Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

BÁO CÁO THUYẾT TRÌNH MÔN KINH DOANH QUỐC TẾ đề TÀI SỰ KHÁC BIỆT VỀ VĂN HÓA TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (673.38 KB, 42 trang )

lOMoARcPSD|9242611

TỔNG LIÊN ĐỒN LAO ĐỘNG VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TƠN ĐỨC THẮNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÁO CÁO THUYẾT TRÌNH
MƠN: KINH DOANH QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI

SỰ KHÁC BIỆT VỀ VĂN HÓA
TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ
Giảng viên hướng dẫn: Ths.Trần Thị Vân Trang
Nhóm thực hiện: Nhóm KPI.
Nhóm mơn học: Nhóm 02.

TP Hồ Chí Minh, Tháng 10, Năm 2021


lOMoARcPSD|9242611

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên chúng em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô của
Trường Đại học Tôn Đức Thắng, quý thầy cô Khoa Quản trị kinh doanh đã hết lòng
truyền đạt kiến thức và những kinh nghiệm quý báu, tạo mọi điều kiện tốt nhất để
chúng em có cơ hội tiếp cận, học tập, tiếp thu vốn kiến thức và có thể hồn thành mơn
học trong giai đoạn diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid 19.
Chúng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến giảng viên hướng dẫn - Cô Trần
Thị Vân Trang. Người đã trực tiếp giúp đỡ, tận tình giảng dạy, đồng hành cũng như
hướng dẫn chúng em rất nhiều trong quá trình học tập, trang bị thêm nhiều kiến thức


quý báu và tạo điều kiện cho chúng em có thêm cơ hội để tự tìm hiểu về mơn học
Kinh doanh quốc tế này. Cảm ơn cơ đã nhiệt tình, nhẫn nại dành thời gian hướng dẫn,
đóng góp để trả lời những ý kiến và thắc mắc để chúng em sửa chữa những vấn đề khó
khăn đang mắc phải để giúp bài báo cáo của chúng em được hoàn thiện hơn.
Vì bản thân chúng em cịn ít kinh nghiệm trong thực tiễn nên bài báo cáo
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến, phê bình của các thầy cơ giảng viên để bài được hồn chỉnh hơn và đó cũng sẽ là
hành trang quý giá để chúng em hoàn thiện bản thân sau này.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!


lOMoARcPSD|9242611

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

5

DANH MỤC BẢNG BIỂU

6

DANH MỤC HÌNH ẢNH

6

NỘI DUNG BÁO CÁO

1


1. Văn hóa là gì?

1

1.1.

Giá trị và chuẩn mực

1

1.2.

Văn hoá, Xã hội và Quốc gia

2

2. Các yếu tố hình thành văn hóa
2.1.

Cấu trúc xã hội

3
3

2.1.1.

Cá nhân và nhóm khác nhau như thế nào?

3


2.1.2.

Sự phân chia giai tầng xã hội:

6

2.2.

Hệ thống đạo đức và tôn giáo

7

2.2.1.

Cơ Đốc Giáo

8

2.2.2.

Hồi giáo

9

2.2.3.

Ấn Độ giáo

10


2.2.4.

Phật giáo

12

2.2.5.

Nho giáo

13

2.3.

Ngơn ngữ

16

2.3.1.

Ngơn ngữ nói

16

2.3.2.

Ngơn ngữ cử chỉ

17


2.4.

Giáo dục

18

3. Văn hóa nơi làm việc

20

4. Sự thay đổi văn hóa

25

5. Hàm ý quản trị

28

5.1.

Kỹ năng hiểu biết sự khác biệt về văn hoá

28

5.2.

Văn hoá và lợi thế cạnh tranh

29


6. Case study:

30

TÀI LIỆU THAM KHẢO

35

PHỤ LỤC

36

BẢNG PHÂN CÔNG VÀ ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN

36


lOMoARcPSD|9242611

LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, tồn cầu hóa đang trở thành một xu
thế khách quan ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và cả đất
nước nói chung. Bên cạnh những cơ hội thì doanh nghiệp cịn phải đối mặt với vơ
vàng thách thức. Vì vậy đổi mới, mở rộng thị trường kinh doanh nhằm nâng cao khả
năng cạnh tranh là một nhiệm vụ hết sức cần thiết của các doanh nghiệp. Việc mở
rộng thị trường kinh doanh trong nước và các quốc gia khác, đòi hỏi các doanh nghiệp
phải nghiên cứu nhiều yếu tố như tình hình kinh doanh, nhu cầu, thị hiếu của khách
hàng, ... và điều quan trọng nhất là “Nhập gia tùy tục”- các doanh nghiệp cần phải
khai thác các vấn đề liên quan đến yếu tố văn hóa của các quốc gia để có thể hịa hợp
cùng.

Mỗi quốc gia đều mang một nền văn hóa riêng cùng với những nét đặc trưng về
ngôn ngữ, phong cách sống hay những phong tục tập quán. Điều này sẽ tác động trực
tiếp đến chiến lược thâm nhập thị trường vào quốc gia đó của doanh nghiệp. Vì vậy,
doanh nghiệp phải tìm hiểu yếu tố văn hóa nhằm điều chỉnh hoặc xây dựng các chiến
lược kinh doanh phù hợp với từng thị trường. Hơn thế nữa, văn hóa cịn ảnh hưởng
đến phong cách làm việc của mỗi doanh nghiệp ở mỗi quốc gia khác nhau.
Do đó, nhóm chúng em đã lựa chọn đề tài “Sự khác biệt về văn hóa trong kinh
doanh quốc tế” để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề văn hóa trong kinh doanh quốc tế. Bài
báo cáo này nhằm đem đến sự nhận định rõ hơn về sự khác biệt của văn hóa dựa trên
các yếu tố hình thành văn hóa. Từ đó, đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục vấn đề
thiếu thông tin về các khía cạnh của nền văn hóa.


lOMoARcPSD|9242611

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1 Các giá trị liên quan đến công việc trong 16 quốc gia được chọn

24

DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 1 Cấu trúc xã hội
3
Hình 2 Cá nhân
4
Hình 3 Nhóm
5
Hình 4 Sự phân chia giai cấp
6
Hình 5 Các tơn giáo trên thế giới

8
Hình 6 Cơ đốc giáo
8
Hình 7 Hồi giáo
9
Hình 8 Ấn Độ giáo
10
Hình 9 Phật giáo
12
Hình 10 Nho giáo
13
Hình 11 Marry-Barra- Nữ CEO đầu tiên của hãng ôtô nổi tiếng thế giới General
Motors.
25
Hình 12 Virginia "Ginni" M. Rometty là Tổng giám đốc điều hành của công ty IBM
( 2012)
26
Hình 13 Thái Vân Linh- CEO TVL group
26
Hình 14 Nguyễn Thị Phương Thảo- CEO VIetjet
26
Hình 15 Các sản phẩm của Microsoft được sử dụng rộng rãi trên tồn cầu
27
Hình 16 Sản phẩm đến từ apple tạo xu hướng đối với người dùng trên khắp thế giới 27

NỘI DUNG BÁO CÁO
1. Văn hóa là gì?
Cho đến nay, nhiều định nghĩa về văn hóa đã được đưa ra vì các học giả chưa
thống nhất được một định nghĩa đơn giản về nó. Có thể kể đến như định nghĩa của nhà
nhân chủng học Edward Tylor vào những năm 1870 : “Một phức hệ bao gồm kiến

thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập quán, và năng lực khác của con
người khi là một thành viên của xã hội”. Một định nghĩa khác đến từ các nhà xã hội
học Zvi Namenwirth và Robert Weber, những người coi văn hóa là một hệ thống các
quan niệm và cho rằng những quan niệm này tạo thành một lối sống. Hay định nghĩa
của Geert Hofstede: “những chương trình có tính chất tập thể đã tồn tại sẵn trong tư
tưởng để phân biệt thành viên của một nhóm người này với một nhóm người khác”.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu được văn hóa là những giá trị và chuẩn mực
được một cộng đồng người cùng chia sẻ và sáng tạo ra với mục đích ban đầu là nhằm


lOMoARcPSD|9242611

phục vụ cho những nhu cầu và lợi ích của chính mình. Trong đó văn hóa bao gồm
những giá trị đã được hình thành và duy trì trong một khoảng thời gian rất dài, có tính
kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác.
1.1.

