Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm về giữ gìn vệ sinh công cộng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯƠNG THỊ TÚ MỸ

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI
HÀNH VI VI PHẠM VỀ GIỮ GÌN VỆ SINH CÔNG CỘNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI
HÀNH VI VI PHẠM VỀ GIỮ GÌN VỆ SINH CƠNG CỘNG

Chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Định hướng nghiên cứu
Mã số chuyên ngành: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: TS. CAO VŨ MINH
Học viên: TRƯƠNG THỊ TÚ MỸ
Lớp: Cao học Luật Hành chính, Khóa 27

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài: “Xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi vi phạm về giữ gìn vệ sinh cơng cộng” là cơng trình nghiên cứu khoa học độc
lập của riêng tơi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ cơng trình nào trước đây.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 12 năm 2019
Người cam đoan

Trương Thị Tú Mỹ


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC VI PHẠM VỀ GIỮ GÌN VỆ SINH CƠNG CỘNG .............. 7
1.1. Vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng .............................................. 7
1.1.1. Khái niệm “vệ sinh công cộng”............................................................................ 7
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng .............. 9
1.1.3. Vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng - một loại vi phạm hành
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội ........................................................ 19
1.2. Xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về giữ gìn vệ sinh cơng
cộng ................................................................................................................................... 25
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về giữ
gìn vệ sinh cơng cộng ........................................................................................................ 25
1.2.2. Mục đích xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về giữ gìn vệ sinh
công cộng .......................................................................................................................... 30
1.2.3. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về giữ gìn vệ sinh
cơng cộng .......................................................................................................................... 32

1.2.4. Hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành
chính đối với các vi phạm về giữ gìn vệ sinh công cộng................................................... 37
1.2.5. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về giữ gìn vệ
sinh công cộng................................................................................................................... 41
1.2.6. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về giữ gìn vệ sinh
công cộng .......................................................................................................................... 43
1.2.7. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về giữ gìn vệ sinh
cơng cộng .......................................................................................................................... 45
Kết luận Chương 1 .......................................................................................................... 48
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC VI PHẠM VỀ GIỮ GÌN
VỆ SINH CƠNG CỘNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN ........................ 50
2.1 Tình hình vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng và ngun nhân 50
2.1.1. Tình hình vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng ............................. 50


2.1.2. Nguyên nhân của vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng ................. 52
2.2. Thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm
về giữ gìn vệ sinh cơng cộng và giải pháp hồn thiện .................................................. 55
2.2.1. Những mặt tích cực ............................................................................................. 55
2.2.2. Những vướng mắc, bất cập và giải pháp hoàn thiện .......................................... 58
2.3. Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về giữ gìn vệ
sinh cơng cộng và giải pháp hồn thiện......................................................................... 71
2.3.1. Những mặt tích cực ............................................................................................. 71
2.3.2. Những hạn chế và giải pháp hoàn thiện ............................................................. 72
Kết luận Chương 2 .......................................................................................................... 82
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
An ninh, trật tự, an tồn xã hội ln là những vấn đề mang tính thời sự, là mối
quan tâm hàng đầu của tồn thể cộng đồng. Sở dĩ như vậy vì đây là lĩnh vực có ảnh
hưởng trực tiếp đến cuộc sống thường ngày của con người và là điều kiện tất yếu để
bảo đảm cuộc sống cho người dân. Do đó, xử phạt vi phạm hành chính nói chung và xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an tồn xã hội nói riêng là biện
pháp quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước nhằm bảo đảm cho mọi người an
tâm sinh hoạt, lao động, sản xuất, bảo vệ sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ
xã hội, xây dựng một xã hội văn hóa, văn minh đồng thời duy trì trật tự, kỷ cương của
nhà nước.
Trong cuộc sống hằng ngày, môi trường đóng vai trị rất quan trọng đối với con
người. Do đó, bảo vệ mơi trường và giữ gìn vệ sinh công cộng là nghĩa vụ của mọi
người. Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, đồng thời ngăn chặn, phịng ngừa, xử phạt các vi phạm hành chính về giữ
gìn vệ sinh cơng cộng, ngày 12/11/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số
167/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật
tự, an tồn xã hội; phịng chống tệ nạn xã hội; phịng cháy và chữa cháy; phịng, chống
bạo lực gia đình. Theo đó, Điều 7 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định việc xử
phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về giữ gìn vệ sinh cơng cộng. Bên cạnh
tiến bộ đạt được thì những quy định hiện hành liên quan đến xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi vi phạm về giữ gìn vệ sinh cơng cộng vẫn còn nhiều bất cập.
Nhiều quy định pháp luật chưa cụ thể, rõ ràng, từ đó gây khó khăn trong việc áp dụng
vào thực tiễn.
Hiện nay, các hành vi vi phạm quy định pháp luật về giữ gìn vệ sinh cơng cộng
như: thải rác thải sinh hoạt; tiểu tiện, đại tiện không đúng nơi quy định; nuôi gia súc,

gia cầm gây mất vệ sinh công cộng ở khu dân cư, đường phố… vẫn diễn ra hàng ngày,
hàng giờ. Mặc dù pháp luật đã quy định rõ ràng về chế tài nhưng do thực hiện khơng
nghiêm nên tình trạng vi phạm vẫn cứ tái diễn. Bằng chứng là hàng ngày, hàng giờ
chúng ta vẫn thấy tràn ngập rác trên trên vỉa hè, đường phố. Từ rác thải sinh hoạt (bao


2

thuốc lá, giấy vệ sinh, túi nilon) đến rác thải công nghiệp đang phá hủy môi trường
sống của con người một cách nghiêm trọng.
Vi phạm các quy định về giữ gìn vệ sinh cơng cộng khơng những vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà còn vi phạm các quy định về bảo
vệ môi trường. Môi trường công cộng bị ô nhiễm không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khỏe con người, lây lan các dịch bệnh nguy hiểm mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng
đến vẻ mỹ quan của môi trường sống. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay, chúng ta đang từng bước xây dựng đời sống văn hóa, văn minh thì vấn đề về
vệ sinh ở nơi cơng cộng là rất quan trong. Do đó, các vi phạm hành chính về giữ gìn vệ
sinh cơng cộng cần phải được xử phạt kịp thời, nghiêm minh và triệt để, từ đó góp
phần bảo vệ mơi trường sống của con người. Chính vì vậy, việc nghiên cứu để hồn
thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm về giữ gìn vệ
sinh cơng cộng là một vấn đề cấp thiết, góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người
dân trong việc bảo vệ môi trường. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề
tài “Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm về giữ gìn vệ sinh cơng
cộng” để làm Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thơng qua q trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy liên quan đến đề tài của mình
đã có một số cơng trình nghiên cứu sau đây:
Xử phạt vi phạm hành chính là vấn đề ln có tính thời sự và được nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu. Do đó, có khá nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu vấn đề này
cả về lý luận cũng như thực tiễn. Xét ở góc độ nghiên cứu các vấn đề mang tính lý luận

chung, đã có các cơng trình khoa học: “Chế tài hành chính - Lý luận và thực tiễn”Luận án phó tiến sĩ Luật học của tác giả Vũ Thư năm 1995; bài viết “Một số vấn đề
hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính” của tác giả Lê Vương Long
đăng trên Tạp chí Luật học số 9 năm 2003; bài viết “Thủ tục xử phạt vi phạm hành
chính” của tác giả Bùi Thị Đào đăng trên Tạp chí Luật học số 9 năm 2003; bài viết
“Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Luật Xử lý vi phạm
hành chính” của tác giả Nguyễn Ngọc Bích đăng trên Tạp chí Luật học số 12 năm
2013; bài viết “Hệ thống chế tài xử phạt vi phạm hành chính, những bất cập và hướng
hồn thiện” của tác giả Bùi Xuân Đức đăng trên Tạp chí Luật học số 5 năm 2009; bài


