Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận nguyên nhân kinh tế xã hội của tội phạm môi trường hiện nay và những vấn đề rút ra đối với công tác phòng ngừa (tội phạm học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.03 KB, 21 trang )

KHOA LUẬT ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
---0-0---

TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: TỘI PHẠM HỌC
Giảng viên: TS Nguyễn Anh Tuấn
Đề tài: Nguyên nhân kinh tế- xã hội của tội phạm môi trường hiện nay và những
vấn đề rút ra đối với công tác phòng ngừa

Hà Nội – 2022

1


2


Thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế những năm qua cho thấy, Việt Nam đã mở ra
một giai đoạn mới trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh hiệu quả về phát triển kinh tế – xã hội, Việt Nam
cũng đối diện với vấn đề môi trường bị ô nhiễm. Các khu công nghiệp, làng nghề, khu
đơ thị được hình thành nhanh chóng làm cho nguồn rác thải công nghiệp cũng như rác
thải sinh hoạt đưa vào môi trường ngày càng nhiều, gây ô nhiễm không khí, đất, nước.
Hầu hết các khu cơng nghiệp chưa có hệ thống xử lý mơi trường tập trung hoặc
có nhưng hoạt động chỉ mang tính chất đối phó; việc các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
xả nước thải trực tiếp ra sơng, biển là khá phổ biến. Tình trạng nhập khẩu trái phép
chất thải vào nước ta dưới hình thức phế liệu làm nguyên liệu sản xuất trong nước, kể
cả thiết bị công nghệ lạc hậu dẫn đến nguy cơ biến nước ta thành bãi thải cơng
nghiệp. Tình trạng săn bắt, buôn bán động vật hoang dã, quý hiếm xảy ra hết sức
nghiêm trọng, làm giảm tính đa dạng sinh học; số vụ ngộ độc thực phẩm, ngộ độc hóa
chất bảo vệ thực vật tăng nhanh làm cho tình hình tội phạm về môi trường và vi phạm


pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam ngày càng gia tăng, khơng những ảnh
hưởng tới tính mạng, sức khỏe và tài sản của cá nhân, tổ chức mà còn gây thiệt hại
nghiêm trọng đối với mơi trường nói chung.
Theo số liệu thống kê của Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường (C05)
Bộ Công an, trong 11 năm qua (từ năm 2010 đến năm 2020), toàn lực lượng đã phát
hiện 170.875 vụ vi phạm pháp luật về môi trường; xử lý hành chính 141.000 vụ, khởi
tố 2.624 vụ với 4.357 bị can; xử phạt vi phạm hành chính 97.000 vụ với số tiền 1.166
tỉ đồng1. Đặc biệt, đã điều tra, xử lý nhiều vụ phạm tội về môi trường, tập trung vào
lĩnh vực tài nguyên khoáng sản, an tồn thực phẩm. Số liệu của Tịa án nhân dân tối
cao cho thấy, trong 11 năm từ năm 2010 đến năm 2020, hệ thống tòa án nhân dân đã
thụ lý 2.842 vụ án về môi trường với 4.445 bị cáo. Trong đó xét xử 2.237 vụ với
4.145 bị cáo phạm tội về môi trường, chiếm 0,37% tổng số vụ án hình sự đã xét xử2.
Số liệu thống kê trên cho thấy tình hình tội phạm về mơi trường diễn ra có xu
hướng ngày càng tăng, nhưng chủ yếu mới chỉ điều tra, khởi tố và đưa ra xét xử đối
với các hành vi vi phạm thuộc các tội danh: “Gây ô nhiễm môi trường” (Điều 235 Bộ
luật Hình sự, chỉ khởi tố được cá nhân phạm tội), “Hủy hoại rừng” (Điều 243 Bộ luật
Hình sự) và tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã, quý hiếm” (Điều
244) và gần đây nhất tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp gây hậu quả
1 Cục Cảnh sát phịng chống TPMT, Báo cáo tổng kết cơng tác, phịng chống TPMT năm 2015 đến năm 2020.
2 Tòa án nhân dân tối cao, Vụ Thống kê (2019), Thống kê xét xử các vụ án về môi trường từ năm 2009 đến năm 2020

3


đặc biệt nghiêm trọng đối với nhân loại, chúng ta đã khởi tố, truy tố, xét xử hành vi
“Làm lây lan dịch bệnh” (Điều 240). Trong khi đó, các tội danh khác, mặc dù gây hậu
quả rất nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người dân và môi trường xung quanh
nhưng khơng thể truy cứu trách nhiệm hình sự được. Điển hình như vụ Vedan,
Nicotex Thanh Thái, Hào Dương, Formosa Hà Tĩnh và gần đây nhất là vụ gây ô
nhiễm nước sạch sông Đà chỉ xử lý được cá nhân, trong khi pháp nhân thương mại

(chủ quản lý nguồn chất thải nguy hại) thì khơng xử lý được…

I. Các khái niệm
1. Khái niệm tội phạm về môi trường

Tội phạm về môi trường là tội phạm về môi trường xâm phạm đến các quan hệ
xã hội liên quan đến việc bảo vệ mơi trường tự nhiên thuận lợi, có chất lượng, đến
việc sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên thiên nhiên và việc bảo đảm an ninh sinh thái
đối với dãn cư.
Các tội phạm về môi trường là những hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm
các quy định của Nhà nước về bảo vệ mơi trường, qua đó gây thiệt hại cho mơi
trường.
2. Phân loại các loại hình tội phạm môi trường

– Các tội phạm về môi trường trong BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 được
chia thành 4 nhóm và sắp xếp theo trật tự sau:
Nhóm 1: Các hành vi gây ô nhiễm môi trường (các Điều 235, 236, 237 và 239 BLHS)
Nhóm 2: Các hành vi làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người và động vật (Điều
240 và Điều 241);
Nhóm 3: Các hành vi hủy hoại tài nguyên môi trường (Điều 242 và Điều 243);
Nhóm 4: Các hành vi xâm phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đối với một số đối tượng môi
trường (Điều 238, Điều 244, Điều 245 và Điều 246).
Tội phạm môi trường đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, biến đổi khí hậu,
chất lượng mơi trường suy giảm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng
đồng và sự phát triển bền vững của đất nước. Trên một số địa bàn, lĩnh vực, hoạt động
tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường gây phức tạp tình hình an ninh trật tự,
trong đó điển hình ở một số lĩnh vực sau:

