Tải bản đầy đủ (.docx) (226 trang)

Lập luận trên diễn đàn Quốc hội qua những phiên chất vấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 226 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN DIỆU THƯƠNG

LẬP LUẬN TRÊN DIỄN ĐÀN QUỐC HỘI
QUA NHỮNG PHIÊN CHẤT VẤN
N
: Ngơn ngữ Việt NamMã số: 92201

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGƠN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
1.
2. GS.TS. Nguyễn Đức Dân
3. PGS.TS. Nguyễn Văn Lộc

\

THÁI NGUYÊN - 2022


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN DIỆU THƯƠNG

LẬP LUẬN TRÊN DIỄN ĐÀN QUỐC HỘI
QUA NHỮNG PHIÊN CHẤT VẤN
Ngành: Ngơn ngữ Việt Nam
Mã số: 9220102


LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGƠN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
1.
2. GS.TS. Nguyễn Đức Dân
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS Nguyễn Đức Dân
2. PGS.TS Nguyễn Văn Lộc
3. PGS.TS. Nguyễn Văn Lộc

\

THÁI NGUYÊN - 2022


n2. PGS.TS. Nguyễn Văn Lộc
4. PGS.TS. Nguyễn Văn Lộc
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các ngữ liệu trong
luận án là xác thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai cơng bố
trong bất kì cơng trình nào khác.
Tác giả

Nguyễn Diệu Thương

NGUYỄN DIỆU THƯƠNG

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN...........................................................................................................i
MỤC LỤC..................................................................................................................... ii
QUY ƯỚC VIẾT TẮT.................................................................................................iii

DANH MỤC CÁC BẢNG...........................................................................................iv
DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ............................................................................v
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài........................................................................................................1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu..................................................................................3
4. Hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu..............................................................3
1


5. Đóng góp của luận án................................................................................................5
6. Cấu trúc của luận án...................................................................................................5
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN................................................................................................................. 6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu..............................................................................6
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về lập luận ở nước ngồi...................................................6
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về lập luận tại Việt Nam..................................................16
1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn......................................................................................20
1.2.1. Cơ sở lí luận.......................................................................................................20
1.2.2. Cơ sở thực tiễn...................................................................................................37
1.3. Tiểu kết.................................................................................................................39
Chương 2: CẤU TRÚC NỘI TẠI CỦA LẬP LUẬN TRONG CÁC LƯỢT
LỜI TRÊN DIỄN ĐÀN QUỐC HỘI (QUA PHIÊN CHẤT VẤN).........................41
2.1. Dẫn nhập............................................................................................................... 41
2.1.1. Phân tích trường hợp..........................................................................................41
2.1.2. Định hướng tiếp cận...........................................................................................42
2.2. Thành phần lập luận trong các lượt lời trên diễn đàn Quốc hội (qua phiên chất vấn)
.......................................................................................................................... 43
2.2.1. Chỉ dẫn lập luận trong các lượt lời (qua phiên chất vấn)....................................43
2.2.2. Luận cứ (dữ kiện) và lí lẽ (biện minh) trong các lượt lời (qua phiên chất vấn)...........54

2.2.3. Kết luận trong các lượt lời (qua phiên chất vấn).....................................................76
2.3. Mơ hình lập luận trong các lượt lời trên diễn đàn Quốc hội (qua phiên chất vấn)...........78
2.3.1. Mơ hình lập luận dựa vào mối tương quan vị trí giữa luận cứ và kết luận.........78
2.3.2. Mơ hình lập luận dựa vào mức độ phức tạp của cấu trúc lập luận......................78
2.4. Tiểu kết.................................................................................................................82
Chương 3: LẬP LUẬN TRONG HỘI THOẠI TRANH LUẬN TRÊN DIỄN
ĐÀN QUỐC HỘI (QUA PHIÊN CHẤT VẤN)........................................................85
3.1. Dẫn nhập............................................................................................................... 85
3.1.1. Phân tích trường hợp..........................................................................................85
3.1.2. Định hướng tiếp cận...........................................................................................90

2


3.2. Đặc điểm lập luận qua các hành vi ngôn ngữ trên diễn đàn Quốc hội (qua
phiên chất vấn)..................................................................................................91
3.2.1. Đặc điểm lập luận qua hành vi hỏi/ chất vấn, trả lời chất vấn..................................91
3.2.2. Đặc điểm lập luận qua hành vi điều khiển của người điều hành............................99
3.3. Tranh luận trên diễn đàn Quốc hội (qua phiên chất vấn).....................................101
3.3.1. Mơ hình tranh luận (qua phiên chất vấn)..........................................................102
3.3.2. Chất lượng tranh luận (qua phiên chất vấn).....................................................103
3.4. Nhận xét về việc sử dụng lập luận trong hội thoại tranh luận trên diễn đàn
Quốc hội (qua phiên chất vấn)........................................................................124
3.4.1. Nhận xét về việc sử dụng lập luận qua hành vi chất vấn, trả lời, điều hành
........................................................................................................................ 124
3.4.2. Nhận xét về việc sử dụng lập luận trong tương tác hội thoại tranh luận...........124
3.5. Tiểu kết...............................................................................................................145
KẾT LUẬN............................................................................................................... 148
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN
ÁN................................................................................................................... 151

TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................152
PHỤ LỤC.......................................................................................................................

3


QUY ƯỚC VIẾT TẮT
KÍ HIỆU VIẾT TẮT CHO SƠ ĐỒ LL THEO MƠ HÌNH S. TOULMIN
B
yếu tố hỗ trợ biện minh
C
kết luận
D
dữ liệu/ luận cứ
Q
yếu tố hạn định
R
yếu tố phản bác
W
yếu tố biện minh
KÍ HIỆU VIẾT TẮT PHÉP SUY LUẬN LOGIC
thuộc/ tập con của

->, =>
kéo theo/ suy ra
/\
và (phép hội)
\/
hoặc (phép tuyển)
=, <->, <=>

chính là/ là tương đương
>
lớn hơn/ coi trọng hơn
KÍ HIỆU VIẾT TẮT KHÁC
CDLL
chỉ dẫn lập luận
CV
chất vấn
ĐLL
đại lập luận
NH
người hỏi
NTL
người trả lời
KL
kết luận
KT2VT
kết tử 2 vị trí
KT3VT
kết tử 3 vị trí
KTDN
kết tử dẫn nhập
LC
luận cứ
LLY/S (LLCTP)
lập luận yếu/ sai (lập luận chưa thuyết phục)

sơ đồ
LĐPB
lược đồ phản biện

SĐS
sơ đồ lập luận yếu/ sai (/ chưa thuyết phục)
Sp1
người nói 1
Sp2
người nói 2
TLL
tiểu lập luận
TT
tác tử
TTTT
tác tử tình thái


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1.

Các kiểu hội thoại tranh luận..................................................................31

Bảng 1.2.

Phân loại một số lập luận sai..................................................................35

Bảng 2.1.

Phân loại KT theo số lượng thành phần tối thiểu trong cấu trúc lập
luận (đơn vị: lượt)...................................................................................43

Bảng 2.2.


Chức năng của các KTDNLC trong các lượt lời (qua phiên chất vấn)
................................................................................................................ 45

Bảng 2.3.

Tần suất KTDNKL trong các lượt lời (qua phiên chất vấn)....................46

Bảng 2.4.

Tác tử lập luận trong các lượt lời chất vấn- trả lời..................................47

Bảng 2.5.

Tác tử tình thái có tác dụng thay đổi sức mạnh hành vi ở lời trong
các lượt lời (qua phiên chất vấn)............................................................48

Bảng 2.6.

Luận cứ trong các lượt lời (qua phiên chất vấn).....................................54

Bảng 2.7.

Các loại lí lẽ trong các lượt lời (qua phiên chất vấn)..............................57

Bảng 2.8.

Vị trí của kết luận trong lập luận (qua phiên chất vấn)...........................76

Bảng 2.9.


Phân loại lập luận dựa vào mức độ phức tạp trong cấu trúc...................78

Bảng 3.1.

Phân loại câu hỏi/ chất vấn và mục đích hỏi...........................................92

Bảng 3.2.

Phân loại phương pháp hỏi/ chất vấn (đơn vị: lượt)................................95

Bảng 3.3.

Phân loại câu trả lời theo tiêu chí tính quan yếu, tính rõ ràng và tính đầy đủ.......96

Bảng 3.4.

Lập luận- tranh luận chưa thuyết phục (qua phiên chất vấn)................106

DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU Đ

Hình 3.1.

