Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Nâng cao hiệu quả quản lý vốn của các doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.6 KB, 13 trang )

NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ VỐN CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG BỐI CẢNH GIA NHẬP
HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUN THÁI BÌNH DƯƠNG
ThS. Trần Phi Long1
Lê Ngọc Minh Châu

Tóm tắt
Bài viết nghiên cứu hiệu quả quản lý vốn của các doanh nghiệp nhà nước trong
bối cảnh gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương bằng cách chỉ ra kinh
nghiệm thành công của các quốc gia trên thế giới trong việc quản lý vốn nhà nước tại
các doanh nghiệp. Sau đó, bài viết đã chỉ ra những hạn chế trong thực trạng hoạt
động của các doanh nghiệp nhà nước và trong công tác quản lý vốn của các doanh
nghiệp nhà nước trong thời gian qua. Cuối cùng, bài viết đưa ra một vài kiến nghị cho
chính phủ nhằm nâng cao hiệu quả quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà
nước trong thời gian tới.
Từ khóa: quản lý vốn, doanh nghiệp nhà nước.
1. Lời mở đầu
Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2014 (có hiệu lực từ ngày 26/11/2014),
doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Quy
định này đã làm giảm đáng kể số lượng các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam, do
trong Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005, doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do
nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ. Một trong những lý do điều chỉnh quy định
này là do Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Ví dụ, Việt
Nam đã tham gia vào các hiệp định thương mại song phương (FTAs), gia nhập Cộng
đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) vào năm 2016. Hội nhập kinh tế toàn cầu đã gây ra một áp lực lớn phải
cải cách của những doanh nghiệp nhà nước, từ trước đến nay phần lớn vẫn bị coi là
hoạt động kém hiệu quả. Và quy định mới được đề ra nhằm tạo sự thuận lợi cho q
trình cổ phần hóa của doanh nghiệp nhà nước và tăng hiệu quả kinh tế sau cổ phần
hóa. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của bài này là các doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu
nhà nước từ 50% vốn điều lệ trở lên, vì những doanh nghiệp này có vai trị to lớn trong


1

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Email của tác giả chính:

585


việc phát triển đất nước. Các nhà phân tích và hoạch định chính sách ln quan tâm
đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước là vì hiện nay các doanh
nghiệp nhà nước vẫn đóng vai trị rất quan trọng cho sự phát triển của đất nước. Thứ
nhất, các doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ những ngành, những lĩnh vực then
chốt cùng với hệ thống cơ sở vật chất quan trọng trong sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hóa đất nước. Một vài doanh nghiệp nhà nước còn giữ vị thế độc quyền trong
các ngành, lĩnh vực như truyền tải điện, đường sắt, cấp thoát nước. Thứ hai, doanh
nghiệp nhà nước đã góp phần quan trọng vào việc điều tiết cung cầu, ổn định giá cả,
chống lạm phát, ổn định tỷ giá, khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường. Thứ ba,
doanh nghiệp nhà nước đóng góp nguồn thu tập trung lớn và ổn định cho ngân sách
nhà nước. Mặt khác, các doanh nghiệp này so với các thành phần kinh tế khác vẫn luôn
là đối tác chính với các liên doanh nước ngồi, họ có được sự uy tín, nhận được đầu tư
đến từ nước ngồi và được chuyển giao những cơng nghệ mới nhất phục vụ sản xuất.
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic
Partnership Agreement - TPP) là một hiệp định thương mại tự do được ký kết giữa 12
quốc gia vào ngày 04/02/2016 sau 7 năm đàm phán với mục đích hội nhập các nền
kinh tế thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương. 12 nước này bao gồm có Úc,
Brunei, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Canada, Peru, Singapore, Việt Nam,
Mỹ và Nhật Bản. Mục tiêu chính của TPP là đẩy mạnh giao thương hàng hoá và dịch
vụ trong khu vực bằng cách xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng hóa, dịch vụ xuất
nhập khẩu giữa các nước thành viên. Mặc dù Việt Nam đã ký kết một vài các hiệp định
tự do trước đó nhưng TPP sẽ mang lại cho ta những cơ hội cịn lớn hơn thế. Chính phủ
Việt Nam rất coi trọng đến Hiệp định TPP và đang cố gắng nỗ lực hết sức mình để đổi

