Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Nghệ thuật điển hình hoá nhân vật Thúc Sinh trong Truyện Kiều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 19 trang )

BÀI GIỮA KÌ

VĂN HỌC CỔ ĐIỂN VIỆT NAM 2

NGHỆ THUẬT ĐIỂN HÌNH HĨA
NHÂN VẬT THÚC SINH TRONG TRUYỆN KIỀU

HƯỚNG DẪN: PGS. TS ĐỒN LÊ GIANG

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 01 năm 2022


MỤC LỤC

1. Khái lược về nghệ thuật điển hình hóa ....................................................... 1
2. Phân loại nhân vật Thúc Sinh ...................................................................... 1
3. Phương thức điển hình hóa nhân vật Thúc Sinh ....................................... 2
3.1. Giới thiệu nhân vật ................................................................................. 3
3.2. Mối quan hệ với nhân vật Thúy Kiều ................................................... 4
3.3. Mối quan hệ với nhân vật Hoạn Thư .................................................. 13
4. Kết luận ........................................................................................................ 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 17


1. Khái lược về nghệ thuật điển hình hóa
Nhà văn Turgenev đã nói rằng “Điển hình là con người cụ thể của một
thời”. Đây là thủ pháp thường thấy trong văn học, xuất hiện ở nhiều tác phẩm,
đặc biệt là giai đoạn văn học hiện thực phê phán.
Điển hình hóa là thủ pháp xây dựng hình tượng nghệ thuật đặc sắc, độc
đáo, được miêu tả sinh động, hấp dẫn, khái quát được những nét bản chất nhất,
quan trọng nhất của con người và đời sống. Ở các thể loại văn học khác nhau,


sẽ có những nghệ thuật điển hình tương ứng với thể loại đó. Ví dụ: Thơ trữ tình
sẽ có nghệ thuật điển hình thể hiện ở cảm xúc và tâm trạng (cảm xúc điển hình
và tâm trạng điển hình), các thể loại tự sự như truyện ngắn, tiểu thuyết thì việc
điển hình hóa sẽ được thể hiện ở nhân vật và hồn cảnh (nhân vật điển hình,
hồn cảnh điển hình).
Cơ sở của điển hình nghệ thuật là điển hình xã hội, nghĩa là sự điển hình
ấy phải phản ánh một loại hiện tượng nào đó trong cuộc sống, phải gợi được
cho người đọc hiện tượng của nó, cùng với sự liên tưởng từ hiện thực. Và nhân
vật điển hình sẽ thường khái qt số phận và tính cách của một loại người, một
tầng lớp hay một giai cấp. Đơn cử như Chí Phèo – nhân vật điển hình hóa cho
hình ảnh người nơng dân bị tha hố trong xã hội phong kiến dưới ngòi bút của
nhà văn Nam Cao, hay chị Dậu là người phụ nữ nông thôn điển hình về số phận
và tính cách ở nơng thơn những năm trước cách mạng.

2. Phân loại nhân vật Thúc Sinh
Theo Tác giả Trần Đình Sử: “Nhân vật văn học là khái niệm dùng để chỉ
hình tượng các cá thể con người trong tác phẩm văn học – cái đã được nhà văn
nhận thức, tái tạo, thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ”
(Nguyễn Thị Kim Vân. 2011, tr.13). Đối với từng góc độ và phương diện, ta có
thể phân nhân vật ra thành nhiều loại khác nhau:
Xét từ góc độ kết cấu, hay về chức năng và vị trí của nhân vật trong tác
phẩm, có thể chia nhân vật thành các loại như nhân vật chính, nhân vật trung
tâm và nhân vật phụ.

1


Hay nếu xét từ góc độ thể loại, có thể chia nhân vật làm ba loại nhân vật
trữ tình, nhân vật tự sự và nhân vật kịch.
Cịn xét từ góc độ hệ tư tưởng (về quan hệ đối với lí tưởng), người ta

thường chia nhân vật làm hai loại: nhân vật chính diện và nhân vật phản diện.
Nhân vật chính diện là nhân vật đại diện cho những điều tốt đẹp trong xã hội,
cho cái thiện, cho những lý tưởng sống cao quý và có thể coi là nhân vật lý
tưởng. Ngược lại, nhân vật phản diện là nhân vật đại diện cho cái ác, cái xấu xa,
cái đáng bị lên án. Nhân vật phản diện thường bị phê phán, phủ định bởi tác giả
và độc giả.
Trong Truyện Kiều, ta cũng thấy được sự phân loại theo góc độ hệ tư
tưởng, bao gồm hai tuyến: chính diện (như Kim Trọng, Từ Hải, Thúy Kiều, v.v)
và phản diện (Mã Giám Sinh, Tú Bà, v.v). Ứng với mỗi tuyến, Nguyễn Du có
cách điển hình hóa nhân vật khác nhau. Ngồi ra, trong Truyện Kiều cịn có
tuyến nhân vật thứ ba, mà Đặng Thanh Lê cho rằng: “Có trường hợp nhân vật
có thể sắp xếp được thuộc cả hai loại vị trí chức năng một và hai” (Nguyễn Thị
Kim Vân, 2011, tr.18), mà ta có thể hiểu nhân vật này là con người trung gian
trong nhận thức lẫn hành động, và có thể thấy nhân vật Thúc Sinh là một đại
diện. Đối riêng với loại nhân vật này, Nguyễn Du cũng có cách thức điển hình
hóa rất riêng biệt, khác hẳn với các kiểu nhân vật chính diện và phản diện.

