Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Tài liệu "Đã tìm ra những lỗ hổng trong quản lý kinh tế" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.23 KB, 5 trang )

"Đã tìm ra những lỗ hổng trong quản lý kinh tế"
(VietNamNet) - Chiều nay cuộc họp báo chuyên đề đầu tiên đã diễn ra tại Trung tâm báo
chí với chủ đề: “Thành tựu kinh tế xã hội của 20 năm đổi mới, kế hoạch kinh tế xã hội
2006-2010”. Chủ trì cuộc họp báo là ông Trần Đình Khiển, thứ trưởng Bộ KH&ĐT.

Làm gì để thoát khỏi tình trạng kém phát triển?

- Xin ông cho biết thời hạn cụ thể để “sớm” đưa nước ta ta khỏi
tình trạng kém phát triển?

- Không phải tại đại hội lần này mà từ nghị quyết của ĐH IX Đảng Cộng
sản Việt Nam đã nêu đến năm 2020 nước ta cơ bản sẽ là một nước
công nghiệp. Cho nên mục tiêu 5 năm 2006-2010 là một lộ trình để đạt
được những mục tiêu đó, còn tiêu chí thế nào là một nước công nghiệp
thì hiện nay vẫn đang có những tranh luận sôi nổi để làm rõ.
- Chúng ta thường bị một tầm nhìn ngắn che mắt trong các quy hoạch,
kế hoạch, trong kế hoạch kinh tế xã hội lần này chúng ta có thể khắc
phục được điều đó hay không?
- Quy hoạch và kế hoạch là những vấn đề rất quan trọng, có
chuyện chúng ta thấy ngay, có chuyện chúng ta phải dự thảo. Ví
dụ như chuyện trong 5 năm tới giá cả xăng dầu, thị trường sẽ như
thế nào là những phần còn biến động. Cho nên chất lượng này còn phụ thuộc vào chất
lượng của dự báo. Trong tư tưởng chỉ đạo thì rõ ràng phải có tầm nhìn dài hạn, chính vì
vậy Chính phủ đã chỉ đạo những quy hoạch nào thấy chưa ổn là phải điều chỉnh và rà soát
lại các quy hoạch.

Vậy tầm nhìn cao hơn là những vấn đề gì, nếu chuyên gia trong nước chúng ta chưa nhìn
thấy hết thì Chính phủ cho phép mời chuyên gia nước ngoài, quốc tế hỗ trợ. Vấn đề ở chỗ
chúng ta phát hiện được những vấn đề nào mà chúng ta chưa thấy hết. Đây không chỉ là
trí tuệ của các cán bộ làm quy hoạch mà là trí tuệ của toàn dân.
- Báo cáo của Ban chấp hành TƯ nêu “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong


khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại”. Ông có thể nói rõ hơn về nguy cơ này đang tồn tại như thế
nào?
- Dự thảo lần này đề cập đến vấn đề này, chúng tôi thấy rằng nguy cơ thì chúng ta đã nêu ra
nhưng giải pháp để thực hiện để làm sao khắc phục được nguy cơ đó. Đó là mục tiêu cần cụ thể
hóa trong chương trình cũng như kế hoạch của năm nay và những năm tới, trong đó về kinh tế
chúng tôi cũng đã nêu phát triển kinh tế là dựa trên những chỉ tiêu như thế nào.
- Tình trạng thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản, dàn trải trong quản lý đầu tư đang là điểm
nóng, ông có thể cho biết các biện pháp hạn chế?
- Về vấn đề dàn trải quản lý đầu tư chúng ta đã có những bài học cụ thể. Từ nhiều năm
nay, Chính phủ luôn luôn có những chỉ đạo để nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư. Ví dụ
gần đây năm 2003, Chính phủ đã có chỉ thị 29 về nâng cao chất lượng quy hoạch và tăng
cường kỷ cương quản lý trong đầu tư.

Ông Trần Đình Khiển, thứ
trưởng Bộ KH&ĐT tại buổi họp
báo.
1
Năm 2005, Chính phủ có chỉ thị 21 về rà soát điều chỉnh các quy hoạch và nhất là những
dự án không hiệu quả thì không triển khai. Phân cấp trong quản lý đầu tư xây dựng cơ
bản là trách nhiệm của các ngành, các cấp và địa phương trong quản lý. Ở đây chúng tôi
không nói liên quan đến vốn ngân sách nhà nước mà Chính phủ đã có những chỉ đạo và
đã thực hiện.