mới, cải thiện nền kinh tế đủ khả năng nắm bắt, khai thác cơ hội một khi TPP có hiệu
lực từ năm 2018. Tuy vậy, cơ hội lớn đồng nghĩa với thách thức cũng lớn. Việc tham
gia vào TPP sẽ tạo ra áp lực đổi mới hoạt động lên các doanh nghiệp Việt Nam, đặc
biệt áp lực này sẽ đè nặng lên những doanh nghiệp nhà nước nhiều hơn là những
doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ vì từ trước đến nay các doanh nghiệp nhà nước được
nhận sự hỗ trợ rất nhiều từ nhà nước. Khi đã tham gia vào TPP, các doanh nghiệp nhà
nước sẽ phải chấp nhận “luật chơi” của quốc tế. Con đường duy nhất cho các doanh
nghiệp nhà nước phát triển là nâng cao hiệu quả hoạt động hiện tại.
Bài viết này sẽ nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới trong việc
nâng cao hiệu quả quản lý vốn của các doanh nghiệp hoạt động trong khu vực kinh tế
nhà nước. Sau đó, bài viết sẽ nghiên cứu thực trạng quản lý vốn của các doanh nghiệp

586


nhà nước tại Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp cho doanh nghiệp nhà nước và các
kiến nghị cho chính phủ.
2. Kinh nghiệm quốc tế về nâng cao hiệu quả quản lý vốn của các doanh
nghiệp nhà nước
Tại Trung Quốc, về cơ bản có bốn loại hình doanh nghiệp nhà nước được đầu tư.
Thứ nhất là loại doanh nghiệp nhà nước độc quyền đầu tư nhằm đảm bảo quốc phịng,
an ninh quốc gia (vũ khí, qn sự, tiền...), được nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ cho
loại này và doanh nghiệp tư nhân không được phép đầu tư. Thứ hai là loại doanh
nghiệp nhà nước được ưu tiên đầu tư trong những hạng mục xây dựng hạ tầng cơ sở
lớn có lợi ích cho xã hội mà doanh nghiệp ngồi nhà nước khơng đủ sức tham gia như
luyện kim, hóa chất, dịch vụ: tài chính, bảo hiểm, đường sắt, hàng không... Thứ ba là
loại doanh nghiệp mà nhà nước cần đầu tư hướng dẫn và có những chính sách thúc đẩy
phát triển, ngành khoa học mũi nhọn như vi mạch, vi sinh, vũ trụ... Cuối cùng là các
doanh nghiệp khai thác tài nguyên không tái sinh cần đầu tư quy mô lớn, thời gian thu
hồi vốn chậm mà các thành phần kinh tế khác không đủ sức đầu tư và chưa muốn các

doanh nghiệp nước ngoài chiếm cổ phần như than, dầu khí... Về việc phân cơng, phân
cấp thực hiện quyền chủ sở hữu với vốn nhà nước tại doanh nghiệp, nội dung này được
thực hiện bởi hai thành phần, đó là Quốc Vụ Viện đại diện cho nhà nước và Chính
quyền nhân dân tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc và chính quyền nhân dân tại các
khu kinh tế mở, các Châu tự trị đại diện nhà nước. Theo đó thì Quốc Vụ Viện thực
hiện chức năng, nhiệm vụ đầu tư vốn đối với các doanh nghiệp nhà nước cỡ lớn, liên
quan đến an ninh quốc gia, cịn Chính quyền nhân dân đảm nhiệm đầu tư vốn tại các
doanh nghiệp nhà nước còn lại. Để thực hiện nhiệm vụ giám sát, Trung Quốc đã thành
lập ủy ban Giám sát và quản lý tài sản Nhà nước (SASAC) với mục tiêu thực hiện
chức năng của người đầu tư vốn, giám sát, quản lý tài sản nhà nước tại các doanh
nghiệp nhằm phân định rõ giữa quyền quản lý nhà nước với quyền chủ sở hữu nhà
nước và tách bạch quản lý nhà nước với quản lý doanh nghiệp. Quyền sở hữu và quản
lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp được chuyển dần từ cơ quan nhà nước sang cơ quan
nắm quyền đầu tư vốn. Tuy vậy thì việc giám sát vẫn có hạn chế như bộ máy tổ chức
cồng kềnh vì SASAC quản lý về mọi mặt: nhân sự, hoạt động,... Mặt khác, việc kiểm
soát vẫn chưa thể thốt khỏi tính hành chính trong việc quản lý và chưa có sự tách biệt
giữa quản lý nhà nước với quản lý doanh nghiệp.
Tại Singapore, một trong những đặc điểm nổi bật là để thực hiện chức năng đại
diện chủ sở hữu và quản lý phần vốn thuộc sở hữu của chính phủ đầu tư thì Singapore