Giá trị và chuẩn mực

Giá trị là phạm trù riêng có của lồi người, liên quan đến lợi ích vật chất cũng
như tinh thần của con người. Giá trị tạo ra bối cảnh để các chuẩn mực xã hội được
hình thành và khẳng định. Giá trị gắn liền với nhu cầu con người, nhu cầu của con
người rất phong phú, đa dạng và được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Giá
trị có thể bao gồm thái độ của xã hội đối với những vấn đề như tự do cá nhân, dân
chủ, sự thật, công bằng, sự trung thực, nghĩa vụ xã hội,…ngồi ra cịn có ý nghĩa quan
trọng về mặt cảm xúc.
Chuẩn mực là những quy tắc xã hội chi phối hành vi của con người với nhau.
Chẳng hạn như cách ứng xử, tinh thần tơn sư trọng đạo, … Trong đó, chuẩn mực được
chia thành hai loại chính là tập quán và tục lệ.
+Tập quán là những quy ước trong cuộc sống hằng ngày, thường liên quan đến

mặt xã hội như cách ăn mặc phù hợp, thái độ cử chỉ đúng đắn,…Nhưng vì ít có ý
nghĩa về mặt đạo đức nên dù có làm sai thì cũng khơng được xem là nghiêm trọng.
Bên cạnh đó tập qn cịn bao gồm cả các lễ nghi và hành vi mang tính biểu trưng.
Một ví dụ về đến thái độ sử dụng thời gian giữa các quốc gia. Ở các quốc gia ở
Bắc Âu như Đức và Anh. Doanh nhân rất có ý thức về việc lập lịch trình thời gian và
rất dễ nổi giận nếu thời gian của họ bị lãng phí vì đối tác kinh doanh đi họp trễ hoặc
làm họ phải chờ đợi. Thời gian như đối với họ như là tiền bạc, là cái gì đó có thể chi
tiêu, tiết kiệm, lãng phí và mất mát. Thay vào đó, trong các nền văn hố Ả Rập, Latin,
và Châu Phi, thời gian có tính co giãn hơn.
+Tục lệ là những chuẩn mực trung tâm cho sự vận hành của xã hội và đời sống
xã hội. Nó có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều so với tập quán nên nếu phá vỡ tục lệ có
thể bị trừng phạt rất nặng. Ở nhiều nước, một số tục lệ cịn được ban hành thành luật..
Ví dụ như ở Mỹ, việc uống rượu được chấp nhận rộng rãi, trong khi ở Ả rập
Xê-út, tiêu thụ rượu lại vi phạm tập tục xã hội nghiêm trọng và sẽ bị phạt tù. Vì thế


lOMoARcPSD|9242611

nên một số người phương Tây làm việc tại Ả Rập Xê-út cần nhận biết được điều này.
1.2.

Văn hoá, Xã hội và Quốc gia

Xã hội là một nhóm người cùng chia sẻ các giá trị và chuẩn mực chung, những
người gắn bó với nhau trong một nền văn hóa chung, khơng có mối tương đồng chặt
chẽ giữa một xã hội và một quốc gia.
Trong khi quốc gia là được tạo nên bởi yếu tố chính trị, một quốc gia có thể
bao gồm một hoặc nhiều văn hóa khác nhau. Ví dụ như quốc gia Canada có ít nhất ba
nền văn hóa - văn hóa Anglo của người Anh, văn hố “Quebec” nói tiếng Pháp, và nền
văn hóa của người Mỹ bản địa. Tuy nhiên, văn hóa cũng có thể bao trùm nhiều quốc

gia, điển hình như văn hố Hồi giáo là nền văn hố của các cơng dân đến từ nhiều
nước khác nhau ở Trung Đông, châu Á và châu Phi.
Ngồi ra, chúng ta cũng có thể đề cập đến văn hóa ở nhiều cấp độ khác nhau.
Một quốc gia có thể có nhiều xã hội, nhiều văn hóa và mỗi xã hội có văn hóa riêng
của mình. Khi nói đến văn hóa Mỹ, có thể nói về văn hóa người Mỹ gốc Phi, văn hóa
người Mỹ gốc Trung Quốc, văn hóa Cajun, nền văn hóa người Mỹ gốc Tây Ban Nha
và Bồ Đào Nha, văn hóa người Mỹ gốc Ai-len, văn hóa Ấn Độ, ...
2. Các yếu tố hình thành văn hóa
Trong q trình hình thành và phát triển, có rất nhiều yếu tố bên trong và bên
ngồi góp phần hình thành văn hóa xã hội. Đặc biệt các yếu tố về triết lý kinh tế
chính trị góp phần quyết định đến giá trị của hệ thống xã hội. Tuy nhiên, ở đây chúng
ta đặc biệt phân tích các yếu tố cấu trúc xã hội, tôn giáo, ngôn ngữ và giáo dục. Các
yếu tố này thể hiện mối quan hệ đa chiều giữa các yếu tố với nhau, giữa các yếu tố tác
động đến giá trị chuẩn mực của văn hóa xã hội và ngược lại.
2.1.

Cấu trúc xã hội

Cấu trúc xã hội đề cập đến tổ chức cơ bản của xã hội. Mặc dù nó bao gồm
nhiều khía cạnh khác nhau nhưng có hai tiêu chí quan trọng giải thích sự khác nhau
giữa các nền văn hóa.


lOMoARcPSD|9242611

Hình 1 Cấu trúc xã hội

Tiêu chí thứ nhất là mức độ một đơn vị cơ bản của tổ chức xã hội là cá nhân,
đối lập với nhóm. Nhìn chung, xã hội phương Tây có xu hướng nhấn mạnh đến tầm
quan trọng của cá nhân, cịn nhóm đóng vai trị quan trọng hơn trong nhiều xã hội

khác.
Tiêu chí thứ hai là mức độ mà một xã hội được phân chia thành các tầng lớp
hoặc các đẳng cấp. Một số xã hội được đặc trưng bởi mức độ phân chia giai tầng xã
hội tương đối cao và khả năng thay đổi địa vị cá nhân tương đối thấp (ví dụ như Ấn
Độ).
2.1.1.

Cá nhân và nhóm khác nhau như thế nào?