3. Phương thức điển hình hóa nhân vật Thúc Sinh
Đối với nhân vật trung gian, phương thức điển hình hóa của Nguyễn Du
là nhân vật không cần mô tả quá cụ thể về hình dáng, vẻ mặt,… bởi câu chuyện
được kể, hồn cảnh nhân vật được dựng lên không phải của riêng cá nhân, mà
câu chuyện ấy thuộc về một nhóm người, một đẳng cấp xã hội ứng xử theo quy
định đẳng cấp của họ. Cái nhà văn cần quan tâm và đầu tư ở đây là tên tuổi,
dịng dõi, nghề nghiệp, tính cách, ngôn ngữ và biểu hiện tâm lý của nhân vật ấy,
vì khi được khắc họa một cách rõ nét, nhà văn sẽ tạo nên một nhân vật điển
hình cho một tầng lớp, giai cấp trong xã hội mà nhân vật thuộc về. Trong đó,
một trong những yếu tố được nhà văn chú ý mô tả là ngôn ngữ. Ngôn ngữ
2



thông thường sẽ chia thành hai loại: ngôn ngữ đối thoại với các nhân vật khác
và ngôn ngữ tâm lý nhân vật (độc thoại nội tâm). Tuy nhiên, đối với những
kiểu nhân nhân vật trung gian, để điển hình hóa, nhà văn đã chia ngơn ngữ theo
hình thức: ngơn ngữ bên ngồi và ngơn ngữ bên trong. Đó là hai giọng điệu,
hai cách ứng xử khác nhau, ngôn ngữ bên ngoài là cách mà nhân vật ứng xử
với những tầng lớp giai cấp cao hơn nhằm giao tiếp sao cho đúng mực, cho nên
đó thường khơng phải là bản chất của anh ta; cịn ngơn ngữ bên trong là cách
mà nhân vật giao tiếp với những người đồng đẳng hoặc thấp hơn mình, đây là
khi mọi suy nghĩ, xúc cảm chân thật nhất của nhân vật được bộc lộ (Nguyễn
Thị Thu Thủy, 2006).
3.1. Giới thiệu nhân vật
Qua những câu thơ ở đầu đoạn Thúy Kiều gặp Thúc Sinh, tác giả đã nén
một lượng thông tin vừa đủ trong sáu câu thơ để khái quát về đặc điểm diện
mạo của chàng họ Thúc này:
“Khách du bỗng có một người
Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương”
Chỉ hai câu thơ tác giả đã giới thiệu được tên họ, dòng dõi của Thúc Sinh.
Người này tên Kỳ Tâm, họ là Thúc, vậy tên đầy đủ của Thúc Sinh là Thúc Kỳ
Tâm. Ở đây ta thấy được dụng ý của Nguyễn Du khi đặt tên cho nhân vật này:
dùng họ “Thúc” tức “bó” (trong bó tay, bó buộc) thể hiện tính sợ vợ của anh
chàng, còn “Kỳ Tâm” tức tâm lạ, cái tên thể hiện con người có lịng trắc ẩn.
Ngồi ra, Thúc Sinh thuộc nhà “nòi thư hương”, tức dòng dõi nhà Nho, ham
mê đọc sách. Tuy nhiên chàng Thúc nối nghiệp cha, kiêm ln cả việc bn
bán:
“Vốn người huyện Tích châu Thường
Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Truy”
Hai câu thơ trên ý muốn nói, chàng Thúc q qn ở huyện Tích, Thường Châu,
nhưng nối nghiệp cha “theo nghiêm đường” mà chàng đến Lâm Truy để mở
hiệu buôn. Việc giới thiệu nhân vật như vậy, giúp người đọc nhận thấy được
giai cấp xã hội của Thúc Sinh thuộc hạng thấp nhất, bởi tư tưởng Nho gia bấy

giờ sắp xếp tầng lớp xã hội theo thứ tự Sĩ – Nông – Công – Thương, nhà buôn
3


là những người tầm thường nhất xã hội. Nhưng đổi lại, Thúc Sinh có một tài
sản lớn, tiền bạc rất nhiều:
“Thúc Sinh quen thói bốc trời
Trăm nghìn đổ một trận cười như khơng”
Ta có thể thấy được Thúc Sinh là điển hình cho một nhóm người thuộc dịng
dõi nhà Nho nhưng lại theo nghiệp bn bán và có tiền của dư dả. Từ điều này
là cầu nối để gợi thêm một nét điển hình của anh ta, đó là Thúc Sinh - tầng lớp
thương nhân có rất nhiều mối quan hệ giao thương. Nguyễn Du có viết rằng:
“Chiến hịa, sắp sẵn hai bài
Cậy tay thầy thợ, mượn người dò la”
Đây là lúc Thúc Sinh gặp Kiều, mong muốn đưa Kiều ra khỏi lầu xanh. Thúc
Sinh đã tính trước đường đi nước bước để thuận lợi rước Kiều về với mình, dù
cho Tú Bà có “chiến” hay “hịa” thì anh chàng họ Thúc vẫn có thể lo liệu được.
Lo liệu ở đây là dùng tiền của để “cậy tay thầy thợ”, để thuê “người dò la”,
Thúc Sinh dùng tiền, dùng mối quan hệ để giải quyết vấn đề mình gặp phải.
Tính con buôn của anh thể hiện rõ nhất ở việc sắp xếp sự tình đâu đó rõ ràng,
trót lọt để có được thứ mình muốn. Việc rước Thúy Kiều ra khỏi lầu Ngưng
Bích đối với Thúc Sinh chẳng phải chuyện gì khó.
Qua đây ta thấy tác giả khơng cần mơ tả về vẻ mặt, hình dáng hay trang
phục của nhân vật nhưng ta vẫn nhận ra tầng lớp xã hội của nhân vật này, và
chính đẳng cấp ấy, sẽ quy định lời nói, hành vi và cách đối đãi của nhân vật
này với các nhân vật khác. Đó chính là điểm độc đáo trong cách Nguyễn Du sử
dụng nghệ thuật điển hình hóa với nhân vật Thúc Sinh (Trần Trọng Kim, 2020).