...........................................................................................................88

Hình 3.2

...........................................................................................................89

Hình 3.3


.........................................................................................................125

Hình 3.4

.........................................................................................................125

Biểu đồ 3.1:

Tỉ lệ các phương pháp trả lời (đơn vị: %)...........................................98

Biểu đồ 3.2:

Mơ hình lượt tương tác hội thoại tranh luận (giai đoạn tranh luậnđối chất) (đơn vị: %)........................................................................102


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Từ thực tiễn nghiên cứu về lập luận ở nước ngoài
Lập luận là đối tượng chính trong nghiên cứu về logic. Theo đó, lập luận cũng
được các nhà nghiên cứu trên thế giới tìm hiểu đặt trong sự soi chiếu bởi logic hình
thức và logic phi hình thức. Logic hình thức nghiên cứu các lập luận dưới góc độ
logic cổ điển (gắn với cấu trúc tam đoạn luận) và hiện nay là logic tốn học, khoa học
máy tính, trí tuệ nhân tạo. Có thể thấy rõ được thành quả nghiên cứu của logic học
hình thức đã tạo nên cuộc cách mạng cơng nghiệp với sự phát triển như vũ bão của trí
tuệ nhân tạo. Bên cạnh đó, logic học phi hình thức cũng có vai trị quan trọng khi xem
xét đến những lập luận trong các diễn ngôn đời thường, trong mọi phạm vi, lĩnh vực
ứng dụng: khoa học, giáo dục, y tế, pháp lí, truyền thơng...
Vấn đề nghiên cứu về logic phi hình thức và lập luận đời thường đã là một xu
hướng phát triển mạnh mẽ trên thế giới từ vài thập kỉ qua. Các học giả từ nhiều lĩnh
vực đã cùng nhau thảo luận về lập luận tại các hội nghị quốc tế được tổ chức bởi Đại

học Amsterdam (Hà Lan) và Hiệp hội Nghiên cứu Lập luận Quốc tế (ISSA). Những
hội nghị quốc tế khác phải kể đến là hội nghị được tổ chức tại Alta, Utah, tài trợ bởi
Hiệp hội truyền thông quốc gia (Mĩ) và Hiệp hội pháp lí (Mĩ) (American Forensics
Association), Hiệp hội nghiên cứu tranh luận Ontario (OSSA). Ngồi ra, cịn có hội
thảo Châu Âu về lập luận (The European Conference on Argumentation- ECA). Hội
thảo này được tổ chức lần đầu tiên tại Lisbon, Bồ Đào Nha. Hiện đã có các tạp chí
dành riêng cho các cơng bố về logic phi hình thức (Informal logic Journal) và lập luận
(Journal of Argumentation). Trong đó, tạp chí Logic phi hình thức cũng khẳng định
phạm vi cơng bố trên tạp chí này bao gồm cả vấn đề lí thuyết, lí lẽ và lập luận thực tế.
1.2. Từ thực tiễn nghiên cứu về lập luận tại Việt Nam
Trong khi nghiên cứu về lập luận đã và đang là xu thế phát triển mạnh mẽ trên
thế giới; hiện tại, ở Việt Nam, nghiên cứu về lập luận vẫn còn những hạn chế. Nghiên
cứu về lập luận trong địa hạt ngôn ngữ tại Việt Nam bắt đầu từ một số công trình có
tính chất gợi dẫn của các tác giả: Đỗ Hữu Châu (1996) và Nguyễn Đức Dân (1996,
1998). Tuy nhiên, các cơng trình này chủ yếu dừng lại xem xét lập luận trên cứ liệu
tiếng Việt dựa theo quan điểm logic hình thức [3, tr.5- 406] hoặc theo quan điểm của
O. Ducrot [2, tr.163-244], [4]. Sau đó, xuất hiện các luận án nghiên cứu lập luận gắn
liền với các phạm vi ứng dụng cụ thể trong tiếng Việt. Nhưng, tất cả mới chỉ dừng lại
phân tích lập luận dựa trên cấu trúc nội tại, chưa xem xét lập luận trong sự vận động,
tương tác hội thoại. Nói cách khác, nghiên cứu lập luận ở Việt Nam chủ yếu dưới
quan điểm xem lập luận là kết quả của quá trình suy luận logic từ các tiền đề. Nghiên
cứu về lập luận trong bối cảnh tranh luận (nơi mà lập luận thể hiện rõ nhất vai trị của
nó) tại Việt Nam vẫn còn là một khoảng trống.

1


1.3. Từ thực tiễn nhu cầu lập luận trong Nghị trường Quốc hội Việt Nam
Sử dụng lập luận từ nói năng hàng ngày đến các cuộc tranh luận trong khoa học,
chính trị… là rất cần thiết. Đối với các đại biểu Quốc hội, năng lực lập luận là tối

quan trọng. Có một quan điểm lập trường, định hướng tốt nhưng nếu khơng được
trình bày logic, hợp lí để thuyết phục thì sẽ khơng tạo ra tính hiệu quả đối với đích lập
luận. Nhận thấy, trong nhiều kì họp, phiên họp Quốc hội Việt Nam; bên cạnh những
lập luận sắc sảo, vẫn tồn tại những lập luận chưa thuyết phục. Luận án đi sâu tìm hiểu
đặc điểm lập luận với tư cách cấu trúc nội tại trong từng lượt lời (đặc điểm của LC,
KL, CDLL, lí lẽ) và lập luận với tư cách là hành vi ngôn ngữ trong hội thoại tranh
luận (đặc điểm lập luận/ tranh luận trong sự vận động, tương tác hội thoại: lập luận/
tranh luận chưa thuyết phục; nghệ thuật hỏi, chất vấn, trả lời). Qua đó, phân tích được
một số đặc điểm trong lập luận, tranh luận; lí giải và nhận xét một số vấn đề sử dụng
lập luận trong phiên chất vấn tại diễn đàn Quốc hội Việt Nam. Luận án hướng đến
quan điểm chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân tại kì họp thứ 3Quốc hội khóa XIV: “Chuyển từ Quốc hội tham luận sang Quốc hội tranh luận”
[111]. Vậy, tranh luận tại Nghị trường Quốc hội tại sao cần được quan tâm hơn nữa?
Làm thế nào để có những tranh luận hợp lí? Đây là một vấn đề quan trọng nhưng
chưa có cơng trình nghiên cứu cụ thể nào được đặt ra theo định hướng nghiên cứu từ
bản chất lí thuyết lập luận.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là làm rõ đặc điểm của lập luận nhìn từ cấu trúc nội tại
của từng lượt lời và đặc điểm lập luận đặt trong sự vận động, tương tác tranh luận,
nhận xét một số vấn đề sử dụng lập luận trong các lượt lời hỏi/ chất vấn, trả lời, điều
hành, mơ hình tranh luận trên diễn đàn Quốc hội Việt Nam (đặc biệt chú ý hướng đến
lập luận hiệu quả trong bối cảnh chất vấn và ngữ cảnh tranh luận).
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu trên, luận án xác định các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Thu thập, tổng thuật các tài liệu liên quan: các cơng trình nghiên cứu về lập
luận trên thế giới và Việt Nam, văn bản ghi chép, băng truyền hình trực tiếp nội dung
các phiên hỏi/ chất vấn tại Nghị trường Quốc hội Việt Nam.
- Thống kê, phân loại các thành phần trong cấu trúc lập luận qua phiên chất vấn:
các thành phần luận cứ, kết luận, lí lẽ; một số yếu tố ngơn ngữ (kết tử lập luận, tác tử
lập luận); các kiểu mơ hình lập luận thường gặp trong các lượt lời lập luận; các lập

luận yếu/ sai (/chưa thuyết phục); các hành vi hỏi và trả lời; phương pháp hỏi, trả lời,
điều hành trong hội thoại tranh luận; các mơ hình tương tác hội thoại của các đại biểu
Quốc hội.

2


- Phân tích, đánh giá, lí giải lập luận dựa trên sự miêu tả, sơ đồ hóa các lập luận (cấu
trúc, thành tố, mối quan hệ giữa các thành tố), và lược đồ hóa các hội thoại tranh biện đặt
trong mối quan hệ vận động tương tác (các tham thoại, hành vi hỏi/ chất vấn và trả lời).
- Nhận xét về cách thức sử dụng lập luận từ kết quả phân tích thực trạng.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là lập luận qua những phiên chất vấn trên
diễn đàn Quốc hội Việt Nam (xét trong các vai trò: 1, sản phẩm của q trình nói
năng xuất phát từ tiền đề để đi đến kết luận (lập luận trong cấu trúc nội tại của từng
lượt lời- chương 2); 2, hành vi ngôn ngữ phức hợp 1 trong hội thoại tranh luậnchương 3).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án này nghiên cứu LL (hình thức, nội dung) xét trong các nhiệm vụ xác
định, phân tích, đánh giá, tạo lập lập luận qua những phiên chất vấn trực tiếp (kể cả
những phiên chất vấn kết hợp khi thảo luận báo cáo tổng kết tình hình phát triển kinh
tế- xã hội) từ kì họp Quốc hội khóa XI- XIV. Trong đó, luận án sử dụng 206 LL (83
ĐLL) tại hai phiên họp liền nhau tại khóa XIII là trường hợp mẫu. Các nhận định rút
ra còn được kiểm chứng, khái quát bởi những phiên họp, kì họp khác từ các khóa XIXIV (các phiên họp này được chọn đa dạng ở các kì họp, khóa họp).
Nguồn tư liệu được lấy từ cổng thơng tin điện tử chính thức của Quốc hội Việt
Nam ().
4. Hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Hướng tiếp cận
Đối tượng nghiên cứu của luận án là lập luận. Vì thế, q trình phân tích, đánh
giá lập luận ln đặt trong sự tích hợp của các ngành: logic học, ngữ dụng học và một

