tranh luận ........................................................................60
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................66
CHƯƠNG 3. KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRANH TỤNG CỦA BỊ
HẠI THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................67
3.1. Kiến nghị nâng cao hiệu quả tranh tụng của bị hại theo luật tố tụng hình
sự Việt Nam .........................................................................................................67
3.1.1. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quyền và nghĩa vụ cơ bản của bị hại
liên quan đến tranh tụng ..................................................................................67
3.1.2. Kiến nghị sửa đổi bổ sung về trình tự thủ tục tố tụng tranh tụng liên
quan đến bị hại .................................................................................................71
3.1.3. Kiến nghị hướng dẫn giải thích một số nội dung đang phát sinh vướng
mắc trong thực tiễn...........................................................................................73
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................77
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thì tranh tụng của bị hại đóng vai trị
quan trọng, khơng những góp phần nâng cao hiệu quả tranh tụng đảm bảo cho Hội
đồng xét xử giải quyết vụ án được đúng đắn, toàn diện và khách quan mà còn nhằm
nâng cao hiệu quả của đấu tranh phịng, chống tội phạm. Ngồi ra, tranh tụng của bị
hại sẽ góp phần đảm bảo quyền và lợi ích của bị hại. Tuy nhiên, vấn đề tranh tụng
của bị hại hiện nay chưa thật sự được quan tâm đúng mức cả về phương diện lý
luận, thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật.
Về mặt lý luận, tranh tụng ở nước ta trước đây không được khoa học pháp
lý quan tâm đúng mức, vấn đề tranh tụng ở nước ta còn là một vấn đề khá mới,
nhiều ý kiến tỏ rõ quan điểm không thừa nhận “tranh tụng” trong tố tụng hình sự
Việt Nam. Những năm gần đây, tranh tụng trong TTHS đã được quan tâm hơn,
tranh tụng được đề cập đến trong một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên
ngành, đặc biệt trong các văn kiện của Đảng. Điều này góp phần giúp Tịa án xác
định sự thật khách quan của vụ án, giải quyết đúng đắn vụ việc, đảm bảo sự công
bằng và bảo vệ quyền, lợi ích của các bên tham gia tố tụng, hướng đến xây dựng
một Nhà nước pháp quyền XHCN. Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị Ban Chấp hành
trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, đã nêu rõ: “Việc phán quyết của toà án
phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy
đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo,
nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra
những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn
quy định.” Tiếp đến, Nghị quyết 49 – NQ/TW năm 2005 của Bộ Chính trị ra đời
tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu cải cách tư pháp đến năm 2020. Vì vậy, nhiệm vụ cấp
bách của TTHS là cần nhanh chóng triển khai những mục tiêu mà các Nghị quyết

đã đặt ra. Sự tranh tụng trong BLTTHS năm 2003 đã được ghi nhận nhưng vẫn bị
các chuyên gia đánh giá là mang tính hình thức, còn nhiều thiếu sót, mâu thuẫn và
hơn hết là khơng đảm bảo tốt quyền con người. Xuất phát từ tầm quan trọng của
tranh tụng cũng như những hạn chế trong áp dụng tranh tụng của BLTTHS năm
2003, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được


2
bảo đảm” và gần đây nhất là BLTTHS năm 2015 được ban hành đã tiếp tục kế
thừa, sửa đổi và bổ sung những quy định về nâng cao chất lượng tranh tụng theo
yêu cầu của cải cách tư pháp. Như vậy, nguyên tắc tranh tụng đã được minh thị
trong văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu khoa
học, bài viết đề cập trực diện về tranh tụng của bị hại trong TTHS chưa nhiều và
một số quy định của BLTTHS năm 2015 về tranh tụng của bị hại còn nhiều bất
cập cần phải được nghiên cứu sửa đổi và hướng dẫn thi hành.
Về thực tiễn áp dụng, khả năng vận dụng một số quy định của BLTTHS năm
2015 về tranh tụng của bị hại vào điều kiện hồn cảnh nước ta cịn rất hạn chế.
Thêm vào đó, vấn đề tranh tụng và đặc biệt tranh tụng của bị hại chưa thật sự đạt
hiệu quả, bị hại tham gia tranh tụng còn hạn chế, thụ động. Vấn đề này chưa thực sự
được các nhà lập pháp, cơ quan có thẩm quyền THTT, người có thẩm quyền THTT
chú trọng. “Chủ thể bị thiệt hại do tội phạm gây ra, trong đó điển hình là người bị
hại, lẽ ra cần được bảo vệ kịp thời thì lại khơng được chú ý bảo vệ đúng mức”1. Vị
trí, vai trị của bị hại chưa được cơ quan có thẩm quyền THTT, người có thẩm
quyền THTT đánh giá tương xứng dẫn đến khơng bảo đảm đầy đủ các quyền và lợi
ích hợp pháp của bị hại theo Hiến pháp và pháp luật. Ngồi ra, cơ quan có thẩm
quyền THTT, người có thẩm quyền THTT chưa có cơ chế hữu hiệu bảo vệ bị hại
cũng như hỗ trợ chí phí để bị hại tham gia tranh tụng dẫn đến bị hại vắng mặt tại
phiên tịa, khơng tham gia tranh tụng trong q trình giải quyết vụ án gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến chất lượng của tranh tụng nói riêng và chất lượng giải
quyết vụ án hình sự nói chung.

Do đó, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn tranh tụng của bị hại mang tính
cấp thiết, giúp cơ quan có thẩm quyền THTT, người có thẩm quyền THTT xét xử
vụ án nhanh chóng, đúng pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm và nâng cao chất lượng
giải quyết vụ án hình sự, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích của bị hại. Mặt khác,
tranh tụng của bị hại đóng vai trị quan trọng trong định hướng cải cách tư pháp và
hoàn thiện pháp luật TTHS nước ta. Chính vì lý do đó, tác giả quyết định lựa chọn
đề tài: “Tranh tụng của bị hại theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài
nghiên cứu của mình.

1

Lê Nguyên Thanh (2010) “Quyền của người bị hại và vấn đề bảo vệ người bị hại trong tố tụng hình sự Việt
Nam”, Tạp chí khoa học pháp lý, số 6, tr.41.


