Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Rèn kỹ năng cảm thụ thơ hiện đại qua bài dạy đọc hiểu cho học sinh lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.69 KB, 24 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ............
TRƯỜNG THCS ....................

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
-Tên sáng kiến: "Rèn kỹ năng cảm thụ thơ hiện đại
qua bài dạy đọc- hiểu cho HS lớp 9".

-Tác giả sáng kiến:


MỤC LỤC
1. Lời giới thiệu:...........................................................................................................3
2. Tên sáng kiến: ..........................................................................................................4
3. Tác giả sáng kiến:.....................................................................................................4
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến :..................................................................................4
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: ..................................................................................4
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:...................................4
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:................................................................................4
7.1.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu :..............................................................4
7.1.1. Đối tượng :.....................................................................................................4
7.1.2 . Phương pháp:................................................................................................4
7.2. Các biện pháp thực hiện:......................................................................................4
7.2.1 . Đối với Giáo viên :......................................................................................4
7.2.2 . Đối với học sinh :.........................................................................................5
7.3. Cơ sở khoa học :..................................................................................................6
7.3.1. Cơ sở lí luận:..................................................................................................6
7.3.2. Cơ sở thực tiễn:..............................................................................................6
7.4. Các yêu cầu đối với học sinh và giáo viên:..........................................................7
7.4.1. Đối với học sinh:............................................................................................7
7.4.2. Đối với giáo viên:..........................................................................................7


7.5 Một số nguyên tắc khi dạy đọc- hiểu về thơ hiện đại Việt Nam...........................8
7.5.1. Hướng dẫn học sinh các bước chuẩn bị cho bài dạy đọc- hiểu về
thơ hiện đại Việt Nam:.............................................................................................8
7.5.2.Đảm bảo nguyên tắc dạy học Ngữ Văn theo đặc trưng thể loại bồi dưỡng hứng thú tiếp nhận tác phẩm thơ hiện đại:...........................................10
7.5.3. Đảm bảo nguyên tắc dạy học văn theo hướng tích hợp, tích cực,
giúp các em nắm vững kiến thức Tiếng Việt để vận dụng phân tích văn
bản thơ hiện đại:.....................................................................................................12
7.6.Vận dụng cụ thể vào việc rèn các kĩ năng cơ bản...............................................13
8. Những thông tin cần được bảo mật : ..................................................................18


9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:....................................................18

10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến:....................................................................................................................18

10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:.............................................................................18

10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:..............................................................19

11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp
dụng sáng kiến lần đầu:.............................................................................................20

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa và Sách giáo viên Ngữ văn-9
2. Sách giáo khoa và Sách giáo viên Ngữ văn-9
3. Phương pháp dạy học tích cực (NXB GD )
4. Tài liệu dạy học theo chuẩn kiến thức và kĩ năng

5. Học tốt môn Ngữ văn 9.
6. Rèn luyện kĩ năng thực hành Ngữ văn 9 ( NXB
GD ).
7. Bồi dưỡng nâng cao Ngữ văn 9.


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
“Rèn kĩ năng cảm thụ thơ hiện đại qua bài dạy đọc hiểu cho HS lớp9”
1. Lời giới thiệu:
Trong thực tế dạy học, việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và
chất lượng bộ mơn nói riêng, việc cải tiến phương pháp dạy học là một
nhân tố quan trọng. Bởi vì xét cho cùng công việc giáo dục phải được tiến
hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động, việc khơi dậy phát triển ý thức
năng lực tư duy, bồi dưỡng phương pháp tự học là con đường phát triển tối
ưu của giáo dục. Cũng như trong học tập các bộ môn khác, học Ngữ văn lại
càng cần phát triển năng lực tích cực, năng lực tư duy của học sinh để
khơng phải chỉ biết mà cịn phải hiểu để cảm thụ cái hay, cái đẹp, ý nghĩa
giáo dục của văn chương cũng như áp dụng kiến thức và kỹ năng vào các
hoạt động trong cuộc sống gia đình và cộng đồng.
Trong q trình dạy học mơn Ngữ văn chúng ta có thể dễ dàng nhận
thấy học sinh rất lười đọc, lười tư duy để tự tìm ra những đặc sắc về nội
dung và nghệ thuật của văn bản. Đa số học sinh ngày nay ngại học văn vì
sợ lượng kiến thức bộ môn yêu cầu cần nắm được. Các em cũng ngày càng
ngại “đọc” hơn. Khi soạn bài thì đa số chỉ liếc qua văn bản rồi sử dụng sách
tham khảo chép để đối phó với việc kiểm tra, đánh giá của thầy cô. Trên
thực tế khi giảng dạy bộ mơn tơi nhận thấy học sinh cịn gặp rất nhiều khó
khăn, lúng túng khi đọc hiểu văn bản thơ hiện đại Việt Nam. Nguyên nhân
một phần do các em chưa có kĩ năng đọc-hiểu văn bản nhất là văn bản
thơ, một phần do các em chưa nắm vững về các biện pháp tu từ sử dụng

trong văn bản, chưa có khả năng cảm nhận, phân tích hệ thống hình ảnh, từ
ngữ giàu ý nghĩa biểu tượng.
Vì vậy để giúp học sinh nắm vững các kiến thức trong chương trình
Ngữ văn Trung học cơ sở nói chung và chương trình Ngữ văn lớp 9 nói


riêng tôi đã chọn sáng kiến:“Rèn kỹ năng cảm thụ thơ hiện đại qua bài dạy
đọc-hiểu cho HS lớp 9”
Với phạm vi rất hạn hẹp ( các tiết dạy thơ hiện đại), cộng với q trình
tích luỹ kinh nghiệm mang tính chủ quan, tơi rất mong được sự góp ý của
các đồng nghiệp để sáng kiến của tơi được hồn thiện.
2. Tên sáng kiến:
"RÈN KĨ NĂNG CẢM THỤ THƠ HIỆN ĐẠI QUA BÀI DẠY
ĐỌC- HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 9".
3. Tác giả sáng kiến:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:
Sáng kiến này tôi áp dụng lần đầu: Năm học 2018-2019 (Lớp 9A, 9B,
9C).
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
Phần nội dung sáng kiến.
7.1.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu :
7.1.1. Đối tượng :
- Học sinh lớp 9 Trường THCS
- Phần thơ hiện đại Việt Nam.
7.1.2 . Phương pháp:
-Phương pháp đọc sáng tạo, tái hiện, gợi tìm, nghiên cứu, phân tích, bình
giảng, cảm thụ, so sánh, nhận xét, đánh giá, cảm nhận, tổng kết kinh
nghiệm …