587


thành lập các cơng ty đầu tư tài chính nhà nước bao gồm Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Temasek (Temasek Holdings Limited) để quản lý các doanh nghiệp công và Công ty
Sức khoẻ Singapore (Health corporation of Singapore) để quản lý các bệnh viện nhà
nước đã được cổ phần hóa. Trong đó, Temasek Holdings Limited là một tập đồn đầu
tư vốn của nhà nước thuộc Bộ Tài chính, có chức năng thực hiện đầu tư vốn vào các
công ty theo chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ, đại diện chủ sở hữu nhà nước
và quản lý vốn thuộc sở hữu của chính phủ đầu tư tại các doanh nghiệp. Bộ Tài chính

giao cho Temasek thay mặt Bộ Tài chính để quản lý vốn nhà nước tại các cơng ty mà
nhà nước đầu tư. Theo đó thì Temasek có trách nhiệm phải báo cáo hoạt động của
mình định kỳ theo yêu cầu. Về phương thức hoạt động của Temasek, Temasek hoạt
động như một quỹ đầu tư chuyên nghiệp, được chủ động đầu tư vào các doanh nghiệp
có triển vọng, tạo giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp thông qua việc tái cơ cấu.
Ngồi ra thì nó cịn dùng lợi nhuận thu được để đầu tư theo yêu cầu của chính phủ,
theo đề nghị các cơng ty hay gửi ngân hàng. Vốn của Temasek đến từ nhà nước cấp, từ
việc bán tài sản và cổ tức thu được. Thông qua sử dụng quá trình tiến cử nhân sự lãnh
đạo, tiêu chuẩn quản trị doanh nghiệp và công khai tài chính, Temasek đã góp phần
nâng cao chất lượng hoạt động của mình.
Tại Hàn Quốc, chủ yếu có hai loại hình đơn vị kinh tế có vốn của nhà nước. Loại
thứ nhất là doanh nghiệp thuộc đơn vị của Chính phủ, có nghĩa là Chính phủ chịu hồn
tồn đối với hoạt động của các doanh nghiệp này. Mục tiêu thành lập loại doanh
nghiệp này chủ yếu là để phục vụ công ích, dịch vụ công nhiều hơn là mang ý nghĩa
kinh doanh, thu lợi nhuận. Loại thứ hai là doanh nghiệp do nhà nước đầu tư, nơi mà
vốn điều lệ của nhà nước chiếm hơn 50%. Các cơng ty này có cơ chế quản lý của chủ
sở hữu đối với các doanh nghiệp này theo luật doanh nghiệp do nhà nước đầu tư và
phải tuân theo một hệ thống đánh giá kết quả hoạt động riêng. Ngồi ra cịn có các loại
hình đơn vị kinh tế có vốn nhà nước khác là doanh nghiệp có vốn góp của nhà nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư gián tiếp của nhà nước. Ba kinh nghiệm nổi bật trong quản
lý vốn nhà nước tại Hàn Quốc là (1) vấn đề về quyết định và sử dụng mức vốn đầu tư
nhà nước, (2) vấn đề liên quan đến chủ sở hữu và quyền của chủ sở hữu, và (3) vấn đề
về giám sát hoạt động của doanh nghiệp. Thứ nhất, trong việc quyết định mức vốn đầu
tư, cấp có thẩm quyền cao nhất là Quốc hội. Còn việc giải ngân các vốn đầu tư này sẽ
được thực hiện bởi Bộ Kế hoạch và Ngân sách và Bộ Tài chính và Kinh tế. Mặt khác
việc sử dụng vốn ngân sách của nhà nước để đầu tư cũng được phân chia rõ rệt giữa
đầu tư bằng tiền mặt và đầu tư bằng tài sản. Nếu đầu tư bằng tiền mặt thì bộ chủ quản
đề xuất nhu cầu và lập kế hoạch đầu tư, sau đó đưa cho Bộ Kế hoạch và Ngân sách

