Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN khoa hoc lanh dao nguyên tắc lựa chọn hiền tài của người lãnh đạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.48 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
Chương I: KHÁI LƯỢC KHOA HỌC DÙNG NGƯỜI TRONG..............2
HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO............................................................................2
1.1. Người lãnh đạo phải biết dùng người..................................................2
1.1.1. Quan niệm về nhân tài........................................................................2
1.1.2. Vị trí, tác dụng của việc dùng người trong công tác lãnh đạo..........2
1.2. Người lãnh đạo phải giỏi phân loại cán bộ..........................................4
1.2.1. Nhìn nhận, phân loại cán bộ một cách khoa học..............................4
1.2.2. Nhìn nhận, phân loại cán bộ phải theo đường lối quần chúng........5
Chương II: NGUYÊN TẮC DÙNG NGƯỜI CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO. 7
2.1. Phải coi sự nghiệp là gốc, nhân tài là trọng.........................................7
2.2. Chí cơng vơ tư, chỉ dùng người hiền tài...............................................7
2.3. Coi trọng cả tài và đức, lấy đức làm gốc..............................................8
2.4. Phát huy sở trường, hạn chế sở đoản, tận dụng tài năng...................9
2.5. Chức vụ.................................................................................................10
2.6. Hiểu người, tin cậy người dùng..........................................................11
2.7. Rộng rãi, độ lượng, khoan dung, đoàn kết........................................12
2.8. Bồi dưỡng giáo dục cán bộ kế cận......................................................13
2.9. Khích lệ, yêu mến, bảo vệ, thưởng phạt phân minh.........................14
KẾT LUẬN....................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................17


MỞ ĐẦU
Lãnh đạo là một quá trình mà một người ảnh hưởng đến những người
khác để thực hiện một mục tiêu nào đó, đồng thời hướng tổ chức tới sự gắn
kết chặt chẽ.
Hoạt động lãnh đạo là việc một nhà lãnh đạo thực hiện một loạt hành
động nhằm đem tầm ảnh hưởng của mình đến một hoặc một nhóm người


nhằm thực hiện mục tiêu ban đầu, và hướng tổ chức tới sự gắn kết chặt chẽ.
Và với tôi hoạt động lãnh đạo chính là nghệ thuật và cũng là khoa học.
Khoa học dùng người được đánh giá là một trong những yếu tố không thể
thiếu trong hoạt động lãnh đạo.
Khoa học dùng người có thể được hiểu là khoa học của người lãnh đạo
biêt dùng người có lợi cho việc khơi dậy tính tích cực, phát huy đầy đủ tính
năng động, tự giác của quần chúng, biết cách sử dụng nhân tài.
Nhân tài là người trong điều kiện xã hội nhất định có thể lao động một
cách sáng tạo, có cống hiến nhất định cho sự phát triển xã hội và tiến bộ của
nhân loại. Sự hưng thịnh, phát đạt của một quốc gia trước hết là biểu hiện ở
sự phát đạt, hưng vượng của nhân tài. Nhân tài xuất hiện nhiều báo hiệu sự
hưng vượng, phát đạt của xã hội. Xã hội phát triển đã tạo ra vô số nhân tài,
tạo điều kiện cho nhân tài phát triển, ngược lại nhân tài với tác dụng năng
động to lớn của mình, lại thúc đẩy xã hội phát triển tiến bộ. Đó là biện chứng
lịch sử.
Chính bởi tầm quan trọng của khoa học dùng người trong hoạt động
lãnh đạo, nên tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Nguyên tắc lựa chọn hiền tài
của người lãnh đạo” làm đề tài tiểu luận lần này của tơi.
Tiểu luận ngồi phần mở đầu và kết luận cịn có phần nội dung gồm 2
chương:
Chương I: Khái lược khoa học dùng người trong hoạt động lãnh đạo
Chương II: Nguyên tắc dùng người của nhà lãnh đạọ


NỘI DUNG
Chương I: KHÁI LƯỢC KHOA HỌC DÙNG NGƯỜI TRONG
HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO
1.1.

Người lãnh đạo phải biết dùng người


1.1.1. Quan niệm về nhân tài
Nhân tài là người tong điều kiện xã hội nhất định có thể lao động một
cách sáng tạo, có cống hiến nhất định cho sự phát triển xã hội và tiến bộ của
nhân loại. Nhân tài là bộ phần tinh hoa, tiên tiến trong quần chúng nhân dân,
là đại biểu thúc đẩy lịch sử tiến lên. Về tổng thể, nhân tài là một cơ cấu hữu
cơ của những biến động nhiều hàng nhiều lớp. Nhân tài vừa có các loại hình
khác nhau, lại vùa có các tầng lớp khác nhau. Trong các bộ phận khác nhau
của xã hội, họ đều phát huy tác dụng tích cực, trong những thời gian nhất
điịnh và điều kiện nhất định, tuy khơng thể thay đổi lẫn nhau nhưng có thể
chuyển háo lẫn nhau, bổ sung và phối hợp với nhau.
Nhân tài là tài sản quý giá nhất, là mấu chốt thành bại của sự nghiệp.
Những cải biến xã hội vĩ đại, an bang trị quốc, thành tự sự nghiệp đều gắn
liền với các nhân tài. Tất cả mọi chí sĩ, nhà lãnh đọa sáng suốt, bao gồm cả
những bậc đế vương khai sáng dân tộc, đều hiểu rõ điều này.
Sự hưng thịnh, phát đạt của một quốc gia trước hết là biểu hiện ở sự
phát đạt, hưng vượng của nhân tài. Nhân tài xuất hiện nhiều báo hiệu sự hưng
vượng, phát đạt của xã hội. Xã hội phát triển đã tạo ra vô số nhân tài, tạo điều
kiện cho nhân tài phát triển, ngược lại nhân tài với tác dụng năng động to lớn
của mình, lại thúc đẩy xã hội phát triển tiến bộ. Đó là biện chứng lịch sử.
1.1.2. Vị trí, tác dụng của việc dùng người trong cơng tác lãnh đạo
Tất cả mọi dự cạnh tranh hiện nay, suy đến cùng là cạnh tranh nhân tài.
Xã hội hiện đại, bất kể là trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa hay
khoa học kỹ thuật đều đang diễn ra sự cạnh tranh quyết liệt. Thắng bại của