4



1. Lĩnh vực công nghiệp, xây dựng cơ bản, môi trường đơ thị

Cả nước hiện có khoảng 223 khu cơng nghiệp (trong đó có 171 khu đã hoạt động, 52
khu đang trong quá trình xây dựng hạ tầng kỹ thuật) và khoảng trên 1000 khu/cụm
công nghiệp do UBND các tỉnh, thành phố quyết định thành lập. Tuy nhiên, theo
thống kê của Bộ Tài ngun và Mơi trường, chỉ có khoảng 43% số khu cơng nghiệp
đã đi vào hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung (kể cả các hệ thống hoạt
động chưa hiệu quả).
Nguyên nhân chính của tình hình trên là do các chủ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
không thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về môi trường, không lập
Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) theo quy định; Không lập Báo cáo
ĐTM bổ sung khi thực hiện đầu tư mở rộng sản xuất; Không xử lý chất thải, các
chất độc hại để giảm thiểu ô nhiễm trước khi xả thải vào môi trường; Không đầu
tư hệ thống xử lý nước thải cơng nghiệp theo quy định hoặc có nhưng khơng vận
hành hoặc chỉ vận hành để đối phó.
- Ơ nhiễm môi trường ở khu vực đô thị ngày càng gia tăng, chủ yếu là ơ nhiễm khơng
khí do phương tiện giao thông, hoạt động xây dựng và chất thải sinh hoạt. Tại nhiều
dự án xây dựng khu đô thị, khu chung cư, công tác đánh giá tác động môi trường chỉ
mang tính thủ tục.
Ngun nhân chủ yếu của tình hình trên là do việc chấp hành pháp luật BVMT
trong lĩnh vực xây dựng cơ bản gần như bị xem nhẹ trong thời gian dài, các yêu
cầu BVMT trong quá trình triển khai dự án hầu như chỉ mang tính thủ tục, thiếu
cơ chế giám sát thực hiện.
2. Lĩnh vực tài ngun khống sản, đa dạng sinh học

- Tình hình vi phạm pháp luật mơi trường trong lĩnh vực khống sản diễn ra nghiêm
trọng. Hiện cả nước có trên 1.500 tổ chức tham gia hoạt động thăm dị, khai thác
khống sản, nhưng hầu hết đều không chấp hành nghiêm túc quy định pháp luật về
BVMT. Các hành vi vi phạm phổ biến là: không thực hiện, hoặc thực hiện không đầy

đủ báo cáo đánh giá tác động môi trường, cam kết BVMT trong q trình khai thác,
chế biến khống sản; khơng thực hiện việc xây dựng cơng trình xử lý nước thải hoặc
thực hiện không đúng những nội dung xây dựng cơng trình xử lý chất thải trong bản
đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường; Xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép; khơng
phục hồi, hồn thổ hồn ngun mơi trường sau khai thác...
Nguyên nhân của tình trạng trên, một mặt do các cơ sở khai thác, kinh doanh
khoáng sản không chấp hành nghiêm túc pháp luật BVMT, dùng nhiều phương
5


thức, thủ đoạn thực hiện hành vi vi phạm; mặt khác do điều kiện các điểm khai
thác đều nằm ở các vùng sâu, vùng xa, trong khi công tác quy hoạch mỏ, quản lý
nhà nước về lĩnh vực này chưa được quan tâm đúng mức.
- Trong lĩnh vực bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, theo thống kê sơ bộ, mỗi năm
bình quân xảy ra 7.000 – 8.000 vụ phá rừng, làm mất gần 6.000 ha/năm; khoảng gần
20.000 vụ vận chuyển, chế biến lâm sản trái phép. Phương thức thủ đoạn vi phạm phổ
biến như: Thuê người dân địa phương khai thác, vận chuyển gỗ, thu gom, tập kết gỗ
tại những điểm bí mật rồi tổ chức vận chuyển đến nơi tiêu thụ; dùng hóa chất, chặt,
đốt cho cây chết dần để khai thác; thường xuyên thay đổi phương tiện vận chuyển; sử
dụng giấy tờ hợp pháp để quay vòng nhiều lần; làm giả dấu búa kiểm lâm; vận chuyển
với khối lượng dưới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu bị bắt giữ, tịch thu
hàng hóa thì tìm cách mua thanh lý…
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do lợi nhuận rất cao từ việc buôn bán
lâm sản, động vật hoang dã quý hiếm, nên các đối tượng lợi dụng các sơ hở trong
chính sách pháp luật, những khó khăn trong cơ chế quản lý của chính quyền và cơ
quan chuyên ngành các cấp để thực hiện các hành vi vi phạm. Nhu cầu về sử dụng
các loại lâm sản, sản phẩm từ động vật rừng là rất lớn, nên đó cũng là điều kiện
thuận lợi cho các đối tượng vi phạm.
3. Lĩnh vực nông nghiệp, nơng thơn, làng nghề


- Hiện nay, cả nước có 98 cơ sở sản xuất thuốc bảo vệ thực vật, trong đó chỉ có
khoảng 1/3 tổng số cơ sở nằm trong các khu cơng nghiệp tập trung, cịn lại nằm rải
rác bên ngoài, xen kẽ trong các khu dân cư gây khó khăn cho cơng tác quản lý, tiềm
ẩn nguy cơ gây ơ nhiễm mơi trường. Cả nước hiện có 260 kho thuốc bảo vệ thực vật,
chủ yếu là các loại thuốc quá hạn sử dụng là tang vật của một số vụ việc vi phạm chưa
được xử lý, có từ kết quả công tác thanh tra, kiểm tra, điều tra xác minh theo thủ tục
tố tụng hình sự, hành chính cịn tồn đọng, phần lớn số thuốc này chưa được tiêu huỷ
theo đúng quy định, công tác lưu giữ, bảo quản chưa được quan tâm đúng mức, gây
tác động xấu đến môi trường, ô nhiễm nặng tới môi trường đất và nguồn nước. Trong
đó có 14 kho thuốc bảo vệ thực vật nằm trong diện Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg
ngày 22/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt "Kế hoạch xử lý triệt để
các cơ sở gây ô nhiễm mơi trường nghiêm trọng".
Ngun nhân chính của tình trạng trên là do là do công nghệ sản xuất ở các làng
nghề rất lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ thường là hộ cá thể, khơng đủ năng lực tài
chính, kỹ thuật để đầu tư công nghệ xử lý chất thải, một phần do hiểu biết và ý
6