7.2. Các biện pháp thực hiện:
Môn Ngữ văn là tổng hợp kiến thức của ba phân mơn Văn học, Tiếng
Việt,Tập làm văn, vì vậy :
7.2.1 . Đối với Giáo viên :
- Cần phát huy tối đa tính tích cực chủ động của học sinh.
- Khơi gợi để học sinh say mê đọc tác phẩm, để tái hiện hình tượng,
tiếp nhận được những giá trị cũng như có sự tìm tịi cảm nhận sáng tạo về


bài thơ. Giáo viên phải tác động bằng nhiều hình thức để các em chủ động
đến với các bài thơ một cách hứng thú bằng những nhu cầu tình cảm,
những nhu cầu từ bên trong. Người giáo viên khơi gợi hưng thú đọc là tiến
trình dạy - học. Trong tiết dạy- học, giáo viên cần hướng dẫn các em tự
phát hiện, thưởng thức thơ, khuyến khích các em có những cảm nhận,
những phát hiện riêng nhưng không suy diễn tuỳ tiện.
-Người giáo viên bám sát đặc trưng thể loại kết hợp với khéo léo khơi
dậy tình cảm tiềm ẩn trong mỗi học trò sẽ từng bước bồi dưỡng được hứng
thú tiếp nhận các bài thơ cho các em trong quá trình dạy học.
-Giáo viên cịn phải chú ý đến việc đổi mới phương pháp bồi dưỡng theo
hướng tích hợp, tích cực.
- Người giáo viên cần giúp học sinh đọc, cảm nhận, xác định được thể loại,
bố cục và trọng tâm kiến thức của bài ( nội dung, nghệ thuật) để học sinh
nắm được vấn đề đặt ra trong bài thơ mà từ đó có cách viết, cách thể hiện
cảm xúc của mình khi phân tích hoặc cảm nhận một bài thơ.
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh quy trình thực hành một bài viết về
cảm thụ thơ hiện đại : từ khâu mở bài, thân bài đến kết bài, từ cảm thụ được
một câu thơ đến hai câu thơ rồi đến cả đoạn, các đoạn rồi viết thành bài, để
từ đó giáo viên nâng dần kĩ năng viết văn cho các em.
-Thực hiện tốt việc ra đề, chấm bài, coi trọng tiết trả bài.
7.2.2 . Đối với học sinh :

- Để đọc- hiểu và cảm thụ tốt thơ hiện đại, giáo viên cần giúp học
sinh có ý thức yêu thích học bộ mơn Ngữ văn để từ đó các em có tâm thế,
có thái độ tốt khi chiếm lĩnh tri thức của các bài thơ.
- Học sinh cần chuẩn bị tốt bài ở nhà, đọc hiểu (soạn bài), thuộc thơ,
cảm nhận, nắm chắc kiến thức ( nội dung- nghệ thuật) , biết phân tích, bình,
nhận xét, đánh giá bài thơ, nắm cách làm bài, viết bài, biết viết câu hay, ý
hay qua quá trình hướng dẫn rèn luyện kĩ năng thực hành của thầy cô giáo.
Học sinh biết sáng tạo khi làm bài.
- Đọc sách báo để mở rộng kiến thức,nâng cao kĩ năng sử dụng tiếng
Việt
- Biết vận dụng lí thuyết vào thực hành. Thành thạo các thao tác đọc
hiểu, mạnh dạn trình bày cảm thụ riêng của bản thân trước một đoạn thơ
hoặc bài thơ.


7.3. Cơ sở khoa học :
7.3.1. Cơ sở lí luận:
Đất nước ta đang trên đà đổi mới, ngành giáo dục đang có những
bước chuyển mình theo nhịp bước của thời đại. Do đó, việc đổi mới
phương pháp dạy học là vấn đề cần thiết và quan trọng trong tình hình hiện
nay. Mà một trong những biện pháp tối ưu trong q trình dạy học là
phương pháp dạy học tích cực và dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng.
Vì vậy, để nâng cao hiệu quả giáo dục ở bộ môn Ngữ văn trong nhà trường
hiện nay, giáo viên cần đặc biệt chú trọng hơn nữa trong việc rèn luyện kĩ
năng nghe- đọc- nói - viết cho học sinh, nhất là rèn luyện kĩ năng cảm thụ
thơ hiện đại Việt Nam ở bậc Trung học cơ sở theo chuẩn kiến thức và kĩ
năng mà ngành yêu cầu.
7.3.2. Cơ sở thực tiễn:
Trong thực tiễn giảng dạy ở trường, đa số học sinh chưa có kĩ năng tự
đọc- hiểu văn bản nói chung và thơ hiện đại nói riêng, thậm chí có em cịn

khơng đọc văn, khơng tự mình hiểu văn. Hơn nữa với thời gian ít ỏi (45
phút) của một tiết học, chương trình nhiều, bài học thường dài (so với
nhiều mơn học khác) nên khơng có đủ thời gian cho các em đọc văn bản
trên lớp. Vì vậy, quan trọng là các em phải hình thành được thói quen tự
đọc, tự tìm hiểu văn bản ở nhà. Thế nhưng, chỉ có một số em tự giác, chăm
chỉ đọc văn bản để soạn bài, còn lại đa số học sinh còn thụ động, ỷ lại, lười
đọc, soạn văn bằng cách chép sách tài liệu cho xong .
Đọc hiểu văn bản là học sinh phải hoạt động, phải làm việc với những
con chữ, với câu thơ…để hiểu đúng, hiểu sâu văn bản đó. Thế nhưng nhiều
học sinh coi việc đọc văn bản là việc đối phó với giáo viên, đọc mà như
khơng đọc, lơ mơ, không nắm vững được nội dung văn bản chưa nói đến
việc hiểu được ý nghĩa hay tư tưởng, quan điểm của tác giả trong văn bản
đó.
Với những nội dung đã nêu ở trên giáo viên gặp nhiều khó khăn trong
việc giúp học sinh tiếp nhận cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn học. Tự đặt
tạo ra vấn đề, giáo viên phải tạo cho học sinh tính tự giác, chủ động, bồi
dưỡng thêm vốn từ, rèn kĩ năng đọc hiểu góp phần nâng cao chất lượng
mơn học, đồng thời thực hiện thành công mục tiêu dạy học môn Ngữ Văn.
Để tạo động lực, niềm tin giúp học sinh có hứng thú với bộ mơn ngữ văn
. Trước hết mỗi thầy cơ giáo phải tìm ra biện pháp tối ưu để nâng cao năng
lực đọc hiểu ở từng học sinh để khi các em tiếp cận văn bản văn học hiểu
đúng, cao hơn nữa là biết tự khám phá, cảm thụ cái hay, cái đẹp của văn