2


cạnh tranh quyết định ở cạnh tranh nhân tài. Trong cạnh tranh phải dựa vào
nhân tài, và cũng thông qua cạnh tranh sẽ xuất hiện nhân tài.

Dùng người đúng là yêu cầu của việc thực hiện đường lối chính trị của
Đảng. Những người có thái độ do dự, thậm chí hồi nghi, nghiêng ngả về lập
trường quan điểm thì khơng thể kiên quyết quán triệt và thực hiện đường lối.
Do đó, người lãnh đạo phải nắm chắc tư tưởng chính trị, lập trường quan
điểm của cán bộ, phải tìm hiểu thái độ và năng lực của họ, lựa chọn thận
trọng, sử dụng chính xác, bảo đảm thực hiện thắng lợi đường lối chính trị của
Đảng.
Biết dùng người sẽ có lợi cho việc khơi dậy tính tích cực, phát huy đầy
đủ tính năng động, tự giác của quần chúng. Người lãnh đạo muốn phát huy
hữu hiệu mọi loại chức năng đều khơng thể tách rời con người, mà con người
lại có ý chí, tư tưởng và nguyện vọng riêng. Nếu người lãnh đạo biết dựa vào
yêu cầu bố trí người và việc thích hợp, lựa chọn và sử dụng đúng đắn, cán bộ
hiểu rõ ý nghĩa và mối quan hệ giữa cơng việc của mình với tồn cục thì sẽ
làm việc một cách tích cực, chủ động và mạnh dạn, phát huy sở trường. Nếu
người lãnh đạo biết làm công tác tư tưởng lại càng có thể nâng cao tính tích
cực, khơi dậy mọi tiềm lực, nâng cao hiệu năng.
Biết dùng người sẽ có ý nghĩa hiện thực to lớn. Hiện nay, nươc ta đang
đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội
để phát triển kinht ế nhanh chóng bắt kịp với nhịp đi của thế giới, tạo nên
những bước nhảy đột phá, tiến bộ lớn, chấn hưng đất nước, việc dựa vào nhân
tài và sử dụng hợp lý nhân tài có ý nghĩa rất to lớn.
Người lãnh đạo biết dùng người có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Xây
dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay theo mục tiêu của Đảng đề ra là sự
nghiệp vĩ đại và gian khó chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta, phải qua phấn
đấu bền bỉ liên tục sáng tạo của nhiều thế hệ mới có thể thực hiện được. Sự
nghiệp đó địi hỏi phải không ngừng đào tạo, bồi dưỡng những lớp người kế
tục sự nghiệp cách mạng. Cho nên chúng ta không những cần hoàn thành


nhiệm vụ trước mắt mà phải xem xét cả chiến lược lâu dài, phải có kế hoạch

hợp lý, chuẩn xác đối với công tác cán bộ, xây dựng, phát hiện, đào tạo, tổ
chức thành nhiều người xung kích, hạt nhân nịng cốt để có thể nối tiếp nhau;
ngày càng mạnh hơn, chất lượng cao hơn.
Người lãnh đạo các cấp phải coi trọng và nắm chắc công tác bồi dưỡng
đội ngũ kế cận, theo tiêu chuẩn và đường lối cán bộ của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tu tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng linh hoạt, đúng đắn vào hoàn cảnh
thực tế mà lựa chọn bồi dưỡng, sử dụng cán bộ.
1.2.

Người lãnh đạo phải giỏi phân loại cán bộ

1.2.1. Nhìn nhận, phân loại cán bộ một cách khoa học
Việc nhìn nhận, phân loại cán bộ chính xác khơng hề dễ dàng. Khó mà
thu nhận được nhân tài và khó mà phát hiện được nhân tài. Đồng thời, nhận
thức đối với con người thường là một quá trình liên tục trong một thời gian
dài. Muốn khảo sát, nhìn nhận, phân loại cán bộ chính xác, người lãnh đạo
phải nắm chắc một số quan điểm và phương pháp cơ bản.
Phải dựa vào quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sửa, phải phân tích
con người một cách toàn diện, trong điều kiện lịch sử nhất định. Cán bộ luôn
phải sống và xem xét mọi viejc trong điều kiện lịch sử nhất định, bản thân
từng người hoặc ít hoặc nhiều đều có dấu ấn của thời đại. Trong xã hội có giai
cấp, con người cịn mang dấu ấn của giai cấp. Muốn hiểu cán bộ, người lãnh
đạo phải tiến hành phân tích hồn cảnh lịch sử, tính giai cấp, mơi trường xã
hội, quan hệ xã hội, sự từng trải trong xã hội và biểu hiện cơng tác của cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh u cầu người lãnh đạo phải giỏi nhìn nhận và phân
loại cán bộ, không những phải xem xét từng thời gian, từng cơng việc của cán
bộ mà cịn phải xem xét tồn bộ lịch sử và tồn bộ cơng tác của họ.
Đứng vững trên quan điểm duy vật biện chứng, xem xét con người
trong sự phát triển, biến hóa. Mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong mối liên
hệ phổ biến, nằm trong q trình biến hóa, phát triển. Tư tưởng, tình cảm, tác