Đặc biệt trong những năm gần đây, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra các dự án lớn, có dấu hiệu tiêu cực. Trong đó có liên quan đến vụ
PMU 18, các cấp, các ngành đang phải làm rõ trách nhiệm của từng nơi, một số đã bị báo
chí nêu tên, còn lại qua thanh, kiểm tra của các ngành sẽ làm rõ hơn việc này. Về phần
Bộ KH&ĐT, theo nghị định về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.

Trước đây chúng ta quan tâm nhiều đến việc phân bổ đúng mục tiêu mà chưa đánh giá

đúng mức việc quản lý giám sát. Từ năm 2002, thực hiện điều 20 của nghị định về quản
lý đầu tư xây dựng thì Bộ KH&ĐT đã có vụ chuyên về thẩm định và giám sát đầu tư. Từ
năm 2003 thì có thanh tra về đầu tư kế hoạch.

Tất nhiên việc làm này cần có sự kết hợp từ cơ sở, với cộng đồng. Chính vì thế Bộ
KH&ĐT đã trình Thủ tướng và Chính phủ đã ban hành Quy chế giám sát cộng đồng.
Hiện nay chúng ta đã phân quyền cho bộ trưởng và các địa phương quản lý các công trình
không có hiệu quả và bố trí phân tán.
- Ông cho biết về quy mô huy động vốn đầu tư trong 5 năm tới?
- Cần khẳng định có tốc độ tăng trưởng cao thì phải huy động vốn đầu tư lớn hơn. Ví dụ
đầu tư trực tiếp nước ngoài trong năm qua đã huy động vốn đăng ký 5,89 tỷ USD- cao
hơn 40% so với năm 2004. Và mục tiêu sắp tới là phải huy động cao hơn từ tất cả các
nguồn vốn nước ngoài, tư nhân và nhà nước… việc này đã được xác định trong cơ cấu
kinh tế.

Huy động là một phần nhưng làm thế nào để sử dụng nguồn vốn đó một cách hiệu quả,
đặc biệt là các dự án của Nhà nước, cần giải quyết chống
thất thoát lãng phí trong quản lý đầu tư.
Ưu tiên phát triển kinh tế

- Theo ông làm thế nào để giảm tối đa sự can thiệp hành
chính vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp?
- Đây là chủ trương mà trong tư tưởng chỉ đạo đã hình
thành từ Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và các luật
khác có liên quan. Doanh nghiệp làm theo luật pháp,
tránh tình trạng can thiệp hành chính trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động của các doanh
nghiệp.

Các phóng viên nước ngoài rất quan tâm
đến việc xử lý tiêu cực trong kinh tế.

2
Các doanh nghiệp Nhà nước thời gian tới sẽ chuyển sang hoạt động theo hình thức công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc là công ty cổ phần. Đấy là biện pháp để giảm
hoặc chặn hẳn sự can thiệp hành chính vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Xóa bỏ hình thức phân biệt giữa các thành phần kinh tế, nhưng thực tế hiện nay là vẫn còn, vậy
làm thế nào để tạo ra sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp?
- Tôi thống nhất ý kiến này, những văn bản nhà nước đã thực hiện cấm triệt để chuyện
này, ví dụ chuyện những năm trước có phân biệt từ vé máy bay đến chi phí dịch vụ…
hiện nay đã bị xóa bỏ. Trên thực tế ở các cấp, các ngành hoặc các địa phương còn những
chuyện này chủ yếu là do công tác điều hành, ví dụ như chuyện mặt bằng sản xuất chúng
tôi biết vẫn còn có nhiều khó khăn.

Còn tôi nhấn mạnh trong cơ chế chính sách của nhà nước là không có sự phân biệt, hiện
nay Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp đã ban hành, sắp tới ngày 1.7.2006 các luật này sẽ
có hiệu lực. Chúng tôi cùng các ban, ngành đang hoàn thành các nghị định để cụ thể hóa.
Thủ tướng cũng thường xuyên có các cuộc gặp mặt các doanh nghiệp để tháo gỡ các khó
khăn, vướng mắc.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 7,5-8% có đủ tin cậy không và biện pháp thực hiện như thế nào?
- Có đại biểu nêu ra rằng năm 2005 chúng ta đã tăng trưởng 8,4% tại sao 5 năm tới lại xác định
thụt đi như thế? Xin thưa đây là tính toán thực tế từ những năm qua. Thứ 2 là cần nhìn vào việc
huy động các nguồn lực trong các thành phần kinh tế và các nguồn lực xã hội. Đặc biệt chúng ta
coi trọng phát triển nguồn nhân lực và tạo điều kiện cho kết cấu hạ tầng, nhân tố nước ngoài
không thể thay chúng ta chuyện này. Thì đây là những cái gốc để đặt ra mức tăng trưởng trên, và
đó là hoàn toàn khả thi.