3

viết “Luật Xử lý vi phạm hành chính - bước tiến mới của pháp luật xử lý vi phạm hành
chính và một số vấn đề cần trao đổi” của tác giả Bùi Thị Đào đăng trên Tạp chí Luật
học số 6 năm 2014... Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nói trên đều xem xét vấn
đề xử phạt vi phạm hành chính dưới các góc độ, mức độ khác nhau. Các cơng trình
khoa học đó đã đem lại những giá trị khoa học quý giá ở góc độ lý luận cũng như thực
tiễn, là tài liệu tham khảo hữu ích về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính đối với hành
vi vi phạm về giữ gìn vệ sinh cơng cộng.
Sách chuyên khảo “Bình luận khoa học Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012” do PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp làm chủ biên, Nhà xuất bản Hồng Đức năm
2017. Đây là cơng trình nghiên cứu, bình luận chun sâu các quy định của Luật Xử lý
vi phạm hành chính năm 2012, trong đó có các quy định về xử phạt vi phạm hành
chính nói chung. Tuy nhiên, nội dung của tác phẩm chỉ dừng lại ở góc độ bình luận các
điều luật trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 chứ chưa phân tích, đánh giá,
bình luận một cách toàn diện các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính đối với các vi phạm về giữ gìn vệ sinh cơng cộng. Đây là cơ sở quan trọng để tác
giả tiếp tục phát triển, mở rộng phân tích, đánh giá một cách đầy đủ, chi tiết hơn các
quy định của pháp luật liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi
phạm về giữ gìn vệ sinh cơng cộng.

Khóa luận tốt nghiệp “Pháp luật về vệ sinh nơi công cộng: thực trạng và hướng
giải quyết”, của tác giả Nguyễn Thị Lương, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh năm 1999. Bài viết này chủ yếu nghiên cứu ở khía cạnh những vấn đề về pháp
luật vệ sinh công cộng chứ chưa nghiên cứu vấn đề về xử phạt vi phạm hành chính đối
với các vi phạm về giữ gìn vệ sinh nơi công cộng một cách cụ thể. Bài viết “Một số
vấn đề về xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm bảo vệ môi trường nơi công
cộng” của tác giả Nguyễn Văn Phương đăng trên Tạp chí mơi trường số 03 năm 2017.
Bài viết này trình bày một cách khái quát về xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi
phạm về giữ gìn vệ sinh nơi cơng cộng với tính chất là một loại vi phạm trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường, điều kiện để cơ quan nhà nước thực thi và người dân tuân thủ các
quy định của pháp luật về giữ gìn vệ sinh nơi công cộng. Tuy nhiên, bài viết chưa đi
sâu vào phân tích thực trạng cũng như đánh giá các quy định pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi vi phạm về giữ gìn vệ sinh công cộng.


4

Bài viết “Bất cập và hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường” của tác giả Cao Vũ Minh đăng trên Tạp
chí Khoa học pháp lý số 6 năm 2017. Bài viết này mặc dù phân tích khá chuyên sâu
nhưng chỉ mới dừng lại ở các vấn đề nhỏ, mang tính chất “tiểu nghiên cứu” liên quan
đến xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi gây ơ nhiễm môi trường. Cụ thể bài
viết chỉ mới tập trung phân tích một số bất cập trong các quy định pháp luật liên quan
đến xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường chứ chưa đánh giá một cách
toàn diện, tổng thể các vấn đề về mặt lý luận, pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng. Trên
cơ sở kết quả nghiên cứu này, tác giả sẽ kế thừa và tiếp tục phát triển, mở rộng để
nghiên cứu một cách chun sâu, tồn diện các vấn đề có liên quan đến xử phạt vi
phạm hành chính đối với các vi phạm về giữ gìn vệ sinh cơng cộng.
Bài viết “Xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về giữ gìn vệ sinh
cơng cộng - Vướng mắc và hướng hoàn thiện” của tác giả Trương Thị Tú Mỹ đăng

trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 18 năm 2019. Bài viết phân tích một cách chuyên
sâu những bất cập trong các quy định của pháp luật đối với xử phạt vi phạm hành chính
về giữ gìn vệ sinh cơng cộng, từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện. Tuy nhiên, bài
viết này chỉ dừng lại ở góc độ nghiên cứu các quy định của pháp luật chứ chưa nghiên
cứu một cách toàn diện cơ sở pháp lý và lý luận của xử phạt vi phạm hành chính về giữ
gìn vệ sinh cơng cộng cũng như thực trạng hoạt động xử phạt vi phạm hành chính về
giữ gìn vệ sinh cơng cộng hiện nay. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu này, tác giả sẽ tiếp
tục kế thừa, phát triển, nghiên cứu một cách cụ thể, tồn diện các vấn đề có liên quan
đến xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm về giữ gìn vệ sinh cơng cộng.
Như vậy, thơng qua quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy chưa có cơng trình
nào nghiên cứu một cách cụ thể, riêng biệt và toàn diện về vấn đề xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi vi phạm về giữ gìn vệ sinh cơng cộng với tính chất là một
loại vi phạm trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an tồn xã hội. Qua đó có thể thấy rằng, đề
tài “Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm về giữ gìn vệ sinh cơng
cộng” là một đề tài mới và phù hợp với chuyên ngành nghiên cứu của mình.
3. Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài là nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, phân tích,
đánh giá một cách tồn diện các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn xử phạt vi


