Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH sử ĐẢNG đảng cộng sản việt nam ra đời là một tất yếu lịch sử ý nghĩa, giá trị của cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng đối với công cuộc đổi mới của việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.66 KB, 19 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

BÀI THU HOẠCH

LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỆ TẬP TRUNG

TÊN MƠN HỌC:
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

TÊN BÀI THU HOẠCH:
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử. Ý nghĩa,
giá trị của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đối
với công cuộc đổi mới của Việt Nam hiện nay

ĐIỂM TRUNG BÌNH CHUNG
Bằng số

Bằng chữ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


MỤC LỤC

Phần I. LỜI NÓI ĐẦU

1

Phần II. NỘI DUNG


2

1. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI

2

1.1. Bối cảnh lịch sử thế giới, trong nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

2

1.2. Đặc điểm sự ra đời của Đảng

3

2. Ý NGHĨA, GIÁ TRỊ CỦA CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA
ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM HIÊN NAY

9

2.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối
lãnh đạo

9

2.2. Giá trị của Cương lĩnh chính trị đầu tiên

10

2.3. Ý nghĩa


12

3. MỘT SỐ THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN

13

3.1. Thành tựu

13

3.2. Hạn chế

14

3.3. Nguyên nhân

14

4. GIẢI PHÁP

14

Phần III. KẾT LUẬN

16

TÀI LIỆU THAM KHẢO

17



1

Phần I. LỜI NÓI ĐẦU

Nhận thức sâu sắc những luận điểm cơ bản của V.I. Lênin về xây dựng Đảng
kiểu mới của giai cấp vơ sản, đặc biệt vai trị của lý luận cách mạng, Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm
lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt,
trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”. Người đã xác
định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ là hệ tư tưởng lý luận của giai cấp công nhân,
phong trào cơng nhân mà cịn là vũ khí giải phóng giai cấp cơng nhân, giải
phóng dân tộc, giải phóng tồn xã hội. Trên nền tảng tư tưởng lý luận mang
bản chất cách mạng và khoa học, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng
tạo vào đặc điểm thực tiễn Việt Nam, tập hợp đông đảo các giai tầng yêu nước
Việt Nam, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sự đồng
thuận cả nước để làm nên những chiến công oanh liệt.
Như vậy Đảng Cộng sản ra đời lãnh đạo cách mạng Việt Nam là vấn đề đúng
đắn và tất yếu. Với những lý do như trình bày trên, nên tơi chọn nội dung:
“Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử. Ý nghĩa, giá trị của
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đối với công cuộc đổi mới của Việt
Nam hiện nay”, để viết bài thu hoạch cho môn học này.
Song, do thời gian có hạn, trình độ, năng lực, kinh nghiệm còn nhiều hạn chế,
bản thân đã cố gắng rất nhiều, tuy nhiên bài thu hoạch này chắc chắn có những
hạn chế và thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự quan tâm, giúp đỡ,
đóng góp của Quý Thầy, Cơ để bản thân được hồn thiện hơn trong học tập và
thực tiễn công tác sau này.



2

Phần II. NỘI DUNG
1. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
1.1. Bối cảnh lịch sử thế giới, trong nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Từ đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản thế giới đã phơi bày tồn bộ tính chất
thối nát của nó. Nhân dân lao động trên thế giới sống dưới ách cai trị của giai
cấp tư sản và địa chủ đã đứng lên đấu tranh, nhưng chủ yếu là đấu tranh về
kinh tế. Giữa thế kỷ XIX, học thuyết Mác ra đời - học thuyết về chủ nghĩa xã
hội khoa học, kết tinh tinh hoa lý luận chính trị thế giới, xâm nhập vào phong
trào công nhân, làm cho giai cấp công nhân giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của
mình.
V.I. Lênin đã vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác trong thời kỳ Đế
quốc chủ nghĩa, phát hiện ra sự phát triển khơng đồng đều của chủ nghĩa tư
bản, từ đó nêu lên quan điểm về sự thắng lợi của một cuộc cách mạng vô sản ở
một số nước, hoặc thậm chí ở một nước với chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình
độ trung bình như nước Nga. Cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười
Nga năm 1917 nổ ra thành cơng là kết quả nhận thức đó của V.I. Lênin. Cách
mạng Tháng Mười Nga đã tác động tích cực đến các cuộc đấu tranh giải
phóng của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới, trong đó có Việt
Nam.
Ở châu Á, chế độ phong kiến tồn tại khá lâu so với các châu lục khác. Châu Á
phong kiến của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX vẫn là châu Á với xã hội trì trệ,
sự phân hóa xã hội chậm chạp. Đầu thế kỷ XX, tư tưởng tư sản cũng đã có ảnh
hưởng đến một số nước. Nổi bật nhất là ở Nhật Bản, khi nước này tiếp tục tư
tưởng Canh Tân của Minh Trị từ năm 1868 để từng bước thoát khỏi nguy cơ
thuộc địa của các nước phương Tây, tiến lên chủ nghĩa tư bản. Tại Trung
Quốc, cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911) theo tư tưởng dân chủ tư sản, do Tôn
Trung Sơn lãnh đạo và các phong trào khác theo tư tưởng tư sản cũng có ảnh