3.2. Mối quan hệ với nhân vật Thúy Kiều
* Ít nhiều có sự đồng cảm sâu xa vì Kiều cùng đẳng cấp thị dân

Đối với Thúy Kiều, Thúc Sinh mến mộ và có những đồng cảm nhất định.
Sau khi bị Sở Khanh lừa thì Thúy Kiều phải đành an phận, chấp nhận bước vào
con đường của một kỹ nữ vâng lời Tú Bà. Thúy Kiều nức danh, nổi tiếng gần

4


xa làm say đắm biết bao người, khiến chàng Thúc Sinh theo cha từ huyện Tích
Châu thường đến Lâm Tri mở hiệu buôn cũng nghe danh tiếng nàng Kiều. Ban
đầu khi tìm đến Thúy Kiều, với Thúc Sinh đơn thuần chỉ là những cuộc ăn chơi
hưởng lạc ở chốn thanh lâu của những vị khách làng chơi:
“Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi,
Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào.”
Dần dần, Thúc Sinh say đắm nhan sắc mỹ miều, lộng lẫy, sắc sảo của Kiều:
“Hải đường mơn mởn cành tơ,
Ngày xuân càng gió, càng mưa càng nồng.”
Đây là sự hấp dẫn đến từ thể xác của một người phụ nữ xinh đẹp mà bất kì ai
cũng có thể cảm nhận. Tuy vậy, Thúc Sinh không chỉ say mê nhan sắc “khuynh
nước khuynh thành” của Thúy Kiều mà ít nhiều cũng tìm được tiếng nói chung,
một sự đồng cảm sâu xa vì cả hai cùng đẳng cấp thị dân, điều mà Thúc Sinh
khơng thể tìm thấy ở Hoạn Thư.
Chính vì cùng đẳng cấp, cùng với nhiều cuộc chuyện trò, ân ái nên cả hai
đã thấu hiểu nhau hơn, cả Thúc và Kiều đã khơng cầm lịng nổi nữa, lịng nàng
đã xiêu rồi, cả hai xem nhau như tri âm, tri kỷ, gắn bó thân mật hơn:
“Lạ gì thanh khí lẽ hằng,
Một dây một buộc ai giằng cho ra.”
Thúc Sinh và Thúy Kiều yêu đương, say sưa nhau đó là lẽ thường của những kẻ
đồng thanh đồng khí: “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” vì cả hai
cùng trẻ đẹp, cùng có tài nên sẽ dễ hiểu tâm ý của nhau. Thúy Kiều nức tiếng
hoa khơi, có tài cầm kì thi họa, còn Thúc Sinh cũng là một người hào hoa,

phong nhã, đa tình mến mộ Kiều nên họ tâm đầu ý hợp cũng khơng có gì là lạ.
Tình cảm của hai người dần dần sâu đậm, nghĩ đến những chuyện nghĩa
tình dài lâu:
“Sớm đào tối mận lân la
Trước cịn trăng gió sau ra đá vàng.”
Họ tìm đến gặp nhau khơng phải chỉ vì những chuyện trai gái thường tình nữa,
mà họ đã phải lịng nhau, say đắm đối phương, có sự chuyển biến tình cảm.
Trước đó, đã có lần Thúy Kiều thề nguyền dưới trăng với Kim Trọng. Đó là
5


một mối tình say đắm, mãnh liệt, trong sáng nhưng cũng không kém phần chủ
động, táo bạo của một cặp xứng đôi vừa lứa: “người quốc sắc, kẻ thiên tài”,
ngay từ cái nhìn đầu tiên họ đã bồi hồi, lưu luyến vì nhau. Cịn với Thúc Sinh,
trước hết chàng là ân nhân xuất hiện cứu vớt cuộc đời Kiều ra khỏi chốn lầu
xanh nhơ nhuốc, có thể đưa cuộc đời Kiều sang một trang mới với danh phận là
người vợ lẽ, vừa là một người bạn tri âm, bạn đời thấu hiểu lịng nhau. Thật
khơng dễ dàng gì để khiến một người con gái xinh đẹp, thông minh, sắc sảo
nhưng cũng đã chịu nhiều khổ cực, trải đời như Thúy Kiều bằng lịng thì ắt hẳn
Thúc Sinh phải là một người ít nhiều thấu hiểu lịng nàng, đồng cảnh ngộ.
Hai người ở bên nhau hưởng thụ những thú vui thanh nhã của những bậc
văn nhân tài tử thời xưa:
“Khi gió gác khi trăng sân,
Bầu tiên chuốc rượu câu thần nối thơ.
Khi hương sớm khi trà trưa,
Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn.”
Họ ngày đêm sớm tối quấn quýt bên nhau, một bước cũng không rời, say sưa
uống rượu, ngâm thơ, đánh cờ, chơi đàn trong những khung cảnh lãng mạn có
phong (gió), nguyệt (trăng), hương, trà. Thúc Sinh dù không phải là một người
danh giá, học thức được như Kim Trọng với “nền phú hậu, bậc tài danh” nhưng