588



xem xét thơng qua và trình lên Quốc hội phê chuẩn. Cuối cùng thì Bộ trưởng Bộ Tài
chính và Kinh tế có trách nhiệm phải triển khai thực hiện. Nếu đầu tư bằng tài sản thì
tập đồn đề xuất lên Bộ Tài chính và Kinh tế và bộ chủ quản. Hai bộ này họp với nhau,
nếu thơng qua thì trình Tổng thống phê chuẩn. Sau đó Bộ Tài chính và Kinh tế sẽ có
trách nhiệm bàn giao tài sản đầu tư cho tập đồn. Nếu như Chính phủ khơng có nhu
cầu tiếp tục đầu tư vào các tập đoàn này thì Bộ Tài chính và Kinh tế cùng bộ chủ quản
sẽ họp lại và thống nhất về việc bán cổ phần. Thứ hai, về vấn đề chủ sở hữu vốn nhà
nước tại các doanh nghiệp, Chính phủ (bộ chủ quản, Bộ Tài chính và Kinh tế và Bộ Kế
hoạch và Ngân sách) trực tiếp thực hiện chức năng đại diện là chủ sở hữu phần vốn
đầu tư và các tập đồn chứ khơng trao quyền cho các cơng ty quản lý tài sản và đầu tư
tài chính. Quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước thể hiện các
quyền đối với phần vốn đầu tư của Chính phủ vào các tập đồn. Quyền này bao gồm
quyết định phê duyệt, sửa đổi, bổ sung điều lệ hoạt động của doanh nghiệp nhà nước;
bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp nhà nước;
nhận thông tin, giám sát và đánh giá hoạt động quản lý của các cá nhân do chủ sở hữu
bổ nhiệm trong doanh nghiệp nhà nước. Thứ ba, về vấn đề giám sát hoạt động của
doanh nghiệp, Hàn Quốc đã xây dựng một hệ thống chỉ tiêu chủ yếu đánh giá kết quả
hoạt động của doanh nghiệp (trung bình mỗi doanh nghiệp có 30 - 40 chỉ tiêu hoạt
động). Một hệ thống chỉ tiêu gồm có ba nhóm chính. Nhóm thứ nhất gồm các chỉ tiêu
định lượng về năng suất, chỉ tiêu định tính về hiệu quả quản lý và nỗ lực thực hiện
trách nhiệm của những nhà quản lý. Nhóm thứ hai là những chỉ tiêu đánh giá việc thực
hiện mục tiêu của doanh nghiệp, trong đó bao gồm một số tiêu chuẩn mang tính kỹ
thuật về hiệu quả hoạt động. Nhóm thứ ba là những tiêu chí về quản trị kinh doanh bao
gồm các chỉ tiêu định tính: khả năng phản ứng với thay đổi kinh doanh, sự hiệu quả
của hội đồng quản trị, khả năng làm hài lòng khách hàng.
Tại New Zealand, về những vấn đề liên quan đến thành lập các doanh nghiệp nhà
nước, Quốc hội là cơ quan thông qua danh mục các doanh nghiệp nhà nước. Thành lập
doanh nghiệp nhà nước sẽ do Cơ quan Toàn quyền New Zealand quyết định dựa trên

cơ sở đề nghị của Hội đồng liên bang và bằng nguồn ngân sách của Quốc hội phân bổ.
Về vấn đề chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Chính phủ New Zealand trao
quyền đó cho những người nắm vốn. Theo Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1986 thì
người đứng tên của vốn nhà nước tại các doanh nghiệp là các Bộ trưởng của Chính phủ
hồng gia gồm Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng quản lý ngành. Hai bộ trưởng
này ln giữ phần vốn góp ngang nhau, mỗi người giữ 50% vốn điều lệ. Các bộ trưởng
nắm vốn này khơng có quyền chuyển đổi sở hữu vốn góp mà mình đứng tên cho người

589


khác, đồng thời cũng khơng có quyền cho phép doanh nghiệp nhà nước chia hay bổ
sung thêm vốn góp mới cho bất kỳ đối tượng nào khác khơng phải mình. Các bộ
trưởng nắm vốn có quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm các thành viên hội đồng quản trị và
có trách nhiệm về hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trước Quốc hội. Về nhiệm vụ
của từng bộ phận trong doanh nghiệp thì hội đồng quản trị là đại diện của chủ sở hữu
trong công ty, thực hiện mục tiêu và định hướng phát triển của cơng ty. Ngồi ra, hội
đồng quản trị có trách nhiệm trước Bộ trưởng nắm vốn bằng một bản thỏa ước. Bản
thỏa ước này bao gồm các thơng tin cho năm tài chính và hai năm tài chính. Bộ trưởng
quản lý ngành phải gửi bản thỏa ước này cho Quốc hội. Để giám sát tình hình của các
doanh nghiệp nhà nước, New Zealand cũng thành lập Ủy ban tư vấn giám sát doanh
nghiệp nhà nước (CCMAU) trực thuộc Bộ Tài chính. Một vài nhiệm vụ của CCMAU
là tư vấn cho chủ sở hữu nhà nước về thành lập doanh nghiệp nhà nước mới, tư vấn về
tái cơ cấu nguồn vốn đầu tư của nhà nước, tìm kiếm và cung cấp danh mục các ứng
viên cho hội đồng quản trị, giúp các bộ giám sát hoạt động của doanh nghiệp.
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Thứ nhất, Nhà nước chỉ đầu tư vốn vào các doanh nghiệp trong các lĩnh vực
quan trọng liên quan đến an ninh đất nước như quốc phòng, an ninh, những lĩnh vực
mà các doanh nghiệp ngồi nhà nước khơng thể đầu tư vì vốn lớn và chậm thu hồi vốn.
Mục tiêu của đầu tư vốn vào doanh nghiệp này là để điều tiết nền kinh tế theo phương