5

phạm hành chính đối với hành vi vi phạm về giữ gìn vệ sinh cơng cộng. Trên cơ sở đó,
đề tài đưa ra những đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi này cũng như công tác thi hành pháp luật trên thực tế.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội bao gồm
nhiều hành vi như: Vi phạm các quy định về trật tự cơng cộng; Vi phạm các quy định
về giữ gìn vệ sinh công cộng; Vi phạm các quy định về bảo đảm sự yên tĩnh chung; Vi
phạm các quy định về đăng ký, quản lý cư trú; Vi phạm các quy định về quản lý, sử
dụng giấy chứng minh nhân dân; Vi phạm các quy định về quản lý sử dụng vũ khí, vật

liệu nổ, cơng cụ hỗ trợ, pháo và đồ chơi nguy hiểm bị cấm; Vi phạm các quy định về
quản lý ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự; Vi phạm quy định về
gây thiệt hại đến tài sản của người khác… Tuy nhiên trong phạm vi đề tài, tác giả giới
hạn phạm vi nghiên cứu là xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm về giữ
gìn vệ sinh công cộng. Các hành vi khác, tác giả chỉ mang tính nghiên cứu so sánh (nếu
có) chứ khơng phân tích sâu.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp phân tích luật viết; phương
pháp so sánh; phương pháp thống kê; phương pháp chuyên gia và phương pháp điều tra
xã hội học. Cụ thể:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng xuyên suốt trong toàn bộ luận
văn để phân tích các quy định của pháp luật về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi vi phạm về giữ gìn vệ sinh cơng cộng, đồng thời phân tích
những hạn chế trong quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật.
- Phương pháp phân tích luật viết được sử dụng để phân tích các bất cập trong
các quy định pháp luật liên quan đến các vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng
cộng bị xử phạt, các hình thức xử phạt, các biện pháp khắc phục hậu quả áp dụng đối
với các vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng.
- Phương pháp so sánh được sử dụng trong đánh giá các quy định của pháp luật
về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm về giữ gìn vệ sinh công cộng


6

trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để thấy được những mâu thuẫn, bất
cập trong các quy định này.
- Phương pháp thống kê được sử dụng để tập hợp các quy định pháp luật có liên
quan cũng như các số liệu, báo cáo, vụ việc từ thực tiễn xử phạt vi phạm hành chính

đối với hành vi vi phạm về giữ gìn vệ sinh cơng cộng.
- Phương pháp chuyên gia được sử dụng để thu thập ý kiến đánh giá của các
chuyên gia xoay quanh những khó khăn, vướng mắc khi xử phạt vi phạm hành chính
đối với hành vi vi phạm về giữ gìn vệ sinh công cộng.
- Phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng để thu thập ý kiến đánh giá của
cá nhân, tổ chức đối với các vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về xử phạt vi phạm hành chính
đối với hành vi vi phạm về giữ gìn vệ sinh cơng cộng có ý nghĩa hết sức quan trọng và
cần thiết trong bối cảnh đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ như hiện nay. Do đó, kết quả nghiên cứu của đề
tài có nhiều tính mới cũng như có khả năng ứng dụng cao.
Đề tài sẽ nguồn tài liệu tham khảo có ý nghĩa cho những ai nghiên cứu các quy
định pháp luật trong lĩnh vực này cũng như những người làm công việc thực tiễn như
lực lượng công an nhân dân... Đồng thời những kiến nghị của luận văn sẽ góp phần
hồn thiện các quy định pháp luật, bảo đảm cơng tác xử phạt vi phạm hành chính đối
với hành vi vi phạm về giữ gìn vệ sinh cơng cộng nói riêng và hành vi vi phạm trong
lĩnh vực an ninh, trật tự nói chung cũng như các quy định của pháp luật có liên quan
đến vấn đề bảo vệ mơi trường.
6. Cơ cấu của đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
gồm có hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của xử phạt vi phạm hành chính đối với
các vi phạm về giữ gìn vệ sinh công cộng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực trạng hoạt động xử phạt vi phạm hành
chính đối với các vi phạm về giữ gìn vệ sinh cơng cộng và một số giải pháp hoàn thiện.


7


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
ĐỐI VỚI CÁC VI PHẠM VỀ GIỮ GÌN VỆ SINH CƠNG CỘNG
1.1. Vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng
1.1.1. Khái niệm “vệ sinh cơng cộng”
Một trong những tiêu chí cơ bản để đánh giá xã hội văn minh, tiến bộ chính là
mơi trường sống trong lành, sạch đẹp. Mơi trường đó khơng chỉ bao gồm nơi ở cá nhân
mà còn bao gồm không gian sinh hoạt chung của cả cộng đồng. Các hành vi như xả rác
trên lề đường, hè phố; tiểu tiện, đại tiện, chăn thả gia súc không đúng nơi quy định… là
những hành vi phá hoại mỹ quan của mơi trường sống, gây nên tình trạng mất vệ sinh
cơng cộng. Trong giai đoạn hội nhập và phát triển như hiện nay thì vấn đề vệ sinh cơng
cộng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bởi lẽ vệ sinh công cộng phản ánh sự văn minh
của xã hội và chất lượng cuộc sống của người dân. Mọi vi phạm liên quan đến vấn đề
này đều phải bị xử phạt một cách nghiêm minh, đúng pháp luật. Để tìm hiểu và nghiên
cứu các vấn đề lý luận và pháp lý về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi vi phạm về giữ gìn vệ sinh cơng cộng, trước hết cần tìm hiểu nội
hàm pháp lý của thuật ngữ “vệ sinh công cộng”.
“Vệ sinh công cộng” là khái niệm được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội.
Trước hết, có thể hiểu, “vệ sinh công cộng” tức là giữ cho môi trường công cộng được
trong lành, sạch đẹp. Về ngữ nghĩa, “vệ sinh công cộng” là một thuật ngữ được cấu
thành từ hai yếu tố “vệ sinh” và “công cộng”. Theo Từ điển Tiếng Việt thì “vệ sinh”
là “những biện pháp, quy tắc phịng bệnh, giữ gìn và tăng cường sức khỏe”1. Theo Từ
điển Từ và Ngữ Việt Nam thì “vệ sinh” (vệ: giữ gìn; sinh: sống) là “những quy tắc giữ
gìn sự sạch sẽ cho bản thân và môi trường xung quanh nhằm phịng bệnh, giữ gìn và
tăng cường sức khỏe”2. Từ các định nghĩa trên, có thể hiểu, “vệ sinh” tức là những
biện pháp, quy tắc, cách thức giữ gìn sự sạch sẽ cho bản thân và môi trường xung
quanh.
Tương tự, theo Từ điển Tiếng Việt thì “cơng cộng” là “thuộc về mọi người

1

2

Viện Ngơn ngữ học (2003), Hồng Phê chủ biên, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 1111.
Nguyễn Lân (2006), Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 2025.