chương từ đó vận dụng kiến thức vào đời sống. Đó là vấn đề mà thầy cơ
giáo cần phải quan tâm và chú trọng.
7.4. Các yêu cầu đối với học sinh và giáo viên:
7.4.1. Đối với học sinh:
Do đặc điểm của môn Ngữ văn, học sinh phải tự học, tự tìm tịi là
chính. Chuẩn bị bài, đọc văn bản, xem chú thích, soạn bài, (trả lời các câu

hỏi ở sách giáo khoa), tham khảo sách, vận dụng kiến thức cũ. Về nhà suy
ngẫm, chiêm nghiệm, làm phong phú cho nhận thức của mình… Đây cũng
chỉ là cách học thích hợp cho học sinh khá, giỏi nhưng đối với học sinh
trung bình trở xuống thì các em khó thực hiện được như thế.
Do đó, giáo viên cần tập trung chỉ cho học sinh không những biết
cách đọc hiểu, cảm thụ ( nội dung- nghệ thuật) mà còn biết cách soạn bài,
làm bài. Từ khâu tìm hiểu đề, tìm ý-lập dàn bài-viết bài. Trong các khâu ấy,
học sinh cần nắm được kĩ năng viết bài văn cảm thụ văn học.
7.4.2. Đối với giáo viên:
Đối với môn Ngữ văn ở trường trung học cơ sơ, kĩ năng đọc hiểu
văn bản nói chung và đọc hiểu văn bản thơ hiện đại nói riêng đóng một vai
trò hết sức quan trọng. Đối với giáo viên việc hướng dẫn học sinh đọc hiểu
văn bản thơ là một hoạt động dạy học, là một cơng việc khó khăn, ở đó bộc
lộ rõ nhất trình độ của người giáo viên, vì thế địi hỏi người giáo viên và cả
học sinh phải học tập và lao động không ngừng.
Thông qua các câu hỏi đọc hiểu tạo điều kiện cho học sinh vận dụng
linh hoạt những kiến thức để tự lực giải quyết thành cơng những tình huống
cụ thể khác nhau thì những kiến thức đó mới trở nên sâu sắc hoàn thiện và
trở thành vốn riêng của học sinh. Trong quá trình giải quyết các vấn đề,
tình huống cụ thể do câu hỏi đề ra học sinh phải vận dụng các thao tác tư
duy như phân tích, tổng hợp khái qt hố....để giải quyết vấn đề, từ đó sẽ
giúp giải quyết giúp phát triển tư duy và sáng tạo, óc tưởng tượng, tính độc
lập trong suy nghĩ, suy luận.... Nên câu hỏi đọc hiểu gây hứng thú học tập
cho học sinh, vận dụng kiến thức đã học vào những vấn đề thực tế trong
cuộc sống, trong lao động.


7.5 Một số nguyên tắc khi dạy đọc- hiểu về thơ hiện đại Việt Nam.
7.5.1. Hướng dẫn học sinh các bước chuẩn bị cho bài dạy đọc- hiểu về
thơ hiện đại Việt Nam:

Khi bắt đầu thực hiện đề tài, đa số học sinh kĩ năng đọc hiểu rất kém,
điều này do nhiều nguyên nhân mang lại.
+Nguyên nhân thứ nhất là do các em rất lười đọc văn bản. Tơi chưa
nói đến những kĩ năng cao siêu, đối với tôi trong quá trình dạy học, thì đọc
là khâu đầu tiên để học sinh tiếp cận tác phẩm. Song vì có lẽ học sinh cho
rằng mình đang là người lớn nên phần lớn các em học sinh chỉ đọc bằng
cách lia mắt lướt qua để rồi sau đó vội vội vàng vàng trả lời mấy câu hỏi
hướng dẫn trong sách giáo khoa cho xong việc chuẩn bị bài để tránh bị cán
bộ lớp hoặc cơ giáo phê bình. Thử làm một phép điều tra nho nhỏ đầu năm
với bài chuẩn bị học văn bản
- Đối với văn bản truyện: Ví dụ văn bản “Chuyện người con gái Nam
Xương”- trích “Truyền kì mạn lục ” (đây là một tác phẩm truyện),
tôi không khỏi giật mình. Khi được hỏi học sinh học lớp 9A, 9B, 9C
các em đã cho biết:
 Số lần đọc bài: nhiều nhất là một lần .
 Số lượng học sinh đọc đầy đủ từ đầu đến cuối văn bản:

9A:18/35
9B: 15/35
9C: 13/35

 Số cịn lại đọc lống thống một số câu, một vài đoạn. Đặc biệt có em
khơng cần đọc một câu nào. Lý do không đọc hết hoặc đọc một lần: văn
bản dài, là văn xi, khơng thích đọc ...
-Đến thơ, tình trạng có khá hơn. Số em đọc bài thơ “ Đồng chí” từ 2 lần trở
lên đã có :
9A: 21 em
9B: 19 em
9C: 16 em
Đọc một lần :