hướng phát triển của đất nước.
Thứ hai, cần xác định và làm rõ ràng chức năng quyền hạn của chủ sở hữu vốn
nhà nước và pháp nhân doanh nghiệp. Mặt khác, phải định hướng hướng phát triển của
doanh nghiệp có vốn nhà nước theo nền kinh tế thị trường. Điều này có nghĩa là Nhà
nước là chủ sở hữu của doanh nghiệp nhưng không tham gia vào hoạt động kinh doanh
hàng ngày của doanh nghiệp mà chỉ giám sát hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
thông qua các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả và hoạt động. Trong khi đó, doanh nghiệp có
trách nhiệm báo cáo đầy đủ và chính xác tình hình doanh nghiệp, bảo tồn vốn nhà
nước và làm tăng vốn đó.
Thứ ba, quyền của đại diện chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp sẽ tùy thuộc
vào số vốn góp của Nhà nước vào doanh nghiệp. Nếu Nhà nước góp vốn 100% thì thực
hiện quyền kiểm sốt chặt chẽ hơn, hội đồng quản trị sẽ bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu nhà
nước và giám sát bộ máy điều hành. Nếu như Nhà nước chỉ đóng góp một phần vốn thì
quyền của chủ sở hữu nhà nước ở đây sẽ như một cổ đơng tùy theo mức độ góp vốn. Các
quyền ở đây bao gồm: quyền sở hữu cổ phần vốn góp, quyền chuyển nhượng, chuyển

590


giao, quyền nhận thông tin, quyền giám sát hoạt động doanh nghiệp, quyền đề cử, ứng cử
các chức danh quản lý doanh nghiệp, quyền được hưởng lợi nhuận.
Thứ tư, việc giám sát của chủ sở hữu tại các doanh nghiệp đều tập trung vào
đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu với nhiều phương thức, hình thức khác nhau.
Quốc hội là nơi đánh giá việc thực hiện của chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp.
Các biện pháp giám sát nhấn mạnh tới cơ chế làm minh bạch về phần vốn đầu tư cùng
với mối quan hệ giữa Chính phủ với doanh nghiệp nhà nước.
Thứ năm, để thực hiện các quyền của mình với các doanh nghiệp có vốn nhà
nước, các nước giao cho một hoặc một số cơ quan làm đại diện chủ sở hữu. Các cơ
quan được giao trách nhiệm này lại được phân làm hai nhóm mơ hình là mơ hình cơ
quan hành chính nhà nước hoặc mơ hình một số tổ chức hoặc doanh nghiệp thực hiện

chức năng đại diện vốn chủ sở hữu nhà nước.
3. Thực trạng quản lý vốn các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước từ năm 2005 đến năm 2014 được
phân tích dựa trên sự đánh giá hai khía cạnh: vốn đầu tư phát triển toàn xã hội và tổng
sản phẩm trong nước theo giá thực tế.
Bảng 1. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện (theo giá thực tế)
phân theo ngành kinh tế
Khu vực kinh tế
nhà nước
Năm

Tổng số

Khu vực kinh tế ngồi nhà
nước

Khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài

Giá trị
(tỷ đồng)


cấu
(%)

Giá trị
(tỷ đồng)

Cơ cấu

(%)

Giá trị
(tỷ đồng)

Cơ cấu
(%)

2005

343.135

161.635

47

130.398

38

51.102

15

2006

404.712

185.102


46

154.006

38

65.604

16

2007

532.093

197.989

37

204.705

38

129.399

24

2008

616.735


209.031

34

217.034

35

190.670

31

2009

708.826

287.534

41

240.109

34

181.183

26

2010


830.278

316.285

38

299.487

36

214.506

26

2011

924.495

341.555

37

356.049

39

226.891

25


2012

1.010.114

406.514

40

385.027

38

218.573

22

2013

1.094.542

441.924

40

412.506

38

240.112


22

2014

1.220.724

486.804

40

468.513

38

265.407

22

Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam

591


Bảng 1 chỉ ra vai trò quan trọng của các doanh nghiệp hoạt động trong khu vực kinh
tế nhà nước. Mặc dù tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội của khu vực kinh tế nhà nước
có xu hướng giảm, tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội của khu vực kinh tế nhà nước
vẫn cao hơn so với tỷ lệ vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngồi nhà nước và thậm chí cịn
gấp đôi tỷ lệ vốn đầu tư của khu vực đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, tỷ lệ vốn đầu tư phát
triển của khu vực kinh tế nhà nước lại chưa thật sự hiệu quả, thể hiện ở cơ cấu đóng góp
của khu vực này vào tổng sản phẩm trong nước qua các năm (Bảng 2).