phần tu từ học.
Luận án chủ yếu vận dụng phương pháp và kết quả nghiên cứu về lập luận của
trường phái logic (theo quan điểm của S. Toulmin, D. Walton) kết hợp với quan điểm lập
luận triệt để, miêu tả (của O. Ducrot), và quan điểm dụng học biện chứng (của D. Walton
và F.H. van Eemeren) khi xem xét lập luận trong sự vận động hội thoại tranh biện2.
4.2. Phương pháp, thủ pháp nghiên cứu
1 Luận án có quan điểm lập luận là hành vi ngơn ngữ phức hợp theo quan điểm của tác giả F.H van. Eemeren
[48, tr.43-53]. Khi đó, hành vi lập luận bao gồm chuỗi các hành vi phức hợp trong nó. Ví dụ: hành vi lập luận
với mục đích thuyết phục người nghe mua hàng, người nói xây dựng trong lập luận của mình chuỗi hành vi
gồm: hành vi trần thuật (Sản phẩm này có mẫu mã đẹp, hình dáng nhỏ gọn), hành vi khuyên (Hãy mua sản
phẩm này!), hành vi cam kết (Chúng tôi cam kết về chất lượng sản phẩm. Sản phẩm sẽ được bảo hành trong
thời gian 24 tháng)…
2 Lí do lựa chọn phương pháp tiếp cận này được trình bày cụ thể trong chương 1.

3


Để thực hiện được mục đích nghiên cứu đặt ra, luận án vận dụng nghiên cứu
định tính dựa trên trường hợp (case study). Nghiên cứu này được thể hiện cụ thể qua
các nhiệm vụ:
- Xác định tiêu chí đánh giá lập luận gắn liền với bối cảnh phiên chất vấn tại
diễn đàn Quốc hội.
- Miêu tả những biểu hiện cụ thể của lập luận trong các lượt lời với tư cách là kết
quả của quá trình lập luận và lập luận với vai trị là hành vi ngơn ngữ (miêu tả các
thành tố trong cấu trúc lập luận, sơ đồ lập luận, lược đồ tranh luận, đánh giá chất lượng
lập luận và tranh luận).
- Phân tích, đánh giá lập luận trong cấu trúc nội tại và hành vi lập luận trong ngữ
cảnh hội thoại tranh luận để thấy được xu hướng sử dụng các thành phần lập luận, các
kiểu hành vi lập luận, các mơ hình tương tác hội thoại tranh luận… qua những phiên chất
vấn cụ thể.

- Nhận định xu hướng và định hướng các phương pháp sử dụng lập luận phù
hợp, gắn liền với bối cảnh chất vấn trên diễn đàn Quốc hội.
4.2.1. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1.1. Phương pháp miêu tả
Đây là phương pháp có vai trị quan trọng trong luận án. Phương pháp này được
sử dụng phổ khắp từ miêu tả đặc điểm lập luận trong cấu trúc nội tại của diễn ngôn,
các kiểu lập luận chưa thuyết phục, sự tương tác trong hội thoại tranh luận.
4.2.1.2. Phương pháp phân tích diễn ngơn
Phương pháp phân tích diễn ngôn được sử dụng xuyên suốt trong luận án. Sử
dụng phương pháp này, luận án đi vào phân tích, phân loại một số phương diện của
lập luận: thành phần trong cấu trúc lập luận, tranh luận (sự vận động tương tác, nghệ
thuật hỏi- trả lời, mơ hình tranh luận, ngơn ngữ của người điều hành) để từ đó đánh
giá khái quát đặc điểm lập luận trên diễn đàn Quốc hội Việt Nam qua những phiên
chất vấn.
4.2.2. Các thủ pháp nghiên cứu
4.2.2.1. Thủ pháp so sánh, đối chiếu
Thủ pháp so sánh- đối chiếu được dùng trong việc so sánh, đối chiếu các trường
hợp để đưa ra đánh giá, nhận định khái quát xu hướng sử dụng các phương diện của
lập luận. Bên cạnh đó, thủ pháp này cịn được sử dụng trong việc đối chiếu, nhận diện
mức độ thuyết phục của các lập luận tốt và lập luận yếu/ sai.
4.2.2.2. Thủ pháp thống kê, phân loại

4


Thủ pháp thống kê, phân loại được dùng trong việc khảo sát số lượng các yếu tố
ngôn ngữ sử dụng trong lập luận, các lí lẽ, những lập luận yếu/ sai, phương pháp hỏi,
trả lời; mơ hình lập luận đặt trong các mối quan hệ với kết quả tranh luận.
5. Đóng góp của luận án
5.1. Đóng góp trên phương diện lí luận

Luận án khẳng định những giá trị nghiên cứu về lập luận trên thế giới, làm sáng
tỏ những lí thuyết này qua một nghiên cứu cụ thể tại Việt Nam. Đó là lí thuyết về lập
luận sai, lí thuyết về hội thoại tranh biện (hành vi chất vấn, trả lời chất vấn; nghệ
thuật hỏi, trả lời trong tranh biện; vận động, tương tác trong hội thoại tranh luận), lí
thuyết về các lí lẽ trong lập luận, lí thuyết mơ hình lập luận của S. Toulmin, lí thuyết
miêu tả lập luận và đa thanh trong phân tích diễn ngơn của O. Ducrot.
5.2. Đóng góp trên phương diện thực tiễn
Luận án đã đặt ra vấn đề cần xem xét lập luận với vai trị là một hành vi ngơn
ngữ phức hợp đặt trong hội thoại tranh biện tại Việt Nam.
Luận án cung cấp phương pháp phân tích, đánh giá lập luận, phản biện, xây
dựng lập luận đặt trong bối cảnh chất vấn tại diễn đàn Quốc hội Việt Nam. Kết quả
nghiên cứu của luận án có thể được ứng dụng trực tiếp trong phạm vi Quốc hội.
Ngoài ra các kiểu sơ đồ lí lẽ, sơ đồ lập luận chưa thuyết phục, sơ đồ phản biện trong
luận án có thể được vận dụng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Luận án có thể được dùng là tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu, giảng dạy
về ngữ dụng học, logic học, phân tích diễn ngơn và tư duy phản biện.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận; Nội dung của luận án được xây dựng trong 3 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lí luận và thực tiễn.
Chương 2. Cấu trúc nội tại của lập luận trong các lượt lời trên diễn đàn Quốc
hội (qua phiên chất vấn).
Chương 3. Lập luận trong hội thoại tranh luận trên diễn đàn Quốc hội (qua
phiên chất vấn).
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về lập luận ở nước ngoài
Lập luận (argument/ argumentation)- được định nghĩa trong từ điển Oxford
learners dictionaries, là sự tranh luận hợp lí được dùng để hỗ trợ cho một lí thuyết,


5


một hành động hoặc một ý kiến (logical arguments used to support a theory, an action
or an idea).
Trong cơng trình nghiên cứu Groundwork in the theory of argumentation (Cơ
sở lí thuyết về lập luận), tác giả J. Blair đã xem xét khái niệm lập luận trong phần
“A standard concept of Argument and Why it is mistaken” (Một khái niệm chuẩn về
lập luận và nguyên nhân nó bị lỗi) [66]. Trước hết, J. Blair đã khái quát ý kiến của
các nhà logic học về lập luận. Theo đó, khái niệm “lập luận” được nhìn nhận ở cả
phương diện cách thức thực hiện và chức năng. Scriven cho rằng chức năng của
một lập luận là để thuyết phục; tiền đề đúng thì kết luận sẽ được chấp nhận.
Freeman coi lập luận là một thông điệp người ta cố gắng thiết lập một tuyên bố/
phát biểu là đúng hoặc tin cậy dựa vào những tuyên bố khác. Hitcock đã cho rằng:
“Lập luận là một dãy các tuyên bố mà trong đó một kết luận được đưa ra từ những
tuyên bố còn lại”… J. Blair đã khẳng định thêm dựa trên sự đồng tình với D.
Walton: “Mục đích của lập luận khơng chỉ là để thuyết phục mà cịn là để u cầu,
tìm kiếm thơng tin, điều đình…”.
Dù phạm vi cách hiểu lập luận có khác nhau, nhưng khơng thể phủ nhận rằng
lập luận là nhân tố không thể thiếu trong “nghệ thuật lời nói”, lập luận đã được đề
cập đến từ thời Cổ đại. Năm 1947, lập luận được nhắc đến nhiều trong tác phẩm “Tu
từ học” của Aristotle. Từ đó về sau, lập luận được nghiên cứu dưới góc nhìn của logic
(xem thêm [27, tr.24-26]).
Sau đó, đến thế kỉ XX, nhiều quan điểm nghiên cứu mới về lí thuyết lập luận
ra đời nhằm gia tăng hiệu quả của hoạt động lập luận trong thực tế. Nhìn chung,
những nghiên cứu này được tổng thuật bởi các cơng trình của F.H. van Eemeren
[chủ tịch hiệp hội nghiên cứu về LL (ISSA), tổng biên tập tạp chí LL
(Argumentation Journal)], Rob Grootendorst [50, tr.43-57], và của một số tác giả
khác [49], [56], [66], [90], [91]… Theo đó, tình hình nghiên cứu về LL có thể được