thức BVMT của nhân dân còn hạn chế, do tập qn, lịch sử để lại, một mặt khác
có khơng ít cơ sở tại các làng nghề chỉ chạy theo lợi nhuận, cố tình khơng xử lý
chất thải nhằm giảm thiểu chi phí; Chưa có cơ quan quản lý nhà nước về môi
trường ở các làng nghề hoặc công tác quản lý mơi trường lĩnh vực này cịn lỏng
lẻo, hạn chế và chồng chéo.
- Trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, cùng với việc phát triển chăn nuôi gia súc,
gia cầm và nuôi trồng thủy sản, cây lượng thực, hoa màu kéo theo tình trạng ơ nhiễm
mơi trường nghiêm trọng, nhất là ô nhiễm nguồn nước tại các sông, kênh, hồ, mương,
đồng ruộng, ơ nhiễm khơng khí ở khu vực nơng thơn.
Ngun nhân của tình trạng trên là do phần lớn lượng chất thải từ chăn nuôi,
nuôi trồng thủy sản không được xử lý mà thải trực tiếp ra kênh mương, đồng
ruộng; lạm dụng hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật; vỏ bao thuốc bảo vệ thực vật

không được thu gom, xử lý triệt để. Công tác quy hoạch vùng chăn nuôi, quản lý
môi trường ở khu vực nông nghiệp, nông thôn chưa được quan tâm đúng mực,
gần đây mới chỉ chú trọng đến việc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm đối với
hàng nông sản thực phẩm.
4. Lĩnh vực thương mại, xuất nhập khẩu và quản lý chất thải nguy hại

- Tình trạng nhậu khẩu trái phép rác thải công nghiệp, chất thải nguy hại, phế liệu
chưa được làm sạch vào Việt Nam diễn biến phức tạp. Mỗi năm có hàng trăm nghìn
tấn rác thải, phế liệu được nhập khẩu vào nước ta như nhựa phế liệu, sắt phế liệu, thiết
bị máy tính cũ, ắc quy chì cũ... Có dấu hiệu hình thành các băng, ổ nhóm, đường dây
vận chuyển, kinh doanh rác. Tình trạng trên xảy ra phổ biến ở các cảng biển lớn như
Hải Phòng, Quảng Ninh, TP. Hồ Chí Minh, chưa kể lượng hàng hóa được nhập lậu
qua cửa khẩu, đường biên giới, nhất là khu vực biên giới Tây Nam. Phương thức, thủ
đoạn mà đối tượng vi phạm thường sử dụng là khai báo gian dối, ngụy trang tinh vi,
lợi dụng chính sách tạm nhập tái xuất, nhập nguyên liệu sản xuất, khi bị phát hiện thì
từ chối nhận hàng với lý do gửi nhầm, lập cơng ty ma... Điển hình các vụ của Công ty
cổ phần Cửu Long Vinashin, Công ty TNHH Thế kỷ mới, Cơng ty cổ phần Kim khí
Sài Gịn, Cơng ty TNHH Anh Trang...
Ngun nhân chính của tình trạng trên là do các tổ chức, cá nhân hoạt động trong
lĩnh vực trên thu được lợi nhuận rất cao từ việc nhập khẩu, kinh doanh rác thải
nên thường xuyên cố tình vi phạm; Hệ thống văn bản pháp luật có liên quan đến
lĩnh vực này chưa rõ ràng, cụ thể, do đó dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong cơng

7


tác quản lý, công tác điều tra, xử lý; Công tác quản lý nhà nước của các cơ quan
chức năng tại một số địa phương có phần cịn bng lỏng.
- Trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại, số lượng chất thải nguy hại phát sinh từ
hoạt động sản xuất công nghiệp, làng nghề, lĩnh vực y tế, từ các vụ vi phạm pháp luật

trong nhập khẩu phế liệu... rất lớn (tính riêng lượng chất thải nguy hại từ các làng
nghề trên toàn quốc ước đạt trên 2800 tấn/ngày) nhưng chưa được xử lý đúng quy
định pháp luật.
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do nhiều doanh nghiệp, cá nhân chỉ
chạy theo lợi nhuận, cố tình khơng xử lý chất thải nguy hại nhằm giảm chi phí; do
nhu cầu mưu sinh từ trước đến nay nhiều nơi trở thành nghề có thu nhập; năng
lực xử lý chất thải nguy hại chưa đáp ứng đủ nhu cầu; hệ thống pháp luật và công
tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này chưa chặt chẽ, có nơi thiếu sự quan tâm
thỏa đáng.
5. Lĩnh vực môi trường y tế và an toàn vệ sinh thực phẩm

- Hiện nay, trên toàn quốc có khoảng 13.640 cơ sở khám chữa bệnh các loại với tổng
số hơn 220.000 giường bệnh (trong đó có khoảng 1.300 cơ sở khám chữa bệnh tuyến
Trung ương, tỉnh, huyện, bệnh viện ngành). Với số lượng như trên, tổng lượng chất
thải rắn y tế phát sinh khoảng 500 tấn/ngày, trong đó tỷ lệ chất thải y tế nguy hại
chiếm khoảng 20%, chưa tính hàng triệu m3 nước thải y tế.
Ngun nhân của tình trạng trên là do cơng tác quản lý chất thải y tế chưa được
chú trọng, bị bng lỏng trong một thời gian dài trước khi có những vụ việc mang
tính cảnh báo; Nhu cầu khám chữa bệnh tăng cao trong khi kinh phí đầu tư hạ
tầng của các cơ sở khám chữa bệnh chưa đáp ứng, có tình trạng vừa hoạt động
vừa xây dựng; Một số bệnh viện, cơ sở y tế và nhân viên coi thường pháp luật, cố
tình thực hiện hành vi vi phạm vì động cơ vụ lợi.
- Trong lĩnh vực vệ sinh an tồn thực phẩm, tình hình vi phạm diễn ra rất nghiêm
trọng, nguy cơ ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua đường thực phẩm, số người
mắc bệnh và tử vong do ăn phải thực phẩm khơng an tồn ngày một tăng cao.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do sự suy giảm đạo đức kinh doanh
của một bộ phận doanh nghiệp, cá nhân, chỉ chú trọng lợi nhuận, bất chấp sức
khỏe người tiêu dùng; Thói quen, ý thức tiêu dùng, mức sống của một bộ phận
nhân dân, nhất là khu vực nơng thơn cịn thấp, thường không đề cao chất lượng,
chủ yếu chỉ chú ý giá cả…