phong và năng lực của con người cũng phát triển theo những điều kiện khách
4


quan khác nhau. Khi khảo sát, nhìn nhận, phân loại cán bộ, người lãnh đạo
không được xem xét theo quan điểm tách rời, bất biến, mà phải xem xét cán
bộ một cách biện chứng, xem xét họ trong trạng thái phát triển biến đổi.
Đương nhiên, sự phát triển, biến đổi của sự vật có q trình, sự biến đổi thành
tốt, xấu của cán bộ cũng có q trình. Khi xem xét cán bộ, người lãnh đạo
không những phải thực sự cầu thị, phân tích cụ thể mà cịn phải đánh giá cơ
bản từ lượng đến chất.
Đứng cững trên quan điểm thực tiễn, thông qua thực tiễn để biết người.
Thực tiễn là nguồn nhận thức của con người, cũng là tiêu chuẩn khách quan
kiểm nghiệm nhận thức chân lý của con người. Người cán bộ sống, công tác
trong thực tiễn khách quan, do đó, người lãnh đạo phải bồi dưỡng, tuyển chọn
và đề bạt cán bộ trong thực tế đấu tranh của quần chúng nhân dân; xem xét,
nhìn nhận, phân loại nhân tài trong thực tiễn đấu tranh của quần chúng nhân
dân, và phải trải qua thời kỳ lâu dài từ điểm đến diện, từ nông đến sâu, từ hiện
tượng đến bản chất, từ cảm tính đến lý trí. Khơng đánh giá một chiều, nhìn
nhận một mặt, lấy hiện tượng để che giấu bản chất.
1.2.2. Nhìn nhận, phân loại cán bộ phải theo đường lối quần chúng.
Đường lối quần chúng là một trong những quan điểm cơ bản của Đảng
ta. Quần chúng nhân dân là nguồn gốc tạo ra nhân tài, nhân tài sản sinh và
trưởng thành trong quần chúng, quần chúng hiểu rất rõ và cũng đầy đủ tư cách
để đánh giá cán bộ. Người xưa có câu: “Quan hữu cân lượng dân hữu xung”
(Quan có cái cân của quan, dân có cái cân của dân), ai là “hiền”, ai là “tài”,
mắt của quần chúng chính là bàn cân. Người lãnh đạo khơng thể tiếp xúc với
tồn bộ nhân viên dưới quyền, hơn nữa những người thường tiếp xúc bên
cạnh lại là thiểu số. Đồng thời, vì nhiều nguyên nhân khác, hiểu biết đối với
nhân tài cịn có hạn chế nhất định, khó tránh khỏi chủ quan, phiến diện. Do

đó, đòi hỏi người lãnh đạo phải đứng vững trên quan điểm quần chúng, đi
theo đường lối quần chúng, bám sát thực tiễn cơ sở, bồi bổ cả kiến thức lý
luận và thực tế, thực hiện tốt các chính sách để quần chúng phát huy đầy đủ


dân chủ, lắng nghe ý kiến rộng rãi của quần chúng, dựa vào đó mà lựa chọn
hiền tài.
1.2.3. Nhìn nhận, phân loại cán bộ phải loại bỏ mọi thiên kiến và
những quan niệm bảo thủ
Nhìn nhận và phân loại cán bộ không chỉ liên quan đến việc nhận thức
tiêu chuẩn nhân tài mà còn liên quan đến việc tuyển chọn tố chất tư duy của
nhân tài. Nhìn nhận, phân loại cán bộ một cách khoa học phải loại bỏ các loại
thiên kiến, khắc phục tư duy sai lầm.
Thứ nhất, muốn nhìn nhận, phân loại cán bộ đúng đắn, lãnh đạo phải có
quan điểm tồn diện, nhìn nhận, phân loại cán bộ một cách chính xác, phải
xem xét mối liên quan giữa quá trình học tập, tư cách, kinh nghiệm và năng
lực của cán bộ. Nói chung trong một mức độ nhất định, thì quá trình học tập,
tư cách và kinh nghiệm từng trải có thể phản ánh đầy đủ năng lực thực tế của
con người
Thứ hai, muốn nhìn nhận phân loại chính xác cán bộ, người lãnh đạo phải
chống khuynh hướng sai lầm là chỉ dùng người thân, dùng kẻ biết thuần phục.
Dùng người chỉ biết thuần phục là lấy “thật thà nghe lời” làm tiêu
chuẩn duy nhất để chọn lựa cán bộ.
Thứ ba, muốn nhìn nhận, phân loại cán bộ chính xác, người lãnh đạo
phải khắc phục và đề phòng tư duy sai lầm khi dùng người. Nhận biết cán bộ
cần đặc biệt chú ý khắc phục tư duy sai lầm trong dùng người, đó là tình trạng
một số cán bộ lãnh đạo khơng muốn dùng những người có năng lực hơn
mình.