Nhóm là một tập hợp của hai hay nhiều cá nhân có cùng đặc tính và tương tác
với nhau theo những cách thức có cấu trúc trên nền tảng có cùng kỳ vọng về cách
hành xử. Đời sống xã hội của con người là đời sống theo nhóm. Cá nhân là một tế bào
của gia đình, các nhóm làm việc, các nhóm xã hội, các nhóm giải trí, v.v… Tuy nhiên,
mặc dù nhóm tồn tại trong tất cả các xã hội, nhưng các xã hội khác nhau ở chỗ mức độ
mà nhóm được xem như là thành phần chính của cấu trúc xã hội.
Cá nhân:

Hình 2 Cá nhân

Trong những xã hội phương Tây, cá nhân là khối cơ bản xây dựng tổ chức xã
hội. Ví dụ, hệ thống giá trị của nhiều xã hội phương Tây nhấn mạnh đến thành tích cá
nhân.


lOMoARcPSD|9242611

Một lợi ích của việc nhấn mạnh vào hiệu suất cá nhân là mức độ cao của hoạt
động kinh doanh ở Hoa Kỳ và các xã hội phương Tây khác, các doanh nhân ở Hoa Kỳ
đã tạo ra nhiều sản phẩm mới và cách thức kinh doanh mới. Người ta có thể lập luận
rằng sự năng động của nền kinh tế Hoa Kỳ nhờ rất nhiều vào triết lý của chủ nghĩa cá

nhân.
Chủ nghĩa cá nhân cũng thể hiện ở mức độ thay đổi công việc trong cấp quản
trị giữa các công ty, điều mà không hẳn là tốt. Thiếu lịng trung thành và cam kết với
cơng ty, và xu hướng chuyển sang một nơi tốt hơn, có thể tạo nên các nhà quản lý có
kỹ năng chung tốt nhưng thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm và mối quan hệ cá nhân
tích lũy từ nhiều năm làm việc trong cùng một công ty.
Sự đề cao chủ nghĩa cá nhân cũng có thể gây khó khăn khi xây dựng đội nhóm
trong tổ chức để thực hiện công việc chung. Nếu mỗi cá nhân luôn cạnh tranh với
nhau để giành lấy thành tích cao, điều đó có thể gây khó khăn khi hợp tác.
Ví dụ: văn hóa làm việc của các cơng ty Châu Âu. Người Châu Âu luôn đề cao
chất lượng thực tế. Vì vậy năng lực của nhân viên được coi trọng hơn ngoại hình và
đẳng cấp. Họ ln tìm kiếm những điều mới mẻ thơng qua đóng góp của từng cá
nhân. Đó là lí do mà mỗi cuộc họp tại các công ty Châu Âu thường xuyên xuất hiện
những tranh cãi nổ lửa. Đây là những tranh cãi vì lợi ích của cơng ty. Mỗi cá nhân
trong các cuộc họp luôn đưa ra ý kiến cá nhân, sẵn sàng phản bác các ý kiến mà họ
cho là khơng đúng.
Nhóm:

Hình 3 Nhóm

Trái ngược với sự nhấn mạnh tính cá nhân của phương Tây, trong nhiều xã hội
khác thì nhóm lại là đơn vị cơ bản của tổ chức xã hội. Ví dụ, tại Nhật Bản, địa vị xã
hội của một cá nhân được quyết định bởi chỗ đứng của nhóm mà anh ta thuộc về và cả


lOMoARcPSD|9242611

thành tích cá nhân mà anh ta đạt được.
Việc đề cao giá trị của tinh thần gắn bó với nhóm khuyến khích các nhà quản lý
và người lao động khơng chuyển đổi công việc giữa các công ty. Làm việc suốt đời

trong một công ty là chuẩn mực trong suốt một thời gian dài ở một số lĩnh vực nhất
định của nền kinh tế Nhật Bản. Tất cả những điều đó giúp các nhà quản lý thực hiện
cơng việc của họ hiệu quả hơn và đạt được hợp tác tốt hơn với các thành viên khác.
Tuy nhiên, việc nhóm chiếm ưu thế khơng phải ln ln có lợi. Một số người
cho rằng đặc trưng xã hội Nhật Bản thiếu tính năng động và tinh thần khởi nghiệp.
Ví dụ cụ thể rằng Nhật Bản ln nhấn mạnh “Chúng tơi” thay vì “Tôi”. Các
quyết định quan trọng thường được thảo luận và chỉ khi có sự nhất trí mới được đưa
ra. Vì vậy mọi kết quả đều là sự nỗ lực của cả một tập thể nên sẽ là không phù hợp khi
khen ngợi một cá nhân cụ thể. Thành công là sự nỗ lực của cả nhóm, khơng ai có thể
tự thành công. Người Nhật hiểu rõ điều này và nhấn mạnh việc cần phải có mọi người
làm việc cùng nhau. Họ ưu tiên một quy trình thảo luận mang tính hợp tác mà đơi khi
có thể chậm chạp nhưng cuối cùng, nó sẽ đảm bảo được rằng tất cả mọi người đều có
tiếng nói và đều chung một nhịp
2.1.2.

Sự phân chia giai tầng xã hội:

Hình 4 Sự phân chia giai cấp

Tất cả các xã hội đều được phân cấp thành các tầng lớp xã hội. Tầng lớp xã hội
thường được xác định dựa vào các đặc điểm như nền tảng gia đình, nghề nghiệp và
thu nhập. Mỗi cá nhân được sinh ra trong một tầng lớp xã hội nhất định. Những người
sinh ra trong tầng lớp cao của hệ thống phân tầng xã hội thì họ sẽ có nhiều cơ hội và


lOMoARcPSD|9242611

điều kiện hơn về mặt giáo dục, y tế hay là tìm kiếm việc làm hơn những tầng lớp thấp
khác. Mỗi xã hội sẽ có những sự phân chia giai cấp riêng, tuy nhiên xã hội sẽ được
phân cấp theo hai cách.

Thứ nhất, dựa vào mức độ chuyển dịch của các tầng lớp xã hội cá nhân đề cập
đến mức độ mà cá nhân có thể thốt khỏi tầng lớp mà họ đã sinh ra. Từ đó, hình thành
nên hai hệ thống phân chia giai cấp xã hội đối lập nhau. Hệ thống cứng nhắc nhất
chính là hệ thống đẳng cấp. Nó hồn tồn được khép kín bởi sự phân chia giai tầng,
trong đó vị trí xã hội được quyết định bởi gia đình mà cá nhân được sinh ra, và thường
không thể thay đổi trong suốt cuộc đời. Điển hình như ở Ấn Độ chia thành 4 đẳng cấp
cao nhất là Brahmin (tu sĩ, nhà tri thức) tiếp đến là Kshastriya (chiến binh). Vaishyas
(nhà buôn), Shudras (thợ thuyên, nông dân). Ngồi ra cịn có tầng lớp thứ năm, khơng
chính thức là Dalit là những người làm việc như nhặt rác, dọn dẹp vệ sinh, ... Bên
cạnh đó, hệ thống giai cấp cho phép sự chuyển dịch giữa các tầng lớp. Hình thức này
ít cứng nhắc hơn so với hệ thống đẳng cấp. Trong đó, địa vị của một người sinh ra có
thể thay đổi dựa vào thành tích cá nhân hoặc là may mắn. Cá nhân sinh ra trong một
tầng lớp thấp họ có thể nhờ vào làm việc chăm chỉ để lên được tầng lớp cao hơn.
Ngược lại, cá nhân sinh ra trong tầng lớp cao có thể bị đẩy xuống tầng lớp thấp hơn. Ở
xã hội phong kiến phương Đông, chia làm hai giai cấp gồm giai cấp thống trị như địa
chủ phong kiến và giai cấp bị trị như nông dân, tầng lớp công thương, nô tì. Tuy
nhiên, sẽ có sự thay đổi của hai tầng lớp trên nếu như tầng lớp địa chủ phong kiến
không nắm trong tay quyền lực hay đất đai thì họ cũng sẽ bị đẩy xuống thành giai cấp
bị trị.
Thứ hai, dựa vào mức độ ý nghĩa của các tầng lớp xã hội trong kinh doanh. Ở
góc độ kinh doanh, sự phân chia giai tầng trong xã hội có ý nghĩa nếu nó có ảnh
hưởng đến hoạt động của các tổ chức kinh doanh. Khả năng thay đổi địa vị thấp và sự
khác biệt giữa các tầng lớp dẫn đến sự xuất hiện của ý thức về giai cấp. Ý thức về giai
cấp đề cập đến điều kiện mà con người ta có xu hướng nhận thức bản thân trên nền
tảng giai cấp của họ, từ đó hình thành mối quan hệ của họ với thành viên của giai cấp
khác. Mối quan hệ đối kháng của tầng lớp quản lý và người lao động, sự thiếu hợp tác,
chia rẽ lao động có xu hướng làm tăng chi phí sản xuất ở những quốc gia có sự phân


lOMoARcPSD|9242611


chia giai tầng. Từ đó, chi phí cao hơn có thể làm cho cơng ty có trụ sở tại quốc gia này
khó khăn hơn để tạo nên lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu.
2.2.