3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thơng qua q trình nghiên cứu đề tài này, tác giả luận văn nhận thấy liên
quan đến đề tài tranh tụng của bị hại theo luật tố tụng hình sự Việt Nam đã có một
số cơng trình nghiên cứu chính sau đây:
- Lê Ngun Thanh (2012), “Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố
tụng hình sự”, luận án tiến sĩ luật học - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh. Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về người bị thiệt
hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự, bao gồm nguyên đơn dân sự và bị hại.
Đồng thời, tác giả đã đi sâu phân tích các quyền và nghĩa vụ của người bị thiệt hại
do tội phạm gây ra theo quy định của BLTTHS năm 2003 và làm sáng tỏ thực trạng
áp dụng pháp luật về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong TTHS. Qua đó, tác
giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hơn các quy định của BLTTHS năm
2003 về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong TTHS. Tác giả chia sẻ quan
điểm này của tác giả Lê Nguyên Thanh và đây cũng là điểm tích cực để tác giả học

tập, tham khảo khi thực hiện luận văn này. Tuy nhiên, luận án chưa phân tích một
cách sâu sắc về vấn đề tranh tụng của bị hại theo luật TTHS mà mới chỉ dừng lại ở
việc nghiên cứu các quyền và nghĩa vụ của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra
theo quy định của BLTTHS năm 2003.
- Nguyễn Trương Tín (2007), “Tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, luận văn thạc sĩ luật học Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là luận văn nghiên cứu một
cách có hệ thống về vấn đề tranh tụng tại phiên tòa HSST theo quy định của pháp
luật TTHS Việt Nam. Sau khi làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về tranh tụng trong
TTHS và phiên tòa HSST, hệ thống về các bên tranh tụng và vai trị của TA trong
q trình tranh tụng tại phiên tịa HSST, tác giả đã đi sâu phân tích những thiếu sót,
hạn chế trong các quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề này. Từ đó, tác giả
đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa
HSST theo quy định pháp luật TTHS Việt Nam. Tác giả tiếp thu quan điểm này của
tác giả Nguyễn Trương Tín và đây là một trong những nguồn tài liệu quan trọng
trong quá trình thực hiện luận văn này. Tuy nhiên, theo đánh giả của tác giả, nội
dung của luận văn vẫn chưa tập trung phân tích, đánh giá một cách tồn diện vấn đề
tranh tụng của bị hại trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.


4
- Nguyễn Trương Tín (2010), “Một số vấn đề về sự tham gia tranh tụng của
người bị hại và nguyên đơn dân sự tại phiên tịa hình sự sơ thẩm theo yêu cầu của
cải cách tư pháp” đăng trên Tạp chí luật học số 3. Đây là một bài viết mang tính
chất “tiểu nghiên cứu” liên quan trực tiếp đến nội dung của đề tài mà tác giả đang
nghiên cứu. Tuy nhiên, theo đánh giá của tác giả thì bài viết mới chỉ dừng lại ở việc
phân tích sự tham gia tranh tụng của bị hại tại phiên tòa HSST theo yêu cầu của cải
cách tư pháp, mà chưa đi sâu khai thác một cách toàn diện các vấn đề lý luận, thực
tiễn tranh tụng của bị hại trong tất cả các giai đoạn tố tụng cũng như tìm hiểu
nguyên nhân của vấn đề. Tác giả chia sẻ quan điểm này của tác giả Nguyễn Trương
Tín và luận văn sẽ kế thừa kết quả nghiên cứu trong bài viết này và tiếp tục phát

triển, mở rộng để nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện hơn về tranh tụng của bị hại
theo luật tố tụng hình sự Việt Nam.
- Nguyễn Thị Út (2011), “Sự có mặt của người bị hại tại phiên tịa hình sự sơ
thẩm – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, luận văn thạc sĩ luật học - Trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù luận văn này chưa nghiên cứu sâu về
vấn đề tranh tụng của bị hại nhưng tác giả học tập được ở luận văn này về vấn đề lý
luận của bị hại, sự tham gia của bị hại trong TTHS nói chung và tại phiên tịa HSST
nói riêng. Luận văn cũng đã tập trung vào thực trạng về sự tham gia của bị hại tại
phiên tịa HSST để từ đó đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả
TGTT của bị hại tại phiên tòa HSST.
- Trần Duy Bình (2010), “Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao
chất lượng tranh tụng tại phiên tịa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp”, luận
văn thạc sĩ luật học - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn đã
chỉ ra cái nhìn tổng quan về tranh tụng tại phiên tịa hình sự, đề cập đến quy định
của pháp luật và thực trạng hoạt động tranh tụng tại phiên tịa hình sự. Từ đó, tác
giả đã đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tịa
hình sự ở Việt Nam. Tác giả luận văn sẽ kế thừa những thành tựu mà luận văn này
đã đạt được và sẽ tiếp nối những vấn đề về tranh tụng tại phiên tòa cũng như tham
khảo một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng mà tác giả Trần Duy
Bình đã đề xuất. Tuy nhiên, luận văn này mới chỉ tập trung nghiên cứu tranh tụng
tại phiên tịa hình sự mà chưa phân tích tranh tụng trong các giai đoạn trước đó.
Hơn nữa, luận văn này cũng chưa đi sâu vào nghiên cứu tranh tụng của bị hại trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam.


5
- Nguyễn Ngọc Kiện (2017) “Thủ tục tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ
thẩm” được xuất bản tại Hà Nội đã trình bày tổng quát những vấn đề về tranh tụng tại
phiên tịa sơ thẩm đồng thời xốy mạnh vào thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tịa
HSST. Ơng đã trình bày một hệ thống tri thức khoa học phong phú về thực tiễn tranh