khái quát như sau:
1.1.1.1. Nghiên cứu lập luận từ quan điểm của S. Toulmin và C. Perelman
Nghiên cứu về lập luận trong một thời gian dài được chi phối bởi những đóng
góp có ảnh hưởng của S. Toulmin và Perelman. Cách tiếp cận hai tác giả có đặc điểm
đặc trưng là đều nỗ lực cung cấp một sự thay thế phù hợp hơn cho logic hình thức để
xem xét các lập luận đời thường. Mơ hình lập luận truyền thống đã được S. Toulmin
[76, tr.91- 92] mở rộng thành mơ hình lập luận 6 thành tố (dữ kiện, biện minh, hỗ trợ
biện minh, phản bác, hạn định, tuyên bố). Perelman và Olbrechts-Tyteca (1958,
1969) cung cấp dãy các kĩ thuật lập luận hiệu quả (“lập luận dựa trên cấu trúc thực
6


tế”, “lập luận thiết lập cấu trúc của thực tế”, v.v...). Trong mơ hình của S. Toulmin
cũng như trong tu từ học mới của Perelman, những thủ tục hợp lí của lí lẽ phê phán
được lấy làm điểm khởi đầu. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, mục đích mà các tác
giả đặt ra chưa được giải quyết triệt để. Sự phát triển của những lí thuyết lập luận
hiện đại phần lớn bị bỏ qua, hoặc chưa được tính đến đầy đủ (ví dụ, trường hợp logic
đối thoại). Một bất cập khác là khơng có sự thừa nhận thực tế rằng lập luận trước hết
là hiện tượng diễn ngôn, cái mà luôn luôn được đặt trong một môi trường theo ngữ
cảnh, bối cảnh xác định. Để nghiên cứu lập luận một cách thỏa đáng, nó phải được
xem như một dạng hành động ngôn ngữ được tiếp cận trong thực tế sử dụng. Việc bỏ
qua những hiểu biết về đối thoại và thực dụng đã cản trở sự phát triển một lí thuyết
chắc chắn về lập luận.
1.1.1.2. Nghiên cứu lập luận từ quan điểm logic phi hình thức
Logic phi hình thức là một phong trào, có nguồn gốc ở Bắc Mĩ vào đầu những
năm bảy mươi, khởi nguồn từ sự không thỏa mãn với cách xử lí thơng thường về lập
luận trong phần mở đầu các sách giáo khoa logic. Kể từ năm 1978, phong trào này
chính thức thể hiện tiếng nói của mình trong tạp chí “Informal Logic” (Logic phi hình
thức), do Blair và Johnson biên soạn. Mặc dù với tên gọi khác, logic phi hình thức
khơng phải là một ngành logic mới. Đó là một cách tiếp cận thơng thường để tranh

luận trong ngôn ngữ hàng ngày. Như vậy, logic phi hình thức có phạm vi rộng hơn
logic hình thức. Theo các nhà logic phi hình thức, tính hợp lệ và sự hợp nhất của lập
luận khơng giống với tính hợp lệ hình thức trong logic suy luận. Blair và Johnson
(1987) lập luận rằng các tiền đề cho một kết luận phải thỏa mãn ba tiêu chí: (1) “sự xác
đáng”, (2) “sự đầy đủ”, và (3) “khả năng được chấp nhận”. Với sự xác đáng, câu hỏi
đặt ra là có hay khơng: sự liên quan thích đáng và đầy đủ về nội dung giữa các tiền đề
và kết luận, hoặc, sự cung cấp đủ bằng chứng cho kết luận của các tiền đề; với khả
năng được chấp nhận, có thể xảy ra, đáng tin cậy hoặc đúng của các tiền đề. Mục tiêu
của các nhà logic phi hình thức là phát triển những tiêu chuẩn, tiêu chí và phương pháp
cho việc giải thích, đánh giá và xây dựng lập luận. Các giải pháp được tìm kiếm cho
vấn đề phần lớn là: phân tích các cấu trúc lập luận, lập các sơ đồ lập luận, đánh giá lập
luận, nhận diện các lỗi, cách tiến hành một cuộc thảo luận, v.v. Trước tình hình đó,
logic phi hình thức là một hướng nghiên cứu tồn diện, trong đó lí thuyết lập luận đóng
vai trò trung tâm, được nghiên cứu một cách kĩ lưỡng. Có một sự chồng chéo nổi bật
giữa các mục tiêu và phạm vi của logic phi hình thức và biện chứng dụng học. Một sự
khác biệt quan trọng là logic phi hình thức tập trung chủ yếu vào mối quan hệ giữa các
tiền đề và kết luận, trong khi biện chứng dụng học bao quát tất cả các khía cạnh và giai
đoạn của một cuộc TL quan trọng. Ngoài ra, các nghiên cứu logic phi hình thức sử

7


dụng nhiều lí lẽ khác nhau trong khi biện chứng dụng học lại tập trung vào lí lẽ trực
tiếp giải quyết sự bất đồng ý kiến. Sự khác biệt thứ ba bắt nguồn từ các cơ sở lí thuyết:
trong phân tích lập luận, logic phi hình thức được thiết kế để khám phá các phẩm chất
logic của diễn ngôn lập luận; biện chứng dụng học là để kiểm tra các đặc tính ngơn
ngữ thực dụng được xem xét trong q trình tái cấu trúc.
1.1.1.3. Nghiên cứu lập luận từ quan điểm lập luận sai
Tập trung vào các lập luận sai là một đóng góp đáng kể trong nghiên cứu lập
luận. Hướng nghiên cứu về lập luận sai (fallacies) có từ thời Aristotle, nhưng mãi

tới năm 1970, cơng trình nổi tiếng Fallacies của C.L. Hamblin mới đặt ra những
cách tiếp cận mới. Sau đó, được thực hiện bởi các nhà logic ở Canada: Woods và D.
Walton (1989). Cách tiếp cận hình thức của Woods và D. Walton được thể hiện
trong một loạt các bài báo và sách được viết chung hoặc độc lập. Các nguyên tắc cơ
bản trong phương pháp tiếp cận của họ về các lập luận sai được giải thích trong
cơng trình Lập luận: logic của những lập luận sai (Argument: Logic of the
fallacies) (1982). Cách tiếp cận của Woods, D. Walton đối với các lập luận sai là “đa
nguyên”. Theo ý kiến của họ, các lập luận sai phải được phân tích theo những cách
khác nhau. Quan điểm về phương pháp luận chung là các lập luận sai được phân tích
một cách có ý nghĩa từ cấu trúc và lí thuyết về ngơn từ gắn với các hệ thống logic
khác nhau, trong đó có hệ thống logic biện chứng. Tuy nhiên, điều này khơng có
nghĩa là chúng sẽ được giải thích theo những kiểu logic nhất định. Theo quan điểm
của Woods và D. Walton, chúng sẽ là khác nhau tùy thuộc vào sai lầm trong câu hỏi
phản biện. Chính họ đã tuyên bố rằng ít nhất một số ngộ biện/ ngụy biện nên được
phân tích bằng một cách nào đó theo tiêu chuẩn hình thức. Khi phân tích lập luận sai,
Woods và D. Walton dùng khái niệm biện chứng của Hamblin “bộ cam kết” và “rút
lại” là công cụ phương pháp luận. Vì vậy, phân tích của họ về các lập luận sai là theo
định hướng hình thức, nhưng cũng biện chứng. Họ có xu hướng xếp những điều mà
họ đã nhận ra thành ba mức độ “hình thức”. Đầu tiên, có những lập luận sai (chẳng
hạn như lập luận sai 4 cơ sở) mà hình thức đặt theo cách thức nghiêm ngặt. Cấp độ
hình thức tiếp theo là những lập luận sai phi hình thức (chẳng hạn như những lập
luận sai bởi sự mơ hồ) nếu xét một cách kĩ lưỡng, nhưng vai trị của chúng có thể
được giải thích bằng cách tham chiếu đến các hình thức hợp lí. Nhiều cơng trình nổi
bật hơn của Woods và D. Walton nói về mức độ hình thức thứ ba được áp dụng cho
các lí thuyết có khái niệm chính được phân tích bằng cách sử dụng ngơn ngữ và khái
niệm của một hệ thống logic hoặc một số hệ thống hình thức khác. Woods và D.
Walton (1982) nhấn mạnh tầm quan trọng về mặt lí thuyết của các lập luận sai điển
hình như là những đặc điểm của các lập luận trong việc sử dụng ở thực tế. Một tính