9A: 24 em


9B: 22 em
9C: 19 em
Đấy là việc đọc trước. Còn việc chuẩn bị trả lời câu hỏi đọc - hiểu văn bản thì
sao?
Cũng đã nói ở trên, vì tâm lý “sợ’’ cơ giáo và tập thể phê bình nên các em
có trả lời các câu hỏi chuẩn bị bài vào vở bài tập ngữ văn, hay soạn bài.
Song việc trả lời chỉ là sao chép lại những gợi ý trong sách “Để học tốt
Ngữ Văn 9” sao chép không cần suy nghĩ, miễn sao có đủ bài.
Như thế, ở khâu đầu tiên tiếp xúc với văn bản, các kĩ năng đọc, tìm
hiểu nếu khơng được rèn luyện sẽ dần dần chuyển sang kĩ năng sao chép tài
liệu hướng dẫn thành thạo hay khơng thành thạo mà thơi.
Cịn trong q trình đọc - hiểu, rất nhiều giờ dạy - học, nhất là giờ
dạy - học những bài thơ hiện đại hay, trước đây, với phương pháp dạy học
cũ, thầy giảng trò nghe. Dạy những bài thơ như: “Đoàn thuyền đánh cá”,
“Bếp lửa”, “Ánh trăng”... khơng ít giáo viên đã để “cháy” giáo án vì thầy
giáo q say sưa với những ngơn từ, vẻ đẹp trong cách thể hiện của tác giả.
Hiện nay, với phương pháp dạy học mới, người thầy lại khơng bị “cháy” vì
mình q say sưa mà “cháy” vì học sinh khơng biết tìm ra những tín hiệu
nghệ thuật để phân tích, hoặc giảng các em chẳng hề rung động trước bất
cứ hành động nào. Kĩ năng đọc đã yếu, kĩ năng phát hiện và cảm nhận các
tín hiệu nghệ thuật trong một bài thơ ở các em lại càng yếu hơn.
+ Nguyên nhân thứ hai là học sinh nhầm lẫn biện pháp nghệ thuật
và biện pháp tu từ. Hoặc các em đồng nhất hai khái niệm đó, hoặc nhầm
giữa biện pháp tu từ này với biện pháp tu từ khác và hầu như việc tìm ra giá
trị của biện pháp nghệ thuật ấy trong bài thơ là rất hạn chế.
+ Một nguyên nhân nữa là khi đi tìm hiểu hình hình tượng trong

tác phẩm trữ tình, nếu như hình tượng trong tác phẩm tự sự là hình tượng
tính cách, các em dễ hình dung thì hình tượng trong tác phẩm trữ tình lại là
hình tượng tâm sự. Tiếng nói trong tác phẩm trữ tình là tác phẩm của những


tâm trạng. Thơ hiện đại chứa đầy tâm trạng, cảm xúc và tâm trạng đó được
gắn liền với sự rung động về vần điệu, hình tượng âm thanh. Việc hiểu tâm
trạng trong thơ để đồng điệu cũng rất khó. Hiểu không đúng dễ dàng dẫn
đến cảm nhận cũng lơ mơ, trệch hướng.
Tóm lại: Thực trạng của vấn đề có nhiều điều tác động, địi hỏi trong
q trình thực hiện dạy - học văn bản thơ hiện đại phải giải quyết để đạt
hiệu quả:
Làm thế nào để khơi gợi hứng thú cảm nhận cho các em, tạo cơ sở
cho việc rèn kỹ năng cảm thụ ?
Làm thế nào để giúp các em có được và phát triển kĩ năng cảm thụ
trong điều kiện thực tế và thời lượng cụ thể giành cho mỗi văn bản thơ hiện
đại?
Làm thế nào để các em biết vận dụng kỹ năng cảm thụ để làm tốt bài
tập làm văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ trong chương trình để đảm bảo
nguyên tắc dạy học văn theo hướng thích hợp?
Đó là những điều đặt ra với tơi trong q trình dạy học văn bản thơ hiện
đại.
Vì vậy, theo tơi cần hướng dẫn các em cách để các em chuẩn bị tốt phần
chuẩn bị ở nhà (tức là việc soạn bài). Các em cần:
- Đọc kỹ văn bản( nhiều lần).
- Trả lời câu hỏi theo SGK.
- Cần tham khảo các tài liệu ( Sách tham khảo), tuyệt đối không sao
chép.
7.5.2.Đảm bảo nguyên tắc dạy học Ngữ Văn theo đặc trưng thể loại bồi dưỡng hứng thú tiếp nhận tác phẩm thơ hiện đại:
Một trong những nguyên lí của việc dạy đọc-hiểu văn bản là đọc tác phẩm

theo đặc trưng thể loại. Đọc-hiểu văn bản không chỉ nhằm tiếp nhận giá trị
riêng của một văn bản cụ thể. Với vị trí tiêu biểu cho một thể loại nào đó,


việc tiếp nhận mỗi văn bản đều bao hàm sự định hướng về cách thức tiếp
cận kiến thức của thể loại hoặc kiểu bài.
Như vậy, khi tìm hiểu một văn bản, giáo viên cần khắc sâu kiến thức về thể
loại đã học, cách tiếp cận, khám phá văn bản để học sinh có thể vận dụng
vào khám phá với văn bản khác cùng thể loại.
* Tổ chức cho học sinh khám phá tác phẩm theo một thể loại nào đó là giúp
học sinh trả lời được câu hỏi: cần dựa vào những yếu tố nào để tìm ra nội
dung và ý nghĩa văn bản.

+ Với thơ, chủ yếu là văn bản trữ tình: Yếu tố quan trọng về nội dung là
cảm xúc của nhân vật trữ tình. Cảm xúc ấy được thể hiện theo thể loại cụ
thể nào, mỗi thể loại lại phù hợp với mạch cảm xúc riêng của nhân vật.
Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của sự thăng hoa về tâm hồn, và trí
tuệ của người nghệ sĩ. Vì thế, nó có những giá trị vượt ra ngồi ý đồ sáng
tạo của tác giả. Hình tượng càng lớn, càng có tính nghệ thuật cao thì càng
có nhiều khía cạnh, nội dung phong phú, hấp dẫn. Sáng tạo một tác phẩm,
nhà thơ muốn nói với người đọc, muốn truyền cho người đọc qua các thế
hệ một cách nhìn, cách hiểu, cách đánh giá với chính mình và đối với cuộc
sống con người, đối với thế giới. Người đọc, do sự chi phối của thời đại, do
trình độ, thị hiếu thẩm mỹ và tâm lý lứa tuổi, đến với tác phẩm lại muốn
tìm được những điều nào đó phù hợp với mình và cần thiết cho mình.
Chính vì vậy, bản thân hình tượng đã phong phú đa dạng, đối diện với
người đọc càng làm cho nó trở nên phong phú đa dạng hơn.
Như trên đã nói, tác phẩm thơ - đặc biệt là thơ hiện đại - hình tượng
trong đó là hình tượng tâm tư. Ngồi cái thơng điệp mà tác giả muốn gửi
tới người đọc cịn có cả những điều mà tác giả muốn bộc lộ ra với người