8


2. Phân tích cụ thể về Nguyên nhân kinh tế xã hội, điều kiện, phương
thức, thủ đoạn của tội phạm về môi trường

Đất nước ta trong thời kỳ hội nhập quốc tế, nhiều chính sách ưu đãi nhằm thu
hút vốn đầu tư trên các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; nhập khẩu máy móc, phương
tiện, thiết bị… phục vụ cơng nghiệp hóa hiện đại hóa. Tuy nhiên, cơng tác quản lý nhà
nước trong các lĩnh vực này chưa chặt chẽ, cơ chế không rõ ràng là điều kiện phát
sinh vi phạm.
Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng này là do doanh nghiệp không
tuân thủ các đánh giá tác động môi trường đã được các cơ quan nhà nước phê duyệt.
Đồng thời về phía các cơ quan quản lý Nhà nước hiện vẫn cịn thiếu cơng cụ để quản
lý, kiểm sốt mơi trường, nhất là khi các nhà máy bắt đầu triển khai hoạt động.
Theo các chuyên gia môi trường, việc triển khai thực hiện công tác đánh giá
môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và bản cam kết bảo vệ môi
trường vừa là phương tiện hữu hiệu trong lĩnh vực quản lý nhà nước, vừa là công cụ
để bảo vệ sản phẩm của doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh trong nước và sản phẩm
hàng hoá, thiết bị, máy móc… nước ngồi khi họ tham gia thị trường Việt Nam, phù
hợp với hệ thống pháp luật trong nước và quốc tế.
Tuy nhiên, công tác xây dựng báo cáo đánh giá môi trường chiến lược và báo
cáo đánh giá tác động mơi trường hiện cịn nhiều bất cập do chất lượng cán bộ tư vấn
và nhận thức của đơn vị chủ quản chưa thực sự coi trọng công tác này. Chất lượng
báo cáo đánh giá tác động mơi trường của nhiều dự án hiện cịn thấp, biện pháp bảo
vệ mơi trường thiếu tính khả thi.
Tiến sỹ Nguyễn Khắc Kinh, nguyên Vụ trưởng Vụ Thẩm định và Đánh giá tác
động môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường nêu ví dụ, đối với một dự án tương
đương dự án thủy điện Hịa Bình, quốc tế sẽ phải tiêu tốn 5 triệu USD trong khoảng 5
năm để thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường. Thế nhưng ở Việt Nam chỉ

chi khoảng 700 triệu đến 800 triệu đồng và thực hiện trong thời gian 2 tháng.
Phó Giáo sư – Tiến sỹ Nguyễn Đình Hoè, Trưởng ban phản biện xã hội, Hội
Bảo vệ thiên nhiên và Môi trường Việt Nam cho rằng: “Khâu thẩm định cấp phép của
các cấp thẩm quyền không coi trọng đủ mức về vấn đề môi trường, cho nên đến 80%
khu công nghiệp của chúng ta khơng có hệ thống xử lý nước thải mà vẫn hoạt động.
Ai cho phép hoạt động, ai cấp phép cho họ? Đây là do cơ quan có thẩm quyền khi cấp
phép, thẩm định hoạt động đã khơng tính đến việc đó. Cho nên hiện nay, kiểm sốt
vấn đề này rất khó khăn.”
9


Với hàng loạt sự cố môi trường xảy ra trong thời gian gần đây cho thấy, việc
giám sát xả thải của Việt Nam hiện đang rất yếu, vì vậy, phải có thêm sự giám sát của
bên thứ 3 là người dân và các tổ chức dân sự. Tuy nhiên, để có thể thực hiện việc
giám sát, người dân và các tổ chức dân sự cần được tiếp cận các thông tin về báo cáo
đánh giá tác động môi trường và kế hoạch quản lý môi trường của từng dự án. Điều
này khơng mấy khó khăn trong điều kiện mạng Internet phổ biến và dễ tiếp cận như
hiện nay.
Theo các nhà chuyên môn, ở nhiều địa phương, ban ngành hiện nay, công tác
đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và bản cam kết bảo vệ
môi trường mới chỉ dừng ở việc xem xét tác động môi trường và giảm thiểu ơ nhiễm,
cịn q trình hậu kiểm báo cáo đánh giá tác động môi trường sau khi dự án đi vào
đầu tư, hoạt động thì hầu như chưa có.
Chính vì vậy, đã dẫn đến một loạt lỗ hổng trong việc kiểm tra, giám sát và kiểm
soát việc xả thải. Đơn cử như vụ Công ty trách nhiệm hữu hạn Gang thép Hưng
nghiệp Formosa Hà Tĩnh, sau báo cáo đánh giá tác động môi trường sơ lược, đã có
hơn 50 hành vi sai phạm, trong đó, có hành vi tự ý thay đổi công nghệ từ xử lý cốc
khô (là công nghệ thân thiện) sang công nghệ xử lý cốc ướt (là công nghệ phát tán rất
nhiều chất thải).
Chính những hành vi này đã gây ra những hệ lụy khơng nhỏ về mơi trường cần

có biện pháp xử phạt có tính răn đe các hành vi vi phạm; tăng cường việc hậu kiểm.
Đồng thời, sẽ có các mức hình phạt tương ứng với từng mức độ hành vi, dựa trên
nguyên tắc: vi phạm càng lớn, mức xử phạt càng cao
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu, chưa đồng bộ, chế tài chưa đủ
mạnh để răn đe; cơ sở pháp lý bảo đảm cho hoạt động của các lực lượng chuyên trách,
trong đó có lực lượng Cảnh sát mơi trường chưa hồn chỉnh nên cơng tác phát hiện,
điều tra, xử lý của các lực lượng này chưa mạnh mẽ, chưa tương xứng với yêu cầu
nhiệm vụ hiện nay.
Do áp lực tăng trưởng kinh tế địa phương, nhận thức chưa đầy đủ về hậu quả
của tội phạm mơi trường nên chính quyền một số địa phương, ban ngành kêu gọi đầu
tư dàn trải, cấp phép kinh doanh ồ ạt, không quan tâm đến việc thẩm định ảnh hưởng
của các dự án đối với môi trường; chỉ quan tâm đến lợi ích kinh tế trước mắt, chưa
chú trọng đúng mức đến công tác bảo vệ môi trường.