8



năng thực dụng của phương pháp tiếp cận này là thừa nhận nhiều ngữ cảnh, bối cảnh
trong đó lập luận có thể được sử dụng. Về mặt lí thuyết, tất cả các ngữ cảnh, bối cảnh
này nên được xác định theo sự đánh giá chung của một cấu trúc đối thoại, nơi những
người tham gia, các lượt lời, sự định vị, sự quan yếu, các yếu tố khác được xác định
rõ ràng và chính xác trong sự trao đổi hội thoại.
Danh sách các loại lập luận sai được đề cập đến trước hết là bởi các nhà logic
học. Dựa trên những quy tắc suy luận, các nhà nghiên cứu nhận thấy thực tế sử dụng
lập luận đã có nhiều trường hợp các cá nhân vi phạm quy tắc lập luận. Theo [127],
danh sách các lập luận sai, đầu tiên, được đưa ra bởi Aristotle (13 loại). Chúng được
chia thành hai loại chính: lập luận sai ngơn ngữ (linguistic fallacies) và lập luận sai
không phụ thuộc vào ngôn ngữ (non-linguistic fallacies). Chúng cịn được gọi là lập
luận sai ngơn từ (verbal fallacies) và lập luận sai nội dung (material fallacies).
Richard Whately lại phân chia lập luận sai thành hai nhóm: thuộc về logic và về
nội dung. Theo ơng, tiêu chí để phân chia hai loại này là có hay khơng có sự hợp lệ
suy luận kết luận từ các tiền đề. Các lập luận sai logic không đảm bảo các quy tắc suy
luận logic. Trong khi đó các lập luận sai nội dung vẫn đảm bảo sự hợp lí trong phép
suy luận từ tiền đề đến kết đề. D. Walton (1989) đã liệt kê ra các loại chính trong
cơng trình: Informal logic [83, tr.19- tr.23]. Từ đó về sau đã có rất nhiều sự bổ sung
khác nhau làm đầy cho danh sách các loại lập luận sai này (trên 200 loại tại [102]).
1.1.1.4. Nghiên cứu lập luận từ quan điểm biện chứng hình thức
Biện chứng hình thức đã được đưa ra bởi Barth và Krabbe trong From axiom to
dialogue (1982), xây dựng dựa trên logic đối thoại của Lorenzen. Họ mô tả một quy
trình hình thức để kiểm tra xem một luận điểm đã cho có thể được duy trì một cách
hợp lí dưới ánh sáng của các giả định nào đó hay khơng. Sự giải thích biện chứng của
logic này được gọi là “biện chứng hình thức”. Trong lí luận, lập luận biện chứng hình
thức được xem như là một cuộc đối thoại giữa người đề xuất và đối phương theo một
chủ đề. Cả người đề xuất cùng đối thủ đều cố gắng tìm hiểu luận điểm có thể được bảo
vệ thành công khỏi sự tấn công phê phán. Trong sự tự vệ, người đề xuất có thể sử dụng

“sự nhượng bộ” của đối thủ (những phát biểu mà đối thủ sẵn sàng chịu trách nhiệm).
Người đề xuất phải ngăn chặn bất kì cuộc tấn cơng nào đối với tun bố của chính
mình. Anh ta có thể đưa ra một sự tự vệ trực tiếp hoặc thực hiện một cuộc phản công
dựa trên “sự nhượng bộ” của đối thủ. Đối thủ có nghĩa vụ bảo vệ mọi “nhượng bộ” bị
tấn công. Nếu điều này dẫn đến việc anh ta không thể làm gì khác ngồi việc khẳng
định điều mà đã tấn cơng sớm hơn trong cuộc đối thoại, khi đó, người đề xuất sẽ có
lợi. Do đó, người đề xuất cố gắng điều chuyển đối thủ theo quan điểm này bằng cách
khéo léo sử dụng các “nhượng bộ” của đối thủ. Nếu làm được như vậy, người đề xuất

9


đã bảo vệ thành cơng quan điểm của mình nhờ vào các “nhượng bộ” của đối thủ. Các
cuộc thảo luận được hình dung trong biện chứng hình thức về cơ bản khác với tranh
luận thực tế thông thường. Điểm bắt đầu giả định chỉ có thể xảy ra sau khi một bên
trong cuộc thảo luận đã trình bày luận cứ để bảo vệ quan điểm. Nó phát sinh nếu hai
bên quyết định khám phá xem quan điểm này có thể được duy trì trong ánh sáng của
lập luận hay khơng. Các bên sau đó bắt đầu các thủ tục để kiểm tra xem quan điểm có
thể được kết luận hợp lí từ các tiền đề đã trình bày trong lập luận hay khơng. Nếu thực
sự tham gia với vai trị là đối thủ thì cần phải coi lập luận của người đề xuất là một tập
hợp các “nhượng bộ” để làm cơ sở cho các “cam kết” của chính mình.
1.1.1.5. Nghiên cứu lập luận từ quan điểm biện chứng dụng học
Có một số mối quan hệ trực tiếp giữa biện chứng hình thức và biện chứng dụng
học [lí thuyết lập luận được phát triển bởi F.H. van Eemeren và Rob Grootendorst
(1984, 1992)]. Việc sử dụng thuật ngữ chung “dialectic” (biện chứng), nên chúng có
mục tiêu chung. Tuy nhiên, định hướng lí thuyết biện chứng dụng học khác với biện
chứng hình thức. Sự khác biệt này được thể hiện rõ ràng trong việc lựa chọn tiền tố
pragma (tic) (thực dụng) thay vì formal (hình thức). Biện chứng dụng học (Pragmadialectics) chủ yếu là một lí thuyết về diễn ngơn tranh luận, khơng phải là một lí
thuyết logic. Khơng giống như các quy tắc biện chứng hình thức nhằm tạo ra các lập
luận hợp lí, các quy tắc biện chứng dụng học nhằm giải quyết một sự khác biệt của ý

kiến được dự tính như đại diện cho các điều kiện cần thiết để thực hiện một cuộc thảo
luận quan trọng trong bài diễn ngôn tranh luận. Khái niệm, sự phân loại, quy tắc
tranh luận, sự vận động của hội thoại tranh luận được chú ý nghiên cứu. Hội thoại
tranh luận là một chuỗi của sự thay đổi thông điệp hoặc hành vi ngơn ngữ giữa hai
hoặc nhiều người nói. Điển hình vẫn là hội thoại diễn ra sự trao đổi những câu hỏi và
trả lời giữa hai bên. Mọi hội thoại hướng đến yêu cầu về sự hợp tác giữa các bên để
đạt được mục đích. Điều đó có nghĩa rằng, trong hội thoại, mỗi bên đều có trách
nhiệm làm thế nào để đạt được mục đích của mình và có trách nhiệm hợp tác với đối
phương để đối phương cũng đạt được mục đích. Bất cứ lập luận sai/ tồi nào cũng sẽ
vi phạm tính trách nhiệm này [83, tr.3].
Trong hội thoại tranh luận, các quy tắc tương tác có thể được thương lượng bởi
các bên tham gia đối thoại. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, các quy tắc đã được
quyết định sẵn bởi thông lệ xã hội. Trường hợp lí tưởng nhất, hội thoại tranh luận là
một q trình phát hiện nhiều hơn các lí lẽ, sự biện minh hỗ trợ cho kết luận, mục
đích của hội thoại tranh luận là đi đến một kết luận chung bởi các suy luận cùng được
chấp nhận. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, tính hiệu lực của các kết luận chỉ là
thứ cấp. Chẳng hạn, thay vì đi đến một kết luận chung, mục đích thực sự của một
cuộc đối thoại lại là sự giải phóng cảm xúc, ghi điểm trước người nghe, làm bẽ mặt

10


đối thủ… F.H. van Eemeren và Rob Grootendorst còn đưa ra một danh sách chi tiết
về các quy tắc phải được áp dụng tại mỗi giai đoạn tương tác. Trong cơng trình
Argumentation, communication, and fallacies (Lập luận, thơng tin, ngộ biện/ ngụy
biện), F.H. van Eemeren và Rob Grootendorst đã vận dụng tích hợp lí thuyết phương
châm hội thoại của Grice và lí thuyết hành động ngơn ngữ của J. Searle, xây dựng 10
quy tắc của một tranh luận tốt (dẫn theo [42] và [48, tr.51]). Hơn nữa, tranh luận theo
quan điểm của các tác giả này có vai trị cụ thể của người ủng hộ và người phản đối
trong lượt lời.