- Thưa ông, việc ban hành Luật Đầu tư có gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong nước hay
không?
- Không có khó khăn gì cả, khi Luật Đầu tư hình thành chúng tôi cũng tiếp tục tiếp xúc với các
nhà đầu tư trong nước và không nhận được phàn nàn nào. Các nhà đầu tư trong nước dưới 15 tỉ
đồng thì không phải đăng ký đầu tư trừ lĩnh vực nào đầu tư có điều kiện thôi, còn từ 15-300 tỉ

đồng khi đó mới đăng ký đầu tư. Và kể cả trong trường hợp nhà đầu tư cần có giấy chứng nhận
về ưu đãi đầu tư thì nhà nước sẽ cấp.
- Ông có nhận định gì về vấn đề Đảng viên làm kinh tế tư nhân?
- Cái này Đại hội đang họp, xin chờ. Quyết định cuối cùng là nghị quyết của Đại hội X.
Hội nhập kinh tế quốc tế

- Chúng ta vào WTO muộn, việc này sẽ có thiệt hại như thế nào?
- Chúng ta đặt ra mục tiêu là vào trong năm 2005, nhưng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Tính đến hết năm 2005 thì còn 4 nước chúng ta cần đàm phán và hiện nay việc đàm phán
với các nước này cũng đã đạt được khoảng 90%. Chúng ta hy vọng sẽ gia nhập trong năm
nay, thời gian tháng nào cụ thể thì chưa nói được.

3
Chuyện có thiệt hại hay không có 2 vấn đề đặt ra: gia nhập là một chuyện và thực hiện
những cam kết khi gia nhập như thế nào lại là vấn đề lớn hơn, trong đó có việc sửa đổi
điểm, điều trong các luật, nghị định của Việt nam cho phù hợp với những cam kết quốc
tế; vấn đề thứ 2 là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, rõ ràng các doanh nghiệp của
chúng ta phải có sức cạnh tranh cao hơn.
- Thưa ông, Bill Gate sắp sang thăm Việt Nam. Vậy ngành công nghệ thông tin có vai trò như thế
nào đối với Việt Nam?
- Công nghệ thông tin là một trong những lĩnh vực mũi nhọn, hiện nay có 10 nước
ASEAN thì Việt Nam đứng thứ 6 nhưng về tốc độ tăng trưởng thì chúng ta có tốc độ tăng
trưởng nhanh vì nguồn nhân lực của Việt Nam có điều kiện tiếp xúc công nghệ thông tin
khá nhanh chính vì vậy nhiều tập đoàn công nghệ thông tin lớn quốc tế của Nhật, Mỹ…
đã quan tâm đến Việt Nam. Chúng tôi hoan nghênh các nhà đầu tư trong lĩnh vực này đến
với Việt Nam.

- Xin ông cho biết đến khi nào các nhà đầu tư nước ngoài có quyền mua cổ phiếu, thậm
chí với tỷ lệ áp đảo trong nước?
- Trong quá trình hội nhập và đàm phán vào WTO thì chúng ta đang thực hiện theo lộ trình đã

cam kết với quốc tế, đặc biệt trong một số lĩnh vực có điều kiện như ngân hàng. Trong Luật đã có
qui định về việc mua cổ phiếu của các nhà đầu tư nước ngoài, một số lĩnh vực nhà đầu tư có thể
mua đến nhiều hơn 30% và đây là một hình thức đầu tư gián tiếp của nước ngoài.

Vụ PMU18 - lỗ hổng quản lý quá lớn

- Qua vụ án PMU 18 đã hiện ra một số lỗ hổng về quản
lý kinh tế. Xin ông cho biết lỗ hổng đó được nhận diện
như thế nào trong quản lý và còn lỗ hổng nào tương tự
hay không?

- Trong quản lý dự án có rất nhiều khâu, trong vụ PMU 18 thì
lỗ hổng trực tiếp là trong khâu tổ chức quản lý thực hiện và
khâu tổ chức giám sát. Bên cạnh đó nguyên nhân cơ bản trực
tiếp là vấn đề xử lý con người. Đây là 3 nguyên nhân trực tiếp.

Trong quản lý kinh tế, thông qua một số nghị định thì các trách
nhiệm đã được phân công rõ ràng, làm sao sắp tới phải tránh
được sự chồng chéo, tìm ra đầu mối chịu trách nhiệm cụ thể. Sắp tới chúng tôi sẽ báo cáo Chính
phủ để hoàn thiện quy trình trong quản lý các dự án.