6



Chương II
NGUYÊN TẮC DÙNG NGƯỜI CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
2.1.

Phải coi sự nghiệp là gốc, nhân tài là trọng

Quần chúng nhân dân là người tạo ra lịch sử, trong quá trình sang tạo ra
lịch sử đó những nhân tài kiệt xuất có tác dụng to lớn. Sự nghiệp cần nhân tài,
tuyển chọn và sử dụng nhân tài có quan hệ đến sự hung suy, thàn bại của sự
nghiệp. Chỉ có những người lãnh đạo chân chính của đơng đảo nhân dân lao
động và những người lãnh đạo luôn luôn coi sự phát triển tiến bộ của quốc
gia, dân tộc, của nhân loại là gốc, coi nhân tài là quan trọng mới tích cực lựa
chọn và sử dụng nhân tài.
Xem xét các nhà lãnh đạo, những nhà thống trị từ cổ chí kim, từ Đông
sang Tây cho thấy, do điểm xuất phát từ vị trí đứng khác nhau cho nên tình
trạng lựa chọn và sử dụng hiền tài cũng khác nhau. Chỉ những người lãnh đạo
hết lịng vì sự tiến bộ, vì thành công của sự nghiệp quyết tâm cải cách, gian
khổ sang nghiệp mới thực sự coi trọng nhân tài. Nhưng cũng có khơng ít nhà
lãnh đạo cho rằng, một khi sự nghiệp đã thành công, không cần cải cahs và
gian khổ sang nghiệp, không đặt sự nghiệp lên trên, từ đó cũng khơng coi
trọng việc sử dụng nhân tài. Với ý nghĩa đó, người lãnh đạo khơng những
phải có tấm lịng vì dân, vì nước mà cịn phải coi sự nghiệp là trọng, phải luôn
cố gắng tuyển lựa và sử dụng hiền tài.
2.2.

Chí cơng vơ tư, chỉ dùng người hiền tài

Muốn lựa chọn và sử dụng hiền tài, những nhà lãnh đạo cách mạnh

phải thực hiện đường lối chí cơng vô tự, chỉ dùng người hiền tài. Chỉ dùng
người hiền tài, đó là vấn để ln đặt ra trước mắt các nhà lãnh đạo.
Lịch sử luôn luôn chứng minh, chỉ khi dùng người hiền tài thì đất nước
hung vượng và phát triển. Trong thời kỳ hung thịnh của các chế độ xã hội nô
lệ, phong kiến và tư bản, những nhà lãnh đạo sang suốt đại biểu cho giai cấp,
tầng lớp tiến bộ đương thời phấn đấu vì sự tiến bộ của sự nghiệp thường chú ý


thực hiện đường lối chỉ sử dụng nhân tài, do đó tác dụng thúc đẩy sự phát
triển của lịch sử. Nhưng trong thời kỳ cuối của các chế độ đó, đa số những kẻ
thống trị đều hủ bại và thực hiện đường lối chỉ sử dụng người thân. Họ kìm
hãm, gây trở ngại cho sự phát triển, tiến bộ của lịch sử nhân loại.
Đường lối cán bộ đúng đắn là đường lối chí cơng vơ tư, chỉ dùng người
hiền tài. Trong quá trình cách mạng và kiến thiết lâu dài, lãnh đạo các cấp của
Đảng và Nhà nước ta nói chung đã kiên trì đường lối dùng người hiền tài.
Nhưng hiện tượng chỉ dùng người thân cũng không phải là cá biệt, có địa
phương, có đơn vị thậm chí cịn rất nghiêm trọng. Đó cịn là do sự tác động
của tư tưởng trục lợi cá nhân trong tình hình hiện nay bị ảnh hưởng của mặt
trái nền kinh tế thị trường. Do một bộ phạn cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến
chất, thích hưởng thụ, tham nhũng, đục kht… Tóm lại, chỉ có kiên trì
ngun tắc tính Đảng, loại trừ nọc độc và ảnh hưởng của sự ích kỷ, tự tư tự
lợi, bè phái, dùng người thân; kiên quyết thực hiện chí cơng vơ tư, dùng người
hiền tài mới có thể tạo ra một thời kỳ mới, nhân tài nảy nở, bảo đảm cho sự
phát triển toàn diện đất nước.
2.3.