tụng tại phiên tịa HSST cũng như kết quả khảo sát tình hình tranh tụng và đưa ra
những giải pháp để hoàn thiện pháp luật TTHS. Ngoài ra, tác giả cũng đã khái quát
về vấn đề tranh tụng tại phiên tòa HSST của pháp luật TTHS một số quốc gia trên thế
giới (Hoa Kỳ, Cộng hòa Pháp, Nhật Bản, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa) và rút kinh
nghiệm đối với Việt Nam. Tác giả luận văn chia sẻ quan điểm của ông và đây sẽ là tài
liệu tham khảo để tác giả hiểu hơn về vấn đề tranh tụng của bị hại tại phiên tòa HSST
cũng như cơ sở tiếp thu các quy định tiến bộ của pháp luật các nước để kiến nghị các
giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tranh tụng của bị hại. Tuy nhiên, theo
đánh giá của tác giả, các nội dung liên quan đến tranh tụng của bị hại trong TTHS
chiếm một phần nội dung không lớn trong quyển sách và hơn nữa, tác giả Nguyễn
Ngọc Kiện chỉ trình bày tranh tụng tại phiên tịa HSST mà chưa nghiên cứu đến tranh
tụng của bị hại ở các giai đoạn của TTHS còn lại.
- Mai Thuận (2019), “Tranh luận của bị hại tại phiên tòa sơ thẩm theo luật
tố tụng hình sự Việt Nam”, luận văn thạc sĩ - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh. Tác giả Mai Thuận đã trình bày tồn diện, chun sâu các quy định của
pháp luật về tranh luận của bị hại tại phiên tịa sơ thẩm vụ án hình sự. Ơng đã trình
bày, đánh giá thực trạng tranh luận tại phiên tòa HSST của bị hại, người đại diện
của họ. Đồng thời, từ việc tìm ra nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong tranh
luận của bị hại, tác giả kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp
luật và tăng cường chất lượng tranh tụng của bị hại tại phiên tòa HSST. Đây là
những điểm tích cực mà tác giả luận văn học tập và kế thừa. Tuy nhiên, do giới hạn
về phạm vi nghiên cứu nên luận văn này chỉ dừng lại ở việc phân tích các vấn đề
pháp lý liên quan đến tranh luận của bị hại tại phiên tòa HSST trong trường hợp
thông thường và trong trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại mà chưa đi sâu
phân tích tranh tụng của bị hại trong tất cả các giai đoạn TTHS Việt Nam.
Sau khi khảo sát về tình hình nghiên cứu đề tài, những điểm đạt được và
chưa đạt được của một số cơng trình nghiên cứu, bài viết trên. Tác giả nhận thấy
các cơng trình nghiên cứu, bài viết nói trên đều thể hiện tính nghiêm túc trong học
thuật, lý luận đồng thời là những tài liệu quý giá, giúp cho tác giả xây dựng và hoàn



6
thiện các ý tưởng khoa học trong quá trình thực hiện luận văn này ở các góc độ và
mức độ khác nhau. Tuy nhiên, tính đến thời điểm tác giả tiếp cận, các nội dung
nghiên cứu trên đều gắn với hoạt động tranh tụng nói chung mà chưa có một cơng
trình nào nghiên cứu chun sâu về vấn đề tranh tụng của bị hại theo luật tố tụng
hình sự Việt Nam. Do đó, tác giả mạnh dạn nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần
vào việc hiểu sâu sắc hơn về lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của
BLTTHS năm 2015 về tranh tụng của bị hại đồng thời làm cơ sở cho việc kiến nghị
một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng của bị hại.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện cơng trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn làm rõ nhận thức
chung về tranh tụng của bị hại, đánh giá các quy định và thực tiễn áp dụng tranh
tụng của bị hại theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Từ đó, tác giả kiến nghị
một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về tranh tụng
của bị hại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm đạt được mục đích nêu trên, tác giả đặt ra nhiệm vụ tiên quyết đối với
đề tài mà tác giả nghiên cứu như sau. Thứ nhất, phân tích, làm rõ nhận thức chung
về tranh tụng của bị hại. Thứ hai, phân tích các quy định của BLTTHS năm 2015 về
tranh tụng của bị hại; đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về tranh
tụng của bị hại và chỉ ra những vướng mắc trên thực tế. Thứ ba, từ việc chỉ ra
những bất cập trong quy định của pháp luật TTHS, thực tiễn áp dụng tranh tụng của
bị hại để tác giả kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện các quy định của BLTTHS
năm 2015 về tranh tụng của bị hại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tranh tụng của bị hại theo luật tố tụng hình
sự Việt Nam, cụ thể là các vấn đề:

- Nhận thức chung về tranh tụng của bị hại;
- Quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng về tranh tụng của bị hại trong các
giai đoạn tố tụng hình sự;


7
- Kiến nghị nâng cao hiệu quả tranh tụng của bị hại theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để bảo đảm tính khoa học, luận văn có những giới hạn về phạm vi nghiên
cứu sau đây:
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật và thực tiễn
áp dụng pháp luật về sự tham gia tranh tụng của bị hại từ giai đoạn khởi tố, truy tố,
điều tra đến xét xử. Trong đó, tranh tụng của bị hại diễn ra trong giai đoạn xét xử
bao gồm xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm nhưng trong luận văn này, tác giả chỉ
nghiên cứu tranh tụng của bị hại trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm – giai đoạn
thể hiện đầy đủ nhất các yếu tố đặc trưng của tranh tụng tại phiên tòa.
- Về thời gian: Tác giả chọn mốc thời gian từ khi có chiến lược cải cách tư
pháp đến nay để làm khung thời gian nghiên cứu về tranh tụng của bị hại theo luật
tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả tập trung nghiên cứu quy định của
BLTTHS năm 2015 trên cơ sở phân tích và so sánh với các quy định của BLTTHS
năm 2003 có liên quan đến tranh tụng của bị hại. Sở dĩ tác giả chọn mốc thời gian
này vì đây là giai đoạn có sự chuyển biến mạnh mẽ về tranh tụng và đặc biệt,
BLTTHS năm 2015 đã ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
là nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp là
nền tảng tư tưởng để tác giả có thể tiếp cận, lý giải cũng như đánh giá toàn diện
khách quan những vấn đề cần nghiên cứu.

Do những hạn chế về nguồn thông tin của đối tượng nghiên cứu, cụ thể là
những số liệu thống kê, báo cáo từ phía cơ quan Nhà nước về sự tham gia tranh
tụng của bị hại là khơng có. Do đó, để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương
pháp bao gồm phương pháp phân tích, phương pháp liệt kê và tổng hợp, phương
pháp so sánh, kết hợp lý luận với thực tiễn để đưa ra những đánh giá một cách có hệ
thống về tranh tụng của bị hại. Mỗi mục, mỗi chương tác giả sử dụng những
phương pháp khác nhau hoặc kết hợp các phương pháp nhằm làm rõ những vấn đề
lý luận và pháp lý trọng tâm của từng mục, từng chương.