hưởng lớn đến phong trào yêu nước ở Việt Nam.
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, Việt Nam bị đế quốc Pháp dịm ngó. Năm
1858, Pháp xâm lược Việt Nam. Chính quyền phong kiến Việt Nam từng bước
đầu hàng. Thực dân Pháp thành lập Liên bang Đơng Dương thuộc Pháp gồm
có các xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ (của Việt Nam), Cao Miên (sau này
gọi là Campuchia), Ai Lao (sau này gọi là Lào), với các hình thức cai trị khác
nhau.
Thực dân Pháp thực thi chính sách cai trị ở Đơng Dương với chế độ áp bức
chính trị hà khắc, khai thác, bóc lột kinh tế và nơ dịch văn hóa nặng nề. Chúng
tiến hành các đợt khai thác thuộc địa lớn; đưa phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa Pháp vào Đông Dương trong khi vẫn duy trì phương thức sản xuất
phong kiến.
Quá trình cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX,


3
nhất là do tác động trực tiếp của các đợt khai thác thuộc địa, đã làm cho xã hội
Việt Nam biến đổi.
Giai cấp cơng nhân Việt Nam được hình thành với việc thực dân Pháp thiết
lập các nhà máy, công xưởng, khu đồn điền. Công nhân Việt Nam tuyệt đại đa
số xuất thân trực tiếp từ người nông dân thiếu ruộng đất hoặc khơng có ruộng
đất.
Giai cấp nơng dân Việt Nam bao gồm những cư dân đông đảo nhất. Vào cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nông dân chiếm khoảng hơn 90% dân số.
Giai cấp địa chủ Việt Nam vẫn giữ quan hệ bóc lột địa tơ.
Giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam sinh ra sau giai cấp cơng nhân. Nói chung,
tư sản dân tộc Việt Nam bị tư sản Pháp chèn ép trong kinh doanh.
Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam hình thành, chủ yếu là học sinh, trí thức, cơng
chức, viên chức của chế độ thuộc địa và những người thợ thủ công, những

người tiểu thương.
Như vậy, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã có sự biến đổi rất quan
trọng cả về chính trị, kinh tế, xã hội. Xã hội Việt Nam nổi lên mâu thuẫn rất
lớn là mâu thuẫn dân tộc. Tất cả các giai cấp, tầng lớp đều có một “mẫu số
chung”, đều có nhu cầu bức thiết đánh đố ách xâm lược của thực dân Pháp,
giải phóng đất nước.
1.2. Đặc điểm sự ra đời của Đảng

1.2.1. Kết quả tất yếu từ sự kết hợp các yếu tố
Phong trào yêu nước: Tiêu biểu nhất là ba phong trào: 1) Phong trào do các sĩ
phu phong kiến lãnh đạo; 2) Phong trào theo tư tưởng tư sản mà tiêu biểu là
phong trào của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh lãnh đạo; phong trào của
Việt Nam Quốc dân Đảng; 3) Phong trào của các tổ chức yêu nước khác có xu
hướng vô sản.
Phong trào công nhân: Từ năm 1925 trở đi, phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân Việt Nam phát triển mạnh. Hàng loạt các cuộc đấu tranh của công
nhân ở Việt Nam diễn ra mạnh mẽ trong cả nước.
Chủ nghĩa Mác-Lênin: Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam bằng các con
đường: (1) Qua hoạt động của Nguyễn Ái Quốc; (2) Qua sách báo; (3) Qua tuyên
truyền từ những nhà u nước có cảm tình với chủ nghĩa Cộng sản; (4) Qua các
cán bộ được đào tạo, huấn luyện theo hệ tư tưởng vô sản, đặc biệt là qua
những người học tại các trường của Quốc tế Cộng sản ở Liên Xô, qua các lớp
của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên; (5) Qua việc “chuẩn bị đất” để gieo
những hạt giống, gieo những tư tưởng vô sản một cách ngoài ý muốn của chế
độ hà khắc thực dân và phong kiến ở Việt Nam.


4
Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bản chất của chủ nghĩa đế quốc,
tập hợp lực lượng và tun truyền con đường cách mạng vơ sản.

Về chính trị: Nguyễn Ái Quốc đưa ra những luận điểm quan trọng về cách
mạng giải phóng dân tộc. Người xác định, cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới; giữa cách mạng
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vơ sản ở “chính quốc”
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng cách mạng giải
phóng dân tộc ở nước thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng.
Về tổ chức: Sau khi lựa chọn con đường cách mạng vô sản cho dân tộc Việt
Nam, Hồ Chí Minh thực hiện “lộ trình”: “đi vàọ quần chúng, thức tỉnh họ, tổ
chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”.
1.2.2. Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 đã thông qua các
văn kiện do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, tiêu biểu nhất là Chánh cương vắn tắt
của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng. Những văn kiện này hợp thành Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, gồm:
Cách mạng Việt Nam trải qua các thời kỳ thực tiễn đấu tranh kiên cường,
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào Mùa xuân năm 1930 nhanh chóng giữ
địa vị lãnh đạo tồn dân tộc và được nhân dân giao cho trọng trách là Đảng
cầm quyền. Đảng đứng ra nắm chính quyền khơng giống như các chính Đảng
của giai cấp tư sản phương Tây giành được thông qua bầu cử, mà là kết quả
của một q trình đấu tranh vơ cùng cam go, gian khổ, kể cả hy sinh xương
máu của hàng triệu đảng viên và nhân dân mới có được. Chính vì thế, Đảng
Cộng sản Việt Nam được nhân dân suy tôn là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động và của cả toàn thể dân tộc Việt Nam. Thực tiễn
hơn 90 năm qua cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và nắm quyền lãnh
đạo cách mạng Việt Nam là một tất yếu lịch sử, luôn đứng vững trên vũ đài
chính trị, đánh đổ hồn tồn chế độ thực dân, phong kiến và bè lũ đế quốc, xây
dựng một nước Việt Nam độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Vị thế, vai trò
lãnh đạo của Đảng ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Trở lại với Việt Nam cho đến khi Pháp xâm lược là một xã hội phong kiến,
nông nghiệp lạc hậu, trì truệ. Triều đình nhà Nguyễn thực hiện chính sách đối