Hệ thống đạo đức và tơn giáo

Tơn giáo là những tín ngưỡng và lễ nghi mang ý nghĩa thiêng liêng trong đời
sống tâm linh được một cộng đồng cùng chia sẻ. Đồng thời, tôn giáo cũng phản ánh
nền văn minh và văn hóa của xã hội. Chẳng hạn như, các khái niệm về thiên đường,
địa ngục, về cuộc sống sau khi chết. Các khái niệm này ảnh hưởng đến các hành vi
của các tín đồ tôn giáo, họ sẽ tuân thủ theo các quy tắc của tín ngưỡng đó. Từ đó, hình
thành nên các hệ thống đạo đức tôn giáo.
Các tôn giáo thống trị thế giới:
1.

Cơ đốc giáo (hay cịn gọi là Kitơ giáo).

2.

Hồi giáo.

3.

Ấn Độ giáo.

4.

Phật giáo.


Ngoài ra, Nho giáo cũng ảnh hưởng đến hành vi và hình thành văn hóa ở một
số vùng của Châu Á.

Hình 5 Các tơn giáo trên thế giới

Nguồn: Vectorstock.com

Hệ thống đạo đức đề cập đến một tập hợp các nguyên tắc đạo đức, hoặc các giá
trị được sử dụng để hướng dẫn các hành vi. Hầu hết các hệ thống đạo đức trên thế giới

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

là sản phẩm của các tơn giáo.Tuy nhiên, cũng có một số hệ thống đạo đức không bắt
nguồn từ một tơn giáo nào đó.
Bên cạnh đó, một số học giả đã cho rằng mối quan hệ giữa tôn giáo và đạo đức
có tác động mạnh mẽ đến các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, khơng thể hồn tồn
nhận định sự tác động giữa các mối quan hệ đó. Ở một góc độ khác, có thể nhận thấy
tơn giáo có ảnh hưởng đến các hành vi, thái độ đối với công việc ở mỗi quốc gia khác
nhau. Hiện nay, có một số tôn giáo chiếm ưu thế trên thế giới như Cơ Đốc giáo, Hồi
giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo, Nho giáo.

2.2.1.

Cơ Đốc Giáo

Hình 6 Cơ đốc giáo


Là tơn giáo được áp dụng rộng rãi nhất trên thế giới với 2,4 tỷ tín đồ, chiếm
khoảng 20% dân số thế giới. Phần lớn sống ở châu Âu và châu Mỹ, đang có xu hướng
tăng nhanh ở châu Phi. Bắt nguồn từ Do Thái giáo, đây là một tôn giáo độc thần. Cơ
đốc giáo bao gồm ba nhánh chính: Thiên chúa giáo, Chính Thống giáo và Tin Lành.
Trong đó, một số nhà xã hội học lập luận rằng đạo Tin lành có những tác động
kinh tế quan trọng nhất. Năm 1904, nhà xã hội học người Đức, Max Weber đã đưa ra
liên hệ giữa đạo đức Tin lành và “tinh thần của chủ nghĩa tư bản”. Ông lập luận rằng
đạo đức Tin Lành nhấn mạnh tầm quan trọng của làm việc chăm chỉ, tạo ra của cải (vì
vinh quang của Đức Chúa trời) và sự thanh đạm (tiết chế những lạc thú ở thế gian). Sự
kết hợp của làm việc chăm chỉ và sự tích lũy vốn, được sử dụng để tài trợ cho đầu tư
và mở rộng sản xuất, đã mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu và
sau đó ở Hoa Kỳ. Sự đề cao tự do tôn giáo của cá nhân đã mở đường cho sự đề cao tự
do kinh tế, tự do chính trị và sự phát triển của chủ nghĩa cá nhân như là một triết lý
kinh tế và chính trị. Trong khi các quốc gia có truyền thống đạo Tin lành phát triển
như Anh, Đức, và Hoa Kỳ là những người dẫn đầu trong cuộc cách mạng cơng nghiệp,
thì các quốc gia có đa số người Thiên chúa giáo hay Chính thống giáo lại có hoạt động

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

kinh doanh bền vững, quan trọng và sự tăng trưởng kinh tế trong thế giới hiện đại.
2.2.2.

Hồi giáo

Hình 7 Hồi giáo

Là tôn giáo lớn thứ hai thế giới với khoảng 1,8 tỷ tín đồ. Người Hồi giáo

chiếm đa số ở hơn 35 quốc gia và sống ở dải đất tiếp giáp từ bờ biển phía Tây Bắc của
châu Phi, xuyên qua Trung Đông, đến Trung Quốc và Malaysia ở vùng Viễn Đông.
Bắt nguồn từ Do Thái giáo và Cơ đốc giáo, đây là một tôn giáo độc thần. Tư tưởng
trung tâm của Hồi giáo là chỉ có một Chúa trời có quyền năng vơ hạn. Hồi giáo là một
phương cách sống bao trùm tất cả các mặt đối với người Hồi giáo bởi các nguyên tắc
tôn giáo - quy tắc ứng xử cho các mối quan hệ cá nhân, trong các hoạt động kinh tế và
xã hội.
Chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan: Ở một số nước Hồi giáo, những người Hồi giáo
cực đoan đã đạt được quyền lực chính trị và sử dụng quyền lực này để biến luật của
Hồi giáo (như trong kinh Koran, là kinh thánh của đạo Hồi) thành luật của quốc gia.
Nó khơng chỉ là một tôn giáo mà cũng là nguồn gốc của pháp luật, hướng dẫn
để quản lý nhà nước và là trọng tài cho các hành vi xã hội. Từ đó, Hồi giáo đem lại
một số ý nghĩa về mặt kinh tế. Kinh Koran thiết lập một số nguyên tắc kinh tế rõ ràng,
và nhiều nguyên tắc trong số đó nói về doanh nghiệp tự do. Kinh Koran đồng tình với
những doanh nghiệp tự do và thu được lợi nhuận hợp pháp bằng thương mại.
Mối quan tâm của Hồi giáo với công bằng xã hội. Việc bảo đảm cho quyền sở
hữu tư nhân cũng được đề cập trong Hồi giáo, mặc dù Hồi giáo khẳng định rằng mọi
tài sản đều là đặc ân của thánh Allah (Chúa trời), những ai đang nắm giữ tài sản được
coi là người được ủy thác trông nom tài sản chứ không phải là chủ sở hữu theo nghĩa
của người phương Tây. Là người được ủy thác, họ có quyền nhận lợi nhuận từ tài sản
nhưng được khuyên nhủ sử dụng nó một cách chính đáng, mang lại lợi ích cho xã hội,
và khơn ngoan. Với khuynh hướng ủng hộ cơ chế thị trường, các quốc gia Hồi giáo dễ
tiếp nhận các Doanh nghiệp quốc tế, miễn là các doanh nghiệp đó hành xử theo cách

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

thức tương đồng với đạo đức của đạo Hồi. Nghiêm cấm việc thanh toán hoặc nhận

tiền lãi, vốn được xem là cho vay nặng lãi. Từ đó, thành lập những ngân hàng Hồi
giáo. các quỹ hỗ trợ, tổ chức tài chính bắt buộc tuân theo nguyên tắc của Hồi giáo.
Các ngân hàng này thử nghiệm, hai nghiệp vụ ngân hàng để kiếm lợi nhuận:
mudaraba và murabaha.
2.2.3.