- Ông có thể cho biết những biện pháp chống tham nhũng, triệt tiêu những vụ như PMU 18

- Ngay từ khi thành lập nước năm 1945, thì Hồ Chủ Tịch đã nêu. Đến Đại hội XI cũng đã nhấn
mạnh vấn đề này. Về mặt pháp lý, Quốc hội vừa ban hành Luật phòng chống tham nhũng, trước
đây chúng ta chỉ nói là “chống tham nhũng”, tức là pháp lý hóa các vấn đề liên quan đến tham
nhũng; thứ 2 là Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Ngoài ra còn có chương trình hành động
của Chính phủ. Cũng có hệ thống thanh tra vĩ mô và hệ thống thanh tra theo từng vụ việc cụ thể.

- Theo ông vụ PMU 18 có ảnh hưởng đến đầu tư hay không và những biểu hiện cụ thể là như thế

nào?

"Nguyên nhân cơ bản trực tiếp của vụ án
PMU18 là vấn đề con người".
4
- Vụ việc xảy ra Đảng và Nhà nước đau lòng, dư luận phẫn nộ và các nhà đầu tư nước ngoài thì
quan tâm. Chúng tôi muốn nêu ý tổng quát như thế này: có thể nói việc ảnh hưởng đến đầu tư
hay không phụ thuộc quan điểm và thái độ xử lý của chúng ta đối với việc chống tham nhũng
như thế nào? Qua thực tế, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã rất làm rất quyết liệt trong chuyện
này.

- Bộ KH&ĐT đã có kiểm điểm và rút kinh nghiệm như thế nào qua vụ PMU 18?

- Liên quan đến vụ này Thủ tướng đã chỉ đạo tất cả các ngành rút kinh nghiệm, Bộ KH&ĐT đã có
báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ Cụ thể việc này thì thời gian tới sẽ có kết quả từ phía Chính
phủ.

Trước khi trả lời phỏng vấn, ông Khiển đã trình bày báo cáo thành tựu phát
triển kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới và kế hoạch phát triển kinh tế - xãhội 5
năm 2006-2010.
Sau 20 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng là: Đưa
đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng
cường cơ sở vật chất, tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới. Thành công của kế
hoạch 5 năm 1986 – 1990 đã phục hồi được sản xuất, chuyển đổi cơ bản cơ chế
quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống
kinh tế - xã hội, GDP giai đoạn này tăng 4,4%/năm
Kế hoạch 5 năm 1991 – 1995, khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái đạt được
tốc độ tăng trưởng cao liên tục và toàn diện, vượt mức hầu hết các chỉ tiêu của kế
hoạch. Tổng sản phẩm trong nước bình quân hằng năm thời kỳ này tăng 8,2% vượt
mức kế hoạch đề ra… Thời kỳ 1996 – 2000 được xác định là bước rất quan trọng để

phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong hoàn cảnh chịu
sự tác động của khủng hoảng tài chính – kinh tế khu vực, cùng với thiên tai nghiêm
trọng liên tiếp đã đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách quyết liệt. Nhưng với
sự lãnh đạo sâu sát của Đảng, sự nỗ lực cao độ của toàn quân, toàn dân vượt qua
thử thách, duy trì được nhịp độ tăng trưởng 7%/năm.
Giai đoạn 2001 – 2005, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn thách thức, kinh tế
tiếp tục tăng trưởng nhanh theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước, GDP
tăng bình quân 7,5%/năm, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra, trong đó nông nghiệp tăng
3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; dịch vụ tăng 7%. Qui mô tổng sản phẩm
trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 838 nghìn tỷ đồng, gấp đôi so với năm
1995. GDP đầu người khoảng 10 triệu đồng (tương đương 640USD)/năm…
Tại họp báo, các vấn đề: Huy động vốn đầu tư của kiều bào đóng góp vào phát triển
kinh tế xã hội; vấn đề đầu tư dàn trải, thất thoát và các biện pháp giải quyết; vấn đề
xoá bỏ phân biệt, đối xử, tạo sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư; hiệu quả của
nguồn vốn ODA…đã được đưa ra thảo luận .
Để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo sự chuyển biến quan trọng về hiệu quả
và tính bền vững của sự phát triển, nhằm sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển, cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân, làm tiền
đề đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vào năm 2020… Chúng ta cần
tập trung vào các chỉ tiêu chủ yếu được xác lập trên cơ sở đảm bảo sự phát triển
nhanh và bền vững theo 3 trục: Kinh tế - xã hội – môi trường.
• Đỗ Cao Minh (ghi)
5

×