nội, đối ngoại vô cùng bảo thủ và phản động: trong thì trấn áp, bóc lột nhân
dân, ngồi thì bế quan tỏ cảng từ chối cải cách. Điều đó làm cho đất nước ta
khơng có cơ hội tiếp xúc, bắt nhịp với sự phát triển của thế giới, cũng không
phát huy được nội lực.
Trước tình hình đó, thực dân Pháp xâm lược, triều đình nhà Nguyễn chống cự
yếu ớt, rồi nhân nhượng cầu hòa và cuối cùng là đầu hàng, bán rẻ Tổ quốc đổi


5

lấy ngai vàng. Vì vậy cuộc kháng chiến của nhân dân ta vơ cùng khó khăn,
phải cùng lúc chống cả “Tây lẫn Triều”. Từ 1858 đến cuối thế kỷ XIX, phong
trào cứu nước diễn ra mạnh mẽ, tiêu biểu như: Phong trào Cần Vương (18851896) mà đỉnh cao là khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo;
phong trào nông dân chống pháp, tiêu biểu là khởi nghĩa Yên Thế (18841913) do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Tuy nhiên, tất cả lần lượt đều thất bại,
cho thấy sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trước nhiệm vụ lịch sử.
Sang thế kỷ XX, thực dân Pháp tạm thời bình định được nước ta và bắt đầu
tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa. Xã hội Việt Nam có sự phân hóa. Trên
vũ đài chính trị xuất hiện một số trào lưu yêu nước và m ột số đảng phái chính
trị đều với mong muốn gánh vác sứ mệnh lịch sử cứu nước với dân tộc Việt
Nam thoát khỏi xiền xích nơ lệ (Phong trào Đơng Du, Đơng kinh nghĩa thục,
Duy Tân…) mà đại diện tiêu biểu nhất là hai chiến sỹ yêu nước với khuynh
hướng cứu nước khác nhau là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Tuy nhiên,
các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường Tư sản, tiểu
tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt bị thất b ại, đều bị chính thực tế
lịch sử Việt Nam chối bỏ vì chúng hồn tồn khơng đáp ứng được u cầu
phát triển của dân tộc. Cách mạng Việt Nam thất bại lâm vào tình trạng khủng
hoảng về đường lối. Sứ mệnh lịch sử đặt ra cho cả dân tộc, cho mỗi người dân
yêu nước phải tìm ra con đường mới đến cứu nước, cứu dân.
Sinh ra trong một gia đình trí thức yêu nước, lớn lên từ một miền quê có
truyền thống đấu tranh quật khởi, Nguyễn ái Quốc từ rất sớm đã có “chí đuổi

thực dân Pháp, giải phóng đồng bào”. Người rất khâm phục tinh thần yêu
nước của các bậc tiền bối như: Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh…nhưng không tán thành con đường cứu nước của các cụ. Xuất phát từ
lòng yêu nước và trên cơ sở rút kinh nghiệm thất bại của các thế hệ cách mạng
tiền bối, ngày
5/6/1911, Nguyễn Ái Quốc đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước cho dân
tộc. Vào tháng 7/1920 khi Người đọc được bản sơ thảo lần thứ nhất Luận
Cương các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin và tìm thấy trong đó có con
đường đúng đắn để giành độc lập thực sự. Đó là đường cách mạng vơ sản. Chỉ
có thể giải phóng dân tộc, giành dân tộc, giành độc lập thật sự khi gắn liền với
sự nghiệp đó với cách mạng vơ sản. Từ đó, trào lưu cách mạng theo con
đường vô sản mà chủ nghĩa Mác- Lênin do Nguyễn Ái Quốc tiếp thu và được
đưa vào phong trào “vơ sản hóa” ở Việt Nam là đứng vững trên các trào lưu có
tính chất cách mạng năm 20 của thế kỷ XX. Vào thời điểm đó, lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc với tầm nhìn chiến lược và nhạy bén chính trị đã tiến hành tổ chức
vận động thành lập Đảng ở Đông Dương. Người đã biên soạn nhiều tài liệu,
giáo trình tập huấn tuyên truyền phong trào cơng nhân. Khi những điều kiện
cần thiết đã chín muồi, Nguyễn Ái Quốc cùng các chiến sỹ Cộng sản đã
quyết định thành