Bảng 2. Tổng sản phẩm trong nước (theo giá thực tế) phân theo ngành kinh tế
Khu vực kinh tế nhà
nước
Năm

Tổng số

Giá trị
(tỷ đồng)

Khu vực kinh tế
ngoài nhà nước


cấu
(%)

Giá trị
(tỷ đồng)


cấu
(%)

Khu vực có vốn
đầu tư nước ngồi
Giá trị
(tỷ đồng)



cấu
(%)

2005

913.951

343.833

38

431.548

47

138.570

15

2006

1.061.565

389.533

37

501.432

47


170.600

16

2007

1.246.769

440.687

35

594.617

48

211.465

17

2008

1.616.048

566.812

35

767.632


48

281.604

17

2009

1.809.149

628.074

35

867.810

48

313.265

17

2010

1.887.082

633.187

34


926.928

49

326.967

17

2011

2.461.442

806.425

33

1.219.625

50

435.392

18

2012

2.922.370

953.789


33

1.448.171

50

520.410

18

2013

3.221.887

1.039.725

32

1.559.741

48

622.421

19

2014

3.542.101


1.131.319

32

1.706.441

48

704.341

20

Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam
Bảng 2 đã chỉ ra sự hoạt động kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước. Tỷ lệ
đóng góp của khu vực này vào tổng sản phẩm trong nước giảm dần từ 38% năm 2005
xuống còn 32% năm 2014. Trong khi đó, tỷ lệ đóng góp của khu vực kinh tế vốn đầu
tư nước ngoài lại tăng từ 15% năm 2005 lên 20% năm 2014. Như vậy, tỷ lệ vốn đầu tư
của khu vực kinh tế nhà nước là chưa hiệu quả.

592


Một trong các nguyên nhân làm cho hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp
nhà nước giảm sút trong thời gian qua là do cơ chế quản lý vốn nhà nước trong giai
đoạn 2005 - 2014 tại các doanh nghiệp này chưa thật sự hiệu quả. Phạm Thị Thanh
Hoà (2012) đã nhận xét về những hạn chế của cơ chế quản lý vốn tại các doanh nghiệp
nhà nước thông qua bốn khía cạnh là: cơ chế đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp, cơ
chế quản lý sử dụng vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, cơ chế phân phối lợi nhuận
sau thuế, cơ chế giám sát việc đầu tư, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Thứ

nhất, về cơ chế đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp, việc quyết định đầu tư do nhiều
cấp thực hiện, bao gồm các bộ, ngành, địa phương, tổng công ty. Điều này làm cho tại
cùng một khu vực, các dự án cùng ngành nghề, cùng lĩnh vực đều được đầu tư, dẫn
đến việc đầu tư dàn trải, hiệu quả kinh tế chưa cao.
Thứ hai, về cơ chế quản lý sử dụng vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, hiện
nay nhiều doanh nghiệp nhà nước đầu tư ngồi ngành cịn cao, mặc dù quy định đầu tư
ngoài ngành của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước là khơng được vượt quá
30% tổng vốn kinh doanh. Số liệu về đầu tư ngồi ngành của các tập đồn, tổng cơng
ty nhà nước trong giai đoạn 2006 - 2010 được trình bày trong báo cáo thực trạng hoạt
động của tập đoàn, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2006 - 2010 của Bộ Tài chính.

Biểu đồ 1: Tỷ lệ đầu tư ngồi ngành của tổng cơng ty,
tập đồn kinh tế (đơn vị: tỷ đồng)
25000
20000
15000
10000
5000
0