8
Tại chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, liệt kê, tổng hợp khi
trình bày các vấn đề lý luận về tranh tụng, đặc điểm tranh tụng và cơ sở tranh tụng
của bị hại.
Tại chương 2, tác giả luận văn sử dụng phương pháp phân tích, kết hợp lý
luận với thực tiễn để phân tích các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng
liên quan đến tranh tụng của bị hại theo luật tố tụng hình sự Việt Nam là phương
pháp chủ đạo. Đồng thời, tác giả so sánh lồng ghép một số quy định pháp luật của
một số quốc gia trên thế giới về vấn đề tranh tụng, về bị hại để rút ra kinh nghiệm
cho Việt Nam.
Và tại chương 3, phương pháp được tác giả sử dụng nổi bật nhất là phương
pháp phân tích, hệ thống để đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao tranh tụng của
bị hại và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến tranh tụng của bị hại.
Ngoài ra, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp để tóm tắt nội dung của mỗi
chương và đưa ra kết luận chung cho toàn luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
- Về mặt khoa học: Nghiên cứu đề tài này để làm rõ nhận thức chung về
tranh tụng của bị hại; phân tích những quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng về
tranh tụng của bị hại theo luật tố tụng hình sự Việt Nam. Từ đó, tác giả kiến nghị
giải pháp nâng cao hiệu quả tranh tụng của bị hại, đảm bảo quyền con người của bị

hại đồng thời đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta.
- Về giá trị ứng dụng của đề tài: Các kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ
sở để cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, vận dụng trong q trình hoàn thiện pháp
luật TTHS về tranh tụng của bị hại. Đồng thời, từ việc phát hiện những vướng mắc,
bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về tranh tụng của bị hại, luận
văn đề ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tranh tụng của bị hại, góp phần
bảo đảm cho q trình đấu tranh phịng, chống tội phạm, qua đó bảo vệ quyền và lợi
ích của con người khi TGTT.
Với ý nghĩa như vậy, những kết quả nghiên cứu của đề tài “tranh tụng của bị
hại theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” sẽ là một tài liệu tham khảo cho sinh viên,
các nhà nghiên cứu cũng như những người làm công tác thực tiễn muốn nghiên cứu,
tìm hiểu sâu hơn về tranh tụng của bị hại theo luật tố tụng hình sự Việt Nam.


9
7. Các vấn đề dự kiến giải quyết
Bố cục của luận văn bao gồm các nội dung sau: Mở đầu, nội dung, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo. Trong đó phần nội dung được kết cấu thành ba chương:
Chương 1. Nhận thức chung về tranh tụng của bị hại
Chương 2. Quy định pháp luật về tranh tụng của bị hại và thực tiễn áp dụng
Chương 3. Kiến nghị nâng cao hiệu quả tranh tụng của bị hại theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam.


10
CHƯƠNG 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TRANH TỤNG CỦA BỊ HẠI
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm tranh tụng
Tranh tụng được coi là linh hồn của tố tụng hình sự theo hệ thống pháp luật

án lệ và được các nuớc theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa tiếp thu. Tư tưởng
về tranh tụng xuất hiện từ thời kỳ Hy Lạp cổ đại, sau đó được đưa vào trong tố tụng
hình sự La mã và các quốc gia cổ đại khác ở châu Âu với tên gọi “thủ tục hỏi đáp
liên tục”(Elisabeth Pelsez) 2. Ở Việt Nam, vấn đề tranh tụng khơng cịn là vấn đề
mới mẻ, kể từ khi Nghị quyết về chiến lược cải cách tư pháp của Bộ Chính trị ra đời
đặt ra vấn đề về tranh tụng trong TTHS thì tranh tụng trở thành đề tài “nóng” trên
các diễn đàn khoa học pháp lý trong hơn mười lăm năm qua. Đặc biệt, Hiến pháp
năm 2013 và BLTTHS năm 2015 ra đời đã ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử được đảm bảo thành nguyên tắc cơ bản trong văn bản pháp lý Nhà nước, giữ vai
trị chi phối và định hướng cho tồn bộ hoạt động tố tụng và hành vi tố tụng của tất
cả các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, do hiện
nay chưa có văn bản nào quy định cụ thể khái niệm về “tranh tụng” nên vẫn tồn tại
nhiều quan điểm khác nhau và chưa có một khái niệm thống nhất mang tính pháp lý
về khái niệm tranh tụng trong văn bản luật TTHS Việt Nam.
Xét về góc độ thuật ngữ, theo từ điển tiếng Việt thì “Tranh tụng” là “sự kiện
cáo lẫn nhau” giữa bên nguyên đơn và bên bị đơn có lập trường tương phản, yêu
cầu Tòa án phân xử 3. Cịn theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ tranh tụng được ghép
từ hai từ “tranh luận” và “tố tụng”. Tranh tụng là tranh luận trong tố tụng. Trong
tiếng Anh, tranh tụng là “litigate against one another”4, tức là khởi kiện hay cáo
buộc người khác. Như vậy, về mặt thuật ngữ thì khái niệm tranh tụng được hiểu khá
giống nhau, “tranh tụng là sự kiện tụng, cáo buộc lẫn nhau giữa hai bên có lợi ích
đối lập nhau”.
2

Elisabeth Pelsez - Thẩm phán tại Tòa phúc thẩm Rouen, Cộng hòa Pháp: kỷ yếu hội thảo “Một số nội dung
về nguyên tắc tố tụng xét hỏi và tranh tụng- Kinh nghiệm của Pháp trong việc tuyển chọn, bồi dưỡng, bổ
nhiệm, quản lý thẩm phán” - Nhà pháp luật Việt – Pháp.
3

Trường Đại học Luật TP.HCM (2013), “Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Nxb. Hồng Đức – Hội

Luật gia Việt Nam, trang 54.
4
Ban biên soạn chuyên từ điển, New Era (2005), Từ điển Việt - Anh (Vietnamese - English Dictionary), Nxb.
Văn hoá thông tin, Hà Nội, tr.1142.


11
Xét về góc độ pháp lý, tranh tụng là một quá trình diễn ra trong hoạt động tố
tụng tư pháp có thể là tố tụng dân sự (nghĩa rộng bao gồm các lĩnh vực: dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động), tố tụng hành chính hoặc tố
tụng hình sự. Trong luận văn này, tác giả chỉ đề cập đến tranh tụng trong tố tụng
hình sự mà cụ thể là tranh tụng của bị hại theo luật tố tụng hình sự Việt Nam. Tranh
tụng xuất hiện khi có sự xung đột, mâu thuẫn về lợi ích giữa các bên trong cùng một
vấn đề và kết thúc khi vấn đề được giải quyết, thông qua một quyết định, bản án có
hiệu lực pháp luật của TA. Tùy thuộc vào mơ hình tố tụng của các nước trên thế
giới mà tranh tụng trong TTHS nói riêng sẽ có sự xuất hiện và kết thúc trong quá
trình tố tụng cũng như biểu hiện, đặc điểm tranh tụng là khác nhau.
Khi nghiên cứu về vấn đề này, tác giả nhận thấy có một số quan điểm tiêu
biểu về tranh tụng như sau:
Quan điểm thứ nhất, tác giả Lê Tiến Châu cho rằng “Về bản chất, tranh
tụng trong TTHS là quá trình cọ sát các quan điểm, lập luận về vụ án giữa các chủ
thể của bên buộc tội và bên bào chữa tham gia vào quá trình TTHS nhằm xác định
sự thật khách quan của vụ án, nhưng quá trình tranh tụng khơng đồng nhất với q
trình TTHS”5. Quan điểm này đã chỉ ra được tính chất mâu thuẫn đối lập giữa các
bên khi tham gia quá trình TTHS, mục đích của tranh tụng cũng như khẳng định
được quá trình tranh tụng khơng đồng nhất với q trình TTHS. Tuy nhiên, quan
điểm trên có điểm bất hợp lý khi cho rằng việc tranh tụng chỉ có chủ thể của bên
buộc tội và bên bào chữa tham gia, thực hiện các quyền một cách đơn phương theo
ý chí chủ quan của mình thì tranh tụng sẽ mang tính phiến diện, khơng chính thức.
Q trình tranh tụng ở đây cịn thiếu một chủ thể giữ vai trị quyết định đó là Tịa án