6
lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào Mùa xuân năm 1930. Sứ mệnh lịch sử đó là
tất yếu, khơng ai, khơng một lực lượng nào có thể thay thế.
Như vậy sự ra đời của Đảng là đòi hỏi khách quan của thực tế lịch sử lúc bấy
giờ, không phải tự nhiên mà có, cũng khơng phải muốn là được. Đảng ra đời
đáp ứng được khát vọng lớn lao của toàn thể cần lao, xóa tan màn đêm tối, soi
đường dẫn lối cho nhân dân vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong
cuộc cách mạng phản đế, phản động.
Trong quá trình vận động cách mạng, với tơn chỉ mục đích rõ ràng “trước làm

tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội Cộng sản”,
Đảng Cộng sản Việt Nam nhanh chóng giành được vị thế lãnh đạo và được sự
ủng hộ rộng rãi của quảng đại quần chúng nhân dân lao động, một lòng, một
dạ đoàn kết với Đảng, quyết tâm ủng hộ Đảng lãnh đạo đất nước đi đến thắng
lợi cuối cùng. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã giải quyết những vấn đề cơ
bản của cách mạng; về hình thức và phương pháp đấu tranh, sách lược cách
mạng, về đoàn kết mọi lực lượng của toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế; về xây
dựng Đảng - Đội tiền phong cách mạng. Cương lĩnh của Đảng không ngừng
được bổ sung, phát triển và cụ thể hóa trong đường lối, chính sách và những
chủ trương lớn của thời kỳ cách mạng.
Dù có những nhận thức và quan điểm khác nhau về đấu tranh giai cấp và đấu
tranh dân tộc trong chủ nghĩa Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc vẫn kiên trì nêu cao
đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã
làm sáng tỏ quan điểm đó của Người. Hội nghị Trung ương Đảng (11/1939)
do Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã nêu cao ngọn cờ dân tộc và cách
mạng giải phóng dân tộc. Trung ương cho rằng, bước đường sinh tồn của dân
tộc “khơng có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ Đế quốc Pháp,
chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải
phóng cho độc lập”. “Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi
của dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cách mệnh, cả vấn đề điền địa
cũng phải nhằm vào mục đích ấy mà giải quyết”.
Ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước sau 30 năm hoạt động ở
nước ngoài. Tại Cao Bằng, tháng 5/1941, Người chủ trì Hội nghị Trung ương
8, phát triển hồn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa đấu tranh dân tộc với đấu tranh giai cấp, chống đế
quốc và chống phong kiến, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp. Trung ương
nhấn mạnh: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới
quyền lợi giải phóng của tồn thể dân tộc. Vậy thì quyền lợi của nông dân và
thợ thuyền phải đặt dưới quyền lợi giải phóng độc lập của tồn thể nhân
dân”.



7
Đường lối của Đảng được các giai cấp, tầng lớp hưởng ứng và ủng hộ, phát
triển mạnh mẽ khối đại đoàn kết toàn dân trong mặt trận Việt Minh, thúc đẩy
cao trào giải phóng dân tộc dẫn tới thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng tám
vĩ đại năm 1945. Cách mạng Tháng tám đã xóa bỏ chế độ thực dân gần một
thế
kỷ, chấm dứt chế độ phong kiến hàng nghìn năm giành chính quyền về tay
nhân dân; thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa- Nhà nước Dân chủ
Cộng hịa đầu tiên ở Đơng Nam Á, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội cho dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của cách mạng
Tháng tám gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, do
sự lãnh đạo sáng suốt và kiên quyết của Đảng, do sự đoàn kết và hăng hái
của toàn dân
trong và ngoài mặt trận Việt Minh, cuộc cách mạng Tháng tám đã thắng lợi.
“Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, giai
cấp lao động và những dân tộc bị áp bức trên thế giới, nơi khác cũng có thể
tự hào rằng: Lần này là đầu tiên trong lịch sử cách mạng các dân tộc thuộc
địa và nữa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành
cơng, đã nắm chính quyền tồn quốc”.
Sau khi giành được chính quyền khác với các Đảng chính trị khác trên thế
giới, khi lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền thì tự mình hưởng thành
quả cách mạng, Đảng ta không làm như vậy mà chủ trương “dựng ra Chính
phủ cơng - nơng - binh” và “mọi quyền lợi đều trao cho nhân dân”. “Đúng
như lời cam kết mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra từ khi vận động thành lập Đảng:
“Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì nên làm đến nơi, nghĩa là làm sao
cách mạng rồi thì quyền lợi giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay
một số ít người”.
Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời tồn tại và phát triển là do chính địi