10


Vụ án về môi trường thường liên quan đến nhiều tội danh khác nhau như tội
danh về buôn lậu, buôn bán hàng cấm, hối lộ, tham nhũng 3… nên phần tội danh về
môi trường thường bị xem nhẹ, chưa kiên quyết tập trung điều tra, xử lý. Hậu quả của
tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về mơi trường phần lớn khơng xảy ra ngay
mà tích lũy theo thời gian, do vậy trong hoạt động điều tra khơng xác định rõ tính
chất, mức độ nguy hiểm, khơng đánh giá đầy đủ thiệt hại gây ra nên thường chỉ xử lý
bằng các biện pháp nhẹ (xử lý hành chính, cảnh cáo, nhắc nhở) khơng đủ mức độ răn
đe và phòng ngừa tái phạm.
Về phương thức và thủ đoạn của tội phạm môi trường:
Hoạt động của tội phạm môi trường thường diễn ra khá phức tạp và hành vi
phạm tội thường có sự chuẩn bị trước; người phạm tội có kiến thức, trình độ chun
mơn kỹ thuật cao; tội phạm thường câu kết với một số cán bộ thoái hóa trong cơ quan
chức năng và chính quyền địa phương để được che chở, lách luật hoặc tìm cách cản

trở hoạt động của lực lượng Cảnh sát môi trường và cơ quan chức năng. Nghiêm
trọng hơn là sự câu kết giữa tội phạm môi trường trong nước với cá nhân, tổ chức ở
nước ngồi tìm mọi kẽ hở của pháp luật và sơ hở trong công tác quản lý để nhập khẩu
vào nước ta công nghệ, thiết bị lạc hậu; phế liệu có lẫn chất thải độc hại, dần biến
nước ta thành bãi rác thải công nghiệp của các nước phát triển (trong lĩnh vực xuất
nhập khẩu).4
Hậu quả do tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường gây ra khơng xác
định mức độ được ngay mà có tính tích lũy theo thời gian. Do đó các cơ quan thực thi
pháp luật thường có tâm lý chủ quan, xem nhẹ, thiếu quyết liệt trong đấu tranh, xử lý.
Quá trình điều tra, xử lý vi phạm pháp luật về môi trường, các cơ quan chức năng
thường bị nhiều yếu tố tác động, thậm chí bị đối tượng vi phạm cản trở bằng thủ đoạn
như thông qua các hội nghề nghiệp, phương tiện thông tin đại chúng và các cơ quan
chức năng để bao biện, do đó rất khó khăn cho công tác xử lý.
Trong một số lĩnh vực như xuất nhập khẩu, các đối tượng lợi dụng chính sách
“tạm nhập, tái xuất” và sơ hở trong công tác kiểm tra, giám sát, làm giả giấy tờ các cơ
quan chức năng trong và ngồi nước, sử dụng “thủ đoạn trá hình” như kê khai hải
quan gian dối hoặc kê khai hàng miễn kiểm, nguyên liệu sản xuất, thiết bị chuyển giao
công nghệ, dự án phát triển kinh tế…, câu kết với các tổ chức nước ngồi để đối phó
3 Cục Cảnh sát phịng chống TPMT, Báo cáo tổng kết cơng tác, phịng chống TPMT từ năm 2015 đến năm 2020
4 Ngơ Ngọc Diễm & Trần Thị Hoài Anh (2016), “Bàn về tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trong Bộ luật
Hình sự năm 2015”, Tạp chí Tòa án nhân dân, tr 1-5

11


với cơ quan chức năng Việt Nam, khi bị phát hiện thì khai là “gửi nhầm hàng” và xin
được chuyển trả…
Trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên, bảo vệ rừng, lợi dụng việc giải phóng mặt
bằng, các dự án tái định cư, phát quang biên giới, chuyển đổi “rừng nghèo” trồng cao
su… trong điều kiện địa bàn rộng, hiểm trở, lực lượng quản lý lỏng lẻo để hoạt động

khai thác vận chuyển lâm sản, săn bắt động vật rừng, khai thác khoáng sản trái
phép… Đối với lĩnh vực sản xuất cơng nghiệp, khi lập dự án, doanh nghiệp khơng có
báo cáo đánh giá tác động môi trường, không đăng ký sổ chủ nguồn thải chất thải
nguy hại để tránh bị giám sát, kiểm tra và quan trắc môi trường định kỳ; không đầu tư
vốn để xây dựng, vận hành hệ thống xử lý chất thải; có hệ thống xử lý chất thải nhưng
không vận hành hoặc chỉ vận hành đối phó khi có thanh tra, kiểm tra.
Trong lĩnh vực y tế, lợi dụng những kẽ hở trong các văn bản quy định về công
tác quản lý chất thải y tế, sự lỏng lẻo trong quản lý của các cơ quan chức năng, một số
bệnh viện hoặc cán bộ, nhân viên bệnh viện thu gom chất thải để bán cho tư thương
nhằm thu lợi nhuận. Trong hoạt động dịch vụ xử lý chất thải, các tổ chức, cá nhân ký
hợp đồng với các đối tượng khơng có chức năng thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải,
hoặc có chức năng nhưng do không kiểm tra giám sát nên đã sử dụng phương tiện vận
chuyển không chuyên dụng, không xử lý, phân loại chất thải sau khi thu gom, chôn
lấp xuống đất khơng đúng quy trình, chơn lẫn rác thải nguy hại với rác thải thông
thường…

III. Kết quả công cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm về
mơi trường cụ thể qua từng giai đoạn
Theo số liệu thống kê của Cục Cảnh sát phịng, chống tội phạm mơi trường
(C49) Bộ Cơng an, trong 10 năm qua (từ 2006 đến 2015), toàn lực lượng đã phát hiện,
xử lý hơn 100.000 vụ vi phạm pháp luật về môi trường; khởi tố hơn 3.000 vụ với
4.300 bị can; xử phạt vi phạm hành chính 97.000 vụ với số tiền 1.166 tỷ đồng. Đặc
biệt, đã điều tra, xử lý nhiều vụ phạm tội môi trường, tài nguyên, an toàn thực phẩm
nghiêm trọng, phức tạp, gây bức xúc trong nhân dân.
Trong khi đó, cũng trong 10 năm (2006 đến 2015), hệ thống Tòa án nhân dân đã thụ
lý 2.331 vụ, với 4.342 bị cáo. Trong đó, xét xử 2.237 vụ, với 4.145 bị cáo phạm tội về
môi trường, chiếm 0,37% tổng số vụ án hình sự đã xét xử. (Theo số liệu Tòa án nhân
dân tối cao).