Bài báo “Tìm hiểu về nghĩa vụ chứng minh trong các tài liệu lập luận trí tuệ
nhân tạo” [93] đã khái quát lại 7 dạng hội thoại. Trong đó, có sáu loại đối thoại cơ
bản: điều tra, đối thoại đàm phán, đối thoại tìm kiếm thơng tin, cân nhắc và đối thoại
tranh cãi cá nhân [đã được đề cập trong tài liệu tranh luận bởi D. Walton và Krabbe
(1995)] và kiểu đối thoại khám phá [đã được bổ sung bởi McBurney và Parsons
(2001)]. Trong hội thoại có thể có những bước chuyển biện chứng hợp lí, bước chuyển từ
dạng hội thoại này sang dạng hội thoại khác [78].
Quá trình thảo luận phản biện có 4 giai đoạn: xác định sự khác biệt của ý kiến (giai
đoạn “đối đầu'”- “confrontation” stage), thiết lập điểm bắt đầu của cuộc thảo luận (giai
đoạn “mở”- “opening” stage), trao đổi tranh luận và phản ứng phản biện để giải quyết sự
khác biệt (“argumentation” stage- giai đoạn “lập luận”), xác định kết quả của tranh luận
(“concluding” stage) [48, tr.55], [56, tr.530- 531]. Tất cả các giai đoạn của một diễn
ngơn đều nhằm mục đích hướng đến cuộc thảo luận phản biện. Những “trở ngại” cụ thể
có thể nảy sinh, cản trở sự phân giải sự khác biệt của ý kiến.
1.1.1.6. Nghiên cứu lập luận từ quan điểm chủ nghĩa lập luận triệt để
Trong những năm bảy mươi của thế kỷ XX, các nhà ngôn ngữ học người Pháp
O. Ducrot và J.C. Anscombre bắt đầu phát triển cách tiếp cận theo định hướng ngôn
ngữ đối với diễn ngôn lập luận. Họ đặt tên cách tiếp cận này là "Chủ nghĩa lập luận
triệt để”. Khái niệm lập luận triệt để được cô đọng lại trong tư tưởng sau: L'idée
mtresse est que la langue n'a pas comme but principal la représentation du monde,
mais l'argumentation [ý tưởng chủ đạo là mục đích chính của ngơn từ (/lời nói) khơng
phải là để trình bày thế giới mà là lập luận về chúng]. Điều này đã được trình bày
trong Les échelles argumentatives (Những thang độ lập luận) của O. Ducrot (1980), L
'argumentation dans la langue (Sự lập luận trong ngôn ngữ) của J.C. Anscombre và
O. Ducrot (1983), Le dire et Le dit (The process and product of saying- Nói và điều
nói ra) của O. Ducrot (1984).

11



Ý tưởng cơ bản của O. Ducrot và J.C. Anscombre là mọi phần diễn ngôn đều
chứa một cuộc đối thoại hiển ngôn hoặc hàm ẩn. Chúng mô tả cách “các kết tử lập
luận” (“nhưng”, “thậm chí”, “ít nhất”) và “các tác tử lập luận” (“chỉ”, “khơng ít hơn”,
và “rất”) đưa ra “sức mạnh lập luận” cụ thể và “định hướng lập luận” cho diễn ngôn
bằng cách vận dụng một lẽ thường nào đó. Theo lí thuyết của O. Ducrot và J.C.
Anscombre về hiện tượng “đa thanh”, các kết tử lập luận như “nhưng” có thể chịu
trách nhiệm về một hướng đối lập xung đột. Trong câu “Cuốn sách đó thật tuyệt vời,
nhưng thật khó hiểu” (That book is fantastic, but it is hard to understand), người
nghe, đầu tiên, có thể đồng ý trên cơ sở cho rằng sẽ là khôn ngoan khi người ta đọc
cuốn sách; (nhưng) sau đó, anh ta có thể nói rằng, điều này khơng khơn ngoan lắm
đâu. Các kết luận đối lập dựa trên các “nguyên tắc lập luận” khác nhau hoặc các lẽ
thường khác nhau: “sách càng hay, càng phải đọc”, “sách càng khó hiểu, càng không
nên đọc”. Việc sử dụng các tác tử lập luận có thể cũng tạo ra kết quả tương tự. So
sánh câu: “Ngôi nhà này giá chỉ hai tỉ” với câu “Ngơi nhà giá khơng ít hơn hai tỉ”.
Trong một ngữ cảnh nhất định, câu đầu tiên có thể hướng đến kết luận: nên “Mua
ngôi nhà”, câu thứ hai lại hướng đến kết luận: không nên “Mua ngôi nhà”. Trong câu
đầu tiên, tác tử lập luận “chỉ” vận dụng lẽ thường “Ngơi nhà càng rẻ thì càng nên
mua”; trong khi câu thứ hai, tác tử lập luận “khơng ít hơn” lại vận dụng lẽ thường
“Ngôi nhà đắt, càng không nên mua”. Điểm đặc biệt của lí thuyết “chủ nghĩa lập luận
triệt để” (O. Ducrot và J.C. Anscombre) là nó khơng nhằm mục đích phát triển các
tiêu chí để đánh giá lập luận mà chúng gợi ra mô tả riêng, cung cấp sự mô tả về các
yếu tố cú pháp và ngữ nghĩa đóng vai trị trong việc giải thích lập luận của các câu.
1.1.1.7. Nghiên cứu lập luận từ quan điểm tu từ học hiện đại
Trong những năm cuối thế kỉ XX, sự đánh giá lại về tu từ học cổ điển đã diễn ra
một cách mạnh mẽ. Theo đó, tính hợp lí hoặc khơng hợp lí của tu từ học được xem
xét lại trong các cơng trình chun ngành. Hệ quả là tu từ học được nhìn nhận có ít
hay nhiều sự đối lập với biện chứng. Một số tác giả khẳng định rằng tu từ học, chẳng
hạn, nghiên cứu các kĩ thuật thuyết phục hiệu quả có sự tương thích với ý tưởng phản
biện hợp lí trong biện chứng. Những người khác giữ quan điểm cho rằng có những
khác biệt cơ bản giữa một quan niệm tu từ và biện chứng về tính hợp lí, nhưng khơng

có lí do gì để coi quan niệm tu từ là kém hơn quan niệm biện chứng. Sự phục hồi của
tu từ học gắn liền với một sự thừa nhận chung rằng các lí thuyết chung và lí thuyết
khơng theo định hướng tu từ của lập luận đều được hòa phối với những hiểu biết tu
từ học cổ điển. Điều đáng chú ý là sự phát triển của tu từ học đã tiến triển gần như
đồng thời ở các quốc gia khác nhau. Trong Contemporary perspectives on rhetoric

12


(Quan điểm đương đại về hùng biện), Foss và Trapp (1985) đã thảo luận về hầu hết
các tác phẩm góp phần đáng kể vào sự hồi sinh của tu từ học ở Hoa Kì. Farrell (1977)
và McKerrow (1977, 1992) đã bảo vệ những tính năng hợp lí của tu từ học. Tu từ học
cũng được đưa ra bởi Wenzei (1980, 1992), nhưng được nhấn mạnh liên quan đến
logic, và chủ yếu là biện chứng. Ở Pháp, Reboul là người đầu tiên xác định vị trí tồn
diện của tu từ học trong nghiên cứu lập luận. Trong cơng trình Can there be nonrhetoricaI argumentation? (Có thể/Liệu có lập luận khơng phải là tu từ học?) (1988),
ông đã thảo luận về các đặc điểm tu từ học của lập luận: công thức bằng ngơn ngữ
thơng thường, định hướng của nó đối với khán giả, khả năng có thể (tốt nhất) của tiền
đề, sự hợp lí cần thiết trong mối liên hệ giữa tiền đề và kết luận. Mặc dù, Reboul
(1990) xem tu từ học và biện chứng như hai ngành khác nhau, nhưng chúng thể hiện
một số đặc điểm chung. Tu từ học là biện chứng được áp dụng cho các cuộc thảo
luận về các vấn đề xã hội; đồng thời, biện chứng là một phần của tu từ học, bởi vì nó
cung cấp nghệ thuật ngơn từ với các cơng cụ trí tuệ của nó. Ở Đức, Kopperschmidt
phát triển thêm một bước nữa. Trong một bài báo trình bày những phát hiện về mối
quan hệ giữa lí thuyết tu từ học và lí thuyết lập luận (1977), ơng cho rằng tu từ học là
chủ đề nghiên cứu trong lí thuyết lập luận. Điều này thống nhất với quan điểm có tính
lịch sử về tu từ học. Kienpointner (người Áo) (1991) đưa ra một sự đánh giá lại triệt
để hơn về tu từ học: ông bảo vệ quan niệm thuyết tương đối về tính hợp lí, và cho
rằng tu từ học là một trong những công cụ hiệu quả nhất để giải quyết sự bất đồng xã
hội. Ở Hà Lan, Braet đã vận dụng tu từ học có tính thú vị. Trong cơng trình Vị thế
của lí thuyết cổ điển trong viễn cảnh hiện đại, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của lí

thuyết cổ điển đối với những nghiên cứu lập luận hiện đại (1984). Ơng minh họa
quan điểm của mình bằng cách so sánh lí thuyết cổ điển này với lí thuyết về các vấn
đề thường được dùng trong các cuộc tranh luận học thuật ở Mĩ.
1.1.1.8. Nghiên cứu lập luận từ những hướng tiếp cận có ý nghĩa khác
Mỗi phương pháp tiếp cận lập luận được thảo luận cho đến thời điểm này đã
được khám phá trong một chương trình nghiên cứu tồn diện. Những đóng góp mới
gần đây cho thấy nghiên cứu lập luận là hướng nghiên cứu có sức hấp dẫn, nhưng
chúng ít tập trung vào việc phát triển một lí thuyết chung về lập luận mà đi sâu vào
phạm vi hẹp, ít phức tạp hơn. Chẳng hạn:
Đầu tiên, là nhà toán học Thụy Sĩ Jean- Blaise Grize và các đồng nghiệp Borel,
Miéville, Apothéloz đã phát triển lí thuyết “logic tự nhiên” tại Trung tâm De
recherches sémiologiques của Đại học Neuchàtel. Lí do chính là vì họ đã khơng hài
lịng với logic hình thức. Logic tự nhiên được thiết kế cho các bài diễn văn hằng ngày
vì nó được thể hiện trong lĩnh vực chính trị cũng như trong quảng cáo,... Khơng có