với tư cách là cơ quan tài phán - trọng tài có đủ điều kiện để xác định sự thật khách
quan của vụ án và ra bản án, quyết định căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa.
Theo tác giả luận văn, quá trình tranh tụng chỉ thực sự được tiến hành khi có sự hiện
diện đầy đủ bên buộc tội, bên gỡ tội dưới sự kiểm tra, giám sát của TA. Ngoài ra,
quan điểm trên chưa đề cập đến thời điểm xuất hiện tranh tụng cũng như chưa xem
xét tranh tụng dưới góc độ ngun tắc, mơ hình tố tụng.
Quan điểm thứ hai, tác giả Nguyễn Cảnh Hợp cho rằng “Tranh tụng là một
quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án đồng thời cũng là phương tiện để đạt
5

Lê Tiến Châu (2003) “Một số vấn đề về tranh tụng trong tố tụng hình sự” Tạp chí khoa học pháp lý, số 1, tr.41.


12
được mục đích và nhiệm vụ đặt ra của TTHS”6. Bản thân tôi cho rằng quan điểm này
chưa đầy đủ cơ sở để thuyết phục. Quan điểm này vừa có điểm hợp lý vừa có điểm
bất hợp lý. Điểm hợp lý là quan điểm này đã thể hiện được tranh tụng là phương tiện
để đạt được mục đích và nhiệm vụ đặt ra của Luật TTHS đồng thời cũng đề cập đến
tranh tụng xuất hiện ở tất cả giai đoạn của q trình TTHS. Chính vì vậy, tranh tụng
là tiền đề quan trọng để xác định sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, điểm bất
hợp lý trong quan điểm này là đã đồng nhất tranh tụng với quá trình xác định sự thật
khách quan của vụ án trong khi bản chất hai khái niệm này khác nhau là khơng chính
xác bởi q trình xác định sự thật khách quan về vụ án thực chất là quá trình chứng
minh tội phạm. Còn tranh tụng là một trong những phương tiện quan trọng, định
hướng cho tồn bộ q trình xác định sự thật khách quan của vụ án. Thêm vào đó,
quan điểm này cũng chưa khai thác tranh tụng dưới góc độ là một nguyên tắc cơ bản
của Luật TTHS, một mơ hình tố tụng và chưa phản ánh được chủ thể tham gia tranh
tụng cũng như tranh tụng xuất hiện trong những giai đoạn tố tụng nào.
Quan điểm thứ ba, tác giả Nguyễn Đức Mai cho rằng “tranh tụng chỉ là một
cuộc tranh luận (tranh cãi) về một vụ án bằng cách các bên tham gia đưa ra các lý

lẽ, chứng cứ và các văn bản pháp luật làm cơ sở cho việc buộc tội hay bào chữa
của mình để người thứ ba là Tòa án đứng giữa hai bên phân xử”7. Tác giả khơng
đồng tình với quan điểm này vì quan điểm này dường như đã đồng nhất tranh tụng
và tranh luận. Trong khi đó, bản chất của hai khái niệm này là hoàn toàn khác nhau.
Tranh tụng và tranh luận có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng tranh luận không
đồng nhất với tranh tụng. Tranh tụng là một q trình cịn tranh luận chỉ là một
phần (một thủ tục) của phiên tịa hình sự, mà trong đó bên buộc tội và bên bào chữa
đánh giá kết quả xét hỏi trên cơ sở phân tích và đánh giá pháp lý đối với hành vi
phạm tội của bị cáo, đề nghị HĐXX về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án. Tranh
luận chỉ là một thủ tục độc lập của phiên tịa hình sự sơ thẩm – phần thể hiện tập
trung, điển hình nhất của quá trình tranh tụng. Như vậy, tranh luận khơng đồng nhất
với tranh tụng và “tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm chỉ là đỉnh điểm của quá trình
tranh tụng đã được khởi động và bắt đầu trước đó rất nhiều”8.

6

Nguyễn Cảnh Hợp (2000), Các nguyên tắc của TTHS trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, kỷ
yếu đề tài khoa học cấp Trường, TP. HCM.
7
Nguyễn Đức Mai (1995), “Tranh tụng trong tố tụng hình sự”, Tạp chí nhà nuớc và pháp luật, số 1, tr.32.
8
Nguyễn Thái Phúc (2008), “Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng trong tố tụng hình sự theo yêu cầu
của cải cách tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8, tr.59.


13
Quan điểm thứ tư, tác giả Nguyễn Thái Phúc cho rằng tranh tụng là “một
quá trình tồn tại, vận động, đấu tranh nhằm phủ định lẫn nhau giữa hai chức năng
cơ bản (chức năng buộc tội và chức năng bào chữa), là hai chức năng có định
hướng ngược chiều nhau, đối trọng nhau, có quyền ngang nhau trong việc bảo vệ ý