Ấn Độ giáo

Hình 8 Ấn Độ giáo

Theo nhiều học giả nghiên cứu, Ấn Độ giáo là một trong những tôn giáo cổ xưa
nhất trên thế giới với nguồn gốc và tập tục có niên đại hơn 4.000 năm. Ngày nay, với
khoảng hơn 900 triệu tín đồ, Ấn Độ giáo là tôn giáo lớn thứ ba sau Thiên chúa giáo và
Hồi giáo. Không giống như Cơ Đốc giáo và Hồi giáo, nền tảng của Ấn Độ giáo khơng
gắn liền với một cá nhân cụ thể. Nó có nguồn gốc phức tạp, và kéo theo một chuỗi các
giáo lý cũng như hệ thống thần thánh. Các nghi thức và đức tin phong phú phản ánh
sự đa dạng to lớn của Ấn Độ, nơi mà có tới một tỷ tín đồ định cư ở đó. Ấn Độ giáo
cịn hơn cả một tơn giáo, nó là một nền văn hóa, một thói quen sống và một bộ quy tắc
ứng xử. Điều này được phản ánh trong một thuật ngữ người Ấn Độ dùng để miêu tả
Ấn Độ giáo: Sanatana Dharma, có nghĩa là niềm tin vĩnh cửu hay cách mà mọi thứ tồn
tại (chân lý). Ấn Độ giáo đã phát triển qua nhiều thế kỉ từ nhiều nguồn khác nhau: các
nghi thức văn hóa, kinh sách và trào lưu triết học, cũng như các tín ngưỡng phổ thơng.
Sự tổng hợp của những yếu tố trên giải thích cho sự đa dạng phong phú của nghi thức
và đức tin của nó. Ấn Độ giáo được phát triển từ các nguồn như nền văn minh thung
lũng Indus, văn hóa thời tiền sử và đồ đá mới hay các tín ngưỡng bản xứ của những
người tiền Vệ Đà của các vùng vệ tinh Ấn Độ.
Những lập luận của Max Weber về sự phát triển kinh tế do các yếu tố của Ấn
Độ giáo gây ra có phần tiêu cực và chỉ nên mang tính tham khảo. Weber là người nổi
tiếng với những giải thích chi tiết về đạo đức làm việc của đạo Tin lành, ông cho rằng


Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

các tư tưởng khổ hạnh trong Ấn Độ giáo không khuyến khích tinh thần khởi nghiệp
tạo ra của cải mà có thể thấy điều này ở đạo Tin lành. Theo Weber, các giá trị truyền
thống của Ấn Độ giáo nhấn mạnh rằng cá nhân được đánh giá không phải bởi những
thành tựu vật chất mà là những thành tựu tâm linh của họ. Từ đó mà ơng cho rằng
những tín đồ Ấn Độ giáo sẽ có ít khả năng tham gia vào các hoạt động kinh doanh.
Nhưng Mahatma Gandhi, nhà dân tộc học và nhà lãnh đạo tinh thần nổi tiếng
người Ấn Độ lại mang yếu tố tích cực. Ơng là hiện thân rõ ràng của chủ nghĩa khổ
hạnh Ấn Độ giáo. Gandhi có lập luận cho rằng các giá trị của chủ nghĩa khổ hạnh và
sự tự chủ mà ông chủ trương đã có một tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế của Ấn
Độ sau độc lập. Ấn Độ hiện đại là một xã hội kinh doanh rất năng động và hàng triệu
doanh nhân làm việc chăm chỉ. Họ là xương sống cho nền kinh tế đang phát triển
nhanh chóng nơi đây.
Trong lịch sử, Ấn Độ giáo có tầm ảnh hưởng rất lớn trong hệ thống đẳng cấp
của Ấn Độ. Tôn giáo này xem khả năng thay đổi địa vị cá nhân giữa các đẳng cấp chỉ
có thể đạt được thông qua sự tiến triển về tinh thần và kiếp luân hồi. Một cá nhân có
thể được tái sinh vào một đẳng cấp cao hơn trong cuộc sống tiếp theo nếu người ấy đạt
được sự phát triển về yếu tố tinh thần ở cuộc sống này. Theo các nhà quan sát, mặc dù
hệ thống này đã được bãi bỏ nhưng nó vẫn cịn đọng lại tàn dư trong cuộc sống của
người Ấn Độ.
Ví dụ: Trong một tổ chức kinh doanh, các cá nhân có năng lực tốt tìm thấy
được con đường để phát triển lên một cấp cao hơn trong tổ chức nhưng bị chặn lại chỉ
vì họ có xuất thân từ đẳng cấp thấp. Tương tự, những người dễ dàng thăng tiến đến
những vị trí cao trong cơng ty phần nhiều vì nền tảng đẳng cấp chứ khơng phải năng
lực mà họ có.


Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

2.2.4.

Phật giáo

Hình 9 Phật giáo

Ngày nay,với 400 triệu tín đồ, hầu hết ở Trung Á, Đông Nam Á, Trung Quốc,
Hàn Quốc và Nhật Bản thì Phật giáo trở thành tơn giáo lớn thứ tư trên thế giới. Người
sáng lập ra đạo Phật là Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha Gautama) sinh năm 624 trước
cơng ngun thuộc dịng họ Thích Ca (Sakyà), con vua Tịnh Phạn Vương Đầu Đà Na
(Suddhodana) trị vì nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) xứ Trung Ấn Độ lúc đó và hồng
hậu Ma Da (Maya). Dù sống trong cuộc đời vương giả nhưng Thái tử vẫn nhận ra sự
đau khổ của nhân sinh, vô thường của thế sự nên Thái tử đã quyết tâm xuất gia tìm
đạo nhằm tìm ra căn nguyên của đau khổ và phương pháp diệt trừ đau khổ để giải
thoát khỏi sinh tử luân hồi. Sau nhiều năm tìm thầy học đạo, Thái Tử nhận ra rằng
phương pháp tu hành của các vị đó đều khơng thể giải thốt cho con người hết khổ
được. Cuối cùng, Thái tử đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ đề và thề rằng “Nếu Ta
không thành đạo thì dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ
này”. Sau 49 ngày đêm thiền định, Thái tử đã đạt được Đạo vô thượng, thành bậc
“Chánh đẳng chánh giác”, hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài được biết như Đức
Phật (nghĩa là “người thức tỉnh”).
Tư tưởng chủ đạo của đạo Phật là dạy con người hướng thiện, có tri thức để
xây dựng cuộc sống tốt đẹp yên vui trong hiện tại. Thái tử Siddhartha chỉ ra một con
đường chuyển đổi đó là Bát Chánh Đạo. Ở đây nhấn mạnh đến suy niệm chân chính,
suy nghĩ lời nói và cả hành động đều phải thực sự chân chính. Đạo Phật khơng cơng

nhận có một đấng tối cao chi phối đời sống của con người, không ban phúc hay giáng
họa cho ai mà trong cuộc sống mỗi người đều phải tuân theo luật Nhân - Quả, làm
việc thiện thì được hưởng phúc và làm việc ác thì phải chịu báo ứng. Một điểm tiến bộ
của Phật giáo so với Ấn Độ giáo là họ không ủng hộ hệ thống đẳng cấp hay việc hành