cũng là một người phong lưu, hiểu biết, yêu mến văn chương nghệ thuật tương
đắc với Thúy Kiều. Ái tình của họ khác hẳn ái tình của những người phàm phu
tục tử mà được kết tinh từ những sự quan tâm, chia sẻ, tận hưởng những thú vui
nghệ thuật. Đó là một ái tình giữa những bậc tài tử, giai nhân, giữa những người
cùng đẳng cấp thị dân.
Hai người họ yêu nhau, say mê đắm đuối, thăng hoa trong những cuộc
vui thú, càng quen thuộc, hiểu rõ tính tình thì càng quấn quýt, vướng vít nhau:
“Miệt mài trong cuộc truy hoan
Càng quen thuộc nết càng dan díu tình.”
Đến khi Thúc Sinh nhìn thấy cảnh Thúy Kiều bng màn tắm, khi càng
nhìn rõ người nàng thì càng ngợi khen khơng hết lời, đem tình ý của mình ngụ
vào trong thơ:
6


“Rõ màu trong ngọc trắng ngà!
Dày dày sẵn đúc một tịa thiên nhiên.
Sinh càng tỏ nét càng khen,
Ngụ tình tay thảo một thiên luật đường.”
Thúc Sinh liền viết ra một bài thơ luật đường vịnh Kiều tắm, bài thơ khen ngợi
vẻ đẹp trong trắng, ngọc ngà, thân thể thì lồ lộ phơ bày hết những đường nét
quyến rũ, hồn mỹ như thể một pho tượng thập toàn thập mỹ do tạo hóa nhào
nặn nên, chốn trần gian khơng có thân hình nào đẹp được đến thế của Kiều, vừa
thể hiện được cái tình say đắm của Thúc Sinh (mặc dù xuất phát mang tính dục
thể) và đồng thời nói đến cái tài làm thơ của chàng họ Thúc. Sự tài hoa ấy đã
được Thúy Kiều cơng nhận, khen ngợi, ví von:
“Nàng rằng: Vâng biết ý chàng.
Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu.”
Kiều khen tứ thơ hay, lời nào cũng đều quý đẹp như châu như ngọc, chữ cũng
viết khéo đẹp như gấm thêu. Thế mới thấy rằng, Thúc Sinh cũng là một người

văn hay chữ tốt xứng với Thúy Kiều.
Mối quan hệ giữa Thúc Sinh và Thúy Kiều không đơn thuần chỉ là vấn
đề tình yêu cá nhân, sự say đắm về vẻ bề ngoài, mà sâu xa hơn họ là những con
người cùng đẳng cấp thị dân với tâm hồn đồng điệu, có thể sẻ chia, bầu bạn,
giãi bày. Đó là điều mà Thúc Sinh khơng thể tìm thấy trong mối quan hệ với
Hoạn Thư - một người vợ ở đẳng cấp cao hơn, nên Thúc Sinh luôn mang một
mặc cảm, tự ti cảm thấy bị lấn lướt, coi thường mà chúng tơi sẽ trình bày trong
phần mối quan hệ với Hoạn Thư phía sau.
*Thiếu tinh tế, thiếu sắc sảo, nội tâm hời hợt
Mặc dù cùng đẳng cấp, cùng giãi bày tâm sự với nhau đã lâu, huống hồ
Sinh lại là người chủ động đem lòng mến mộ cái tài sắc, thực tâm muốn gắn
kết cùng Kiều. Ấy thế mà lại không hề biết rõ về nguồn gốc, gia cảnh của nàng,
nên đến khi làm thơ tặng Kiều, nàng nói vì nhớ q nhà mà khơng họa vần
được, Sinh mới ngớ ra:
“Rằng: “Sao nói lạ lùng thay!

7


Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra?”
Vì lâu nay chàng cứ ngỡ Kiều là con đẻ của Tú Bà nhưng thực thì Tú Bà
tự xưng là mẹ, vả lại trong số các cơ gái ở thanh lâu thì Kiều là người được bà
chiều chuộng hơn cả nên Thúc Sinh đã khơng biết rằng Kiều đang nhớ q,
nàng cũng có nỗi niềm riêng của mình. Và dù hai người đã tâm đầu ý hợp, tình
cảm cũng dần trở nên gắn bó, khắng khít nhưng thực lịng chàng Sinh vẫn chưa
hồn toàn biết rõ về Kiều. Chàng Sinh tuy thực tâm, thực tình nhưng lại thiếu
khả năng quan sát, suy xét nên thiếu sự tinh tế. Đây cũng chính là đặc điểm của
tầng lớp thị dân như Thúc Sinh.
Khi được Thúc Sinh ngỏ lời, muốn lấy mình làm vợ lẽ, ban đầu Kiều
cịn chút nghi ngại vì Thúc Sinh đã có vợ cả nơi quê nhà, mà thế lực Hoạn Thư

lại hơn hẳn chàng; thêm phần phận mình lại là gái lầu xanh, nàng e Thúc ông
không đồng ý, sợ làm tổn thương thanh danh của chàng. Nhưng rồi bằng những
lời lẽ thuyết phục đáng tin cậy của Thúc Sinh, Kiều đành trao thân gửi phận
cho chàng và thoát khỏi chốn lầu xanh. Ấy vậy mà khi đã nên duyên vợ chồng,
khi sống với nhau đã lâu, Nguyễn Du vẫn làm bật lên cái hời hợt của Thúc Sinh:
“Nửa năm hơi tiếng vừa quen”
Đến nửa năm trời, lẽ ra vợ chồng phải hịa hợp ân ái, biết tâm biết tính
nhau, thì Thúc Sinh chỉ mới bắt đầu hiểu Kiều, và chừng ấy thời gian chỉ để
bén tiếng quen hơi. Quả thực Sinh có yêu Kiều, có sự đồng cảm dành cho nàng
nhưng vẫn còn những cảm nhận chủ quan và sự hời hợt trong đời sống nội tâm,
mà Nguyễn Du chỉ bằng một câu đã thâu tóm được tính cách có phần đơn điệu
của chàng Thúc.
So sánh với Kim Trọng, ta sẽ tính cách có phần hời hợt của chàng Thúc.
Chàng Kim cũng yêu Thúy Kiều, cũng mến mộ cái tài sắc vẹn toàn của nàng,
thế nhưng hoàn toàn khác với Thúc Sinh, khi chỉ vừa thống nhìn thấy nhau,
Thúy Kiều – Kim Trọng như đã hiểu rõ lòng nhau, chỉ là chưa dám tỏ ra bên
ngoài:
8