kiến, lập luận, lợi ích mình và phản bác ý kiến, lập luận, lợi ích của phía bên kia mà
đỉnh điểm của quá trình này diễn ra tại phiên tịa sơ thẩm trước TA có vai trị trọng
tài”9. Đây cũng là quan điểm được nhiều học giả đồng tình. Cũng theo quan điểm
của ơng, “Hoạt động tố tụng hình sự từ cổ chí kim ln là hoạt động khơng tách rời,
gắn bó hữu cơ của ba chức năng: buộc tội, bào chữa, xét xử, sự tồn tại của chức
năng này tất yếu đòi hỏi sự tồn tại của chức năng kia, mỗi chức năng vận động và
tồn tại trong chừng mực tồn tại và vận động của chức năng còn lại”10. Giống như
hai mặt đối lập, chức năng buộc tội và chức năng bào chữa vận động không ngừng
từ thu thập chứng cứ, tư duy, lý luận nhằm đấu tranh bảo vệ ý kiến, lập luận, lợi ích
của mình đến phủ định ý kiến, lập luận, lợi ích của đối phương. Chính điều này tạo
nên sự đối lập, mâu thuẫn về quan điểm và lợi ích giữa các bên tranh tụng xuyên
suốt từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử và khi giải quyết các mâu
thuẫn, sự thật khách quan của vụ án cũng được hé mở. Sự mâu thuẫn này dẫn đến
việc đối chất, tranh tụng giữa hai nhóm chủ thể buộc tội và gỡ tội là điều tất yếu
nhằm phản bác quan điểm của bên đối lập để bảo vệ cho quan điểm của mình. Và
lúc này, xuất hiện Tịa án với nhiệm vụ là trọng tài phân xử hai bên để tìm ra sự thật
khách quan của vụ án. Quan điểm của tác giả Nguyễn Thái Phúc thể hiện đầy đủ
bản chất của tranh tụng dưới cả ba góc độ: Tranh tụng là một quá trình tồn tại, vận
động, đấu tranh nhằm phủ định lẫn nhau giữa hai chức năng cơ bản (chức năng
buộc tội và chức năng bào chữa); tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của TTHS
mang tính định hướng chỉ đạo hoạt động của các chủ thể thực hiện hoạt động TTHS
và tranh tụng là một mơ hình TTHS.
Như vậy, từ việc phân tích quan điểm của các nhà nghiên cứu cho thấy hiện nay
trong giới nghiên cứu đang tồn tại đa dạng các quan điểm về tranh tụng trong TTHS
với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Mỗi cách tiếp cận đều chứa đựng yếu tố hợp lý
riêng của nó. Sự đa dạng các quan điểm trong nghiên cứu và đổi mới cải tiến quan
điểm giúp chúng ta tiếp cận chân lý khách quan. Tác giả đồng tình với quan điểm về
9

Nguyễn Thái Phúc (2008), tlđd (8), tr.58.

Nguyễn Thái phúc (2003), “Dự thảo Bộ luật TTHS (sửa đổi) và nguyên tắc tranh tụng”, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, số 9, tr.5.
10


14
tranh tụng của tác giả Nguyễn Thái Phúc “tranh tụng là một quá trình tồn tại, vận
động, đấu tranh nhằm phủ định lẫn nhau giữa hai chức năng cơ bản (chức năng buộc
tội và chức năng bào chữa), là hai chức năng có định hướng ngược chiều nhau, đối
trọng nhau, có quyền ngang nhau trong việc bảo vệ ý kiến, lập luận, lợi ích mình và
phản bác ý kiến, lập luận, lợi ích của phía bên kia mà đỉnh điểm của q trình này diễn
ra tại phiên tịa sơ thẩm trước TA có vai trị trọng tài”, bởi lẽ quan điểm này đã khắc
phục hạn chế trong các quan điểm của những nhà nghiên cứu trước đó, nêu lên được
bản chất của tranh tụng, các chủ thể TGTT và nhấn mạnh rằng tranh tụng được thể hiện
đỉnh điểm là tại phiên tòa HSST. Đồng thời, tác giả đã xem xét tồn diện về tranh tụng
dưới cả ba góc độ khác nhau làm nổi bật được các đặc điểm của tranh tụng.
1.1.2. Khái niệm bị hại
Bị hại là một khái niệm cơ bản trong khoa học pháp lý TTHS. Tuy nhiên,
pháp luật TTHS của các nước trên thế giới chưa có sự thống nhất trong việc sử
dụng thuật ngữ bị hại. Trong khi luật TTHS của Cộng hòa Pháp, Liên bang Nga sử
dụng thuật ngữ “người bị hại” thì luật TTHS Cộng hịa nhân dân Trung Hoa thì
dùng thuật ngữ “người tố cáo”. Ngồi ra, người bị hại cịn được gọi là “người bị
thiệt hại”, hay gọi là “nạn nhân”, hay “dân sự nguyên cáo”. Do đó, để nhận thức
đầy đủ và thống nhất về khái niệm bị hại, tác giả tiếp cận khái niệm này dưới những
góc độ khác nhau như sau:
Theo cách hiểu thơng thường thì “người bị hại là con người cụ thể trong xã
hội, chịu sự tác động tiêu cực của sự việc, hành vi hoặc bất kỳ sự tác động nào khác
khác dẫn đến những thiệt thịi, mất mát hay tổn thương cho chính họ”. Tất nhiên sự
tác động đó là trái với ý muốn của người bị hại và họ tiếp nhận một cách thụ động.
Thiệt hại gây ra cho người bị hại có thể là thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất và

không cần giới hạn mức độ thiệt hại.
Theo từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, người bị hại là “người bị thiệt hại
về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra. Người bị hại chỉ có thể
là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản
chứ không thể là pháp nhân”. 11
Theo quy định pháp luật Việt Nam, khái niệm bị hại cũng đã có sự thay đổi
nhất định. BLTTHS năm 2003 quy định “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể
11

Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thụât ngữ luật học, Nhà xuất bản Cơng an nhân dân.


15
chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”12. Khái niệm này dựa trên cơ sở “người
bị hại” là đề cập đến con người cụ thể. Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất,
tinh thần, tài sản do hành vi phạm tội gây ra, mà thiệt hại về thể chất, tinh thần thì
chỉ có thể gắn liền với con người - một cá nhân cụ thể, thiệt hại này không thể xảy
ra đối với pháp nhân hay tổ chức. Do đó, “Nếu tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây
ra thì đó chỉ có thể là nguyên đơn dân sự”13. Đây được xem là quan điểm “truyền
thống” về người bị hại vì được giải thích theo quy định của BLTTHS14. Khái niệm
này tiếp tục được BLTTHS năm 2015 kế thừa, sửa đổi nhằm phù hợp với tình hình
tội phạm thực tế. Theo đó, Điều 62 BLTTHS năm 2015 “Bị hại là cá nhân trực tiếp
bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài
sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”. Như vậy, khái niệm bị hại
ngoài chủ thể là cá nhân thì cịn mở rộng thêm chủ thể là cơ quan, tổ chức. Đặc biệt,
“khái niệm về thiệt hại đã khơng cịn bó hẹp như trước đây (thiệt hại phải là hữu
hình đã xảy ra trên thực tế) mà thiệt hại hiện nay cịn có thể là những thiệt hại vơ
hình mà chúng ta khơng thấy được đó chính là uy tín, danh dự,…”15. Tức là cần
phải quan niệm khái niệm bị hại theo “nghĩa rộng của thuật ngữ này”16 và thiệt hại
của bị hại tương ứng với chủ thể, bao gồm: Cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất,

tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín. Cơ sở cho
khái niệm này, trong thực tế hành vi phạm tội không chỉ gây ra thiệt hại cho cá nhân
mà còn gây thiệt hại cho pháp nhân, tổ chức. Thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra
cho pháp nhân rất đa dạng, không thuần túy là thiệt hại về tài sản mà cịn là uy tín
trong kinh doanh. Khái niệm bị hại này góp phần đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích
hợp pháp của bị hại, giải quyết được vướng mắc, bất cập khi bị hại là cơ quan, tổ
chức trong thực tế thi hành BLTTHS năm 2003.
Tác giả nhận thấy, mỗi quan điểm trên đều chứa đựng yếu tố hợp lý riêng của
nó. Tác giả đồng ý với quan điểm “bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể
chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội
12