đọc. Để học sinh say mê đọc tác phẩm, tái hiện hình tượng trong tác phẩm,
tiếp nhận được những giá trị của tác phẩm cũng như có sự tìm tịi phát hiện
riêng về tác phẩm, giáo viên phải tác động bằng nhiều hình thức để các em


chủ động đến với tác phẩm một cách hứng thú bằng những nhu cầu tt́ình
cảm, những nhu cầu từ bên trong. Làm sao để các em sống với tác phẩm
bằng cả tâm hồn mình, tiếp nhận kiến thức về tác phẩm bằng những rung
động sâu xa, mãnh liệt của tâm hồn.
Nhận thức tác phẩm tức là học sinh phải trực tiếp đối diện với tác
phẩm và từ đó có nhu cầu và niềm say mê thưởng thức, khám phá tác
phẩm. Là chủ thể chủ động, học sinh khơng chỉ có đọc, sáng tạo lại hình
tượng tác phẩm thành hình tượng của mình, mà qua đó các em nghe được
tiếng nói, lắng nghe được giọng điệu, cảm nhận được cái nhìn của nhà thơ
về cuộc sống, con người. Các em buồn cái buồn, vui niềm vui của nhà thơ,
bị nhà thơ thuyết phục hoặc tranh luận với nhà thơ. Là chủ thể chủ động,
các em phải có sự giao tiếp, sự cộng hưởng cảm xúc với nhà văn, tiếp nhận
những thông điệp thẩm mỹ của nhà văn qua tác phẩm. Để học sinh thực sự
trở thành chủ thể tiếp nhận tác phẩm, trong giờ dạy đọc - hiểu văn bản nhất
là phần văn bản thơ hiện đại cần:
-Trước hết các em phải học khơi gợi hứng thú đọc tác phẩm và
hướng dẫn chuẩn bị tìm hiểu tác phẩm ở nhà một cách cụ thể. Làm sao để
khi bước vào giờ học, các em như mong muốn được thể hiện giọng đọc, sự
đồng sáng tạo của mình, muốn trình bày, muốn tranh luận những điều cảm
thụ, nhận thức được về tác phẩm. Thưởng thức nghệ thuật chỉ thực sự bắt
đầu khi có nhu cầu về thỏa mãn về tình cảm, tâm hồn, trí tuệ, những nhu
cầu về bên trong.
Với chương trình Ngữ Văn 9, những bài thơ hiện đại được đưa vào
dạy - học phần lớn đề cập đến những tình cảm cao đẹp của con người, rất
phù hợp với tâm lý tuổi mới lớn của các em (tình đồng chí đồng đội, tình

bà cháu, tình yêu quê hương đất nước, yêu thiên nhiên). Người giáo viên
phải bám sát đặc trưng “tiếng nói tình cảm” của các bài mà hướng các em
vào việc đọc, tìm hiểu, tạo cho các em sự đồng cảm cùng nhà thơ để đạt
hiệu quả cảm thụ.


- Người giáo viên cần bám sát đặc trưng thể loại kết hợp khéo léo
với việc khơi dậy tình cảm tiềm ẩn trong mỗi học trò sẽ từng bước bồi
dưỡng được hứng thú tiếp nhận tác phẩm cho các em trong quá trình dạy
học.
7.5.3. Đảm bảo nguyên tắc dạy học văn theo hướng tích hợp, tích cực,
giúp các em nắm vững kiến thức Tiếng Việt để vận dụng phân tích văn
bản thơ hiện đại:
Cùng với việc bồi dưỡng cho học sinh hứng thú học tập,rèn luyện kỹ
năng cảm thụ cho các em, người thầy còn phải chú ý đến việc đổi mới
phương pháp bồi dưỡng năng lực học sinh theo hướng tích hợp, tích cực.
Giáo viên giúp học sinh phát hiện và phân tích bình giá các dấu hiệu
nghệ thuật. Người giáo viên nên sử dụng hệ thống câu hỏi hướng dẫn phân
tích bình giá- sử dụng phương pháp gợi tìm, phương pháp nghiên cứu để
giúp học sinh làm tốt các bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ trong chương
trình lớp 9.
Về chủ quan, các văn bản thơ trữ tình được đưa vào chương trình
trong thời điểm cụ thể từng bài, tuần đã đảm bảo tính tích hợp bởi đó là
ngun tắc xây dựng chương trình. Tích hợp giữa Văn - Tiếng Việt và Tập
làm văn (tích hợp ngang) và tích hợp dọc các nội dung, các kiểu văn bản đã
học từ lớp 6 đến lớp 9. Thực thế dạy - học Tiếng Việt từ lớp 6 - lớp 9 đã
cung cấp cho các em các tri thức về các dấu hiệu nghệ thuật trong văn bản,
nhất là văn bản thơ. Các kiểu từ loại, các kiểu câu, các cách cấu tạo câu,
các phép liên kết , tất cả đều có giá trị sử dụng của chúng. Ứng dụng các
kiến thức Tiếng Việt các em sẽ phát hiện và phân tích bình giá các tín hiệu

nghệ thuật ấy để hiểu và cảm thụ bài thơ sâu sắc. Song có điều, những kiến
thức về Tiếng Việt có thể các em đã học từ lớp 6, lớp 7 nên các em dễ quên.
Với mỗi bài, các em phải được hướng dẫn ôn tập thường xuyên để củng cố
kiến thức và tăng cường kỹ năng phát hiện, vận dụng phân tích. Sau mỗi
một bài dạy - học thơ trữ tình cần có bài tập viết đoạn trình bày cảm thụ để
học sinh luyện tập. Thông thường, phần luyện tập của mỗi bài đều có, song