hỏi của lịch sử, cần có một tổ chức chính trị Đảng Cộng sản lãnh đạo để đánh
đổ thực dân phong kiến, xây dựng một xã hội mới chứ khơng phải Đảng áp
đặt hay địi hỏi cho mình mà được.
Sau cách mạng Tháng tám năm 1945 đất nước vẫn cịn thù trong giặc ngồi,
chỉ sau một ngày đọc bản tun ngơn độc lập, Hồ Chí Minh đã triệu tập phiên
họp đầu tiên Chính phủ lâm thời, bàn những vấn đề cấp bách, đồng thời
“Chúng ta phải tiến hành Tổng Tuyển cử Quốc hội và phải có một Hiếp pháp
dân chủ”. Trước mn vàng khó khăn của chính quyền cịn non trẻ, Đảng ta
và Hồ Chí Minh đã kiên quyết lãnh đạo tổ chức cuộc Tổng Tuyển cử ngày
6/1/1946 để nhân dân tự lựa chọn, bầu đại biểu chân chính vào Quốc hội, cơ
quan quyền lực Nhà nước cao nhất Việt Nam Dân chủ Cơng hịa. Ngày
2/3/1946 Quốc hội họp lần thứ nhất bầu Hồ Chí Minh giữ chức Chủ tịch
Chính phủ và trao quyền cho Người lập Chính phủ chính thức- Chính phủ liên
hiệp kháng chiến.
Như vậy, mặc dù Đảng giành chính quyền qua quá trình lãnh đạo cách mạng,
nhưng Đảng được trao quyền lãnh đạo đất nước lại thông qua con đường pháp


8
luật, bầu cử dân chủ mà ra. Chỉ sau khi Quốc hội bầu bằng cuộc Tổng Tuyển
cử và Quốc hội thơng qua Hiến pháp thì quyền lực nhà nước của nhân dân mới
được xác lập về mặt pháp lý. Đảng có trách nhiệm trọng đại lãnh đạo tồn dân
tộc tiếp tục con đường giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và xây dựng xã
hội mới. Quyền lực của Đảng là do dân của cả dân tộc Việt Nam tin tưởng
giao cho chứ Đảng khơng địi hỏi bắt buộc phải có sứ mệnh lịch sử đó.
Chủ nghĩa đế quốc, thực dân không cam chịu thất bại ở Việt Nam, một quốc
gia nhỏ yếu. Vì vậy, với lợi ích thực dân và được sự ủng hộ của Đế quốc khác,
thực dân đã quay lại xâm lược Việt Nam từ ngày 23/9/1945. Sau khi thất bại
của Pháp ở Điện Biên Phủ (7/5/1954), Đế quốc Mỹ tìm cách thế chân Pháp
bằng cách thiết lập chế độ thực dân mới ở Miền Nam Việt Nam và phát động

cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo chống dân tộc Việt Nam khao khát độc lập,
tự do và u chuộng hịa bình. Vì niềm tin của dân tộc, của nhân dân, Đảng đã
hy sinh cho lợi ích của giai cấp của dân tộc và của nhân dân Việt Nam, làm
trọn vẹn sứ mệnh cao cả mà nhân dân giao cho. Đảng Cộng sản Việt Nam
trước vận mệnh sống còn của dân tộc đã quyết tâm lãnh đạo toàn dân tiến
hành các cuộc kháng chiến oanh liệt giành và bảo vệ độc lập, thống nhất của
dân tộc. Sự nghiệp đó được hồn thành với Đại thắng vào Mùa xuân 1975 lịch
sử, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, ghi vào lịch
sử dân tộc một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về
sự toàn thắng dân tộc Việt của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con
người Việt.
Kiên định mục tiêu chiến lược của cách mạng, khi miền Bắc được giải phóng
(1954), Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng XHCN và xây dựng CNXH ở miền
Bắc, đất nước thống nhất (1975), Đảng lãnh đạo xây dựng CNXH trên cả
nước. Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa là hồn tồn mới mẽ, chưa từng
có ở Việt Nam. Thực hiện nhiệm vụ nặng nề đó, chúng ta đã giành được
những thành tựu quan trọng, song cũng bọc lộ những hạn chế, yếu kém, thậm
chí sai lầm, khuyết điểm. Thực tế đó Đảng phải chú trọng nắm bắt đặc điểm
thực tiễn của đất nước, đổi mới tư duy lý luận, khắc phục bệnh giáo điều, chủ
quan duy ý chí, để nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan,
những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH. Đường lối đổi mới của Đại
hội VI (12/1986) đã được hoạch định trên cơ sở đó. Thực tiễn đổi mới và sự
phát triển nhận thức lý luận có ý nghĩa quan trọng để Đảng đề ra Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH tại Đại hội VII (6/1991) và
bổ sung phát triển Cương lĩnh Đại hội XI của Đảng (1/2011).
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn cả về
chính trị, kinh tế, xã hội, khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân, nâng cao và khẳng định vị thế của đất nước trong đời sống
chính trị, kinh tế thế giới. Từ thành tựu của đổi mới mà nhận thức về CNXH
và con đường đi



9
lên CNXH ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng tỏ hơn về mục tiêu và mơ
hình xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng. Những vấn đề về kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hóa, con người và những chặng đường bước đi của thời kỳ quá
độ lên CNXH cũng được thực tiễn làm rõ để nhận thức đúng đắn hơn. Nội
dung và khả năng bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cũng được nhận thức rõ
ràng hơn. Xây dựng CNXH hồn tồn có khả năng hội nhập quốc tế và tham
gia vào q trình tồn cầu hóa, kế thừa và những thành tựu mà nhân loại đã
đạt được dưới chủ nghĩa tư bản. Sự phát triển thực tiễn và nhận thức về
CNXH ở Việt Nam cho thấy giá trị bền vững của lý luận CNXH khoa học, lý
luận hình thái kinh
tế- xã hội chủ nghĩa Mác- Lênin loài người nhất định được nhận thức và vận
dụng sáng tạo từ thực tiễn Việt Nam. “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, lồi
người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
2. Ý NGHĨA, GIÁ TRỊ CỦA CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN
CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM HIỆN
NAY
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trọng đại trong
tiến trình cách mạng Việt Nam. Với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, Đảng đã
lãnh đạo dân tộc Việt Nam vượt qua bao ghềnh thác, khó khăn, giành từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác. Cho đến nay, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là ngọn cờ dẫn lối cho cách mạng Việt Nam
tiến bước trên con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc đã lựa
chọn, thể hiện như:
2.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường
lối lãnh đạo