12



Qua số liệu thống kê trên cho thấy, trong giai đoạn này công tác điều tra, truy
tố, xét xử tội phạm về môi trường bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy
nhiên, hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm về môi trường vẫn gặp
nhiều khó khăn và bộc lộ những hạn chế. Thực tế, trong giai đoạn này, chúng ta chủ
yếu mới chỉ điều tra khởi tố và đưa ra xét xử đối với các hành vi vi phạm thuộc hai tội
danh: Hủy hoại rừng và tội Vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã, quý hiếm.
Trong khi đó, các tội danh khác, mặc dù gây hậu quả rất nghiêm trọng cho sức khỏe,
tài sản của người dân và môi trường xung quanh nhưng khơng thể truy cứu trách
nhiệm hình sự được. Điển hình như vụ Vedan, Nicotex Thanh Thái, Hào Dương và
gần đây nhất là vụ Formosa Hà Tĩnh… vấn đề xử lý hình sự đều được đặt ra, song kết
quả chỉ dừng lại ở xử lý vi phạm hành chính.
Ngày nay, với Lực lượng Cảnh sát mơi trường đã tập trung tham mưu cho
các cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình góp phần hồn
thiện cơ sở pháp lý phục vụ công tác đấu tranh PCTP và vi phạm pháp luật về mơi
trường, tài ngun, an tồn thực phẩm, điển hình như: Đề xuất, tham mưu xây dựng
Pháp lệnh Cảnh sát môi trường năm 2014, Nghị định số 105/2015/NĐ-CP ngày
20/10/2015 hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Cảnh sát mơi trường; tham
gia góp ý xây dựng Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Tham
mưu xây dựng Thông tư số 80/2019/TT-BCA ngày 27/11/2019 của Bộ Công an hướng
dẫn thực hiện Điều 7, Điều 8 Nghị định 105/2015/NĐ-CP... Trên cơ sở đó, lực lượng
Cảnh sát môi trường đã xác định đường lối, phương thức hoạt động và đã khẳng định
được vị thế, bản lĩnh, vai trò nòng cốt, là chỗ dựa vững chắc trong cơng cuộc bảo vệ
mơi trường, cuộc sống bình yên của Nhân dân và sự nghiệp xây dựng, phát triển đất
nước.
Trong quan hệ phối hợp và hợp tác quốc tế, lực lượng Cảnh sát môi trường đã
thực hiện tốt quan hệ phối hợp công tác với nhiều cơ quan, ban ngành thuộc các Bộ:
Tài Nguyên & Môi trường, Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn; Y tế và hơppj tác

với các tổ chức quốc tế như: TRAFFIC, WWF, ASEAN-WEN, UNODC… Thông qua
việc thực hiện các Thông tư liên tịch, quy chế, kế hoạch phối hợp, lực lượng Cảnh sát
môi trường đã chủ động tham mưu xây dựng và thực thi các văn bản pháp luật, triển
khai các khoá đào tạo kiến thức môi trường, kinh nghiệm PCTP buôn bán động vật
hoang dã quý hiếm…
Trên cơ sở làm tốt công tác nghiệp vụ, xác định được đặc điểm, phương thức,
thủ đoạn hoạt động của tội phạm về môi trường, xác định rõ lĩnh vực, địa bàn trọng
13


điểm để chỉ đạo, hướng dẫn Công an các đơn vị, địa phương tập trung lực lượng đấu
tranh, xử lý nghiêm với các đối tượng vi phạm. Tính đến nay, lực lượng Cảnh sát môi
trường cả nước đã phát hiện trên 228.000 vụ vi phạm pháp luật về môi trường, tài
nguyên và an toàn thực phẩm. Khởi tố và đề nghị khởi tố 5.185 vụ với 7.475 bị can,
xử phạt vi phạm hành chính 206.723 vụ với tổng số tiền 2.700 tỷ đồng. Trong đó,
riêng Cục Cảnh sát PCTP về môi trường đã phát hiện 2.260 vụ, khởi tố, đề nghị khởi
tố 29 vụ, xử phạt vi phạm hành chính 1.857 vụ với tổng số tiền là 291 tỷ đồng. Một số
vụ việc điển hình như: phát hiện, xử lý vi phạm của Công ty CP hữu hạn Vedan Việt
Nam lắp đặt đường ống ngầm xả thải trái phép, gây ô nhiễm môi trường sông Thị Vải
trong thời gian dài; sự cố ô nhiễm môi trường biển tại 4 tỉnh miền Trung do Công ty
TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa gây ra; vụ bắt giữ đối tượng Hà “đen”,
Phượng “râu” khai thác trái phép gỗ tại địa bàn các tỉnh Tây Nguyên... Gần đây nhất,
Cục đã trực tiếp khởi tố 03 vụ án về “Gây ô nhiễm môi trường” và “Vi phạm các quy
định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên” tại một số địa phương. Phòng
Cảnh sát PCTP về môi trường Công an 10 tỉnh, thành phố cũng trực tiếp khởi tố 16 vụ
án hình sự về các tội danh theo thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra.

IV. Dự báo xu hướng vận động của tội phạm về môi trường
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật về môi
trường diễn biến rất phức tạp, phổ biến trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Tội

phạm môi trường đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, biến đổi khí hậu, chất
lượng mơi trường suy giảm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng và
sự phát triển bền vững của đất nước. Trên một số địa bàn, lĩnh vực, hoạt động tội
phạm và vi phạm pháp luật về mơi trường gây phức tạp tình hình an ninh trật tự, có
thể dự báo được xu hướng vận động của tội phạm về môi trường được thể hiện ở một
số khía cạnh như sau:
Thứ nhất, TPMT trong thời gian tới sẽ diễn biến phức tạp, gia tăng, ảnh hưởng
tới hầu hết các lĩnh vực môi trường
TPMT được EIA đánh giá là một trong những hình thức tội phạm thu lợi nhuận
lớn nhất, lên tới hàng chục tỉ đô la mỗi năm. Sự gia tăng đột biến của TPMT cũng do
đặc thù của loại tội phạm này không giống như những tội phạm bạo lực khác, các giao
dịch cũng như hành vi nguy hiểm cho xã hội thường bị nhầm tưởng và đánh giá thấp
hậu quả ảnh hưởng tới xã hội của nó5.
5 Stettan Barrett (2017), “Disrupting environmental crime at the local level: an operational perspective”, Human Social
Sciences, Vol3, (2), pp.7-10

14


Các lĩnh vực mà các TPMT đã và đang tác động đến đó là: lĩnh vực cơng
nghiệp, xây dựng cơ bản, mơi trường đơ thị; lĩnh vực tài ngun khống sản; lĩnh vực
bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, làng nghề;
lĩnh vực thương mại, xuất nhập khẩu và quản lý chất thải nguy hại; lĩnh vực mơi
trường y tế và an tồn vệ sinh thực phẩm… Qua thực tiễn cho thấy, các loại tội phạm
này diễn ra ngày càng có tính phổ biến, khó nhận biết và kiểm sốt nhưng hậu quả lại
tác động xấu rất lớn đến môi trường.
Trong những năm tới, tình trạng ơ nhiễm mơi trường, biến đổi khí hậu, suy
giảm đa dạng sinh học, suy thoái đất, tài nguyên nước, mơi trường biển… tiếp tục là
vấn đề mang tính toàn cầu, làm thay đổi hệ sinh thái tự nhiên, đời sống kinh tế – xã
hội trên toàn thế giới, trở thành một trong những thác thức lớn nhất. Các TPMT ngày