không nhất thiết phải luyện tập ngay trên lớp. Phần vì đảm bảo thời gian,
phần vì để cho học sinh có độ “ngấm” sâu hơn nên cho các em về nhà làm
bài tập viết đoạn (vào giấy) và kiểm tra lại bằng cách cho các em nộp lại cho
giáo viên đánh giá.
Phương pháp dạy học tích cực chỉ ra rằng: người học - chủ thể hoạt
động - phải tự mình tìm ra kiến thức cùng với cách tìm ra kiến thức thơng
qua hành động của chính mình. Chỉ có bằng hành động tự tìm hiểu khi các
em tự nói ra những điều mình cảm nhận được thì bài thơ sẽ “sống” mãi, và
lúc đó q trình cảm thụ mới thật sự thành công.
7.6.Vận dụng cụ thể vào việc rèn các kĩ năng cơ bản.
a. Rèn luyện kĩ năng đọc: Như trên đã nói, đọc là bước đầu tạo tiền đề cho
hoạt động tái hiện và có khả năng thực hiện dễ dàng, đầy đủ hoạt động tái
hiện. Với tác phẩm trữ tình, đọc vừa là đồng cảm, vừa là diễn cảm.
- Đây là phương pháp đặc thù của môn Ngữ văn, vì vậy đọc sáng tạo vốn
rất
được coi trọng trong khi dạy tác phẩm thơ, nhất là thơ trữ tình. Nhưng
chúng tôi vận dụng đọc sáng tạo một cách phù hợp; không quá đề cao hay
quá coi nhẹ.
- Đọc sáng tạo có theo tơi có 3 mức độ: Đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm.
+ Đọc đúng: Là trả lại hoàn toàn đúng nội dung văn bản. Đọc đúng là giải
quyết kỹ năng, năng lực ngôn ngữ cho học sinh, là không được sai văn
bản.

+ Đọc hay: là bước tiếp theo của đọc đúng, phải trên cơ sở đọc đúng thì
đọc
hay mới thành cơng. Khi giảng thơ lại càng chú ý đọc hay: nghĩa là bắt
chước giọng điệu văn học-đọc hướng vào giọng văn bản.
+ Đọc diễn cảm: Là một phần của phương pháp đọc sáng tạo, bản chất của
đọc sáng tạo là xác định mối quan hệ cảm xúc riêng tư của người đọc về
giá trị nội dung và hình thức đọc của tác phẩm. Đọc diễn cảm địi hỏi ở cả
giáo viên và học sinh


* Đối với giáo viên: Việc đọc diễn cảm của thầy có vai trị quan trọng
trong
việc hướng dẫn học sinh thâm nhập vào tác phẩm. Thầy cũng phải tập đọc
trước từ nhà vì nếu thầy đọc diễn cảm sẽ là chuẩn mực cho học sinh noi
theo. Sau đó thầy hướng dẫn học sinh đọc thông qua đọc trước tác phẩm
cho học sinh, hoặc vừa đọc vừa bình.
* Đối với học sinh: Cũng cần có nghệ thuật đọc, qua đọc học sinh đã có
thể dễ dàng tìm hiểu được giá trị của tác phẩm. Học sinh THCS với tâm lý
dễ cảm thụ, dễ xúc cảm, dễ tin và hồn nhiên, tư duy của các em mang tính
cụ thể, dễ hiểu nên việc đọc diễn cảm đồng thời giúp thầy dễ khơi gợi
những cảm xúc của các em, kích thích hứng thú học tập. Tuy nhiên việc
đọc diễn cảm của học sinh cũng phải chuẩn bị kỹ lưỡng từ nhà, đọc sao cho
giản dị tự nhiên không thái quá.
- Việc đọc văn bản thơ diễn ra thường xuyên trong giờ học: đọc cả bài, đọc
từng phần, từng khổ, thậm chí đọc 1,2 câu thơ khi phân tích. Với phương
pháp đọc sáng tạo cùng đã bước đầu có sự phân loại năng lực cho học sinh:
các em năng lực trung bình chỉ cần đọc đúng, đọc hay đã là các em có cảm
nhận bước đầu về tác phẩm và đọc diễn cảm tốt là các em đã có sự hiểu và
cảm nhận phần nào giá trị của văn bản. Trên cơ sở đọc, giáo viên nắm bắt
năng lực của các em và uốn nắn được cho từng đối tượng học sinh.

Cũng nhờ đọc mà học sinh vừa được chứng kiến, vừa được thể nghiệm,
được tái hiện hình tượng thơ. Vì thế đọc - tái hiện, tri giác hình tượng thơ là
hoạt động khơng thể coi nhẹ trong quá trình dạy - học thơ trữ tình. Tái hiện
hình tượng trong thơ khơng những là một thao tác tư duy để đi vào tác
phẩm mà cịn là một bí quyết truyền thụ nữa.
Một bài thơ như bài thơ “Bếp lửa” chẳng hạn mà việc đọc và tái
hiện hình tượng khơng thực hiện tốt thì khó thu được kết quả. Cả một dịng
hồi niệm tn chảy theo thời gian sống dậy trong tâm tưởng nhà thơ nếu
như khơng được tái hiện thì khó mà gợi được rung động cảm xúc.


Nhận thức như vậy nên khi dạy - học bài thơ “Bếp lửa” tôi chú trọng
hướng dẫn học sinh đọc trước ở nhà. Đọc và hình dung cảnh “Bếp lửa” quê
hương có Bà tần tảo nắng mưa, có Bà chăm chút cháu, có Bà gắn liền bên
“Bếp lửa”. Đến lớp, cơ giáo bằng giọng đọc truyền cảm của mình, đọc mẫu
cho học sinh đoạn thơ đầu:
“Một bếp lửa chờn vờn ……… sống mũi cịn cay”, sau đó hướng
dẫn học sinh đọc và đọc tiếp trong q trình phân tích. Kết hợp đọc của
thầy, đọc của trị, học sinh đã có những cảm nhận bước đầu về bài thơ theo
đúng hướng.
Với những bài thơ khác như bài “Đồng chí ”, “Bài thơ về tiểu đội
xe khơng kính”, “Mùa xn nho nhỏ”, “Viếng lăng Bác” là những bài
thơ được phổ nhạc hoặc có liên quan đến bài ca nào đó thì bên cạnh việc
hướng dẫn đọc, tơi cịn hướng dẫn cho các em sưu tầm, nghe băng đĩa
nhạc, xem băng đĩa hình để giúp các em tái hiện hình tượng một cách dễ
dàng hơn.
b. Rèn luyện kĩ năng phát hiện và bình giá các dấu hiệu nghệ thuật.
Nói đến thơ là nói đến chất thơ, lời thơ. Điều đáng chú ý đầu tiên của
hình thức nghệ thuật trong thơ là nhịp điệu. Thơ là văn bản được tổ chức
bằng nhịp điệu của ngôn từ. Nhịp điệu thơ được tổ chức đặc biệt để thể