8

hoặc phục vụ chung cho mọi người trong xã hội”3. Theo Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam
thì “cơng cộng” là “chung cho mọi người”4. Từ điển Luật học định nghĩa “cơng
cộng” là “những nơi phục vụ lợi ích cơng cộng như đường phố, quảng trường, công
viên, bệnh viện, nhà hát, rạp chiếu bóng, bãi biển, khu nghỉ mát…”5. Theo các sách,
báo, tạp chí chun ngành luật học thì “cơng cộng” là “nơi diễn ra các hoạt động
chung của xã hội một cách thường xuyên (rạp hát, công viên, đường phố…) hoặc diễn
ra tùy thuộc vào từng hoạt động cụ thể của xã hội (mitting, cổ động…)”6. Khoản 7
Điều 2 Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá năm 2012 giải thích về địa điểm cơng
cộng “là nơi phục vụ chung cho nhu cầu của nhiều người”. Như vậy, có thể hiểu,
“cơng cộng” là thuật ngữ chỉ tính chất dùng chung, phục vụ chung, tính khơng của
riêng ai. Vấn đề có tính pháp lý quan trọng cần xem xét là “nơi cơng cộng bao gồm
những nơi nào? Liệu có thể liệt kê rõ ràng hay không?”.
Hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật không quy định cụ thể nơi công cộng
bao gồm những địa điểm nào. Tuy nhiên, căn cứ vào Nghị định số 167/2013/NĐ-CP
thì có thể xác định được những địa điểm nào là nơi công công. Cụ thể, điểm b khoản 1
Điều 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định về “hành vi vi phạm trật tự công
cộng”. Theo đó, “nơi cơng cộng” được xác định là: rạp hát, rạp chiếu phim, nhà văn
hóa, câu lạc bộ, nơi biểu diễn nghệ thuật, nơi tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao,
lễ hội, triển lãm, hội chợ, trụ sở cơ quan, tổ chức, khu dân cư, trường học, bệnh viện,
nhà ga, bến tàu, bến xe, trên đường phố, ở khu vực cửa khẩu, cảng và các nơi công
cộng khác… Nghị định số 167/2013/NĐ-CP sau khi liệt kê một loạt nơi công cộng như
“rạp hát, rạp chiếu phim, nhà văn hóa, câu lạc bộ, nơi biểu diễn nghệ thuật, nơi tổ

chức các hoạt động thể dục, thể thao, lễ hội, triển lãm, hội chợ, trụ sở cơ quan, tổ
chức, khu dân cư, trường học, bệnh viện, nhà ga, bến tàu, bến xe, trên đường phố, ở
khu vực cửa khẩu, cảng” thì có lẽ nhận thấy vẫn chưa thật sự đầy đủ nên gắn thêm cụm
từ “các nơi công cộng khác”. Một khi đã gắn thêm cụm từ “các nơi cơng cộng khác”

Viện Ngơn ngữ học (2003), Hồng Phê chủ biên, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 207.
Nguyễn Lân (2006), Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 420.
5
Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa - Nxb.Tư pháp, tr. 809.
6
Nguyễn Ngọc Hịa chủ biên (2006), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (tập 2), Nxb. Cơng an nhân dân, tr. 244.
3
4


9

thì những quy định liệt kê ở trên đã khơng còn cần thiết7. Như vậy, với những quy định
trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành thì vẫn chưa thể xác định cụ thể
những địa điểm nào là “nơi cơng cộng”.
Từ phân tích trên, có thể khái qt, để đáp ứng được tính “cơng cộng” thì một
địa điểm cụ thể phải thỏa mãn các điều kiện nhất định. Thứ nhất, đó phải là những nơi
phục vụ cho nhu cầu chung của mọi người trong xã hội. Nơi đó cho phép thỏa mãn nhu
cầu tương tác, chia sẻ, gặp gỡ, giải trí, tìm kiếm sự thư giãn thoải mái của các cá thể
trong sự hịa mình vào xã hội. Nói cách khác, đây là những những cơng trình, khu vực
được Chính phủ thay mặt người dân sở hữu hoặc thuộc sở hữu tư nhân nhưng phục vụ
cho tất cả người dân sử dụng8. Thứ hai, mỗi nơi công cộng cung cấp một dịch vụ riêng
hoặc nhằm một mục đích nhất định để phục vụ cho nhu cầu của mọi người. Cụ thể, ở
mỗi địa điểm như vậy đều có những quy định riêng mà mọi người phải tuân thủ. Chẳng
hạn: chợ, trung tâm thương mại phục vụ cho nhu cầu mua sắm của người dân; công

viên là nơi để mọi người vui chơi giải trí; bệnh viện là nơi để mọi người đến khám
bệnh, chữa bệnh… Thứ ba, cùng với sự phát triển của xã hội khi nhu cầu sống của con
người ngày càng cao thì những địa điểm công cộng để phục vụ cho nhu cầu của con
người ln có những thay đổi nhất định và ngày càng trở nên phong phú, đa dạng. Ở
những giai đoạn khác nhau trong quá trình phát triển của xã hội và ở những khơng gian
khác nhau thì nơi cơng cộng bao gồm những địa điểm khác nhau.
Từ đây, có thể đưa ra khái niệm “vệ sinh cơng cộng”. Theo đó, “vệ sinh công
cộng là tổng hợp những biện pháp, quy tắc, cách thức do tất cả các chủ thể trong xã
hội thực hiện nhằm bảo vệ sự trong lành, sạch đẹp ở những địa điểm phục vụ cho nhu
cầu chung của mọi người trong xã hội”.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng
1.1.2.1. Khái niệm vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng
Vi phạm hành chính là một loại vi phạm diễn ra rất phổ biến trong đời sống xã
hội hiện nay. Vi phạm hành chính có thể là những vi phạm đơn giản như vứt rác, đổ
nước thải ra lịng đường, hè phố đến những hành vi có tính chất, mức độ lớn hơn như
Cao Vũ Minh (2017), Quyết định quản lý nhà nước của Chính phủ - Lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc
gia, tr. 215.
8
Bùi Văn Quyết (2013), Quản lý hành chính cơng, Nxb. Tài chính, tr. 112.
7


10

gây rối trật tự công cộng, vi phạm các quy định khi tham gia giao thông đường bộ, trốn
thuế… Việc nghiên cứu khái niệm vi phạm hành chính vừa có ý nghĩa lý luận quan
trọng vừa mang tính thực tiễn sâu sắc, bởi lẽ, chỉ khi đưa ra được định nghĩa chính xác
về vi phạm hành chính nói chung thì mới có thể xác định được các vi phạm hành chính
cụ thể trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Xác định đúng vi phạm hành chính thì
việc xử phạt hành chính mới được thực hiện chính xác, bảo đảm được quyền và lợi ích

hợp pháp của mọi chủ thể.
Trước khi Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 ra đời đã có một số văn bản
quy định về vi phạm hành chính, đáng chú ý như: Điều lệ xử phạt vi cảnh ban hành
kèm theo Nghị định số 143-CP ngày 27/5/1977 của Hội đồng Chính phủ, Pháp lệnh số
28-LCT/HĐNN8 của Hội đồng Nhà nước ngày 07/12/1989 về xử phạt vi phạm hành
chính, Pháp lệnh số 41-L/CTN của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 06/7/1995 về xử
lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh số 44/2002/PL-UBTVQH10 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội ngày 02/7/2002 về xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung năm 2007,
2008).
Trước đây, khi Nhà nước chưa ban hành Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính
năm 1989 thì các văn bản pháp luật chỉ đề cập đến khái niệm “vi cảnh”. Theo đó,“vi
cảnh” được hiểu là việc “vi phạm luật lệ sinh hoạt ở nơi công cộng” như vi phạm quy
định về giữ gìn vệ sinh cơng cộng, trật tự cơng cộng, trật tự an tồn giao thơng… Sau
này, trong các văn bản pháp luật, khái niệm “vi cảnh” được hiểu rộng hơn vì khơng chỉ
là những vi phạm luật lệ sinh hoạt nơi công cộng mà được hiểu là những vi phạm nhỏ
chưa đến mức bị coi là tội phạm hình sự9.
Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 là văn bản mang tính chất luật
đầu tiên đưa ra định nghĩa về vi phạm hành chính. Theo Pháp lệnh Xử phạt vi phạm
hành chính năm 1989 thì: “vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm các quy tắc quản lý hành chính nhà nước mà
khơng phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành
chính”. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995 định nghĩa vi phạm hành chính