Coi trọng cả tài và đức, lấy đức làm gốc

Thực hiện dùng người hiền tài phải giữ vững tiêu chuẩn dùng người và
đường lối cán bộ của Đảng, phải coi trọng cả tài và đức. Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã từng nhắc: “Có tài mà khơng có đức là hỏng. Có đức mà chỉ i, tờ thì
dạy thế nào? Đức phải có trước tài”. Tài đức song tồn là thể hồn chỉnh
thống nhất giữa đức và tài, đức và tài không thể tách rời nhau, không thể thiếu
một trong hai. Tách rời đức, tài sẽ mát đi phương hướng; khơng có tài, đức trở
thành một thứ trống rỗng. Cán bộ, đảng viên phải nỗ lực nâng cao trình độ,
chun mơn và nghiệp vụ, làm cho bản thân mình trở thành “vừa hồng vừa
chuyên”.
Lựa chọn, đề bạt cán bộ vừa phải có đức, có tài, lấy đức làm gốc.
Người có đức, có tài sẽ làm được nhiều việc tốt, kẻ xấu có tài như hổ thêm
vuốt, càng trở nên nguy hiểm. Cho nên những người có kinh nghiệm làm
8


cơng tác tổ chức lâu năm khi nói đến vấn đề này đã chỉ ra một cách chính xác
rằng, có đức mà khơng cáo tài làm khơng được việc, có tài mà khơng có đức
chỉ làm việc xấu. Qn triệt nguyên tắc tài đức song toàn với đức là gốc, ở các
thời kỳ khác nhau phải chú ý các khuynh hướng khác nhau. Trong thời kỳ bao
cấp ở nước ta, có lúc, có nơi có khuynh hướng chỉ nhấn mạnh đức quá mức
hoặc theo kiểu đánh giá người đức tốt là người sống trình trĩnh trong xử sự,
né tránh cơng việc khó, ít va chạm… mà khơng coi trọng tài. Vì thế, trong giai
đoạn hiện nay phải hết sứ đề phịng khuynh hướng coi trọng tài q mức và
khơng coi trọng đức. Để quán triệt đúng nguyên tắc này, phải lấy đức làm tiền
đề, chọn tài trong số đó.
2.4.

Phát huy sở trường, hạn chế sở đoản, tận dụng tài năng

Yêu cầu cán bộ tài đức song toàn là đúng đắn, song trên thực tế “ngọc
cịn có vết, nhân vơ thập tồn”. Trong cách nhìn nhận, sử dụng cán bộ cũng
phải theo nguyên tắc: “Dụng nhân như dụng mộc. Cây cong dùng việc cong,

cây thẳng dùng việc thẳng”. Nó cũng tương tự như việc người giỏi nề phải
giao việc nề, người giỏi mộc giao việc mộc, nếu giao nhầm thì vừa hỏng việc
vừa hỏng người.
Theo quan điểm của phép biện chứng duy vật, mọi sự vật, hiện tượng
đều được hình thành trên cơ sở tồn tại của các mặt đối lập, nhân tài cũng như
vậy. Người tài năng xuất chúng thì khuyết điểm của họ cũng tương đối rõ
rang, còn kẻ khơng có những điểm yếu rõ rệt, thường cẩn thận từng ly thì
cũng khơng có tài cán gì nổi bật. Một người lãnh đạo có tư cách, có năng lực,
một lịng một dạ vì thành cơng của sự nghiệp, mong muống thu được thành
tựu to lớn trên cương vị công tác của mình, lại thường có khiếm khuyết trên
mặt nào đó, họ có thể dùng những người có sở trường đặc biệt, thậm chí có
thể sử dụng người giỏi hơn mình. Lưu Bang sau khi đánh bại Hạng Vũ, tổng
kết kinh nghiệm trước đám qn thần đã nói: “Kẻ tính tốn trong màn trướng
mà đánh thắng ở nơi xa nghìn dặm, ta khơng bẳng Tử Phịng; trấn giữ đất
nước, vỗ về dân chúng, cấp phát lương thưởng, không tuyệt đường lương, ta


không bằng Tiêu Hà; chỉ huy đến trăm vạn quân, đánh là thắng, cơng là thành,
ta khơng bằng Hàn Tín. Ba người đó đều là người kiệt xuất, ta có thể dùng họ,
đó là nguyên do ta là người giành được thiên hạ. Lưu Bang tuy khơng có sở
trường của chính nhân, hơn nữa tài năng trên nhiều mặt khơng bằng “tam
kiệt”, những sở trường và bản lĩnh của ông chính là sử dụng sở trưởng của
người khác, có khí phách và tấm lòng khiến người khác phát huy hết tài năng.
Lịch sử ln chứng minh rằng, chỉ có những người lãnh đạo anh hùng, có tài
thao lược mới có hy vọng đạt được thành tựu trong sự nghiệp lớn. Nếu như
một người lãnh đạo chỉ nhìn thấy sở đoản của người khác mà không thấy rõ
sở trưởng của họ, nếu như dùng người chỉ chú ý hạn chế sở đoản mà không
tận dụng hết sở trường của họ, nếu như chỉ sử udnjg người có tài năng kém
hơn mình mà khơng dùng người có tài năng hơn mình thì bản thân người lãnh
đạo cũng chỉ là một kẻ bất tài.

Khi thực hiện nguyên tắc phát huy sở trường, hạn chế sở đoản, tận dụng
hết tài năng của nhân tài, người lãnh đạo phải phân tích cụ thể sở đoản của họ
để sử dụng thỏa đáng. Dùng người không thể không xem xét sở đoản của họ.
Nếu như sở đoản của họ dù gây trở ngại lớn đến sở trường, thì tốt nhất khơng
nên dùng; nếu như sở đoản của họ khơng gây trở ngại cho sở trường thì nhất
định phải dùng; nếu sở đoản có thể gây trở ngại đối với sở trường của họ, khi
dùng sở trường của họ phải chú ý đề phòng hạn chế sở đoản; nếu có thể, bằng
sự giáo dục, giúp đỡ của lãnh đạo và sự rèn luyện trong công tác, từng bước bồi
dưỡng sở trường, khắc phục sở đoản của họ. Tóm lại, phát huy sở trường, hạn
chế sở đoản, tận dụng hết tài năng của mỗi người là điểm mấu chốt trong dùng
người của lãnh đạo, là nghệ thuật của khoa học dùng người, là nguyên tắc quan
trọng trong tuyển chọn và sử dụng nhân tài của người lãnh đạo.
2.5.