hiện nhịp điệu tâm hồn, nhịp điệu cảm nhận thế giới một cách thầm kín.
Nhịp điệu được tạo ra bởi sự trùng điệp: Trùng điệp của âm vận, trùng điệp
ở nhịp, ở ý thơ, câu thơ hoặc bộ phận của câu thơ. Ví dụ như dạy - học bài
“Mùa xuân nho nhỏ”, phải hướng học sinh chú ý đến nhịp điệu dồn dập,
hối hả trong bài thơ để thấy được khí thế vào xuân tưng bừng nhộn nhịp
của mùa xuân đất nước.


Đặc biệt trong đoạn:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…
Cùng với nhịp điệu là hình ảnh. Hình ảnh trong thơ trực tiếp truyền
đạt sự cảm nhận thế giới một cách chủ quan. Hình ảnh thơ thường gợi sự
ngâm ngợi và liên tưởng. Hình ảnh trong thơ là yếu tố được sử dụng với
nhiều chức năng khác nhau (có khi là những nhân tố trực tiếp của nội dung,
là bức tranh nhỏ của cuộc sống, có khi có được qua sự so sánh). Khi dạy
các bài thơ trữ tình, cần cho học sinh phát hiện và phân tích các hình ảnh,
giá trị biểu đạt của các hình ảnh để các em cảm thụ nội dung đầy đủ hơn.
Còn rất nhiều điều các em cần phải phát hiện và phân tích nữa như:
ngơn

ngữ, các biện pháp tu từ, kết cấu. Trong phạm vi thời gian của từng

tiết học, dưới sự hướng dẫn của giáo viên qua mỗi bài sẽ củng cố, rèn luyện
thêm cho các em. Bằng hệ thống câu hỏi hướng dẫn, bằng phương pháp gợi
tìm, nghiên cứu kết hợp với quá trình truyền cảm thụ của giáo viên và với

tính tích cực được phát huy, các em sẽ có được kết quả cảm thụ tốt hơn.
c. Rèn luyện kỹ năng trình bày cảm nhận .
Để cho những cảm nhận được kiểm nghiệm, để cho những câu thơ, bài thơ
hay sống mãi trong cảm nhận của các em thì chỉ đọc, tìm hiểu chưa gọi là
đủ, các em còn phải biết thể hiện, trình bày những cảm nhận của mình.
Việc trình bày cảm nhận này có thể u cầu học sinh trình bày bằng nhiều
hình thức khác nhau: Có thể trình bày miệng thơng qua hình thức trao đổi
giữa thầy- trị, trình bày bằng viết đoạn văn, hay bài văn( tùy theo bài học
và yêu cầu của giáo viên đối với từng đối tượng họ sinh). Cụ thể như sau:
-Trong tiết học giáo viên cần hướng dẫn các em tự phát hiện, thưởng
thức tác phẩm, khuyến khích các em có những cảm nhận, những phát hiện


riêng nhưng khơng suy diễn tuỳ tiện. Có những điều trăn trở vấn vương của
các em về tác phẩm cần được thầy cô giúp đỡ giải đáp kịp thời.
-Sau tiết học, các em được mở ra những khả năng mới để tiếp tục
thưởng thức, khám phá tác phẩm ở mức sâu, rộng hơn, các em như cảm
nhận được những biến đổi, vận động phong phú hơn trong tâm hồn mình.
Với ưu thế dễ đọc, dễ nhớ và tình cảm sâu lắng, các bài thơ trữ tình đầy đủ
khả năng tạo ra hứng thú cho các em. Kết thúc quá trình dạy - học trên lớp
với một tác phẩm trữ tình không phải là hết mà các em cần tiếp tục “suy
ngẫm”, “nhấm nháp”, “thưởng thức”. Sau mỗi bài học, giáo viên cần ra
những bài tập rèn luyện kĩ năng cảm thụ cho học sinh để các em tự trình
bày những điều mà các em đã thu nhận được.
Thông thường, phần luyện tập của mỗi tiết bài đọc - hiểu đều có bài
tập. Thiết nghĩ khơng nên u cầu học sinh làm ngay tại lớp những bài tập
cảm thụ mà nên để cho học sinh “thấm” bài học rồi về nhà làm bài tập viết
đoạn thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của mình. Hoặc có thể kiểm tra phần cảm
thụ của các em trong giờ kiểm tra bài cũ ở tiết học sau . Hoặc có thể giáo
viên giao bài tập cảm thụ một đoạn thơ, bài thơ, một chi tiết hay một hình

ảnh nghệ thuật độc đáo ...( yêu cầu học sinh viết đoạn văn hay bài văn cảm
thụ).Khi đó các em sẽ được bộc lộ cảm xúc của mình. Và như vậy các em
được rèn luyện tất cả các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết.
Ví dụ: Khi dạy xong bài thơ “Con cị” của Chế Lan Viên, tơi u
cầu các em làm bài tập cảm thụ( tùy theo từng hồn cảnh cụ thể học sinh có
thể viết đoạn văn hoặc trình bày miệng).
Bài tập 1: (Cho những học sinh đối tượng trung bình)
Qua bài thơ, em có suy nghĩ gì về những lời hát ru?
Bài tập 2: (cho học sinh đối tượng khá hơn).
Suy nghĩ của em về tấm lòng người mẹ qua hai câu thơ:
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con.