Bước sang thế kỷ XX, phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam chịu sự tác

động của các cuộc cách mạng tư sản, với hai khuynh hướng chủ yếu là bạo
động và bất bạo động do Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh khởi xướng. Cả
hai khuynh hướng tạo động lực mới cho nhân dân cả nước đứng lên chống
ngoại xâm. Sau một thời gian liên tục diễn ra, đến cuối thập niên đầu của thế
kỷ XX, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản lần lượt bị thực
dân Pháp đàn áp khốc liệt, hoàn toàn bế tắc về đường lối đấu tranh giải phóng
dân tộc. Nhận biết được điều đó, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân tộc. Người đã bôn ba qua nhiều
nước đế quốc và thuộc địa, khảo sát, phân tích lý luận, đúc kết kinh nghiệm
thực tiễn, cuối cùng Người đã lựa chọn Chủ nghĩa Mác - Lênin, xác định con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc là cách mạng vô sản. Người tin theo và
vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin để hoạch định con đường cách mạng
Việt Nam: chuẩn bị các tiền đề để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tạo cơ
sở về tổ chức cho


10
sự phát triển lâu dài, bền vững của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội và giải phóng con người theo con đường cách mạng vô sản. Người sớm
xác định rõ: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vơ sản giai cấp mọi
nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm lái có
vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong
Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có
chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam... Bây
giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Định hướng đúng đắn đó nhanh chóng đưa tới sự phát triển của Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên và những chuyển biến tích cực của Đảng Tân Việt;
phong trào công nhân, nông dân và các tầng lớp khác không ngừng mở rộng

và phát triển về quy mô và vận động theo xu hướng vô sản, tác động tích cực
lẫn nhau dẫn tới sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản
Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn; đồng
thời cũng đặt ra yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản.
2.2. Giá trị của Cương lĩnh chính trị đầu tiên

Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng thể hiện cô đọng các luận
điểm cách mạng cơ bản, đánh giá chính xác tính chất xã hội Việt Nam thuộc
địa và chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu là giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với
đế quốc thực dân xâm lược; xác định đường lối phát triển, chiến lược, sách
lược của cách mạng Việt Nam được thực hiện bằng sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Chánh cương phân tích, đánh giá khái quát những đặc điểm quan trọng nhất
của kinh tế công nghiệp, nông nghiệp của nước Việt Nam thuộc địa; tính chất
độc quyền khai thác thuộc địa của thực dân Pháp với những hậu quả tiêu cực
cản trở sự phát triển độc lập về kinh tế của Việt Nam.
Về phương diện xã hội, Chánh cương khái quát mục tiêu, nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là được tự do, nam nữ
bình quyền, phổ thơng giáo dục...
Chánh cương xác định rõ phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam
là tiến lên chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Sách lược vắn tắt của Đảng khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của vô sản
giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai
cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Chủ trương của Đảng là: “thu phục cho


11
được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa
cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến”.
Đảng chủ trương xây dựng khối đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp

nhân dân yêu nước và các tổ chức cách mạng, chỉ đánh đổ những lực lượng và
đảng phái phản cách mạng: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí
thức, trung nơng, Thanh niên, Tân Việt, v.v.) để kéo họ đi vào phe vơ sản giai
cấp. Cịn đối với bọn phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa
rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung
lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải
đánh đổ”. Cương lĩnh chính trị của Đảng chỉ rõ giai cấp lãnh đạo và lực lượng
chính, động lực chủ yếu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam là: “Trong cuộc
cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực
chánh, nhưng vơ sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi
được”.
Về phương pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để
đánh đổ đế quốc, phong kiến. Việc nêu lên phương pháp cách mạng bạo lực
thể hiện sự thấm nhuần và tiếp thu tư tưởng cách mạng bạo lực và khởi nghĩa
vũ trang của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Con đường phát triển chỉ có thể là cách
mạng chứ khơng thể là cải lương, thỏa hiệp.
Về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Cương lĩnh nêu rõ:
“...trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời
tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế
giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”. Đồng thời, Cương lĩnh cũng xác định cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam
gắn liền với cách mạng thế giới, đề cao vấn đề đoàn kết quốc tế là sự kết hợp
chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng nhân, lợi
ích dân tộc và lợi ích toàn nhân loại tiến bộ đang đấu tranh để giải phóng khỏi
ách áp bức, bất cơng trên thế giới.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã xác định được những nội dung cơ
bản nhất của cách mạng Việt Nam. Sự đúng đắn của Cương lĩnh được khẳng
định qua thực tiễn đấu tranh cách mạng và xây dựng đất nước trong suốt hơn
90 năm qua:
Một là, Cương lĩnh xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của cách mạng tư

sản dân quyền (sau này gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) là chống
đế quốc, chống phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng.
Hai là, chiến lược đại đồn kết tồn dân tộc được xây dựng từ Cương lĩnh
chính trị đầu tiên là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt cách mạng Việt Nam trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến xây dựng đất nước theo định hướng
XHCN hiện nay.