Điều 51 BLTTHS năm 2003.
Lê Nguyên Thanh (2012), Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự Việt Nam, luận án
tiến sĩ, Trường Đại học Luật TP. HCM, tr.26.
14
Vũ Gia Lâm (2011), “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam”, Tạp chí Luật học, (11), tr.29.
15
Võ Thị Kim Oanh, Trịnh Duy Thuyên (2015), “Một số vấn đề về lấy lời khai bị hại”, Kỷ yếu tọa đàm Nạn
nhân của tội phạm trong hệ thống tư pháp hình sự, tr.65.
16
Nguyễn Tất Viễn (2005), “Người tham gia tố tụng”, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
NXB Tư pháp.
13


16
phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra” như quy định trong BLTTHS năm 2015. Bởi vì
quan điểm này đã khắc phục hạn chế của BLTTHS năm 2003, xác định rõ ràng về

tư cách TGTT của cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra
hoặc đe dọa gây ra, đem lại nhiều khả năng hơn trong việc bảo vệ tài sản của các cơ
quan, tổ chức, đặc biệt là tài sản của Nhà nước cũng như góp phần đấu tranh phịng,
chống tội phạm đối với các tội phạm mà bị hại là pháp nhân ở nước ta hiện nay.
Về khái niệm tranh tụng của bị hại, tranh tụng của bị hại là gì, tranh tụng của
bị hại có những đặc điểm nào, đến thời điểm hiện nay chưa được các nhà khoa học
cũng như các văn bản pháp luật định nghĩa nhưng trên cơ sở vấn đề lý luận về tranh
tụng của bị hại mà tác giả đã phân tích và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm, tác giả mạnh dạn rút ra khái niệm về tranh tụng của bị hại như sau:
“Tranh tụng của bị hại là tổng hợp các hoạt động của bị hại được thực hiện
trong suốt quá trình tố tụng từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử trên cơ
sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm bảo vệ ý kiến, lập luận, lợi ích của bị
hại và phản bác ý kiến, lập luận, lợi ích của phía bên kia trong vụ án hình sự để
thuyết phục các thành viên Hội đồng xét xử tin rằng ý kiến, lập luận, lợi ích của
mình là đúng”.
1.2. Đặc điểm của tranh tụng của bị hại
1.2.1. Tranh tụng của bị hại là tổng hợp các hoạt động của bị hại, nhằm bảo
vệ quyền, lợi ích của bị hại
Tranh tụng của bị hại là tổng hợp các hoạt động của bị hại thực hiện trong
suốt quá trình tố tụng được quy định tại Điều 62 và rải rác tại một số điều luật khác
của BLTTHS năm 2015 bao gồm hoạt động đề nghị thay đổi người có thẩm quyền
THTT (Điều 50), hoạt động khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại (Điều
155), hoạt động đối chất (Điều 189), hoạt động nhận dạng (Điều 190), hoạt động
kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm (Điều 231), hoạt động trình bày ý kiến
để bảo vệ quyền và lợi ích của mình (khoản 3 Điều 320), trình bày, bổ sung ý kiến
sau khi Kiểm sát viên trình bày luận tội khi vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị
hại (khoản 4 Điều 320)…. Theo quan sát của tác giả, quy định pháp luật TTHS về
các hoạt động của bị hại để đảm bảo tranh tụng của họ ngày càng mở rộng và hồn
thiện hơn góp phần tăng tính chủ động, tích cực tham gia tranh tụng của bị hại trong
quá trình giải quyết vụ án. Các hoạt động tranh tụng của bị hại nói trên cho thấy bị



17
hại có lập trường riêng, họ được quyền tham gia các hoạt động tranh tụng mà không
phụ thuộc vào bất kỳ chủ thể nào đồng thời các hoạt động của bị hại nói trên khi
tham gia tranh tụng phải dựa trên cơ sở của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm tại Điều 26 BLTTHS 2015.
Về cách thức tranh tụng, pháp luật TTHS quy định bị hại có thể tranh tụng
trực tiếp với bị cáo hoặc người bào chữa bằng ba cách thức: Một là, trình bày các ý
kiến, quan điểm về các nội dung của vụ án; Hai là, đưa ra chứng cứ, tài liệu có liên
quan để chứng minh; Ba là, đưa ra lập luận để bảo vệ quan điểm của mình và phản
bác quan điểm của bị cáo hoặc người bào chữa. 17 Như vậy, cách thức tranh tụng của
bị hại không bao gồm quyền được thu thập chứng cứ như cơ quan có thẩm quyền
THTT, người bào chữa 18 mà khoản 3 Điều 88 BLTTHS năm 2015 chỉ quy định bị
hại có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn
đề có liên quan đến vụ án.
Điểm khác biệt trong tranh tụng của bị hại với các chủ thể TGTT khác đó là
tranh tụng của bị hại được thể hiện qua việc bị hại trình bày lời buộc tội tại phiên
tòa trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Sở dĩ có quy định
này vì phù hợp với quy định cho phép bị hại lựa chọn quyền yêu cầu khởi tố hoặc
khơng khởi tố vụ án thì việc trình bày lời buộc tội của bị hại trong vụ án khởi tố
theo yêu cầu của bị hại nhằm thể hiện ý chí, nguyện vọng của họ góp phần bảo vệ
tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại và là một trong các cơ sở quan trọng để
Toà án xem xét ra bản án, quyết định đúng đắn, khách quan.
Ngoài ra, mục đích và giá trị pháp lý tranh tụng của cơ quan có thẩm quyền
THTT, người có thẩm quyền THTT, người TGTT với bị hại là khác nhau. Cơ quan
có thẩm quyền THTT, người có thẩm quyền THTT tham gia tranh tụng nhân danh
Nhà nước, thực hiện chức năng của mình nhằm mục đích truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích xã hội và lợi ích của
cơng dân cịn người tham gia tranh tụng hướng đến các mục đích tranh tụng khác

nhau, chẳng hạn: trong khi bị cáo và người bào chữa thực hiện tranh tụng nhằm
thực hiện chức năng gỡ tội cho bị cáo, nguyên đơn dân sự tham gia tranh tụng chủ
yếu nhằm yêu cầu bồi thường thiệt hại thì bị hại tham gia tranh tụng nhân danh cá
17

Mai Thuận (2019), Tranh luận của bị hại tại phiên tòa sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, luận
văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật TP. HCM, tr.14.
18
Xem thêm khoản 1, khoản 2 Điều 88 BLTTHS năm 2015.