Với cả hai bài tập, hai đối tượng sau khi đã đọc, hiểu bài thơ đều đã
viết được những đoạn văn thể hiện cảm nhận của mình về lời hát ru (lời hát
ru gắn với tuổi thơ bên vành nôi và lời hát ru thể hiện tình cảm của người
mẹ, lời hát ru theo con, tiếp sức cho con; mẹ là nguồn tình cảm vơ tận đối
với con , tình thương của mẹ giành cho con khơng gì sánh được).
Nói tóm lại: Việc rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh thơng
qua những bài thơ trữ tình, đặc biệt là những bài thơ hiện đại ở lớp 9 là rất
có ưu thế. Nhưng việc tổ chức biện pháp rèn luyện và nội dung rèn luyện là
cả một quá trình đầy những khó khăn, nhất là với những bài chỉ dạy trong
một tiết. Để việc rèn kĩ năng cảm thụ có hiệu quả, khâu chuẩn bị bài học
phải thật chu đáo. Khâu tiếp xúc với tác phẩm phải bằng nhiều con đường
và tác động nhiều phía. Về nội dung công việc trong tiết dạy - học rèn
luyện kĩ năng phải dựa trên cơ sở những nguyên tắc, phương pháp bộ môn.
Người giáo viên cần khéo léo khơi gợi hứng thú, có hệ thống câu hỏi xốy
vào những yếu tố trọng tâm và đặt ra những yêu cầu vừa sức để học sinh
từng bước cảm thụ tác phẩm. Điều quan trọng là mỗi cá nhân học sinh phải

thật sự có ý thức, có tình u đối với tác phẩm và chủ động tìm hiểu thì
việc rèn kĩ năng sẽ đạt được kết quả trọn vẹn hơn.
8. Những thông tin cần được bảo mật:
Không.
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Phòng học, bảng, bàn ghế, học sinh…
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến:
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
-Sau khi nghiên cứu. áp dụng vào thực nghiệm, vận dụng linh hoạt các
phương pháp dạy học theo hướng đổi mới, tôi thấy các em bước đầu ý thức
được tầm quan trọng của mơn Ngữ Văn, u thích mơn học hơn.
-Số học sinh khá và giỏi tăng lên,số học sinh trung bình và yếu giảm đáng
kể,đặc biệt là tỉ lệ học sinh yếu -ở lớp khá hơn(9A) khơng cịn.
-Nhờ có việc đổi mới phương pháp dạy và học nên chất lượng môn văn của
học sinh được nâng cao:


-Đa số các em đã tự giác đọc - hiểu và soạn bài trước khi đến lớp .


* KẾT QUẢ KHẢO SÁT HỌC TẬP CỦA HỌC SINH

(Trước khi thực hiện sáng kiến- năm học 2017- 2018 )
Khối
lớp

KẾT QUẢ XẾP LOẠI


Tổng số học
sinh

Giỏi

Khá

Trung
bình

Yếu

T
S

%

TS

%

TS

%

TS

%

9A


35

4

11,
4

14

40

15

42,
9

2

5,7

9B

35

2

5,7

10


28,
6

19

54,
3

4

11,4

35

0

0

5

14,
3

22

62,
8

8


22,9

9C

* KẾT QUẢ KHẢO SÁT HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
(Sau khi triển khai áp dụng sáng kiến năm học 2018- 2019 và những năm học tiếp
theo)
- KẾT QUẢ KHẢO SÁT NĂM HỌC 2018- 2019.

Khối
lớp

KẾT QUẢ XẾP LOẠI

Tổng số
học sinh

Giỏi

Khá

Trung
bình

Yếu

TS

%


TS

%

TS

%

TS

%

9A

35

10

28,6

20

57,1

5

14,3

0


0

9B

35

5

14,3

16

45,7

13

37,1

1

2,9

2

5,

10 28,6

20


57,1

9C

35

3

8,6

7
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
-Nhờ có việc đổi mới phương pháp dạy và học nên chất lượng môn Ngữ
Văn của học sinh được nâng cao.
10.3.Kết luận
- Người giáo viên dạy thơ phải yêu thơ, ham thích tìm hiểu và có kĩ
năng tìm hiểu, phân tích bình giá thơ và phải có kế hoạch cụ thể để hướng
dẫn cho các em.


-Người giáo viên phải khéo léo tác động vào tình cảm của các em,
khơi dậy những tình cảm có sẵn cho các em, tạo điều kiện cho các em nâng
cao năng lực cảm thụ và trong quá trình dạy-học; phải có kĩ năng hướng dẫn
từng bước cho học sinh.
- Sự kết hợp hài hoà giữa chủ động của học sinh với hướng dẫn chu
đáo của giáo viên là điều kiện tất yếu dẫn đến kết quả.
- Thời lượng quy định trên lớp là bắt buộc song rất ít, cần giành thời
gian ngoại khoá để rèn kĩ năng cho các em.

-Rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh là việc làm khơng thể
thiếu trong q trình dạy học văn chương, nhất là dạy tác phẩm trữ tình.
-Bám sát đặc trưng bộ môn, quán triệt các nguyên tắc dạy học, vận
dụng phương pháp đổi mới, tăng cương tính tích hợp, tích cực trong q
trình dạy học là những giải pháp thiết thực để thực hiện rèn kĩ năng .
-Bước đầu những tiết dạy với những nội dung và biện pháp trên, tơi
đã thu được kết quả song cịn rất hạn chế.
-Tuy nhiên, đó chỉ là kinh nghiệm mang tính chất chủ quan, rất mong
sự đóng góp ý kiến, trao đổi, bổ sung của bạn đồng nghiệp. Tôi xin trân
trọng cảm ơn!
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp
dụng sáng kiến lần đầu:
Số
Tên tổ chức/cá
Phạm vi/Lĩnh vực
T
Địa chỉ
nhân
áp dụng sáng kiến
T
1

Rèn kĩ năng cảm thụ thơ hiện
đại qua bài dạy đọc hiểu cho HS
lớp9

2

Rèn kĩ năng cảm thụ thơ hiện
đại qua bài dạy đọc hiểu cho HS

lớp9

3

Rèn kĩ năng cảm thụ thơ hiện
đại qua bài dạy đọc hiểu cho HS
lớp9

4

Rèn kĩ năng cảm thụ thơ hiện
đại qua bài dạy đọc hiểu cho HS
lớp9




×