“Tình trong như đã, mặt ngồi cịn e.”
Hay với Từ Hải, tình cảm giữa chàng và Thúy Kiều cũng là tình vợ
chồng, cũng “Nửa năm hương lửa đương nồng” nhưng chàng không hề hời hợt
như Thúc Sinh, giữa chàng và Kiều như có sự đồng cảm, thấu hiểu cho nhau:
“Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,”
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Và chính sự hờn trách của Từ Hải đã chứng minh cho sự tâm đầu ý hợp giữa
chàng và Thúy Kiều, nàng vốn đã biết rõ về con người của chàng, cả hai đã tỏ
rõ lòng nhau, vậy mà cớ sao Kiều cịn nói đến chuyện “nữ nhi thường tình”.
Trái ngược hồn tồn với Thúc Sinh, cùng Kiều nên duyên vợ chồng đã nửa

năm trời ấy thế mà chỉ vừa “bén tiếng quen hơi”, chứ nào đã rõ lòng nhau.
Cứ ngỡ gia đạo đã có thể ấm êm, ngờ đâu Hoạn Thư nơi quê nhà cũng
đã nghe đồn đại về chuyện Thúy Kiều – Thúc Sinh nhưng nàng tỏ vẻ khơng
hay biết gì. Trở về nhà với Hoạn Thư ở Vơ Tích cả năm trời, với bản tính nhút
nhát, chàng Sinh nào có dám mở lời, mà vốn trước khi đi Thúy Kiều đã dặn:
“Thương nhau xin nhớ lời nhau”
Kiều dặn Thúc Sinh trở về quê nhà mà thưa chuyện của hai người cho Hoạn
Thư nghe, vì nàng biết rõ biết cái uy quyền, oai lực của vợ cả; hiểu rõ phận
mình là vợ lẽ, dù thế nào cũng phải cam lịng, chịu đựng mà phục tùng. Vì lẽ
đó, nàng chẳng muốn giấu giếm ngược xuôi, cốt cũng để cho vợ cả đẹp lịng.
Nhưng rồi chàng Sinh cũng có ngờ đâu, vì nhút nhát, yếu đuối mà chính mình
cũng rơi vào cái bẫy của Hoạn Thư:
“Cách năm mây bạc xa xa
Lâm Truy cũng phải tính mà thần hơn
Được lời như cởi tấm son
Vó câu thẳng ruổi nước non quê người.”

9


Chàng Sinh quả thực là người ngây thơ, dễ dàng mắc vào cái mưu sâu kế độc
của Hoạn Thư mà chẳng chút mảy may nghi ngờ; thậm chí y cịn vui mừng, tin
lời vợ, vội vã trở về quê nhà Lâm Truy vì nỗi nhớ Thúy Kiều vẫn ngày đêm
khơn ngi. Để rồi sau đó, cơn nóng giận, lịng ghen tuông nơi Hoạn Thư ập
đến. Hoạn Thư sai người đến Lâm Truy bắt cóc Thúy Kiều, cho đốt phịng viện
sách để mọi người ngỡ rằng Kiều đã chết cháy. Thúc Sinh trở về nghĩ rằng
Kiều đã chết, chàng đau đớn, khóc lóc, than thở, xót xa cho số phận đáng
thương của Kiều. Những tưởng Thúc Sinh đau đớn và hối tiếc cả đời, ngày đêm
nhung nhớ Kiều, vậy mà chỉ một năm, thương đau của Sinh cũng dần ngi
ngoai:

“Tìm đâu cho thấy cố nhân?
Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.
Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương,
Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê.”
Thúc Sinh gọi Kiều là “cố nhân”, chàng nhớ thương người thân yêu cũ là Kiều
nhưng chỉ biết tự an ủi, ngậm ngùi chấp nhận sự thật; đổ lỗi là vì số kiếp, mệnh
bạc khiến nàng nên nơng nỗi này, chứ có biết đâu nơi phương xa, Kiều đang
phải sống trong cái chốn địa ngục trần gian.
* Tính cách hèn yếu, nhu nhược
Ở Thúc Sinh, có cả dáng dấp của Kim Trọng và Từ Hải, nhưng lại có
điều gì đó bốc đồng, nên trớ trêu thay, kết cục thì lại như Sở Khanh – dù y
khơng phải là một con người như thế. Khi thấy Kiều còn băn khoăn, e ngại về
phận mình là gái lầu xanh, nếu làm lẽ của chàng, sợ rằng sẽ tổn hại thanh danh
thì Thúc Sinh khi ấy thật bản lĩnh, đã khuyên nhủ, trấn an nàng rằng:
“Đường xa chớ ngại Ngô Lào
Trăm điều hãy cứ trơng vào một ta
Đã gần chi có điều (đường) xa
Đá vàng cũng quyết phong ba cũng liều.”
Sinh khuyên Kiều chớ nên lo ngại xa xôi như nước Ngô, nước Lào; mọi
việc hãy cứ trông cậy vào chàng, để chàng sắp xếp, lo toan. Đó chính là bóng
10