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

vi cực kỳ khổ hạnh mà Ấn Độ giáo khuyến khích. Tuy nhiên, Phật giáo vẫn nhấn
mạnh về thế giới bên kia và thành tựu về tinh thần giống như Ấn Độ giáo.
Nếu như trong đạo Tin lành có tư tưởng nhấn mạnh việc tạo ra của cải vật chất
thì Phật giáo lại khơng có bất cứ chương nào nói về kinh tế. Nhưng tìm hiểu và đọc kỹ
lời dạy của Đức phật có thể thấy tác động của Phật giáo với kinh tế là khá lớn. Đoạn
kinh ngắn dưới đây về lời dạy của Đức Phật đã bao hàm một triết lý kinh tế. Theo
Phật giáo, chính sách phát triển kinh tế dựa trên bốn nguyên tắc quan trọng sau: Thứ
nhất, những thứ có liên quan tới sản xuất kinh tế, đặc biệt là nông nghiệp và công
nghiệp phải được cung cấp cho người dân như: hạt giống, gia súc, phân bón, đất canh
tác, nước tưới tiêu, dụng cụ, … Nói tóm lại, rất cần những hoạt động hỗ trợ sản xuất
như vậy của nhà nước. Thứ hai, khuyến khích giao thương bn bán vì chúng mang
lại lợi nhuận cho đất nước. Nhà nước phải giám sát sự giao thương bn bán này để
có thể bảo vệ lợi ích của người lao động và người tiêu dùng. Thứ ba, những quan chức
cũng như các chuyên gia phục vụ đất nước phải có những chế độ đãi ngộ thích đáng
như lương bổng, thăng chức, nghỉ phép, khích lệ hay những đặc quyền khác để họ
phấn đấu cống hiến hết sức mình cho cơng việc. Khơng được tạo điều kiện để họ tham
nhũng, hối lộ cũng như bỏ bê công việc của mình. Cuối cùng, nhà nước nên ủng hộ và
khuyến khích mọi người tham gia vào các lĩnh vực phát triển tinh thần.
2.2.5.


Nho giáo

Hình 10 Nho giáo

Nho giáo được K'ung-Fu-tzu sáng lập vào thế kỷ thứ năm trước Công nguyên,
thường được gọi là Khổng Tử. Trong hơn 2.000 năm cho đến cuộc cách mạng cộng
sản năm 1949, Nho giáo là hệ thống đạo đức chính thức của Trung Quốc. Trong khi
việc tuân thủ đạo đức Nho giáo đã bị suy yếu ở Trung Quốc kể từ năm 1949, hơn 150
triệu người vẫn tuân theo những lời dạy của Khổng Tử, chủ yếu ở Trung Quốc, Hàn
Quốc và Nhật Bản. Nho giáo dạy tầm quan trọng của việc đạt được sự cứu rỗi cá nhân

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

thông qua hành động đúng đắn. Nho giáo được xây dựng dựa trên một quy tắc đạo
đức toàn diện đặt ra các nguyên tắc cho mối quan hệ với những người khác. Nhu cầu
về hành vi đạo đức và đạo đức cao và lòng trung thành với người khác là trọng tâm
của Nho giáo.
Nho giáo là một hệ thống đạo đức chính thức của Trung Quốc và để lại dấu ấn
sâu đậm trong nền văn hóa ở đây. Nho giáo khác so với các tơn giáo khác, thay vì đề
cao các yếu tố siêu nhiên thì Nho giáo giảng dạy con người về tầm quan trọng của
việc tự cứu lấy mình thơng qua những hành động chuẩn mực. Trong đó, Nho giáo
quan niệm rằng con người và vạn vật trời đất đều có tương thơng với nhau, mọi việc
đều phải lấy thực nghiệm để chứng minh và lấy trực giác và năng khiếu để tìm hiểu
làm rõ vạn vật.
Một số học giả cho rằng, Nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế của
một số quốc gia dựa vào ba giá trị trung tâm là lòng trung thành, nghĩa vụ có qua có
lại, và trung thực trong các giao dịch với người khác.

Trên lĩnh vực kinh tế, lòng trung thành trong tư tưởng Nho giáo phản ánh lòng
trung thành của nhân viên đối với cấp trên. Nếu đối với xã hội phong kiến, quan niệm
“trung với vua” là nghĩa vụ của mỗi người dân, thì ở đây lịng trung thành đối với cấp
trên cũng là một điều bắt buộc đối với các doanh nghiệp dựa trên tư tưởng Nho giáo
tuy nhiên đây khơng phải là lịng trung thành một cách mù quáng. Điều này có thể làm
giảm sự mâu thuẫn giữa nhân viên và các nhà quản lý. Đồng thời, nâng cao năng suất
và gắn kết mối quan hệ giữa các nhân viên trong cơng ty. Từ đó, góp phần giảm chi
phí cho các doanh nghiệp dựa vào hệ thống lý luận này. Bởi, doanh nghiệp sẽ không
tốn nhiều chi phí để tổ chức các hoạt động gắn kết các nhân viên, các tầng lớp với
nhau. Bên cạnh đó, cùng với sự hợp tác, tin tưởng lẫn nhau sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả cơng việc. Nhân viên sẽ cùng với các cấp lãnh đạo cùng nhau phấn đấu để giúp
doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn.
Bên cạnh đó, Nho giáo là trung tâm cho khái niệm guanxi của Trung Quốc,
trong đó đề cập đến mạng lưới mối quan hệ được xây dựng từ những nghĩa vụ có qua
có lại. Ngày nay, người Trung Quốc ni dưỡng một guanxiwang - mạng lưới các mối
quan hệ để hỗ trợ lẫn nhau. Mạng lưới này kết nối những người cùng nhau chia sẻ

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

những bản sắc chung. Chẳng hạn như, hội đồng hương, câu lạc bộ, hội kinh doanh.
Trong mạng lưới xã hội này, các thành viên sẽ giúp đỡ nhau và mối quan hệ có qua có
lại là chất gắn kết mạng lưới quan hệ này. Trong guanxiwang nói riêng và trong các
cộng đồng nói chung, nếu một người khơng thực hiện quan niệm có qua có lại thì chắc
hẳn sẽ khơng nhận được sự giúp đỡ của mạng lưới trong những lần sau. Trong kinh
doanh, điều này được thể hiện thông qua các mạng lưới cộng tác, đối tác giữa các
doanh nghiệp với nhau. Từ đó, duy trì và phát triển các mối quan hệ trong mạng lưới.
Một giá trị khác cũng quan trọng khơng kém, chính là lịng trung thực. Các nhà

tư tưởng Nho giáo nhấn mạnh rằng, mặc dù hành vi khơng trung thực có thể mang lại
lợi ích ngắn hạn cho người vi phạm nhưng sự thiếu trung thực khơng mang lại lợi ích
trong dài hạn. Dù tn theo bất kỳ tơn giáo nào thì sự trung thực vẫn luôn là giá trị
được đề cao trong mọi trường hợp và giá trị này có ý nghĩa rất lớn trên lĩnh vực kinh
tế. Khi các công ty tin tưởng lẫn nhau để không phá vỡ nghĩa vụ của hợp đồng sẽ làm
giảm phí tổn thất của các doanh nghiệp trong kinh doanh. Đồng thời, doanh nghiệp
cũng không tốn các chi phí “đắt đỏ” thuê luật sư giải quyết các tranh chấp cũng không
cần thiết. Trong xã hội Nho giáo, người ta dễ dàng uỷ thác nguồn lực lớn để hợp tác
liên doanh hơn là trong xã hội thiếu sự trung thực. Khi các công ty tuân thủ đạo đức
Nho giáo, họ có thể tin tưởng lẫn nhau để khơng vi phạm các điều khoản đã thỏa
thuận. Như vậy, chi phí để đạt được sự hợp tác giữa các cơng ty trong các xã hội
Trung Quốc, Nhật Bản thấp hơn so với các xã hội ít có sự tin tưởng lẫn nhau.
Ví dụ, cơng ty Toyota tại Nhật Bản đã xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa
công ty và các nhà cung cấp phụ tùng dựa trên mối quan hệ niềm tin và tương trợ lẫn
nhau. Đặc biệt, công ty đã xây dựng nên một chuỗi cung ứng có hiệu quả về chi phí.
Cơng ty cho phép các nhà cung cấp cùng tham gia vào các quá trình sản xuất, thiết kế
sản phẩm và ln duy trì sự chia sẻ thơng tin ở mức cao nhất. Từ đó, giúp giảm thời
gian cho giai đoạn thiết kế, phát triển cũng như khi đưa vào sản xuất. Bên cạnh đó,
Toyota cịn sắp xếp nhân viên của mình sang hỗ trợ nhà cung cấp. Từ đó, xây dựng
được mối quan hệ hợp tác lâu dài dựa trên niềm tin và hợp tác. Đây sẽ là một thế
mạnh cho Toyota khi cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

2.3.