Bùi Xuân Đức (2006), “Về vi phạm hành chính và hình thức xử phạt hành chính: những hạn chế và giải pháp
đổi mới”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2.
9


11


một cách gián tiếp thông qua định nghĩa xử phạt vi phạm hành chính. Cụ thể, khoản 2
Điều 1 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995 quy định: “xử phạt vi phạm
hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm
các quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo
quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Tương tự, Pháp lệnh Xử
lý vi phạm hành chính năm 1995, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa
đổi, bổ sung năm 2007, 2008) cũng đưa ra khái niệm vi phạm hành chính một cách
gián tiếp. Theo đó, “xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ
quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vơ ý vi
phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và
theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Định nghĩa về vi phạm hành
chính trong các văn bản trên tuy có sự khác nhau về sự diễn đạt nhưng đều thống nhất
các dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành chính là: i. tính trái pháp luật, ii. tính có
lỗi; iii. tính xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước; iv. tính bị xử phạt hành chính.
Xuất phát từ những địi hỏi mới của hoạt động quản lý nhà nước trong điều kiện
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Luật Xử lý vi
phạm hành chính năm 2012 đã được ban hành10. Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012 đã đưa ra định nghĩa trực tiếp về vi phạm hành chính, từ đó tạo cơ sở pháp lý để
xác định hành vi nào là vi phạm hành chính. Theo đó, khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi
phạm hành chính năm 2012 định nghĩa: “vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ
chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý
nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi
phạm hành chính”. Tuy nhiên, quy phạm định nghĩa này chỉ có hình thức mới là nằm
trong một đạo luật do Quốc hội ban hành chứ về nội dung thì lại khơng mới. Đối
chiếu với khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ
sung năm 2007, 2008) thì định nghĩa này chỉ là sự “sao chép” khái niệm “xử phạt vi
phạm hành chính” được nêu trong pháp lệnh này. Chính vì vậy, nội hàm của định

Nguyễn Cảnh Hợp chủ biên (2017), Bình luận khoa học Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Nxb. Hồng

Đức, tr. 31.
10


12

nghĩa vẫn chưa được xác định một cách chặt chẽ và khoa học11. Tuy có bất cập nhưng
nhờ có định nghĩa này mà việc xác định chính xác các dấu hiệu chung của vi phạm
hành chính trở nên rõ ràng hơn12.
Là một vi phạm hành chính cụ thể, vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng
cộng cũng mang đầy đủ những dấu hiệu chung của một vi phạm hành chính đã được
nêu tại khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Tuy nhiên hiện nay,
khái niệm vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh công cộng vẫn chưa được ghi nhận
trong bất cứ một văn bản pháp lý nào. Do đó, để cơng tác xử phạt vi phạm hành chính
về giữ gìn vệ sinh cơng cộng được thực hiện một cách có hiệu quả thì trước hết cần
phải có một định nghĩa thống nhất thế nào là vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh
cơng cộng.
Tương tự như các vi phạm hành chính khác, vi phạm hành chính về giữ gìn vệ
sinh công cộng được cấu thành bởi bốn yếu tố: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể
và khách thể. Cụ thể:
Mặt khách quan của vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng: là những
biểu hiện ra bên ngoài của vi phạm mà bằng trực quan sinh động con người có thể nhận
thức được13. Trong mặt khách quan, hành vi trái pháp luật là yếu tố cấu thành quan
trọng. Vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh công cộng trước hết phải là hành vi trái
pháp luật, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật hành chính bảo vệ. Tính
trái pháp luật của hành vi thể hiện ở chỗ vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng
cộng vi phạm các quy định của pháp luật trong việc thực hiện các biện pháp, quy tắc,
cách thức để giữ gìn vệ sinh ở những địa điểm công cộng. Các hành vi trái pháp luật
trong việc giữ gìn vệ sinh cơng cộng được thể hiện ở cả hai dạng hành động (tiểu tiện,
đại tiện không đúng nơi quy định; đổ nước ra khu tập thể, lòng đường, vỉa hè; đổ, ném

chất thải, chất bẩn hoặc các chất khác làm hoen bẩn nhà ở, cơ quan, trụ sở làm việc, nơi
sản xuất, kinh doanh của người khác …) và không hành động (không thực hiện các quy

Nguyễn Thị Thiện Trí (2012), “Góp ý dự thảo Luật Xử lý vi phạm hành chính”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 2.
Nguyễn Cảnh Hợp chủ biên (2017), Bình luận khoa học Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Nxb. Hồng
Đức, tr. 69.
13
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Nguyễn Cảnh Hợp chủ biên, Giáo trình Luật Hành
chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, tr. 563.
11
12


13

định về quét dọn rác, khai thông cống rãnh trong và xung quanh nhà ở, cơ quan, doanh
nghiệp, doanh trại gây mất vệ sinh chung).
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng: là những
dấu hiệu bên trong thể hiện thái độ, trạng thái tâm lý của người vi phạm đối với hành vi
trái pháp luật cũng như là đối với hậu quả do hành vi đó gây ra14. Mặt chủ quan của vi
phạm hành chính nói chung bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích vi phạm hành chính.
Trong các dấu hiệu của mặt chủ quan thì lỗi là dấu hiệu bắt buộc đối với mọi vi phạm
hành chính nói chung và vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng nói riêng.
Người thực hiện hành vi vi phạm các quy định về giữ gìn vệ sinh cơng cộng phải trong
trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng đã vơ
tình, thiếu thận trọng mà khơng nhận thức được hành vi của mình là gây ra tình trạng
mất vệ sinh cơng cộng (lỗi vơ ý) hoặc nhận thức được điều đó những vẫn cố tình thực
hiện (lỗi cố ý).
Chủ thể thực hiện vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng: là cá nhân,
tổ chức có năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật. Năng lực

chịu trách nhiệm pháp lý hành chính là khả năng được Nhà nước quy định đối với
những cá nhân, tổ chức phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do đã thực hiện hành vi
vi phạm hành chính một cách có lỗi15. Một cá nhân chỉ có thể trở thành chủ thể của vi
phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng khi đáp ứng được hai điều kiện là: i. độ
tuổi và ii. không đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Tổ chức bị xử phạt hành chính về
mọi vi phạm liên quan đến giữ gìn vệ sinh cơng cộng do tổ chức gây ra.
Khách thể của vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh công cộng: là những quan
hệ xã hội được các quy phạm luật hành chính bảo vệ và bị vi phạm hành chính xâm
phạm16. Cụ thể đó là các quy tắc quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, an toàn xã hội và