Chức vụ

Chức vụ cơng tác có thức bậc là lĩnh vực nghề nghiệp, nhân tài cũng có
thứ bậc và loại hình. Các chức vụ cơng tác khác nhau có u cầu khác nhau
đói với nhân tài, nhân tài khác nhau cũng có sự thích ứng khác nhau đói với
10


các chức vụ công tác. Kết hợp thỏa đáng hai điều đó để vừa bảo đảm hồn
thành tốt nhiệm vụ công tác, vừa phát huy đầy đủ năng lực của nhân tài. Đó là
ngun tắc chung trong cơng tác điều phối cán bộ của lãnh đạo, là nguyên tắc
chức vụ và năng lực tương xứng.
Nguyên tắc này bao gồm hai phương diện quan trọng đồng đẳng. Một
là việc lãnh đạo đảm bảo hồn thành nhiệm vụ cơng tác là đại cục, là trước
tiên. Phải giáo dục cho cán bộ phục tùng u cầu và sự phân cơng, khơng thể
thốt ly khỏi yêu cầu của sự nghiệp, nhấn mạnh quá mức những ý thích và

ham mê của cá nhân. Hai là, trên cơ sở bảm đảm hồn thành cơng tác, đồng
thời lãnh đạo phải xem xét cẩn thận, chiếu cố đến ý thích và sở trường của
cán bộ. Đó khơng chỉ là sự hợp lý mà cong có thể thực hiện được. Đây vừa là
nguyên tắc điều phối cán bộ, vừa là chức trách của người lãnh đạo. Do vậy,
lãnh đạo và cán bộ tổ chức nhân sự phải hiểu được chính xác và nghiên cứu tỉ
mỉ cơng tác của nhân viên do mình phụ trách, lãnh đạo. Điều đó địi hỏi phải
vừa sắp xếp ban lãnh đạo đắc lực, vừa phải xây dựng cơ quan tổ chức nhân sự
với các chuyên gia có năng lực quản lý hiện địa trên các lĩnh vực.
2.6.

Hiểu người, tin cậy người dùng

Dùng người phải tin cậy người là sự thống nhất các mặt đối lập. Dùng
người thì phải tin cậy họ. Do đó, ngun tắc hiểu người, tin cậy người có thể
gọi là nguyên tắc tin cậy. Nhưng nếu chỉ nói dùng người thì tin cậy người thì
sẽ phiến diện, đồng thời phải bổ sung nếu khơng tin cậy thì khơng dùng. Đối
với những người vi phạm pháp luật , kỷ luật trầm trọng, ngoan cố chống đối,
phẩm chất đạo đức yếu kém, chuyên ỷ quyền mưu lợi các nhân, thì đương
nhiên khơng thể tin cậy và trọng dụng, nếu không tai hại vô cùng.
Nguyên tắc tin cậy, dùng người là điều kiện cơ bản trong dùng người
của lãnh đạo. Một cán bộ cấp dưới nếu khơng có được sự tin cậy của lãnh
đạo, chí ít tin cậy cơ bản ở mức thấp nhất, thì tuyệt nhiên khơng thể phát huy
tồn bộ tài năng của mình, tài trí thơng minh sẽ bị hạn chế và ức chế. Điều đó
khơng chỉ gây bất lợi cho sự trưởng thành của cán bộ, của nhân tài mà còn


gây tổn thất cho sự nghiệp. Đương nhiên, sự tin cậy của lãnh đạo đối với cán
bộ không mù quáng mà có điều kiện, tài đức song tồn, đáng được lãnh đạo
tin cậy, lại xây dụng được quan hệ tin cậy lẫn nhau, sẽ trở thành một quần thể
hỗ trợ nhau, hiệp đồng chặt chẽ với nhau. Điều đó phải qua một quá trình thực

tiễn dùng người trên cơ sở biết người rồi từ dùng người mà biết người hơn.
Muốn xây dựng quan hệ tin cậy lẫn nhau lãnh đạo và cán bộ thuộc
quyền, lãnh đạo phải có điều kiện tất yếu và đầy đủ. Trước hết, bản thân lãnh
đảo phải giữ tài đức song toàn, phaamr chất đạo đức cao thượng, tác phong
đứng đắn, ln giữu chứ tín làm tấm gương cho cấp dưới. Thứ hai, đối với
cấp dưới, người lãnh đạo phải tôn trọng, chân thành, thẳng thán, là một người
bạn chân thành của họ. Thứ ba, người lãnh đạo không được đố kỵ tài năng,
phải đánh giá chính xác đúng sai xấu, cơ hội. Tóm lại, giữa lãnh đạo và cấp
dưới chỉ có đồn kết nhất trì, đồng tâm đồng sức, kết thành một chỉnh thể hữu
cơ khơng thể chia cắt mới có thể đồng tâm hiệp lực hồn thành tốt nhiệm vụ
cơng tác
2.7.