dáng của người anh hùng với chí lớn như Từ Hải. Ở đây, Nguyễn Du đã dùng
từ “liều” để thể hiện ngơn ngữ của chàng Thúc. Từ “liều” có cái gì đó ngang
tàng, quả quyết, nhưng cũng có phần ương dở, chưa rõ ràng, vì khơng chắc
chắn thì mới phải làm liều. Chính vì vậy, tuy lời hứa hẹn của Thúc Sinh quả
quyết là thế nhưng thực thì chàng khơng có bản lĩnh hành động như Từ Hải,
cũng khơng có tấm lòng như Kim Trọng để chung thủy một đời với Thúy Kiều.
Tính cách của chàng có phẩn nhu nhược, nên Thúc Sinh là kiểu nhân vật trung

gian trong tình cảm và trách nhiệm, trong sự hứa hẹn và phản bội.
Sau này, khi sóng gió, tai ương bắt đầu ập đến, chàng Sinh nào có giữ
được lời hứa xưa; chàng bộc lộ cái yếu đuối, sự nhu nhược của bản thân mình;
chàng khơng hề dám hi sinh vì tình u trước mọi bất trắc như mình đã nói mà
thay vào đó chàng chỉ biết khóc. Khi nhìn thấy Thúy Kiều bị đánh ở phủ đường,
Thúc Sinh cũng chỉ biết khóc lóc, than thở, vì mình đã khơng nghe lời Kiều nói
lúc trước mà để nàng phải lâm vào cảnh oan trái thế này chứ cũng khơng dám
can ngăn:
Khóc rằng: “Oan khốc vì ta
Có nghe lời trước chớ đà lụy sau”
Đến khi gặp lại Kiều ở nhà Hoạn Thư, hai người chạm mặt nhau, nhưng
người là ông chủ, kẻ là phận tơi tớ nên nào có ai dám hé nửa lời huống hồ là
nhìn nhận nhau. Đau khổ cho cảnh trớ trêu, chàng Sinh cũng chỉ biết rơi nước
mắt, chàng khóc vì thương cho phận bạc bẽo của Kiều nhưng lớn hơn là khóc
vì sợ sự phát giác Hoạn Thư - một người bề thế danh gia vọng tộc:
“Sợ quen dám chẳng hở lời
Khôn ngăn giọt ngọc, sụt sùi nhỏ sa.”
Khi thấy chàng khóc, Hoạn Thư hỏi có hay điều chi, với bản tính nhút nhát,
Sinh nào dám nói ra sự thật, chỉ biết viện cớ rằng mình khóc vì buồn bã, xót
thương mẹ vừa mới đoạn tang:
“Sinh rằng: Hiếu phục vừa xong,
Suy lòng trắc dĩ đau long chung thiên!”

11


Đến lúc gặp lại Kiều ở Quan Âm các, chàng Sinh cũng chỉ có thể làm gì
hơn ngồi việc khóc lóc thở than, nước mắt tn trào:
“Sụt sùi giở nỗi đoạn tràng
Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh.”

Khi gặp khó khăn trong tình u, khi phải đối diện với những hoàn cảnh
éo le, Thúc Sinh lại bộc lộ cái tính cách yếu đuối, nhu nhược. Chàng chỉ biết
quay đi, lẳng lặng nhìn người mình yêu đau khổ. Lúc ở Quan Âm các, chàng đã
bày tỏ nỗi lịng của mình với Kiều rằng:
“Quản chi lên thác xuống ghềnh
Cũng toan sống thác với tình cho xong
Tơng đường chút chửa cam lịng
Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai.”
Chàng rằng mình khơng quản ngại khó khăn, cũng muốn hi sinh mọi thứ để có
thể cứu Kiều, liều chết cùng nàng mà giữ trọn tình này nhưng ngặt nỗi vì chưa
có con nối dõi tông đường, nên chàng không thể chết đi chỉ có thể thất hứa với
Kiều, đành phụ tấm lịng nàng mà bẻ đôi chữ đồng.
Đặc biệt, khi đã rơi vào tận cùng của sự tuyệt vọng, vực thẳm của những
khổ đau, nhân lúc Hoạn Thư đi vắng, Thúy Kiều chỉ còn biết cầu khẩn Thúc
Sinh:
“Liệu bài mở cửa cho ra,
Ấy là tình nặng ấy là ân sâu!”
Kiều khơng cầu mong danh phận cũng chẳng địi hỏi tình u. Nàng chỉ cần
Thúc Sinh giúp nàng thốt khỏi nơi đây đó là đã ơn sâu nghĩa nặng lắm rồi,
Nghe Kiều bảo thế:
“Sinh rằng: “Riêng tưởng bấy lâu,
Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường”

12


Lòng người nham hiểm mà Thúc Sinh nhắc đến chẳng phải là người đã cùng
chàng kết tóc trăm năm đó sao? Ấy vậy mà chính chàng cũng chẳng hiểu bụng
dạ người ta thế nào, chứ huống hồ là Kiều. Thúc Sinh chỉ có thể thối thác, bội
bạc lời thề, hay thậm chí là bộc lộ sự hèn yếu trước mặt Kiều:

“Thấp cơ thua trí đàn bà
Trơng vào đau ruột, nói ra ngại lời.”
Khi hứa hẹn với Kiều, Thúc Sinh chỉ xem mình là cái khiên khơng phải
là cái giáo, mặc dù chịu trách nhiệm về mình nhưng khi Kiều gặp nạn thì yếu
đuối, khóc lóc, khơng bảo vệ được Kiều mặc cho tình cảm cả hai đã có sự gắn
bó như “đá vàng”. Ấy thế mà, chàng Sinh lại nỡ nào phụ tình bội nghĩa, làm lời
“đá vàng” cũng phải nhạt phai:
“Liệu mà cao chạy xa bay
Ái ân ta có ngần này mà thôi.”
Thúc Sinh cũng đành bất lực với tình cảnh hiện tại. Chàng chỉ biết khuyên
Kiều nên tìm cách trốn đi mà cao chạy xa bay vì ân tình chàng chỉ có thể đến
đây, chỉ biết ngậm ngùi, cam lịng mà chấm dứt mối tình đau khổ này, thì phải
chăng chàng có khác gì Sở Khanh?
Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng, Thúc Sinh dù có yêu Kiều, dù có mến
mộ tài sắc, đồng cảm với thân phận nàng nhưng quả thật tính cách vẫn có phần
đơn giản, tầm thường chứ không phải đấng nam nhi, bậc trượng phu như Kim
Trọng hay Từ Hải. Ở chàng nổi bật là sự yếu hèn, nhu nhược từ bản chất đẳng
cấp, và việc không dám đối mặt với sự thật trong những hồn cảnh khó khăn
khiến chàng giống như một Sở Khanh dù thực tâm chàng không phải là con
người như thế:
“Dù cho sơng cạn đá mịn
Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ.”
3.3. Mối quan hệ với nhân vật Hoạn Thư
Dù là một người được học chữ Nho, là một thương nhân kể ra cũng có
tài sản trong tay nhưng đứng trước một Hoạn Thư xinh đẹp, thông minh, sắc
13


sảo: “Dại chi chẳng giữ lấy nền/ Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình.”, “Ở
ăn thì nết cũng hay/ Nói điều ràng buộc thì tay cũng già”, “Rõ ràng thật lứa

đôi ta/ Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi” thì Thúc Sinh đã lộ rõ bản chất yếu
đuối, nhu nhược của mình. Dù là trên cương vị vợ chồng, với một xã hội trọng
nam khinh nữ, kẻ quân tử có quyền năm thê bảy thiếp, thì Thúc Sinh lại là một
người chồng sợ vợ đến mức nhu nhược. Đó là sự sợ sệt, kiêng dè của tầng lớp
thương nhân trước tầng lớp quý tộc, mà nếu ta so bề gia thế giữa Thúc và Hoạn
thì Hoạn Thư vốn là con nhà Lại bộ Thượng thư, còn Thúc Sinh chỉ là tầng lớp
thương nhân ở đáy xã hội. Chính vì lẽ đó, nỗi sợ vợ của chàng Thúc khơng đơn
thuần là nỗi sợ của một ông chồng đối với một bà vợ, mà sâu xa hơn, đó cịn là
nỗi sợ mang tính đẳng cấp (giữa thương nhân với quý tộc).
Trong Truyện Kiều, ta đôi lần bắt gặp những vần thơ mà Nguyễn Du
viết về tình cảm vợ chồng giữa Thúc Sinh và Hoạn Thư:
“Lời tan hợp nỗi hàn huyên,
Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng”
“Những là cười phất cợt son
Đèn khuya chung bóng trăng trịn sánh đơi.”
Thúc Sinh hết mực mặn nồng với Hoạn Thư, cả hai vợ chồng đều “tương kính
như tân” sau chuỗi ngày xa cách, họ đùa vui, cười cợt sánh vai nhau nhưng cả
hai đã giấu giếm một nỗi niềm riêng. Chàng Thúc có lẽ vì sợ Hoạn Thư nghi
ngờ chuyện mình với Kiều nên tỏ vẻ yêu đương nồng mặn đến vậy. Còn nàng
Hoạn vốn đã nắm rõ mọi chuyện, nhưng cái cao ngạo của người đàn bà danh
gia vọng tộc buộc nàng phải kiềm lịng giữ vẻ bình tĩnh, vẫn cứ nói cười vui vẻ
với người chồng đầu ấp tay gối. Đó là những chua chát ngấm ngầm về tình cảm
vợ chồng giữa hai người, nhìn ngồi tỏ ra nồng nàn tình cảm, thế nhưng bên
trong đã có mầm mống của sự nứt rạn, lừa dối.
Hay khi đối diện với cha mình, chàng sẵn sàng lấy tình cảm ra kêu nài
xin cha tha thứ cho Kiều, với một thái độ rất nhanh và quả quyết:
“Thấy lời nghiêm huấn rành rành
14