13


bất kì khái niệm chuẩn mực nào được chú ý về tính “chân lí” và tính “hợp lệ”, logic
tự nhiên nhằm chỉ ra “logic” của các văn bản tranh luận đó. Thuật ngữ logic ở đây đề
cập đến những cơ sở lập luận (topoi), các quy tắc được sử dụng trong lập luận và lí lẽ
đời thường. Dựa vào việc đưa ra các nét chính trừu tượng, các hình thức trình bày
thuyết phục và các hoạt động logic phức tạp trong việc tạo ra hoặc loại bỏ mâu thuẫn,
logic tự nhiên đưa ra một mô tả về sử dụng ngôn ngữ tranh luận.
Thứ hai, có một nhóm nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học về dụng học của
tiếng Pháp (Unitộ de Linguistique Franỗaise ti trng i hc Geneva). T đầu thập
niên tám mươi thế kỷ XX, họ đã có những cống hiến để đưa ra những mô tả thực
dụng về các dấu hiệu của tiếng Pháp (các liên kết thực dụng, các trạng từ phương
thức, các động từ bất quy tắc) trong một mơ hình chung về cấu trúc diễn ngơn. Nhóm
này bao gồm Auchlin, Egner, Luscher, Perrin, MoeschIer, (Anne) Reboul, Roulet,

Schelling và de Spengler. Nghiên cứu thực dụng của họ được tích hợp bởi lí thuyết
hành vi ngơn ngữ, chủ nghĩa lập luận triệt để của O. Ducrot và J.C. Anscombre,
tương tác biểu tượng của Goffman. Một đặc điểm chính yếu của cách tiếp cận này là
các hành động nói khơng được đánh giá một cách độc lập, nhưng được đánh giá
trong quan hệ của chúng với các hành động nói khác trong các lượt lời. Gần đây, sử
dụng lí thuyết quan yếu của Sperber và Wilson, họ đã thêm một thành phần nhận thức
vào "mơ hình Geneva", phân biệt giữa các cấp độ khác nhau của diễn ngôn, mô tả
mối quan hệ giữa các cấp độ này và đề xuất các dấu hiệu ngơn ngữ có thể đánh dấu
nhiều mối quan hệ.
Thứ ba, có lí thuyết về “vấn đề”, được phát triển vào đầu những năm 80 bởi nhà
triết học Bỉ Meyer nhằm hai mục tiêu: giải quyết những vấn đề triết học và mơ hình
cho lập luận. Với thái độ hồi nghi đối với logic hình thức, Meyer cho thấy mình là
một học trị thực thụ của Perelman, giáo viên của mình tại Đại học Tự do Brussels.
Theo Meyer, chức năng của bài diễn ngôn tranh luận, một mặt là cung cấp một câu
trả lời cho vấn đề cụ thể trong một ngữ cảnh xác định. Mặt khác, lập luận cũng có thể
được xem như là “vấn đề hóa” câu trả lời; là sự cơng nhận của câu hỏi đã chứa câu
trả lời (câu hỏi tu từ). Trong lập luận phi hình thức, khơng có gì đảm bảo rằng câu hỏi
đặt ra sẽ khơng cịn là câu hỏi mở, và câu trả lời cuối cùng chưa thỏa đáng: chúng chỉ
có thể được đưa ra bằng ngơn ngữ hình thức của logic nơi mà khơng có chỗ cho sự
nghi ngờ hoặc mâu thuẫn. Trong “vấn đề học”, chỉ có logic phi hình thức với “lí lẽ
khơng bị hạn chế” là đối tượng nghiên cứu chủ đạo (1986).
Thứ tư, có sự nối tiếp truyền thống trong nghiên cứu lập luận tại Đức. Nổi bật
nhất là Kopperschmidt với cách tiếp cận thơng thường về lập luận có sự kết hợp

14


giữa kiến thức tu từ học cổ điển với những hiểu biết từ lí thuyết hành động nói,
ngơn ngữ văn bản, và lí thuyết của Habermas về tính hợp lí trong giao tiếp. Ảnh
hưởng của Habermas là rõ ràng trong các cơng trình theo định hướng sinh động về

mặt ngơn ngữ. Các nhà lí thuyết Đức cố gắng áp dụng lí thuyết hành động nói và
phân tích đối thoại trong các lượt lời tranh luận nói và viết. Cơng trình của họ cũng
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi S. Toulmin. Một trong những đóng góp xây dựng lí
thuyết lập luận ở Đức là logic đối thoại của trường phái Erlangen School of
Lorenzen cum suis. Đó là nền tảng cho biện chứng hình thức của Barth và Krabbe
(đã được đề cập trong phần trước).
Thứ năm, ở Mĩ có truyền thống nghiên cứu đa dạng về lĩnh vực giao tiếp ngôn
ngữ gắn liền với các tên tuổi nổi tiếng như Willard, Zarefsky, Goodnight. Willard đã
phát triển một cách kế thừa nhận thức luận, xã hội luận về lập luận dựa trên những
hiểu biết từ hiện tượng học, tương tác tượng trưng và chủ nghĩa kiến tạo. Theo quan
điểm của ông, lập luận là một hình thức của cuộc trị chuyện nối tiếp từ những bất
đồng về ý kiến; sự tương tác giữa các tranh luận là một nguồn tri thức của con người.
Nhờ các học giả, nhà tu từ học Mĩ, giao tiếp, lập luận được tiếp cận với những sự
quan tâm khác nhau. Một cuộc khảo sát hữu ích về những đóng góp chính cho các
lĩnh vực này được được đưa ra bởi Hample và Benoit trong cơng trình “Readings in
argumentation” (1992). Bộ sưu tập này bao gồm các bài báo cổ điển của (Pamela)
Benoit, (William) Benoit, Brockriede, Burleson, Ehninger, Gouran, Gronbeck,
Hample, Jackson, Jacobs, Kneupper, McKerrow, (Daniel) O'Keefe, Rowland, Trapp,
Wallace, Wenzei , Willard và Zarefsky.
Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng là có rất nhiều tác giả, từ các
quan điểm lí thuyết khác nhau, đã chú ý đặc biệt đến các vấn đề cụ thể: tính hợp lệ/
hiệu lực (validity), các tiền đề hàm ẩn [unexpressed/ implicit premisses], các lược đồ
lập luận (argumentation schemes), cấu trúc lập luận (argumentation structures), lập
luận sai (fallacies), tính quan yếu (relevance), q trình tri nhận của diễn ngôn lập
luận (cognitive processing of argumentative discourse), tranh luận hiệu quả, giảng
dạy kĩ năng lập luận, lập luận đàm thoại, lập luận theo lĩnh vực (field- dependent
argumentation), và lập luận liên văn hóa (intercultural argumentation). Rất nhiều ấn
phẩm đã đề cập đến các vấn đề này.
Nghiên cứu biện chứng liên quan đến lĩnh vực chính trị được khởi xướng bởi
F.H. van Eemeren (2002). Ông đã thảo luận về vai trò của biện luận trong nền dân

chủ. Theo quan điểm của ông, dân chủ sẽ chỉ phát huy tác dụng nếu có thể phát triển
đầy đủ các thủ tục cho các diễn ngôn, cho phép thảo luận, phê bình có phương pháp

15


giữa các nhân vật chính với các quan điểm khác nhau (thường mâu thuẫn nhau). Năm
2009, F.H. van Eemeren và Bar Garssen đã bắt đầu nghiên cứu một dự án kiểm tra
các điều kiện tiên quyết về sự vận động có tính chiến lược trong sự tương tác hội
thoại tranh luận tại Nghị viện Châu Âu [56, tr.583-585]. Sau đó, nghiên cứu lập luận
trong lĩnh vực chính trị cũng đã được chú ý (một số cơng trình nghiên cứu lập luận
trong các diễn đàn chính trị trên mạng, các diễn ngôn trong các cuộc vận động bầu
cử, các tranh luận về một chính sách cụ thể). Đặc biệt, ngơn ngữ của các chính trị gia
tại Nghị trường cũng đã được quan tâm. Tuy nhiên, chúng chưa được xem xét và
đánh giá một cách tồn diện từ sự tích hợp các phương pháp luận khác nhau. Chẳng
hạn, có những nghiên cứu theo hướng logic học- lập luận sai của tổng thống Hoa Kì
(Obama) [42], Donal Trump [125]. Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo cũng đã tạo ra
hướng nghiên cứu lập luận trong sự vận động tương tác hội thoại dưới dạng sơ đồ
hóa mơ hình tranh luận trong các cuộc tranh luận tại Nghị trường (các bài viết:
“Modelling argumentation in parliamentary debates” của Petukhova, Volha &
Malchanau, Andrei & Bunt, Harry (2015) [79]; “Argumentation Mining in
Parliamentary Discourse” của Naderi N., Hirst G. (2016) [71] tại hội thảo quốc tế
“Mơ hình máy tính của lập luận tự nhiên” … Điểm mạnh của một số nghiên cứu này
là đã ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về các lược đồ tranh
luận tại Nghị trường.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về lập luận tại Việt Nam
Tại Việt Nam, định nghĩa về lập luận được nhắc đến bởi các nhà Việt ngữ học.
Tác giả Đỗ Hữu Châu đã cho rằng: “Lập luận là đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt
người nghe đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận nào đấy mà người nói muốn
đạt tới” [2, tr.155]. Tác giả Nguyễn Đức Dân đã viết: “Lập luận là một hoạt động