Rộng rãi, độ lượng, khoan dung, đoàn kết

Những người lãnh đạo lấy sự nghiệp làm gốc, coi nhân tài là trọng, khi
lựa chọn và sử dụng nhân tài phải có tấm lịng rộng rãi, độ lượng, phải có tư
tưởng ln giữ lấy nhân tài, mong có hiền tài như khát nước. Chỉ cần là
những chí sĩ mà sự nghiệp cần, có thể có cống hiến cho sự nghiệp, dù họ ở
đâu, trước đay là kẻ thù hoặc là người có ý kiến trái với mình, đều có thể đồn
kết sử dụng họ. Ở Trung Quốc thời kỳ Xn Thu, Tề Hồn cơng tha thứ Quản
Trọng đã bắn mình mà sử dụng ơng ta làm tướng, dần thu hợp các chư hàu,
trở thành bá chủ và nước mạnh nhất thời kỳ Xuân Thu. Lãnh đạo có rộng
lượng, khoan dung, đồn kết mới có thể tuyển lựa rộng rãi nhân tài, hoàn
thành sự nghiệp.
Trong thực tế, nhiều lãnh đạo các cấp của Đảng và Nhà nước ta đã
giành thời gian nghiêm túc tiếp thu mọi ý kiến phê bình của cán bộ cấp dưới
và quần chúng nhân dân, đó là truyền thống quý báu của chúng ta. Tuy nhiên,
12



vẫn cịn những kẻ khơng thích người khác phê bình mình, nhất là ý kiến phê
bình đó lại của cấp dưới hay của quần chúng. Có người lãnh đạo chỉ thích
những cán bộ chỉ biết vâng lời, khúm núm, thậm chí cịn thích những kẻ chỉ
biết cung kính mình, a dua, nịnh hót.; ngược lại, ghen ghét những người
cương trục, chí cơng vơ tư, thường đóng góp ý kiến tốt…
Bên cạnh người lãnh đạo có nhiều cán bộ tốt mới là hạnh phúc của
người lãnh đạo. Nếu trong thời kỳ cổ đại có những đầng quân vương hiền
minh, biết nghe ý kiến phê bình có lợi cho sự nghiệp, thì trong thời kỳ hiện
đại, với tư cách là những nhà lãnh đạo sự nghiệp cách mạng cần thường
xuyên chú ý lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các thành viên trong tổ chức, của
nhân dân mới có thể bảo đảm cho sự nghiệp thành công, quyết sách của lãnh
đạo mới chính xác
2.8.

Bồi dưỡng giáo dục cán bộ kế cận

Người lãnh đạo khơng những phải sử dụng cán bộ chính xác, mà còn
phải thường xuyên chăm lo bồi dưỡng chán bộ. Người lãnh đạo chỉ biết sử
dụng mà không biết chăm lo bồi dưỡng cán bộ thì khơng phải là người lãnh
đạo tốt. Từ cổ chí kim, từ Đơng sang Tây, sự nghiệp của mỗi quốc gia, mỗi
địa phương, phát triển giàu mạnh là tổng hợp của nhiều nhân tốt, nhưng phát
hiện và bồi dưỡng được bao nhiêu nhân tài thích ứng với đòi hỏi của sự
nghiệp lại là nhân tốt có ý nghĩa quyết định. Trong thời kỳ hiện nay ở nước ta,
việc nỗ lực, tăng cường giáo dục sự nghiệp và khai thác trí lực, tìm mọi giải
pháp bồi dưỡng nhân tài, nắm chắc khoa học kỹ thuật và khoa học quản lý
hiện đại, trong đó bao gồm cả việc bồi dưỡng và tiếp tục giáo dục cho toàn
thể nhân viên và cán bộ, kịp thời bổ sung và đổi mới tri thức, nâng cao tốt
chất… là gốc của dựng nước, quan hệ đến sự hung suy, thành bại của sự
nghiệp chúng ta.

Trong công tác, người lãnh đạo phải căn cứ vào tiến trình cơng tác, tạo
điều kiện để bố trí nhiệm vụ cơng tác cho cấp dưới, trao đổi phương pháp,
bước đi của công việc và các vấn đề cần chú ý, khiến cán bộ được rèn luyện


trong thực tế công tác. Đồng thời, lãnh đạo phải định kỳ kiểm tra, kịp thời
tổng kết công tác của cán bộ cấp dưới, nâng bài học kinh nghiệm trong công
tác thành lý luận, thúc đẩy công trác và nâng cao trình độ cán bộ.
Đối với những cán bộ sai lầm có thể sửa chữa, lãnh đạo càng cần phải
tăng cường giáo dục, không được loại bỏ họ. Vừa phải làm rõ đúng sai, vừa
phải đồn kết trên tình đồng chí để phê bình một cách khoa học, phải thành
tâm giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, khiến họ cảm thấy tình cảm đồng chí ấm áp,
khơng đánh mất niềm tin và dũng khí vươn lên.
Cán bộ cơng tác có thành tích, lãnh đạo phải biểu dương. Khi biểu
dương phải đặt ra yêu cầu cao hơn, chỉ ra phương hướng vươn lên, không để
họ kiêu căng, tự mãn mà dừng lại.
Lãnh đạo các cấp phải áp dụng các biện pháp bồi dưỡng giáo dục trong
thực tiễn, ra sức đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kế cận, bảo đảm cho đội
ngũ cán bộ ngày càng phát triển, có người kế tục sự nghiệp xứng đáng.
2.9.