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Nguyễn Cảnh Hợp chủ biên, Giáo trình Luật Hành
chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, tr. 564.
15
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Nguyễn Cảnh Hợp chủ biên, Giáo trình Luật Hành
chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, tr. 564
16
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Nguyễn Cảnh Hợp chủ biên, Giáo trình Luật Hành
chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, tr. 566.
14


14

các quan hệ xã hội về việc giữ gìn và bảo vệ môi trường pháp luật quy định.
Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm vi phạm hành chính và đặc điểm cấu thành của
các vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng, tác giả đưa ra khái niệm vi phạm
hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng như sau: “vi phạm hành chính về giữ gìn vệ
sinh công cộng là hành vi trái pháp luật (thể hiện dưới dạng hành động hoặc khơng
hành động), có lỗi (cố ý hoặc vô ý) do tổ chức, cá nhân có năng lực trách nhiệm hành

chính thực hiện vi phạm các quy định của pháp luật về giữ gìn vệ sinh công cộng mà
theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành về giữ gìn vệ sinh cơng
cộng”.
1.1.2.2. Đặc điểm vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng
Thứ nhất, vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng là những vi phạm
xảy ra rất phổ biến trong đời sống xã hội.
Tính phổ biến là đặc thù của vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng.
Nếu như những vi phạm hành chính về thuế, đất đai, xây dựng… chỉ xảy ra khi các chủ
thể thực hiện những hành vi thuộc về một công việc, một lĩnh vực nhất định như chậm
nộp hồ sơ đăng ký thuế, xây dựng nhà ở khơng phép… thì các vi phạm hành chính về
giữ gìn vệ sinh cơng cộng mang tính phổ biến hơn rất nhiều. Tính chất phổ biến thể
hiện cả về hành vi lẫn chủ thể vi phạm. Sở dĩ như vậy, vì các vi phạm này liên quan
trực tiếp đến hoạt động sinh hoạt và sản xuất hàng ngày, hàng giờ của mỗi chủ thể
trong xã hội. Bất cứ ai cũng có thể trở thành chủ thể của loại vi phạm này. Vấn đề xả
rác ra đường phố, hệ thống cống rãnh thốt nước khu dân cư; tiểu tiện, phóng uế nơi
công cộng… đã dần trở nên phổ biến mà con người vẫn đối mặt hằng ngày. Thậm chí,
nhiều người vẫn xem đây là chuyện “thường ngày ở huyện” và chấp nhận “sống
chung” với vi phạm. Nguyên nhân này xuất phát chủ yếu từ ý thức giữ gìn vệ sinh của
người dân còn hạn chế. Với tư duy lòng đường, hè phố, nơi công cộng không của riêng
ai nên việc giữ gìn vệ sinh khơng phải nghĩa vụ của mình. Do đó, họ khơng có tinh
thần đấu tranh, phịng chống vi phạm. Chỉ khi những vi phạm xâm phạm trực tiếp đến
lợi ích cá nhân của mình thì họ mới lên tiếng.
Thứ hai, trong vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng thì địa điểm
thực hiện hành vi là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành nên vi phạm.
Trong mặt khách quan của vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng thì


15

hành vi, tính trái pháp luật của hành vi và địa điểm thực hiện là các yếu tố có ý nghĩa

bắt buộc cấu thành nên loại vi phạm hành chính này. Khác với nhiều vi phạm hành
chính khác, địa điểm không là yếu tố bắt buộc (xúc phạm danh dự, nhân phẩm của
người khác; trộm cắp tài sản), đối với vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng
thì địa điểm thực hiện hành vi là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành nên vi phạm. Theo đó,
địa điểm xảy ra vi phạm phải là khu vực phục vụ cho lợi ích chung của nhiều người tức là địa điểm công cộng. Cũng là hành vi tiểu tiện, đại tiện; đổ, ném chất thải, chất
bẩn nhưng nếu diễn ra trong một căn hộ thuộc quyền sở hữu riêng của cá nhân thì
khơng ảnh hưởng đến lợi ích chung và do đó khơng cấu thành vi phạm hành chính về
giữ gìn vệ sinh cơng cộng.
Thứ ba, vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng xâm phạm lợi ích của
nhiều chủ thể trong xã hội.
Vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng là những vi phạm xảy ra ở
những địa điểm công cộng, tức là những nơi phục vụ cho nhu cầu chung của nhiều
người trong xã hội như chợ, công viên, đường phố, khu dân cư… Vì có rất nhiều
những chủ thể khác nhau sử dụng các địa điểm này để phục vụ cho nhu cầu của mình,
do đó, khi những địa điểm phục vụ cho nhu cầu chung của mọi người bị xâm phạm bởi
các vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng thì khả năng đáp ứng nhu cầu
chung cho mọi người ở những nơi này sẽ bị suy giảm. Khi đó, nhu cầu, lợi ích chung
của rất nhiều chủ thể bị ảnh hưởng chứ không phải lợi ích riêng của bất kỳ chủ thể xác
định nào. Ví dụ, hành vi đổ rác không đúng nơi quy định ở công viên gây ô nhiễm khu
vực này, rác thải bốc mùi hôi thối, cản trở lối đi chung, khi đó có rất nhiều chủ thể
khác nhau như trẻ em, học sinh, sinh viên... sẽ không thể sử dụng công viên này để vui
chơi, giải trí. Điều này khác với nhiều vi phạm hành chính khác (như trộm cắp tài sản;
công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác; xúc phạm danh dự, nhân phẩm…) bởi lẽ
những vi phạm này xâm phạm trực tiếp đến lợi ích vật chất và nhân thân của các đối
tượng nhất định.
Ví dụ, điểm b khoản 1 Điều 15 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt
vi phạm hành chính đối với hành vi “cơng nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác”.
Hành vi này gây thiệt hại cho tài sản “của người khác” tức là tài sản của một đối tượng
cụ thể xác định trên thực tế mà vi phạm đã hướng đến. Như vậy, đây là vi phạm hành