Ngôn ngữ


Sự khác biệt giữa các quốc gia là ngôn ngữ. Trong ngơn ngữ có 2 loại: ngơn
ngữ nói và ngôn ngữ cử chỉ. Ngôn ngữ là một trong những đặc điểm để xác định của
một nền văn hóa.
2.3.1. Ngơn ngữ nói
Ngơn ngữ định hình cách con người nhận thức về thế giới, và nó cịn giúp xác
định văn hóa. Các quốc gia có nhiều hơn một ngơn ngữ thường có nhiều hơn một nền
văn hóa. Canada có văn hóa nói tiếng Anh và văn hóa nói tiếng Pháp. Có sự căng
thẳng gây gắt giữa hai bên, một phần nhỏ nói tiếng Pháp yêu cầu sự độc lập từ Canada
“bị chi phối bởi người nói tiếng Anh”. Hiện tượng này cũng thấy nhiều ở các nước
khác. Bỉ cũng bị chia thành những người nói tiếng Flemish và tiếng Pháp, và cũng có
sự căng thẳng giữa hai bên, trên đảo Mediterranean thuộc Địa Trung Hải, những cư
dân nói tiếng Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ trên đảo xảy ra xung đột trong những năm 1970,
và hiện nay đảo được phân chia thành hai phần. Mặc dù không nhất thiết phải tuân
theo sự khác biệt về ngôn ngữ để tạo ra sự khác biệt về văn hóa để tạo nên áp lực ly
khai (ví dụ như sự hịa hợp ở Thụy Sĩ, nơi có bốn ngơn ngữ được nói)
Bởi vì ngơn ngữ hình thành cách thức con người nhìn nhận thế giới, nó cũng
giúp xác định nền văn hóa, việc này đồng nghĩa với những quốc gia nào có nhiều hơn
một ngơn ngữ thường có nhiều hơn một nền văn hóa. Điển hình, trên hịn đảo Síp ở
Địa Trung Hải, sự phân chia văn hố giữa nhóm người nói tiếng Hy Lạp và nhóm
người nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ bắt nguồn từ cuộc xung đột vào những năm 1970, và đến
nay hòn đảo hiện được chia thành hai phần.
Tuy không hẳn sự khác biệt về ngôn ngữ sẽ dẫn đến sự khác biệt về văn hóa (ví
dụ Thụy Sĩ là quốc gia rất hồ hợp với bốn ngơn ngữ), tuy nhiên cũng có xu thế theo
hướng phân lập. Có câu “Mặt trời không bao giờ lặn trên đất nước Anh”, bởi lẽ Anh
có rất nhiều thuộc địa, chính vì vậy, những quốc gia từng là thuộc địa của Anh thì
ngồi ngơn ngữ của mình ra, họ cịn nói cả tiếng Anh. Ví dụ, Ấn Độ là một quốc gia
châu Á, song tiếng Anh lại là một trong hai ngơn ngữ chính thức của Ấn Độ cùng với
tiếng Hindi. Tiếng Anh được xem như một ngơn ngữ có thể góp phần thúc đẩy kinh tế


Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

cũng như cải thiện vị thế của Ấn Độ trên trường quốc tế. Tiếng Anh ngày càng trở
thành ngôn ngữ trong kinh doanh quốc tế. Khi một doanh nhân người Việt và người
Đức gặp nhau, gần như chắc chắn rằng họ sẽ giao tiếp bằng tiếng Anh.
Tiếng Trung Quốc là tiếng mẹ đẻ của số lượng người lớn nhất, tiếp theo đó là
tiếng Anh và tiếng Hindi (được nói ở Ấn Độ). Tuy nhiên, ngơn ngữ được nói phổ biến
nhất trên thế giới là tiếng Anh, tiếp theo là tiếng Pháp, Tây Ban Nha và Trung quốc
(nhiều người dùng tiếng Anh như một ngôn ngữ thứ 2). Tiếng Anh trở thành ngôn ngữ
dùng trong kinh doanh quốc tế. Khi một doanh nhân Nhật Bản và một doanh nhân
Người Đức cùng nhau kinh doanh, gần như chắc chắn rằng họ sẽ giao tiếp bằng tiếng
Anh. Mặc dù tiếng Anh được sử dụng rộng rãi, việc học ngôn ngữ địa phương mang
lại những lợi thế đáng kể. Hầu hết mọi người thích trị chuyện bằng ngơn ngữ của họ,
và có thể nói ngơn ngữ địa phương có thể xây dựng mối quan hệ, điều này có thể rất
quan trọng đối với một thỏa thuận kinh doanh. Các doanh nghiệp quốc tế không hiểu
ngơn ngữ địa phương có thể mắc những sai lầm lớn thông qua việc dịch thuật không
đúng cách.
2.3.2. Ngôn ngữ cử chỉ
Ngôn ngữ cử chỉ là khi con người sử dụng các tín hiệu phi ngơn ngữ để giao
tiếp với nhau. Ví dụ, nhướng mày được hiểu là khi người ta nhận ra một điều gì mới,
nụ cười được hiểu là niềm vui. Tuy nhiên, nhiều tín hiệu phi ngơn ngữ bị ràng buộc về
mặt văn hóa. Việc khơng hiểu các tín hiệu phi ngơn ngữ của một nền văn hóa khác có
thể dẫn đến thất bại trong giao tiếp. Ví dụ, làm một vịng trịn bằng ngón tay cái và
ngón trỏ là một cử chỉ thân thiện ở Hoa Kỳ, nhưng đó là một lời mời thơ tục ở Hy Lạp
và Thổ Nhĩ Kỳ. Tương tự như vậy, trong khi hầu hết người Mỹ và người châu u sử
dụng cử chỉ giơ ngón tay cái lên để chỉ ra rằng "mọi thứ ổn", ở Hy Lạp, cử chỉ này là
tục tĩu.

Một khía cạnh khác của giao tiếp phi ngơn ngữ là khơng gian cá nhân, đó là
khoảng cách phù hợp giữa bạn và người bạn đang nói chuyện. Tại Hoa Kỳ, khoảng
cách thông thường trong một cuộc thảo luận kinh doanh là từ 5 đến 8 bàn chân. Ở
Châu Mỹ Latinh, khoảng cách này là từ 3 đến 5 bàn chân. Do đó, nhiều người Bắc Mỹ

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

vô thức cảm thấy rằng người Mỹ Latinh đang xâm chiếm không gian cá nhân của họ
và họ lùi lại. Khi đó người Mỹ cảm thấy người Latinh rất hung hăng, cịn người
Latinh có thể giải thích cho việc lùi lại mang ý nghĩa xa cách. Kết quả có sự hiểu lầm
khơng đáng có trong cuộc trao đổi kinh doanh giữa hai doanh nhân từ các nền văn hóa
khác nhau này.
2.4.