Khích lệ, yêu mến, bảo vệ, thưởng phạt phân minh

Khích lệ, u mến địi hỏi phải đánh giá một cách chính xác đúng sai
trong quá trình cơng tác của cán bộ. Ngày nay, đường lối cán bộ của chúng ta
thể hiện rõ truyền thống tốt đẹp và hướng đến sự cầu thị, đãi ngộ công bằng,
thưởng phạt cơng minh. Để đánh gía chính xác đúng sai, lãnh đạo phải làm
gương cho cấp dưới, thúc đẩy lập công, ngăn ngừa sai lầm; quyết không được
ngăn cản việc lập công, thúc đẩy hoặc che đậy sai lầm. Người lãnh đạo mà
cơng thì vơ về mình, sai lầm thì đổ cho cấp dưới thì khơng thể làm gương,

khơng phải là người dồn hết sức lực, độc lập, dám chịu trách nhiệm trong
công tác.
Đối với cán bộ cấp dưới, người lãnh đạo phải yêu mến, quan tâm, bồi
dưỡng, phải khẳng định tất cả thành tích, ưu điểm của họ. Trong tình hình
hiện nay, đối với cán bộ trẻ có tinh thần khai phá, dám lao vào thực tiễn, tuy
có thành tích cơng lao nhưng vẫn vấp phải sự phê phán, chỉ trích, thì cán bộ
lãnh đạo càng phải khẳng định, biểu dương. Khi cán bộ cấp dưới vấp phải sự
14


đả kích khơng cơng bằng, khơng đúng với sự thật, thì người lãnh đạo càng
phải bảo vệ, ủng hộ về mặt tinh thần. Lúc này sự bảo vệ còn quan trọng hơn
cả về biểu dương.
Đối với việc đúng sai của cán bộ cấp dưới, lãnh đạo phải thưởng phạt
công minh. Với những người có thành tích phải trọng thưởng, đối với những
kẻ lơi là chức trách phải bị xử phạt; đối với người vi phạm kỷ luật phải xử lý
kỷ luật; đối với kẻ phạm pháp phải đưa ra tòa án. Từ đó, xóa bỏ những tác
phong xấu, khuyến khích việc tốt, thúc đẩy sự nghiệp phát triển.
Quan tâm đến những khó khăn, hồn cảnh, tâm tư, nguyện vọng của
cán bộ là bộ mặt không thể thiếu khi sử dụng và bảo về cán bộ. Chỉ biết sử
dụng cán bộ, khơng biết đến những khó khăn của họ thì chưa phải là người
lãnh đạo tốt. Chỉ khi quan tâm đến khó khăn, nỗi khổ của cán bộ và đồng cam
cộng khổ với họ thì mới có thể xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp và có tác
dụng khích lệ họ cùng vươn lên.


KẾT LUẬN
Nghệ thuật lãnh đạo là đỉnh cao của lãnh đạo hiệu quả, là ước vọng
muốn đạt tới của mọi lãnh đạo. Nghệ thuật lãnh đạo được hiểu là tài vận dụng
tổng hòa các yếu tố phẩm chất, kỹ năng, năng lực, cá tính, chức quyền, quy

luật, kinh nghiệm, phương pháp, khả năng ảnh hưởng của người lãnh đạo để
đạt được hiệu quả cao nhất và giàu cá tính.
Từ xưa đến nay, mọi sự thành công hay thất bại quá nửa phụ thuộc vào
hai chữ dùng người đã đủ để nói lên tầm quan trọng của khoa học (nghệ thuật)
sử dụng cán bộ. Nghệ thuật sử dụng cán bộ được thể hiện trong các khâu đánh
giá, đề bạt, sử dụng, luân chuyển, đào tạo, quản lý.
Sự giới hạn của một bài tiểu luận không cho phép thể hiện đầy đủ nội
dung cùng những điểm hay, nét mới trong khoa học dùng người của hoạt động
lãnh đạo. Vì vậy, tơi chỉ xin trình bày những điều cảm nhận và học được qua
một thời gian tìm hiểu ngắn gọn. Nhưng tin chắc rằng, với những nội dung,
kiến thức mà tơi đã tìm hiểu và trình bày ở đây sẽ giúp ích cho người đọc, dù
chưa hoặc không phải một người lãnh đạo, cũng sẽ hồn thiện hơn các kỹ
năng xử lý tình huống, có thêm nhiều kinh nghiệm trong quan sát, đánh giá
con người và đối nhân xử thế.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Mai Đức Ngọc, Học viện Báo chí và Tuyên truyền , Khoa học và
nghệ thuật lãnh đạo
2. Nguyễn Ngọc Tuấn, Phạm Thanh Loan (2011), Nghệ thuật lãnh đạo,
NXB Phương Đông
3. John C. Maxwell (2011), Phát triển kỹ năng lãnh đạo, NXB Lao động –
Xã hội
4. Kor sat Chairasmisak (2010), Nghệ thuật lãnh đạo của người châu Á,
NXB Thanh Hóa
5. http:// diendanlanhdao.com/
6.


http://www. Doanhnhan360.com/

7. />


×