2006

2007

2008

2009

2010


Ngân hàng

3838

7977

11427

8734

10128

Quỹ đầu tư

600

1050

1424

694

495

Bất động sản

211

1431


2285

2999

5379

Bảo hiểm

758

2655

3007

1578

2236

Chứng khoán

707

1328

1697

986

3576


Nguồn: Bộ Tài chính

593


Biểu đồ 1 đã chỉ ra sự gia tăng trong lượng vốn đầu tư ngồi ngành của các tổng
cơng ty, tập đồn kinh tế trong một số lĩnh vực có rủi ro cao là ngân hàng tài chính và
bất động sản. Nhìn chung, tổng giá trị các khoản đầu tư này đã tăng từ 6.114 tỷ đồng
năm 2006 lên 21.814 tỷ đồng năm 2010. Mặc dù việc đầu tư ra ngồi ngành cũng có
ưu điểm là giúp cho doanh nghiệp có thể đa dạng hố được các hoạt động kinh doanh,
tuy nhiên cũng sẽ làm cho doanh nghiệp khơng có đủ vốn để tập trung đầu tư vào các
hoạt động kinh doanh cốt lõi để có thể khai thác được lợi thế cạnh tranh theo quy mơ
và từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hơn nữa, các chế tài xử phạt việc thua lỗ đầu
tư ra ngoài ngành còn chưa cụ thể, khiến cho các doanh nghiệp sẽ được hưởng các
khoản lãi khi đầu tư ngồi ngành, cịn khi thua lỗ thì đối tượng phải chịu thiệt hại là
nhà nước. Bên cạnh đó, việc đầu tư thua lỗ khi đầu tư ngồi ngành có thể cịn làm cho
giá cả dịch vụ hàng hoá tăng cao, khiến cho người dân phải trả nhiều tiền hơn để sử
dụng được các hàng hố, dịch vụ này. Chính vì vậy, Đề án “Tái cơ cấu doanh nghiệp
nhà nước, trọng tâm là tập đồn kinh tế, tổng cơng ty nhà nước giai đoạn 2011 - 2015”
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào năm 2012 với hai mục tiêu chính là (1)
Doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý hơn, tập trung vào ngành, lĩnh vực then chốt,
cung cấp sản phẩm, dịch vụ cơng ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng, an ninh, làm
nòng cốt để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất
quan trọng để Nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô (2)
Nâng cao sức cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đối với doanh nghiệp
kinh doanh, hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ cơng ích
thiết yếu cho xã hội, quốc phịng, an ninh đối với doanh nghiệp hoạt động cơng ích.
Phan Thị Thuỳ Linh (2015) đã nghiên cứu tình hình thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp
nhà nước theo hai khía cạnh là về sắp xếp, cổ phần hố và về thoái vốn nhà nước. Về
sắp xếp, cổ phần hoá, từ năm 2011 đến tháng 11 năm 2015, đã có 408 doanh nghiệp

được cổ phần hoá (tương đương khoảng 79% tổng số doanh nghiệp cần cổ phần hoá
theo kế hoạch) và 63 doanh nghiệp được sắp xếp theo các hình thức khác (bán 10
doanh nghiệp; sáp nhập, hợp nhất 37 doanh nghiệp; phá sản 09 doanh nghiệp; chuyển
thành đơn vị sự nghiệp 01 đơn vị; chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên 06 doanh nghiệp). Về thoái vốn nhà nước, từ năm 2012 đến tháng 10 năm
2015, nhà nước đã thoái được 16.450 tỷ đồng và thu về được 22.870 tỷ đồng.
Thứ ba, về cơ chế phân phối lợi nhuận sau thuế, các doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước phải bắt buộc tuân theo quy định phân phối lợi nhuận do nhà nước quy định. Cơ
chế này do đó thể hiện sự cứng nhắc, chưa linh hoạt cho từng giai đoạn phát triển của
doanh nghiệp. Đồng thời, cơ chế phân phối lợi nhuận hiện nay của các doanh nghiệp

594


nhà nước quy định rằng lợi nhuận sau thuế được chia cho chủ sở hữu là nhà nước và
cho doanh nghiệp theo tỷ lệ vốn vay của doanh nghiệp, nhằm giúp cho doanh nghiệp
có thêm vốn để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, điều này lại khuyến
khích doanh nghiệp vay nợ nhiều, do đó rủi ro tài chính của doanh nghiệp sẽ tăng lên,
đặc biệt sẽ có những tác động lớn đến doanh nghiệp khi hiệu quả sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp đi xuống trong thời kỳ suy thoái.
Thứ tư, về cơ chế giám sát vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, công tác giám
sát vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp có hiệu quả chưa cao, do hiện nay chủ sở
hữu thường chỉ căn cứ vào các báo cáo của doanh nghiệp, và ngay cả các báo cáo của
doanh nghiệp cũng chưa được nộp đầy đủ. Các chỉ tiêu giám sát hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước còn chưa đầy đủ. Hiện tại, các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá
hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước bao gồm doanh thu, lợi nhuận thực
hiện, tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước đầu tư và chỉ tiêu khả năng thanh toán và nợ
quá hạn của doanh nghiệp. Những chỉ tiêu này thiên về các chỉ tiêu tài chính và chưa đầy
đủ để đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, việc giám
sát cũng được giao cho nhiều cơ quan thực hiện, do đó nhiều doanh nghiệp cảm thấy