càng đa dạng, nhất là trong các lĩnh vực ô nhiễm hóa chất và kim loại nặng, ô nhiễm
chất thải điện tử, ơ nhiễm khơng khí do biến đổi khí hậu… sẽ hình thành những
TPMT mới, mang tính quốc tế cần phải phòng ngừa.
Thứ hai, các tội phạm về mơi trường tại Việt Nam có tính chất ngày càng tinh
vi, khó phát hiện
Tính ẩn của TPMT khiến nó dường như khó phát hiện hơn các loại tội phạm
khác, vì về bản chất, tội phạm có xu hướng chung là che giấu hành vi vi phạm pháp
luật của mình6.
Tính chất tinh vi, khó phát hiện của TPMT tại Việt Nam cịn thể hiện ở chỗ, nó
có thể bị che giấu thơng qua các hình thức hợp pháp, ví dụ giấy phép khai thác
khống sản, giấy phép nhập khẩu hàng hóa, hồ sơ hải quan giả mạo cũng như việc cấu
kết giữa người phạm tội với người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thông qua
các hành vi tham nhũng. Yếu tố tham nhũng có thể coi là một trong những nguyên
nhân khiến TPMT phát triển tinh vi và khó phát hiện. Bởi người có thẩm quyền có thể
ngăn chặn thông tin, sự thật và che giấu mức độ phạm tội của TPMT trong khi nếu
đánh giá đúng, có thể giải quyết hiệu quả hoặc ngăn chặn tội phạm hình thành. Không
xử lý được TPMT, các đối tượng phạm tội càng thu được lợi nhuận lớn, càng gia tăng
sự giàu có và tiếp tục sử dụng tiền phi pháp để mua chuộc, gây khó khăn cho các cơ
quan thực thi pháp luật môi trường.
Báo cáo của Interpol và Liên hợp quốc tại 70 quốc gia trên thế giới đã tập trung
vào liên kết TPMT tồn cầu có trị giá lên tới 258 tỉ đô la hàng năm với các loại tội
6 Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr 45

15


phạm khác đã chỉ ra rằng: 60% quốc gia cho thấy TPMT mới phát sinh và ngày càng
tinh vi với những phương thức hiện đại, có sự liên kết xuyên quốc gia; 84% các quốc
gia được khảo sát trong báo cáo cho thấy TPMT có mối quan hệ với tội phạm nghiêm
trọng khác như tham nhũng, giả mạo, ma túy, tội phạm mạng và tội phạm tài chính 7.

Tại nhiều quốc gia đang phát triển ở Châu Phi và Châu Á, do nhu cầu kinh tế, nhiều
người dân đã tham gia vào đường dây TPMT để khai thác tài nguyên một cách trái
phép8. Những điển hình mà báo cáo này nêu ra cũng là những vấn đề mà Việt Nam sẽ
phải đối mặt. Với tình hình TPMT có liên kết với những tội phạm nghiêm trọng khác,
nhất là tham nhũng, cho thấy tình hình TPMT ngày càng phức tạp và tinh vi, với
những thủ đoạn và sự lôi kéo thông qua các nguồn lợi bất chính khổng lồ. Điều này
cảnh báo, nếu khơng có những phương thức đa ngành và kiên quyết, thì sẽ khó có thể
đấu tranh phịng, chống TPMT hiệu quả.
Trong thời gian tới, dự báo tình hình TPMT tiếp tục diễn biến phức tạp và có
chiều hướng gia tăng cả về số lượng, quy mô và phương thức, thủ đoạn phạm tội.
Tình trạng trên đây sẽ là những thách thức lớn đối với công tác bảo vệ mơi trường ở
nước ta, địi hỏi các cơ quan chức năng phải có những biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp
thời. Trong điều kiện hệ thống pháp luật vẫn đang được sửa đổi, bổ sung sẽ có những
sơ hở hoặc khoảng trống pháp lý mà các đối tượng lợi dụng thực hiện, che giấu các
hành vi vi phạm.
Thứ ba, các tội phạm về mơi trường có yếu tố nước ngồi có xu hướng gia tăng
và Việt Nam trở thành nước trung chuyển của một số loại TPMT xuyên quốc gia
Trong những năm gần đây, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Nhà nước ta
đã cởi mở và tạo điều kiện hơn cho người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam đề đầu
tư, du lịch, kinh doanh… Bên cạnh yếu tố tích cực như thúc đẩy các nguồn lực kinh tế
để xây dựng và phát triển đất nước, tình hình tội phạm có yếu tố nước ngồi gia tăng
với tính chất nghiêm trọng và phức tạp, trong đó có TPMT 9. Ngồi ra, theo đánh giá
của EIA, TPMT có bản chất là xuyên biên giới và trở thành các tập toàn tội phạm
quốc tế. Trong thời đại tự do thương mại tồn cầu, giao tiếp có nhiều phương thức dễ
dàng và dễ dàng vận chuyển hàng hóa, tiền bạc, càng tạo điều kiện cho các nhóm
7 EPA, USEPA, Environmental protection and environmental crimes, America
8 Cong Ma (2014), Problems of Chinese Environmental Criminal Law and Its Developing Trend, International Conference
on Global Economy, Commerce and Service Science (GECSS 2014), p. 182-187
9 Ngơ Ngọc Diễm (2019), “Tội phạm mơi trường có yếu tố nước ngoài – Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
phòng ngừa và biện pháp xử lý”, Tạp chí Cơng thương, tr. 27-31


16


TPMT hoạt động10. Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam cũng không tránh khỏi
những sự tác động này khiến tình hình TPMT mang tính quốc tế tăng lên. TPMT có
yếu tố nước ngồi thể hiện ở một số lĩnh vực sau: xử lý chất thải công nghiệp; nhập
khẩu máy móc, thiết bị lạc hậu, phế liệu; bn bán động vật hoang dã, quý hiếm; khai
thác khoáng sản.
Thứ tư, xu hướng tồn cầu hóa tác động đến lĩnh vực bảo vệ mơi trường và tình
hình TPMT
Khơng phải bây giờ các nhà nghiên cứu mới cảnh báo về mặt trái của tồn cầu
hóa. Tồn cầu hóa là xu hướng tất yếu trong thế giới hiện đại mà không quốc gia nào
có thể nằm ngồi sự vận động đó. Tồn cầu hóa kéo theo một chuỗi phản ứng tiêu
cực, đó là sự di tản của các công ty đa quốc gia nơi nền kinh tế phát triển, quy định về
môi trường ngặt nghèo tới các quốc gia đang phát triển với nhân cơng rẻ, pháp luật
bảo vệ mơi trường cịn lỏng lẻo. Đó là hệ quả của tồn cầu hóa, cái giá phải trả cho
những quốc gia đánh đổi để phát triển kinh tế trước mắt là môi trường bị hủy hoại.
Tồn cầu hóa là một xu thế tất yếu, song mang lại cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Thế
giới ngày càng có tính liên kết, liên tác động bởi các bệnh dịch, thương mại, chủ
nghĩa khủng bố, du lịch, di cư, truyền thông, internet, và cả nạn ô nhiễm – trong đó có
vấn đề khí nhà kính và sự biến đổi mơi trường tồn cầu, kết quả là sự liên kết về các
vấn đề sức khỏe, sự sống và rủi ro môi trường cần được chung tay dự báo và khắc
phục.
Từ những phân tích trên, có thể thấy được xu hướng vận động của TPMT trong
thời gian tới tập trung vào các vấn đề sau:
i)

ii)


iii)