16

chính ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của một chủ thể xác định chứ không phải là vi
phạm ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội như các vi phạm
về giữ gìn vệ sinh cơng cộng.
Thứ tư, vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng đa phần thể hiện với
hình thức lỗi cố ý.
Vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng được thể hiện dưới hai hình
thức lỗi cố ý và vô ý. Lỗi cố ý thể hiện ở việc người vi phạm hành chính nhận thức
được tính chất nguy hại cho xã hội của hành vi nhưng vẫn thực hiện hoặc để mặc cho
hậu quả của hành vi đó xảy ra. Lỗi vơ ý thể hiện ở việc người vi phạm hành chính
khơng biết hoặc khơng nhận thức được hành vi trái pháp luật mặc dù cần phải biết và
nhận thức được hoặc nhận thức được nhưng cho rằng có thể ngăn ngừa được hậu quả17.
Vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng đa phần thể hiện dưới hình
thức lỗi cố ý. Ví dụ, người thực hiện hành vi tiểu tiện trên đường phố, vứt rác ở nơi
công cộng, để gia súc, gia cầm phóng uế nơi cơng cộng… đều nhận thức được hành vi
của mình là gây mất vệ sinh cơng cộng nhưng vẫn cố tình thực hiện các hành vi đó.
Qua nghiên cứu, có thể thấy, ngoại trừ hành vi “lấy, vận chuyển rác, chất thải bằng
phương tiện giao thông thô sơ trong thành phố, thị xã để rơi vãi hoặc khơng bảo đảm
vệ sinh” thì tất cả các vi phạm tại Điều 7 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP đều thực hiện
với lỗi cố ý. Hành vi “lấy, vận chuyển rác, chất thải bằng phương tiện giao thông thô
sơ trong thành phố, thị xã để rơi vãi hoặc không bảo đảm vệ sinh” là vi phạm duy nhất
có thể được thể hiện dưới hình thức lỗi vơ ý. Cụ thể, trong q trình vận chuyển rác,
chất thải, có thể người vận chuyển đã áp dụng các biện pháp che chắn an toàn nhằm
bảo đảm chất thải không bị rơi vãi gây mất vệ sinh, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân
khách quan lẫn chủ quan mà chất thải đã bị rơi vãi gây mất vệ sinh cơng cộng. Trong
trường hợp này, có thể họ không cố ý làm rơi vãi chất thải, gây mất vệ sinh nhưng họ
phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi sơ suất của mình gây ra.
Việc phân định lỗi cố ý hay vô ý khơng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác

định trách nhiệm của chủ thể vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng. Tuy

Phạm Hồng Thái - Nguyễn Thị Minh Hà đồng chủ biên (2017), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 466.
17


17

nhiên, điều đó thể hiện được đặc trưng của loại vi phạm này, đó là sự cố ý của chủ thể
trong quá trình thực hiện hành vi vi phạm. Theo khảo sát bằng phiếu điều tra xã hội
học đối với 200 cá nhân trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, khi được hỏi “Khi đổ
rác, chất thải thì anh chị sẽ đổ ở nơi nào nhằm bảo đảm đúng quy định pháp luật?” thì
có đến 96 % (192 cá nhân) có câu trả lời là “Phải đổ rác, chất thải đúng nơi quy định”,
chỉ có 4 % (08 cá nhân) có câu trả lời là “Đổ rác, chất thải ở bất cứ nơi nào”. Mặc dù
trên thực tế, tỷ lệ cá nhân không tuân thủ quy định về đổ rác, chất thải là cao hơn rất
nhiều, nhưng kết quả khảo sát cho thấy đa số họ đều hiểu biết về quy định pháp luật
nhưng vẫn cố tình vi phạm.
Thứ năm, vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng vừa có cấu thành vật
chất, vừa có cấu thành hình thức, trong đó cấu thành vật chất chiếm đa số.
Trong mặt khách quan của vi phạm hành chính nói chung thì hậu quả do hành vi
vi phạm gây ra và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả đó khơng có ý nghĩa
quan trọng trong đa số các trường hợp, vì thế khoa học luật hành chính coi vi phạm
hành chính đa phần có cấu thành hình thức, nghĩa là chỉ cần tồn tại ba dấu hiệu: hành
vi, tính trái pháp luật của hành vi, hành vi đó phải được một văn bản pháp luật quy
định là vi phạm hành chính và phải chịu trách nhiệm hành chính18. Tuy nhiên, các vi
phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng vừa có cấu thành vật chất, vừa có cấu
thành hình thức, trong đó cấu thành vật chất chiếm đa số. Điều đó có nghĩa là trong
mặt khách quan của đa số các vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng thì dấu
hiệu hậu quả do hành vi vi phạm gây ra và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu

quả đó có ý nghĩa quan trọng quyết định để cấu thành nên vi phạm hành chính.
Cụ thể, trong 10 vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng được quy
định tại Điều 7 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP thì có đến 06 vi phạm được quy định có
cấu thành vật chất, bao gồm: “không thực hiện các quy định về quét dọn rác, khai
thông cống rãnh trong và xung quanh nhà ở, cơ quan, doanh nghiệp, doanh trại gây
mất vệ sinh chung” (điểm a khoản 1 Điều 7), “đổ nước hoặc để nước chảy ra khu tập
thể, lòng đường, vỉa hè, nhà ga, bến xe, trên các phương tiện giao thông nơi công cộng
hoặc ở những nơi khác làm mất vệ sinh chung” (điểm b khoản 1 Điều 7), “lấy, vận

18

Nguyễn Cửu Việt (2013), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 499.


18

chuyển rác, chất thải bằng phương tiện giao thông thô sơ trong thành phố, thị xã để
rơi vãi hoặc không bảo đảm vệ sinh” (điểm đ khoản 1 Điều 7), “nuôi gia súc gia cầm
động vật gây mất vệ sinh chung ở khu dân cư” (điểm e khoản 1 Điều 7), “đổ, ném
chất thải, chất bẩn hoặc các chất khác làm hoen bẩn nhà ở, cơ quan, trụ sở làm việc,
nơi sản xuất, kinh doanh của người khác” (điểm a khoản 2 Điều 7), “để rác, chất thải,
xác động vật hoặc bất cứ vật gì khác mà gây ơ nhiễm ra nơi cơng cộng hoặc chỗ có vịi
nước, giếng nước ăn, ao, đầm, hồ mà thường ngày nhân dân sử dụng trong sinh hoạt
làm mất vệ sinh” (điểm đ khoản 2 Điều 7). Hậu quả của các hành vi này được xác định
là “gây mất vệ sinh chung”, “không bảo đảm vệ sinh”, “gây ô nhiễm ra nơi công
cộng”, “làm hoen bẩn nhà ở, cơ quan, trụ sở làm việc, nơi sản xuất, kinh doanh của
người khác”. Đây là dấu hiệu bắt buộc để các hành vi kể trên có thể cấu thành nên vi
phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng.
Các vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng cịn lại được quy định tại
Điều 7 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP có cấu thành hình thức, bao gồm: “tiểu tiện, đại