Đánh liều, sinh mới lấy tình nài kêu
Rằng con biết tội đã nhiều
Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam”
Ngược lại, khi đối diện với một Hoạn Thư “tâm cơ vốn sẵn tại trời” như
thế, chàng Thúc chỉ biết im bặt mà chẳng dám hó hé, bởi nỗi sợ của Thúc Sinh
có nguồn gốc sâu xa từ trong bản chất đẳng cấp mà y thuộc về:
“Nghĩ đà bưng kín miệng bình
Nào ai có khảo mà mình lại xưng
Những là e ấp dùng dăng
Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi.”
Bên cạnh đó, khơng chỉ Thúc Sinh mà ngay cả Thúc ông cũng có phần
nào đó phải e ngại, lo sợ trước quyền lực và danh thế của nhà Hoạn Thư. Ban
đầu, ông không chấp nhận Thúy Kiều nên mới đem nàng ra phủ đường, thế
nhưng khi thấy được cái tài, cái hạnh của nàng thì ơng cũng ngi ngoai:
“Thương vì hạnh, trọng vì tài
Thúc Ơng thơi cũng giẹp lời phong ba.”
Hành động Thúc ông đưa Thúy Kiều đến phủ đường nhờ quan phủ xét xử phần
nào thể hiện nỗi sợ, sự “cả nể” của ông với sức ép, uy quyền của gia đình thơng
gia, vì vậy nên Thúc ơng và cả Thúc Sinh đều không dám tự quyết. Điều này,
trong Truyện Kiều, chúng ta sẽ khơng nhìn thấy rõ nhưng trong Kim Vân Kiều
Truyện nhắc đến rất rõ: “Bẩm! Đó là chỗ quan lớn chưa thấu rõ cho! Là vì cha
vợ nó là Lại bộ thiên quan, vợ nó đương trạc trẻ trung, sợ rồi không thể dung
nhau được, cho nên phải bắt đuổi con kia đi.” Như vậy, sự e sợ này của cả
Thúc ông và Thúc Sinh không chỉ là nỗi sợ thơng thường mà cịn là sự e sợ của
đẳng cấp thấp (thương nhân) trước một đẳng cấp cao hơn (quý tộc).
Đỉnh điểm, nỗi sợ ấy như một tác nhân khiến cho Thúc Sinh có dáng
dấp của một Sở Khanh, lừa lọc, bạc nhược đối với Kiều. Khi mọi chuyện đã vỡ
15



lẽ, một cô gái mỏng manh, bé nhỏ như Kiều đang đứng trước sự tra hỏi và hình
phạt của vợ cả, bản thân là người đã nói thương Kiều, đồng cảm với Kiều, thậm
chí đã từng ân ái với Kiều nhưng Thúc Sinh lại sợ Hoạn Thư đến mức đứng
ngớ ra đó mà khơng dám làm gì, mặc Kiều cho Hoạn Thư. Như vậy, những lời
hứa khi Thúc Sinh hứa với Kiều trước đây cũng không thể vượt qua nỗi sợ của
Thúc Sinh đối với Hoạn Thư:
“Liệu mà xa chạy cao bay
Ái ân ta có ngần này mà thơi.”
Bằng việc xây dựng mối quan hệ giữa Thúc Sinh và Hoạn Thư, Nguyễn
Du đã cho thấy bản tính yếu đuối, nhu nhược của nhân vật này. So về thông
minh, Thúc Sinh không thể sánh với Hoạn Thư, độ sắc sảo tinh tế cũng khơng,
về giai tầng lại càng khơng. Chính vì vậy, nỗi sợ của chàng Thúc khơng phải là
tính cách của riêng Thúc Sinh mà còn là nỗi sợ của đẳng cấp thương nhân so
với quý tộc quan lại. Đó cũng chính là khả năng điển hình hóa rất tài tình mà
Nguyễn Du đã kiến tạo cho nhân vật Thúc Sinh.

4. Kết luận
Ở nhân vật Thúc Sinh, ta thấy được đầy đủ tính chất của nhân vật trung
gian trong cách Nguyễn Du điển hình hóa nhân vật này. Qua ngịi bút tạo tác
của Nguyễn Du, Thúc Sinh hiện lên từ tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp, dòng
dõi đến mối quan hệ với Thúy Kiều và Hoạn Thư, đã trở thành nhân vật điển
hình cho tầng lớp thị dân (cụ thể là thương nhân). Đây là đẳng cấp thấp nhất
trong xã hội, dư dả tiền bạc nhờ kinh doanh mua bán và có quan hệ rộng rãi.
Tuy nhiên, vì tầng lớp này gắn liền với vật chất (tiền bạc), cộng với việc thiếu
chỗ đứng trong xã hội, họ còn bộc lộ ra tính cách hèn yếu, nhu nhược, bên cạnh
sự hời hợt, thiếu tinh tế về mặt nội tâm. Do vậy, đây là nhân vật này có thể làm
cho độc giả vừa thương vừa ghét, vừa yêu vừa hận. Phải chăng vì thế mà Lê
Đình Kỵ đã từng nhận xét: “Trong người Thúc Sinh có cái mầm Kim Trọng lẫn
Sở Khanh… hai cái mầm trái ngược ấy dựa vào nhau mà làm nên Thúc Sinh.
Tùy theo từng hoàn cảnh như thế nào mà cái này sẽ lấn át cái kia” (Nguyễn Thị

Kim Vân. 2011, tr.19).
16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách
1. Đào Duy Anh. (2000). Từ điển Truyện Kiều. Hà Nội: NXB Văn hóa thơng

tin.
2. Lê Văn Hòe. (2019). Truyện Kiều chú giải. Hà Nội: NXB Văn học.
3. Nguyễn Thị Thu Thủy. (2006). Điển hình hố trong văn xuôi hiện thực phê
phán Việt Nam (giai đoạn 1930 - 1945).
4. Trần Trọng Kim. (2020). Truyện Kiều Nguyễn Du. Hà Nội: NXB Văn học.
Nguồn điện tử
1. Duong Le. (2020). Phân loại nhân vật văn học. Truy cập ngày 2/1/2022:
/>2. Nguyễn Thị Kim Vân. (2011). Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của
Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Truy cập ngày 1/1/2022:
/>3. Đỗ Minh Tuấn. (1995). Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện
Kiều.
Truy
cập
ngày
1/1/2022:
/>4. Lê Đình Kỵ, Nhân vật Truyện Kiều. Truy cập ngày 1/1/2022:
/>
17




×