TPMT sẽ tăng cao, nhiều hành vi xâm phạm môi trường mới xuất hiện
với sự tinh vi, khó đánh giá hành vi nguy hiểm cho xã hội, cho môi
trường cũng như hậu quả nguy hiểm của nó;
ii) tội phạm mơi về trường quốc tế (hay TPMT xuyên quốc gia) sẽ hình
thành các đường dây chuyên nghiệp và rõ nét hơn, với sự tham gia của
nhiều cá nhân, tổ chức trong nước cũng như nước ngoài;
iii) TPMT trong nước sẽ phức tạp hơn, nhất là với các pháp nhân thương
mại, tổ chức khác liên quan đến thể chế chính sách của Nhà nước.

Có thể thấy, TPMT được nhìn nhận trên phương diện là tội phạm phi truyền
thống, loại tội phạm mới khó nhận diện, khó kiểm sốt vì tính chất, diễn biến phức
10 Stettan Barrett (2017), “Disrupting environmental crime at the local level: an operational perspective”, Human Social
Sciences, Vol3, (2), p.7-10

17


tạp, kéo dài có tính liên vùng, liên lãnh thổ. Chính vì vậy, dự báo được tình hình về
TPMT và xu hướng vận động của TPMT đã phần nào kiểm soát được sự gia tăng của
loại tội phạm mới – phi truyền thống nhưng đặt ra những thách thức lớn trong thời
gian tới trong cơng tác phịng ngừa và xử lý.

V. Những vấn đề rút ra đối với công tác phịng ngừa tội
phạm mơi trường
Đầu tiên, để nâng cao hiệu quả hoạt động phịng ngừa tội phạm về mơi trường
thì công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật về tội phạm mơi trường
có vai trị vơ cùng quan trọng. Hiện nay, chúng ta đã có Hội đồng phổ biến giáo dục
pháp luật ở từng địa phương và cơ sở; việc phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung,

pháp luật bảo vệ mơi trường và phịng, chống các tội phạm về mơi trường nói riêng đã
thu được kết quả nhất định. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng cơng tác tun
truyền, phổ biến pháp luật cịn nặng về tính hình thức, hiệu quả chưa cao. Nội dung
tun truyền, phổ biến chưa thật sát với nhu cầu, điều kiện của đối tượng cần được
tuyên truyền, phổ biến nhất là những người dân sống ở nông thôn, miền núi, vùng sâu,
vùng xa và đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Chúng ta đang thiếu một hệ
thống dịch vụ pháp lý đủ mạnh để giúp người dân, doanh nghiệp nắm vững pháp luật,
xử sự theo pháp luật trong hoạt động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Mặt khác, thơng tin pháp luật chưa kịp thời, thống nhất. Do đó, cần phải thường
xuyên và đa dạng hóa các hình thức tun truyền, giáo dục, trang bị những tri thức
cần thiết về bảo vệ môi trường, sinh thái cho quần chúng nhân dân, đặc biệt là các
doanh nghiệp thông qua các phương tiện truyền thơng đại chúng như sách báo, phát
thanh, truyền hình… có như vậy, mới nâng cao được hiệu quả hoạt động phịng ngừa
các tội phạm về mơi trường ở Việt Nam hiện nay.
Tiếp theo, về hệ thống pháp luật của chúng ta tuy đã có nhiều về số lượng, thay
đổi về chất lượng nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm
đặc biệt là các tội phạm về mơi trường. Vì vậy, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho hoạt động phòng, chống tội phạm về
môi trường với nhiều thủ đoạn ngày càng đa dạng và tinh vi.
Đồng thời cần nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật
trong công tác đấu tranh phịng, chống tội phạm về mơi trường.
Nhà nước ta đang tham gia tích cực vào việc giải quyết các vấn đề mang tính
tồn cầu. Quan điểm tăng cường giao lưu, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đấu tranh
phòng, chống tội phạm cần được quán triệt sâu sắc trong xây dựng và thực hiện pháp
18


luật. Hệ thống pháp luật hình sự nói chung và pháp luật về tội phạm mơi trường nói
riêng cần phải hài hòa với các chuẩn mực quốc tế, đồng thời nội luật hóa các cam kết
quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, tăng cường hợp tác, giao lưu về pháp luật

và thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế góp phần tăng cường quan hệ hợp tác với các
nước trên thế giới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy tiến trình hội nhập
quốc tế của nước ta, đặc biệt là hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở giữ vững độc lập,
tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh việc tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản
quy phạm pháp luật trên cơ sở đối chiếu, so sánh với các cam kết, chuẩn mực trong
các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã hoặc sẽ tham gia nhằm làm cho các quy định
pháp luật trong nước phù hợp với luật pháp quốc tế, đảm bảo cho việc thực hiện các
cam kết quốc tế thì chúng ta cũng cần phải khẩn trương ban hành Nghị định, Thông tư
hướng dẫn thi hành Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế trong đó quy
định rõ quy trình, cơ chế chuyển hóa các quy phạm của điều ước quốc tế vào hệ thống
pháp luật Việt Nam và quy định điều kiện, thủ tục thi hành điều ước quốc tế tại Việt
Nam.
Bảo vệ môi trường là vấn đề mang tính tồn cầu. Do đó, Nhà nước cần có
những chính sách phù hợp để đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm về môi trường. Ví dụ như: Tham gia các
diễn đàn, hội thảo, hội nghị về môi trường để thảo luận, trao đổi kinh nghiệm cũng
như đúc rút các bài học về bảo vệ môi trường; tranh thủ các nguồn tài trợ quốc tế. Đặc
biệt là của “Quỹ Mơi trường tồn cầu” nhằm huy động và tiếp nhận cho vay vốn phục
vụ mục đích phịng, chống tội phạm về mơi trường

19


20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cổng thông tin điện tử Bộ Công an />Tình hình tội phạm về mơi trường và một số dự báo về xu hướng vận động
/>Tạp chí tịa án />

21



×