phiền hà khi nhiều đoàn kiểm tra xuống giám sát doanh nghiệp.
4. Kiến nghị cho Chính phủ
Thứ nhất, Nhà nước cần kiểm tra, đánh giá thực trạng các doanh nghiệp nhà
nước một cách tổng thể, tồn diện, khách quan trên nhiều khía cạnh để tìm ra những ưu
điểm, khuyết điểm, cả những khó khăn, vướng mắc, hạn chế để từ đó đưa ra một mơ
hình tồn cảnh bức tranh doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam, nhằm đưa ra những
biện pháp dài hạn, đồng bộ, phù hợp với đường hướng phát triển kinh tế của đất nước.
Trên cơ sở định hướng của chiến lược, Nhà nước có trách nhiệm tạo khn khổ pháp
lý thống nhất và đồng bộ để doanh nghiệp hiện thực hóa.
Thứ hai, Nhà nước cần đẩy mạnh cơng tác cải cách quản lý doanh nghiệp, hạn
chế sự can thiệp hành chính, gây cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh, quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Thay vào đó, Nhà nước chỉ đầu tư vào những
doanh nghiệp sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ thiết yếu mà những thành phần
ngồi nhà nước khơng đủ điều kiện đầu tư kinh doanh. Bên cạnh đó, Nhà nước cần xây
dựng các cơ chế, quy định để các doanh nghiệp phải công khai, minh bạch thông tin,
tạo động lực phát triển cho các doanh nghiệp.
Thứ ba, cần quán triệt quan điểm thực hiện các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ
và giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước đã được xác định
trong các nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước. Cần xác định rõ những

595


ngành nghề nào cần 100% vốn nhà nước, những ngành nghề nào cần cổ phần chi phối
và đẩy mạnh cổ phần hóa tại các doanh nghiệp đó.
Thứ tư, là đổi mới cơ chế giám sát. Việc giám sát này phải theo hướng đa mục
đích chứ khơng chỉ về mặt tài chính. Sau khi đặt ra được mục tiêu giám sát rồi thì sẽ
xác định được hình thức, phương pháp và cơ chế giám sát. Nhà nước cần đưa ra được
bộ chỉ tiêu (bao gồm cả các chỉ tiêu định tính và định lượng) nhằm đánh giá hiệu quả
hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.

Thứ năm, phải đổi mới cơ chế sử dụng cán bộ và áp dụng rộng rãi hình thức đi
th và tuyển chọn giám đốc. Nếu có thể thì tuyển dụng cả những lãnh đạo là người
nước ngồi để q trình điều hành minh bạch và có hiệu quả. Ngồi ra cần đổi mới
cơng tác ln chuyển, bố trí sử dụng nhân lực trong nội bộ doanh nghiệp. Việc này tạo
sự linh hoạt, tăng tính năng động trong cơng việc, người lao động có thể học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau, làm tăng năng suất lao động. Đổi mới các chính sách về tiền lương
và thu nhập, trả tiền lương theo kết quả lao động.
Thứ sáu, cần phải tách bạch vai trò của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu và
người điều tiết, quản lý và đặt doanh nghiệp nhà nước vào môi trường cạnh tranh và
tạo áp lực cho các doanh nghiệp ứng xử theo cơ chế thị trường. Các doanh nghiệp nhà
nước cần huy động và sử dụng vốn một cách hợp lý, hiệu quả cho sản xuất kinh doanh,
tích cực huy động vốn từ nhiều nguồn: ngân sách, ngân hàng, nội bộ,... Hơn nữa, các
doanh nghiệp nhà nước cần đẩy mạnh cải tiến công nghệ, sử dụng kỹ thuật công nghệ
cao trong sản xuất vừa làm tăng năng suất vừa tiết kiệm được chi phí.
Cuối cùng, cần tập trung xây dựng đội ngũ lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước
đáp ứng được yêu cầu phát triển và thực hiện các quyền của đại diện chủ sở hữu vốn.
Trong điều kiện cần thì nên tách bạch vai trò của chủ sở hữu và người điều hành, thuê
đội ngũ lãnh đạo điều hành doanh nghiệp hiệu quả, tạo động lực phát triển thông qua
cơ chế trách nhiệm hợp đồng.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Tài chính (2011), Báo cáo Thực trạng hoạt động của tập đoàn, tổng công
ty nhà nước giai đoạn 2006 - 2010 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp
giai đoạn 2011 - 2015, Số 262/BC-CP.
2. Hồng Hà (2015), Quản lý vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước, Báo
Nghệ An, truy cập ngày 22 tháng 04 năm 2016, từ < />
596


3. Nguyễn Khánh Ly (2015), Nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí

Lý luận chính trị, Số 2, trang 71 - 74.
4. Nguyễn Thường Lạng (2015), Cải cách doanh nghiệp nhà nước trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Tài chính, Số 622, trang 17-19.
5. Phạm Thị Thanh Hoà (2012), Cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh
nghiệp ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Học viện Tài chính.
6. Phan Thị Thuỳ Linh (2015), Thực trạng tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và
một số vấn đề đặt ra, Tạp chí Tài chính, Số 622, trang 6 - 9.
7. Trần Xn Long (2013), Hồn thiện chính sách quản lý vốn của nhà nước
trong doanh nghiệp sau cổ phần hoá, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh
tế Quốc dân.

597



×