12
Ba là, xác định rõ sứ mệnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng, Hội nghị thông qua Điều lệ
vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng. Các văn kiện này chỉ rõ: Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp vô sản; Đảng được tổ chức ra để dìu
dắt giai cấp vơ sản lãnh đạo quần chúng lao khổ đấu tranh giải phóng tồn thể
anh chị em bị áp bức, bóc lột “để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho
thực hiện xã hội cộng sản”.
Với cương lĩnh chính trị đúng đắn, ngay từ khi ra đời Đảng đã trở thành lực
lượng lãnh đạo, tập hợp xung quanh mình tồn thể dân tộc làm cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện
vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đồn kết
được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Cịn các
đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cơ lập. Do đó,
quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng
củng cố và tăng cường”. Dưới ánh sáng soi đường của Cương lĩnh Đảng ta đã
dẫn dắt toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi
mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và đang trên đường xây dựng
nước Việt Nam giàu, mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2.3. Ý nghĩa

2.3.1. Về mặt lý luận và thực tiễn

Cương lĩnh đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ bản của cách
mạng
Việt Nam.
Lần đầu tiên, cách mạng Việt Nam có một văn kiện chính trị phản ánh đúng
quy luật khách quan của xã hội Việt Nam.
Cương lĩnh là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào hoàn
cảnh cụ thể của một nước thuộc địa và phong kiến.
Con đường cách mạng vô sản mà Cương lĩnh đã khẳng định là con đường
thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ năm 1930.
2.3.2. Về mặt lịch sử
Đảng ra đời là một bước ngoặt vô cùng lớn và quan trọng trong suốt quá trình
phát triển của cả dân tộc Việt Nam.
Đảng ra đời là kết quả từ sự cần thiết tất yếu khách quan của xã hội Việt Nam
cuối những năm 20 đầu những năm 30 của thế kỷ XX.
Đảng ra đời đã đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng, củng cố truyền
thống đồn kết, trí tuệ, kỷ cương cho cả quá trình hoạt động về sau của Đảng.


13
Đảng ra đời đã xác định cương lĩnh cách mạng, tạo cơ sở vững chắc về tư
tưởng, chính trị và tổ chức cho sự nghiệp đấu tranh giành tự do, độc lập của
dân tộc Việt Nam, chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối lãnh đạo
cách mạng.
3. MỘT SỐ THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN
3.1. Thành tựu

Sự ra đời và hoạt động của Đảng ghi dấu ấn đậm nét vai trị và cơng lao to lớn
của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã đem chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ
nghĩa Cộng sản, trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Hồ Chí Minh
đã cùng với các đồng chí tham gia Hội nghị thành lập Đảng đặt những viên

gạch đầu tiên vững chắc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây cơ sở cho
truyền thống đoàn kết, trí tuệ, kỷ cương cho Đảng.
Sự ra đời của Đảng là một tất yếu lịch sử khi những điều kiện đã chín muồi.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam đầu năm 1930 chính là
kết quả hợp quy luật phát triển của xu hướng chính trị Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị của Đảng là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp
xây dựng đất nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định
hướng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước, của hệ thống chính trị và nhân
dân ta trong những thập kỷ tới. Thực hiện thắng lợi Cương lĩnh này, nước nhà
nhất định trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên 3-2-1930 và Luận Cương chính trị tháng 101930, Đảng đã tỏ rõ bản lĩnh chính trị và tầm cao trí tuệ trong lãnh đạo đấu
tranh giành độc lập dân tộc qua các cao trào cách mạng. Đảng đã vượt qua
mn vàn khó khăn do sự khủng bố của thực dân Pháp và bè lũ tay sai, duy trì
và phát triển sức sống của mình. Với tinh thần anh dũng và sáng suốt, Đảng
đã xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng, nắm được thời cơ đứng lên
lãnh đạo Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, lập nên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa; Đảng trở thành Đảng cầm quyền.
Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tuyên bố và nhận mạnh: Đất nước
Việt Nam chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như
ngày hơm nay…


14
3.2. Hạn chế

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng khơng tránh khỏi một số
hạn chế, đó là: việc nhận thức về lực lượng cách mạng; trong chỉ đạo một số
cao trào cách mạng và một số cuộc khởi nghĩa khi chưa có đủ điều kiện; trong
nắm bắt những chuyển biến quốc tế ảnh hưởng đến tình hình cách mạng ở
Việt Nam.

Trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Cương lĩnh, Đảng có lúc cũng phạm sai
lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm
quy luật khách quan;
3.3. Nguyên nhân

Trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến, sự chỉ đạo chiến lược của Đảng
trong một số trường hợp có biểu hiện tư tưởng chủ quan, nóng vội: Tổng động
viên, huy động sự đóng góp của nhân dân có lúc, có nơi vượt quá sức dân;
chưa giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa huy động, động viên với bồi dưỡng
sức dân nên gây ảnh hưởng không tốt tới tinh thần hăng hái, phấn khởi của
nhân dân.
Trong một số lĩnh vực và mặt công tác, khi học tập và vận dụng kinh nghiệm
của cách mạng bên ngồi có biểu hiện rập khn, máy móc, giáo điều…
Do nhận thức của Đảng trên một số lĩnh vực cịn hạn chế; khơng ít vấn đề lý
luận và thực tiễn còn chưa đủ sáng tỏ.
4. GIẢI PHÁP

Hiện nay, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tiến hành trong bối cảnh
tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó
lường. Hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng
trước nhiều khó khăn, thách thức. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân
túy đang nổi lên; việc điều chỉnh chiến lược và sự cạnh tranh gay gắt giữa các
nước lớn khiến các nước nhỏ luôn phải ứng phó với những biến động khó
lường. Để tiếp tục phát huy vai tò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay
Một là, tăng cường công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ
chức và cán bộ
Trước hết, nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất trong Đảng,
đồng thuận trong xã hội. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy



15
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ; coi trọng hơn nữa công tác đấu tranh bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng.
Hai là, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến
đấu của Đảng và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị
Từ kinh nghiệm của cơng tác xây dựng Đảng về tổ chức qua hơn 90 năm lãnh
đạo cách mạng đã minh chứng rằng, sức mạnh và vai trò lãnh đạo của Đảng
được thể hiện ở sức mạnh của hệ thống tổ chức, tinh thần kỷ luật và chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Do vậy, cần phải tiếp tục đổi mới,
sắp xếp tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu nâng cao
năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng…
Ba là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và
kiểm soát chặt chẽ quyền lực, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh, ngăn chặn, đẩy
lùi tham nhũng, lãng phí
Trước hết, tiếp tục tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm và
quyết tâm chính trị của tồn Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
Đảng. Kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng với thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của c ác cơ
quan bảo vệ pháp luật.
Coi phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Bốn là, củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên
Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, cần tiếp tục chú trọng nâng cao năng
lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Kiện toàn tổ chức cơ sở đảng
phù hợp với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, bảo
đảm sự lãnh đạo tồn diện của Đảng ở cơ sở. Quản triệt sâu sắc lời dạy của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Sức mạnh vơ địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự

giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ và đảng viên”.
Năm là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ


16
thống chính trị trong điều kiện mới
Tăng cường đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan
Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị; phát huy vai trò của nhân dân tham
gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh trong tình hình mới. Trong đó, xác định rõ cán bộ “là gốc của mọi
công việc”, do vậy, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “gần dân, tin
dân, trọng dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”.

Phần III. KẾT LUẬN

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự
chủ, sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội Việt Nam trong
những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn của dân tộc Việt Nam
lúc đó, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai cấp, tầng
lớp của xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Cương lĩnh đã đáp ứng
những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế
của thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của
cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mảc- Lênin vào
hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa và phong kiến. Đó chính là giải
quyết đúng đắn các mối quan hệ cốt lõi trong cách mạng Việt Nam: kết hợp
đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc; kết hợp truyền thống yêu nước và
tinh thần cách mạng của nhân dân với những kinh nghiệm của cách mạng thế
giới; kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng; đặc biệt là
sự kết họp nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo đặc điểm thực tiễn, yêu cầu của cách

mạng Việt Nam với tư tưởng tiên tiến, cách mạng của thời đại, vận dụng chủ
nghĩa Mác- Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn,
sáng tạo và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới.
Đảng ra đời là một bước ngoặt vô cùng lớn và quan trọng trong suốt quá
trình phát triển của cả dân tộc Việt Nam, Sự ra đời của Đảng đã chấm dứt
khủng hoảng đường lối cứu nước, cũng tức là chấm dứt khủng hoảng về giai
cấp lãnh đạo cách mạng, đánh dấu mốc lớn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt
Nam đã trở thành giai cấp tự giác.
Đảng ra đời là kết quả từ sự cần thiết tất yếu khách quan của xã hội Việt Nam
cuối những năm 20 đầu những năm 30 của thế kỷ XX, Đảng ra đời là do yêu
cầu phát triển tất yếu của xã hội Việt Nam, là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; đồng


17
thời, đó cũng là do sự đóng góp quan trọng của Hồ Chí Minh, người tìm
đường,
người mở đường và người dẫn đường cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam.
Đảng ra đời đã đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng, củng cố truyền
thống đồn kết, trí tuệ, kỷ cương cho cả quá trình hoạt động về sau của Đảng,
Do vậy, sự thống nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng
Cộng sản duy nhất là một điều kiện cực kỳ quan trọng cho thắng lợi của cuộc
đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào để tiến lên
trên con đường của chủ nghĩa xã hội./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp Hành Trung
ương khóa X, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật. H.2008.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị Quốc gia Sự thật. H.2011.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Nxb.
Chính trị Quốc gia Sự thật. H.2016.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb.
Chính trị Quốc gia Sự thật. H.2021, t.I.
5. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt
Nam (Dùng cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị), Nxb. Lý luận chính trị, (tài
liệu
có cập nhật, chỉnh sửa năm 2021).



×