18
nhân, họ đứng ra thực hiện các hoạt động tranh tụng nhằm chống lại bị can, bị cáo
và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Điều này dẫn đến hệ quả tất yếu là giá
trị pháp lý tranh tụng của bị hại chỉ mang tính chất tham khảo để Tịa án cân nhắc ra
các quyết định của mình trong hoạt động xét xử chứ khơng có tính pháp lý bắt buộc.
Bị hại thực hiện các hoạt động tranh tụng vì quyền, lợi ích của cá nhân chứ khơng
có trách nhiệm chứng minh tội phạm mà trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng 19 - cơ quan nhân danh quyền lực Nhà nước
trong giải quyết vụ án hình sự. Theo Điều 298 BLTTHS năm 2015 về giới hạn xét
xử thì “Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm
sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử”. Như vậy, giá trị tranh tụng
của VKS là một trong những căn cứ quan trọng để Tòa án xét xử bị cáo theo tội
danh mà VKS truy tố và không bao gồm kết quả tranh tụng của bị hại trước đó. Sở
dĩ có quy định này là vì TTHS ở nước ta vận hành chủ yếu theo nguyên tắc cơng tố,
nghĩa là VKS nhân danh Nhà nước tồn quyền quyết định việc buộc tội. Và lúc này,
buộc tội với tư cách là một chức năng tố tụng, nhằm chống lại một cá nhân cụ thể
và thực chất đó chính là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
1.2.2. Tranh tụng của bị hại là một quá trình trải qua các giai đoạn tố tụng

khác nhau
Tranh tụng của bị hại là một q trình, có điểm khởi đầu và điểm kết thúc. Về
thời điểm tranh tụng xuất hiện, hiện nay tồn tại nhiều ý kiến khác nhau: Tác giả Lê
Tiến Châu nhận định: “Quá trình tranh tụng chỉ thực sự được tiến hành khi có sự
hiện diện đầy đủ các bên buộc tội, bên bào chữa dưới sự kiểm tra, giám sát của Tịa
án… Chính vì vậy mà q trình này chỉ có thể được bắt đầu từ giai đoạn xét xử, đặc
biệt là xét xử sơ thẩm tại phiên tịa 20”. Tuy nhiên, cũng có quan điểm khác cho
rằng tranh tụng bắt đầu từ giai đoạn sớm hơn: “Tranh tụng thường bắt đầu khi có
quyết định khởi tố bị can và kết thúc khi bản án về vụ án đã có hiệu lực pháp
luật”21. Các quan điểm trên đều đã đưa ra các lập luận của mình để bảo vệ cho quan
điểm của mình. Tác giả đồng tình với quan điểm “tranh tụng bắt đầu khi có quyết
19

Điều 15 BLTTHS năm 2015 quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng”.
20
Lê Tiến Châu (2003), tlđd (5), tr. 41-42
21
Nguyễn Đức Mai (1995), Vấn đề tranh tụng hình sự, Kỷ yếu Đề tài khoa học cấp bộ của Viện khoa học
kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội, tr. 29-30.


19
định khởi tố bị can” bởi lẽ đây là thời điểm chính thức buộc tội một người cụ thể
khi có các căn cứ chứng minh người đó đã thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp, tranh tụng bắt đầu từ thời điểm sớm hơn, cụ thể như: khi
người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố tiếp xúc với cơ quan THTT đầu tiên hoặc khi
có người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả
tang. Lúc này, người bị buộc tội vẫn chưa nhận được lời buộc tội chính thức kéo
theo chưa xuất hiện bên gỡ tội và đồng thời chưa thể bắt đầu quá trình tranh tụng

trong TTHS. Khi cơ quan THTT tiếp nhận tố giác, tin báo, kiến nghị và tiến hành
tiếp xúc với người bị tố giác, kiến nghị, người này nhận được sự buộc tội và sự bào
chữa cũng được bắt đầu thể hiện qua các quyền như quyền im lặng, khơng khai
những gì bất lợi cho họ hoặc quyền tự mình hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình,… Khi đó, tranh tụng được hình thành 22. Cịn thời điểm
kết thúc tranh tụng, tác giả luận văn đồng ý với tác giả Lê Tiến Châu: “Chức năng
buộc tội kết thúc khi việc chứng minh buộc tội của VKS hoặc của người bị hại đã
được Toà án chấp nhận hay bác bỏ bằng hình thức bản án hoặc quyết định có hiệu
lực pháp luật23”. Bởi trước khi TA ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thì
chức năng buộc tội vẫn hoạt động thông qua các chủ thể thực hiện chức năng buộc
tội. Các bên TGTT vẫn có thể bổ sung chứng cứ, tiếp tục đưa ra các ý kiến, tranh
luận với nhau về những vấn đề liên quan đến vụ án.
Trong tố tụng hình sự, tranh tụng của bị hại là một quá trình trải qua các giai
đoạn tố tụng khác nhau, mỗi giai đoạn bị hại tham gia tranh tụng với biểu hiện cũng
như mức độ tham gia tranh tụng khác nhau. Điều 26 BLTTHS năm 2015 quy định
“Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên,
người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và
người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ,
đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án”. Như
vậy, BLTTHS năm 2015 đã khẳng định quá trình tranh tụng nói chung và tranh tụng
của bị hại khơng chỉ tồn tại ở giai đoạn xét xử - nơi có sự hiện diện đầy đủ của ba
bên: bên buộc tội, gỡ tội và xét xử mà còn diễn ra trong suốt quá trình tố tụng khác
như giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố. Tranh tụng của bị hại là một quá trình trải
qua các giai đoạn tố tụng khác nhau sẽ được tác giả phân tích chi tiết ở chương 2
22

Nguyễn Ngọc Hiển (2017), “Tranh tụng tại phiên tồ hình sự sơ thẩm: Nghiên cứu so sánh pháp luật tố
tụng hình sự Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt Nam”, luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật TP. HCM, tr.21.
23
Lê Tiến Châu (2003), tlđd (5), tr.41-42.



×