tiện ở đường phố, trên các lối đi chung ở khu công cộng và khu dân cư” (điểm c khoản
1 Điều 7), “để gia súc, gia cầm hoặc các loại động vật ni phóng uế ở nơi công
cộng” (điểm d khoản 1 Điều 7), “tự ý đốt rác, chất thải, chất độc hoặc các chất nguy
hiểm khác ở khu vực dân cư, nơi công cộng” (điểm b khoản 2 Điều 7), “đổ rác, chất
thải hoặc bất cứ vật gì khác vào hố ga, hệ thống thốt nước cơng cộng, trên vỉa hè,
lịng đường” (điểm c khoản 2 Điều 7).
Việc quy định các vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng đa phần có
cấu thành vật chất là rất hợp lý. Một hành vi được xem là vi phạm hành chính về giữ
gìn vệ sinh cơng cộng khi nó gây ra những ảnh hưởng nhất định đến các vấn đề về vệ
sinh công cộng mà vệ sinh công cộng là vấn đề mà chúng ta chỉ có thể nhận biết được
khi nó có những biểu hiện nhất định ra bên ngoài, tức là tình trạng sạch sẽ hay khơng
của một địa điểm cơng cộng. Điều đó có nghĩa một vi phạm hành chính về giữ gìn vệ
sinh cơng cộng thì nó phải có khả năng tác động đến môi trường công cộng để làm thay
đổi hiện trạng của mơi trường đó. Trong khi đó, vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh
cơng cộng đa phần là những vi phạm có hành vi đơn giản, do đó bản thân những hành
vi này khơng đủ khả năng gây ảnh hưởng đến vệ sinh công cộng nếu như khơng có hậu
quả xảy ra. Tuy nhiên, cần nói thêm rằng, một số ít vi phạm được xác định là có cấu


19

thành hình thức là vì bản thân những hành vi này đã chứa đựng cả hậu quả tất yếu của
nó là gây ảnh hưởng đến vệ sinh công cộng, tức là hành vi đã đi liền với hậu quả, do đó
khơng cần phải quy định thêm dấu hiệu hậu quả trong cấu thành vi phạm.
1.1.3. Vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng - một loại vi phạm hành
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội
An ninh, trật tự, an toàn xã hội là trạng thái xã hội có trật tự, kỷ cương trong đó
mọi người được sống an tồn trên cơ sở các quy phạm pháp luật và chuẩn mực đạo
đức. Đây là vấn đề có tầm quan trọng rất lớn đối với toàn xã hội, ảnh hưởng trực tiếp
đến cuộc sống của người dân và lợi ích quốc gia, dân tộc. Do đó, bảo vệ an ninh, trật

tự, an tồn xã hội, đấu tranh phịng, chống vi phạm hành chính trong lĩnh vực này là
trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân.
Trong giai đoạn hội nhập và phát triển như hiện nay các vi phạm hành chính xảy
ra trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội ngày càng trở nên phổ biến và diễn
biến phức tạp gây ra tình trạng mất ổn định trong xã hội. Xử phạt các vi phạm này là
việc làm cần thiết nhằm duy trì trật tự, kỷ cương xã hội, ổn định cuộc sống nhân dân.
Trước khi Quốc hội ban hành Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì
Nghị định số 73/2010/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 12/07/2010 là văn bản quy định về
việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Điều 2
Nghị định số 73/2010/NĐ-CP đưa ra khái niệm về vi phạm hành chính trong lĩnh vực
an ninh, trật tự, an tồn xã hội như sau: “vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh,
trật tự là hành vi vi phạm các quy định quản lý nhà nước về an ninh, trật tự do cá
nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo
quy định của Nghị định này phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Khi Luật Xử lý vi
phạm hành chính năm 2012 được Quốc hội thơng qua, Chính phủ ban hành Nghị định
số 167/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh,
trật tự, an toàn xã hội để thay thế cho Nghị định số 73/2010/NĐ-CP. Đáng tiếc là Nghị
định số 167/2013/NĐ-CP lại không dành ra bất kỳ một điều khoản nào để định nghĩa vi
phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Căn cứ vào cách quy định tại Nghị định số 167/2013/NĐ-CP thì có thể xác định
các vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội bao gồm: Vi
phạm quy định về trật tự công cộng (Điều 5); Vi phạm quy định về bảo đảm sự yên


20

tĩnh chung (Điều 6); Vi phạm quy định về giữ gìn vệ sinh chung (Điều 7); Vi phạm
quy định về đăng ký và quản lý cư trú (Điều 8); Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng
chứng minh nhân dân (Điều 9); Vi phạm quy định về quản lý sử dụng vũ khí, vật liệu
nổ, cơng cụ hỗ trợ, pháo và đồ chơi nguy hiểm bị cấm (Điều 10); Vi phạm các quy định

về quản lý ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự (Điều 11); Vi phạm
các quy định về quản lý và sử dụng con dấu (Điều 12); Vi phạm các quy định về quản
lý hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ (Điều 13); Vi phạm các quy định về tố tụng
hình sự, thi hành án hình sự, thi hành các biện pháp xử lý hành chính (Điều 14); Vi
phạm quy định về gây thiệt hại đến tài sản của người khác (Điều 15); Vi phạm quy
định về bảo vệ các công trình cơng cộng, cơng trình an ninh, trật tự (Điều 16); Vi phạm
các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cư trú và đi lại (Điều 17); Vi phạm
quy định về bảo vệ bí mật nhà nước (Điều 18); Vi phạm quy định của pháp luật về
quản lý, sử dụng trang phục, cấp hiệu, phù hiệu, số hiệu dành riêng cho lực lượng Công
an nhân dân (Điều 19); Hành vi cản trở, chống lại việc thanh tra, kiểm tra, kiểm sốt
của người thi hành cơng vụ hoặc đưa hối lộ người thi hành công vụ (Điều 20).
Vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng là một loại vi phạm hành
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội được quy định cụ thể tại Điều 7
Nghị định số 167/2013/NĐ-CP. Vi phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng
khơng chỉ xâm phạm đến vấn đề an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà cịn gây ra tình
trạng ơ nhiễm mơi trường, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của cá
nhân, tổ chức. Tuy nhiên, trong Nghị định số 167/2013/NĐ-CP, Chính phủ quy định vi
phạm hành chính về giữ gìn vệ sinh cơng cộng thuộc nhóm vi phạm hành chính trong
lĩnh vực an ninh, trật tự, an tồn xã hội vì vấn đề đầu tiên được quan tâm là vi phạm
này đã phá vỡ trật tự xã hội vốn có, gây nên tình trạng mất ổn định xã hội.
Trong một xã hội có nhiều mối liên kết với nhau theo những nguyên tắc nhất
định, khi có một liên kết bị phá vỡ, bị thay đổi sẽ làm xáo trộn những liên kết còn lại,
sự xáo trộn lớn có thể dẫn đến thay đổi cả hiện trạng xã hội. Nói cách khác, trong một
xã hội có trật tự thì các vấn đề như rác thải; vệ sinh cá nhân; nuôi gia súc, gia cầm,
động vật… phải được thực hiện đúng nơi quy định. Khi con người thực hiện các hành
vi như vứt rác, tiểu tiện không đúng nơi quy định, nuôi gia súc, gia cầm gây mất vệ
sinh chung... thì các hành vi đó chính là tác nhân phá vỡ trạng thái ổn định, an toàn của



×