ngôn từ. Bằng công cụ ngôn ngữ, người nói đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người
nghe đến một hệ thống xác tín nào đó: rút ra một (/ một số) kết luận hay chấp nhận
một (một số) kết luận nào đó.” [4, tr.165]. Như vậy, cả hai tác giả (Đỗ Hữu Châu,
Nguyễn Đức Dân) đều thống nhất cho rằng lập luận là quá trình hoặc sản phẩm của
q trình người nói đưa ra lí lẽ để đạt mục đích nói năng. Cách định nghĩa này đã
khái quát và dung hòa được các tranh luận về phạm vi lập luận trên thế giới.
Như đã đề cập, trên thế giới, dù có nhiều quan điểm tiếp cận khi nghiên cứu
về lập luận nhưng có hai hướng nghiên cứu chính (nếu xét về những đóng góp trên
phương diện lí thuyết và thực tiễn). Đó là hướng nghiên cứu phát triển các vấn đề
về lí thuyết và hướng vận dụng nghiên cứu lí thuyết trong các lĩnh vực cụ thể. Hiện
tại, ở Việt Nam, chưa có cơng trình nghiên cứu nào có đóng góp xây dựng, phát

16


triển nền tảng lí thuyết về lập luận mà chủ yếu là các cơng trình nghiên cứu theo
định hướng vận dụng. Có cơng mở đường cho những nghiên cứu về lập luận dưới
góc độ ngữ dụng học và logic học là tác giả Đỗ Hữu Châu (1996) [2], Nguyễn Đức
Dân (1996, 1998) [3], [4], Nguyễn Thiện Giáp [18]. Cơng trình Đại cương ngôn
ngữ học của Đỗ Hữu Châu [2] và Ngữ dụng học của Nguyễn Đức Dân [4] đều đã
trình bày những vấn đề cơ bản trong lí thuyết lập luận như: khái niệm lập luận,
quan hệ lập luận, cấu trúc lập luận, lẽ thường trong lập luận… Tuy nhiên, cách tiếp
cận lại chủ yếu là giới thiệu lí thuyết lập luận theo quan điểm của O. Ducrot trên cứ
liệu tiếng Việt. Từ đó, lập luận được xem xét từ quan điểm miêu tả, phân tích diễn
ngơn. Hướng nghiên cứu này về sau được cụ thể hóa hơn bởi những miêu tả chi tiết
trong hệ thống tiếng Việt. Đầu tiên, Nguyễn Minh Lộc (1994) trong cơng trình
“Tìm hiểu kết tử nghịch hướng lập luận “nhưng” trong tiếng Việt” [25], đã chỉ ra
các đặc điểm chung của kết tử theo lí thuyết lập luận đồng thời chỉ ra một số điểm
đặc biệt của kết tử này. Tác giả Kiều Tập khi nghiên cứu “Các kết tử lập luận
“nhưng”, “tuy…nhưng…”, “thế mà/ vậy mà” và các topoi - cơ sở của lập luận” đã

khẳng định: “đặc điểm nối kết của một số kết tử “nhưng”, “tuy… nhưng…”, “thế
mà/vậy mà” đó là những kết tử ba vị trí nghịch hướng trong kết luận” [32, tr.129]…
Đến năm 2016, kết tử lập luận được nghiên cứu cả chiều rộng và chiều sâu bởi tác
giả Nguyễn Thị Thu Trang trong luận án “Kết tử lập luận trong tiếng Việt” [38]. Tác
giả đã nhận diện, thống kê và phân loại kết tử lập luận tiếng Việt; phân tích các
chức năng cơ bản của kết tử lập luận tiếng Việt trong các dạng lập luận giản đơn…
Cùng với phương pháp tiếp cận trên, về sau, dưới quan điểm phân tích diễn ngơn,
lập luận được các tác giả quan tâm nghiên cứu trong các lĩnh vực cụ thể. Có thể kể
đến các cơng trình sau: Nguyễn Thị Hường (2010): “Thể hiện quan hệ mạch lạc
theo quan hệ nguyên nhân và quan hệ lập luận trong một số văn bản hành chính
(cấp cơ sở) [21]; Chu Thị Quỳnh Phương (2016): “Lập luận trong hội thoại của
nhân vật (qua tài liệu văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930- 1945)” [30]; Nguyễn Thị
Thắm (2019): “Lập luận trong luật tục Ê đê” [36]…
Năm 2005, tác giả Nguyễn Đức Dân đã trình bày vấn đề: đại cương về lập luận,
mơ hình khái qt, lập luận theo logic, lập luận theo logic tự nhiên, những vấn đề
chung về chứng minh và bác bỏ, những sai lầm trong lập luận, ngộ biện và ngụy biện
trong công trình Nhập mơn logic hình thức, logic phi hình thức [6]. Đó là một hướng
gợi mở cho các nghiên cứu lập luận trong ngôn ngữ dựa trên cơ sở từ logic học tại
Việt Nam. Tuy nhiên, trước khi cơng trình được công bố, tác giả cũng đã hướng dẫn
một số luận án dựa trên phương pháp tiếp cận này. Đó là: “Ngôn ngữ và phương pháp

17


biện luận trong tranh cãi pháp lí” (Lê Tơ Thúy Quỳnh, 2002) [5], “Phương thức lập
luận trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc và Phương Tây” (Trần Thị Giang, 2005)
[17]. Trong khi trên thế giới, lập luận được nghiên cứu từ rất nhiều hướng tiếp cận lí
thuyết khác nhau thì ở Việt Nam, lập luận vẫn chủ yếu được quan tâm trên quan điểm
miêu tả như trên. Thấy được những hạn chế này, tác giả Nguyễn Đức Dân đã cập
nhật lí thuyết logic phi hình thức với bài viết “Giới thiệu lơ gích phi hình thức”

(2013) [7]. Trong bài báo này, ông đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc
nghiên cứu lập luận gắn liền với logic phi hình thức. Sau đó, một số cơng trình
nghiên cứu là các luận án đã tiếp tục phát triển hướng tiếp cận này. Có thể kể đến các
cơng trình: “Logic-ngữ nghĩa và lập luận” (Nguyễn Duy Trung, 2014) [39]; “Lập luận
trong tiểu phẩm trào phúng (trên cứ liệu tiếng Việt)” (Trần Trọng Nghĩa, 2016) [28].
Các nghiên cứu này đã có sự vận dụng linh hoạt kết hợp giữa cách tiếp cận theo quan
điểm miêu tả (ngữ nghĩa) và logic. Tuy nhiên, một trong những vấn đề khá thú vị và
đạt được nhiều thành quả nghiên cứu trên thế giới khi nói đến logic là Lập luận sai
(Fallacy) thì tại Việt Nam, đến thời điểm hiện tại; chưa nhiều cơng trình nghiên cứu
chun sâu và có tính ứng dụng về nó. Thay vào đó, chỉ có số ít những bài viết nhỏ lẻ
trên các trang mạng. Tuy nhiên, một là, những lập luận sai chỉ được trình bày lồng
ghép trong khi tìm hiểu về sự vi phạm các phương pháp, quy tắc suy luận từ quan điểm
của các nhà logic học; hai là, chúng được trình bày độc lập nhưng vụn vặt, chưa đề
xuất được danh sách đầy đủ về các lập luận sai và chưa có được cơ sở phân tích biện
chứng [120], [122]... Đáng chú ý, hướng nghiên cứu này đã được quan tâm bởi tác giả
Nguyễn Minh [27], Nguyễn Đức Dân [14]. Tác giả Nguyễn Minh là người đầu tiên và
duy nhất tính đến thời điểm hiện tại, trong giới Việt ngữ học đã khái quát về quá trình
nghiên cứu ngụy biện trên thế giới, phân tích mối quan hệ ngụy biện và mạch lạc dựa
theo hướng tiếp cận của D. Walton trên cứ liệu diễn ngơn báo chí. Hai điểm quan trọng
theo hướng tiếp cận của D. Walton là các kiểu hội thoại tranh biện và vai trò của ngữ
cảnh khi xem xét các ngụy biện (fallacy)3 được tác giả đề cập trong cơng trình Mối liên
hệ giữa mạch lạc và ngụy biện trong lập luận. Tuy nhiên, tác giả chưa có điều kiện
nghiên cứu về lập luận trong sự tương tác hội thoại tranh biện.
Trong khi đó, lập luận trong ngơn ngữ đời thường chỉ có thể được lĩnh hội trọn
vẹn nhờ đến bối cảnh lập luận (theo đánh giá D. Walton [83], F.H. van Eemeren [54],
[55]). Vì thế, lí thuyết dụng học biện chứng có vai trò quan trọng cần phải được nhắc
đến khi xem xét các lập luận, đặc biệt là các lập luận trong tranh luận.

3 Chúng tôi tạm dịch là lập luận sai.


18


×