Giáo dục

Giáo dục là một quá trình được tổ chức, lên kế hoạch cụ thể và rõ ràng nhằm
khơi gợi, thay đổi và phát triển thêm thái độ, kiến thức, nhân thức, năng lực của cả
người truyền thụ và người tiếp nhận kiến thức. Giáo dục được coi là thành công khi
những khơi gợi, thay đổi và phát triển kể trên đi theo hướng tích cực. Thơng qua việc
giáo dục giữa người với người, giáo dục dần trở thành nền tảng để phổ biến và truyền
thụ văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Giáo dục là phương pháp chỉ dạy được thực hiện một cách chuyên biệt hơn,
thông qua nhà trường, thông qua các đơn vị xã hội. Thông thường trường học dạy các
thực tế cơ bản về bản chất xã hội và chính trị. Trường học cũng tập trung vào dạy các
nghĩa vụ cơ bản của công dân, chuẩn mực văn hóa, tơn trọng người khác, vâng lời cấp
trên, trung thực, ngăn nắp, đúng giờ, …

Giáo dục mang lại việc góp phần nâng cao dân trí. Mỗi quốc gia, mỗi khu vực
đều được đánh giá trình độ phát triển thơng qua trình độ dân trí. Dân trí cao thể hiện
được khả năng phát triển lớn. Nền kinh tế hiện đại là nền kinh tế tri thức, mà tri thức
lại chính là sản phẩm của giáo dục. Sở hữu tri thức chính là nắm trong tay sức mạnh
tối cao để được các nước trên thế giới thừa nhận và bảo hộ. Nguồn lực để phát triển
đất nước đã chuyển từ tài nguyên thiên nhiên, sức lao động tay chân sang nguồn lực
tri thức, sử dụng tri thức và phát triển dựa trên trí tuệ.
Giáo dục cung cấp nguồn nhân lực có trình độ góp phần phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia. Giáo dục xây dựng đội ngũ lao động có trình độ chun mơn, tay nghề
cao. Tạo ra nhân lực có trình độ cao góp phần quan trọng phát triển khoa học công
nghệ là yếu tố quyết định của kinh tế tri thức của một quốc gia.
Ví dụ, ở đất nước mà hơn 70 phần trăm dân số không biết chữ chắc hẳn không

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

phải là thị trường tốt để bán các loại sách thơng thường. Loại hình quảng cáo chứa các
mơ tả bằng văn bản của các sản phẩm sản xuất hàng loạt trên thị trường dường như
khơng có tầm ảnh hưởng trong một đất nước mà gần ba phần tư dân số khơng biết
đọc. Trong hồn cảnh như vậy tốt hơn là nên sử dụng các chương trình khuyến mãi
bằng hình ảnh.
Giáo dục không chỉ là yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh mà còn là yếu tố để
các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cân nhắc khi lựa chọn nơi, địa điểm để đầu tư.
Ngồi ra, trình độ học vấn của một quốc gia cũng có thể là một chiến lược cho các
doanh nghiệp biết loại sản phẩm nào có thể bán tại đất nước đó và nên sử dụng loại
hình quảng cáo nào.
Vì vậy, Giáo dục chính là chìa khóa để mở ra cánh cửa đến với tương lai tốt
đẹp mà ở đó, con người được phát triển tồn diện, kinh tế được đẩy mạnh, xã hội ngày

càng văn minh, quốc gia ngày một bền vững hơn.
3. Văn hóa nơi làm việc
Ảnh hưởng của văn hóa xã hội đến giá trị tại nơi làm việc có tầm quan trọng rất
lớn đối với doanh nghiệp kinh doanh quốc tế hoạt động ở nhiều quốc gia khác nhau.
Quy trình và việc thực hiện cơng tác quản lý có thể phải thay đổi tùy theo giá trị về
văn hóa liên quan đến cơng việc. Ví dụ, nếu nền văn hóa của Hoa Kỳ và Pháp có các
giá trị liên quan đến cơng việc khác nhau, một doanh nghiệp kinh doanh quốc tế hoạt
động ở cả hai quốc gia này nên thay đổi quy trình và phương thức quản lý của mình để
dung hịa những sự khác biệt đó.
Hofstede đưa ra bốn tiêu chí mà ơng cho rằng có thể khái qt hố các nền văn
hóa khác nhau:
- Tiêu chí Khoảng cách quyền lực nhấn mạnh vào cách xã hội đối phó với thực
tế là mọi người khơng bình đẳng về năng lực thể chất và năng lực trí tuệ. Theo
Hofstede, những nền văn hóa có khoảng cách quyền lực cao được tìm thấy ở những
quốc gia có tình trạng bất bình đẳng tăng theo thời gian, trong đó có bất bình đẳng về
quyền lực và bất bình đẳng giàu nghèo. Nền văn hóa có khoảng cách quyền lực thấp

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

có ở các xã hội cố gắng làm giảm tình trạng bất bình đẳng càng nhiều càng tốt.
- Tiêu chí chủ nghĩa cá nhân so với chủ nghĩa tập thể nhấn mạnh vào mối quan
hệ giữa cá nhân với cộng sự của mình. Trong các xã hội đề cao tính cá nhân, mối quan
hệ giữa các cá nhân lỏng lẻo, thành tựu cá nhân và tự do cá nhân được đánh giá cao.
Trong các xã hội đề cao tính tập thể, mối quan hệ giữa các cá nhân rất chặt chẽ. Trong
những xã hội như thế, con người được sinh ra trong tập thể, như trong các đại gia
đình, và mỗi người đều quan tâm đến quyền lợi chung của tập thể.
- Tiêu chí thái độ đối với rủi ro đo lường mức độ thành viên trong các nền văn

hóa khác nhau cảm thấy thoải mái hay không thoải mái khi gặp các tình huống gây
nhập nhằng, khó xử và khơng chắc chắn. Trong các nền văn hóa né tránh rủi ro cao,
con người thường quan tâm nhiều đến việc đảm bảo cơng việc, mơ hình nghề nghiệp,
trợ cấp hưu trí, v.v... Họ địi hỏi nhiều các quy tắc và quy định; người quản lý được kỳ
vọng phải đưa ra các hướng dẫn rõ ràng, và cấp dưới thực hiện được kiểm sốt chặt
chẽ. Trong các nền văn hóa ít né tránh rủi ro, con người sẵn sàng chấp nhận rủi ro hơn
và ít bị tác động về mặt cảm xúc khi đối mặt với sự thay đổi.
- Tiêu chí chú trọng thành tích (nam tính) hay chú trọng chất lượng cuộc sống
(nữ tính) xem xét mối quan hệ về giới và vai trò tại nơi làm việc. Trong các nền văn
hóa nam tính, giới tính có vai trị phân biệt rõ nét và xã hội nhấn mạnh đến các “giá trị
nam tính” truyền thống như các thành tựu cá nhân đạt được và việc thực thi quyền lực.
Trong nền văn hóa nữ tính, giới tính có vai trị phân biệt ít hơn và sự phân biệt giữa
nam và nữ trong cùng một công việc là rất thấp.
Hofstede đưa ra các chỉ số cho bốn tiêu chí trong khoảng từ 0 đến 100 và điểm
số cao cho chủ nghĩa cá nhân cao, khoảng cách quyền lực cao, né tránh rủi ro cao, và
mức độ nam tính cao. Ơng tính trung bình các chỉ số cho tất cả các nhân viên trong
một quốc gia. Bảng 4.1 tóm tắt dữ liệu của 20 quốc gia được chọn. Các quốc gia
phương Tây đạt điểm cao ở thước đo chủ nghĩa cá nhân và đạt điểm thấp ở thước đo
khoảng cách quyền lực. Ở thái cực khác là nhóm các nước châu Mỹ Latinh và châu Á
nhấn mạnh tính tập thể hơn là tính cá nhân và điểm số cao ở thước đo khoảng cách
quyền lực. Riêng nền văn hóa Nhật Bản có thái độ né tránh rủi ro cao và nam tính cao.

Downloaded by tran quang ()


×