Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT MỊ TRONG 3 TÌNH HUỐNG TRUYỆN VỢ CHÔNG A PHỦ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.52 KB, 9 trang )

VỢ CHỒNG A PHỦ- TƠ HỒI
A) TÁC GIẢ TƠ HỒI + TÁC PHẨM:
Tác giả Tơ Hồi tên thật là Nguyễn Sen, ơng sinh năm 1920 và mất năm 2014. Ơng sinh ra
và lớn lên tại quê ngoại- làng Nghĩa Đô, phủ Hồi Đức, Hà Đơng, trong một gia đình thợ thủ
cơng. Thời trẻ, Tơ Hồi đã phải lăn lộn kiếm sống bằng nhiều nghề, trải qua nhiều biến cố
cuộc đời trước khi bước vào con đường văn học. Tơ Hồi viết văn xoay quanh hai chủ đề
chính là văn học thiếu nhi và từ những trải nghiệm cá nhân, và trong đó có tập “Truyện Tây
Bắc” chính là nét tiêu biểu khơng chỉ trong chủ đề ấy mà cịn là ngôi sao sáng trong sự
nghiệp văn chương của ông. Bởi ở đó ta thấy được sự kì cơng cũng như nét tinh tế trong cái
nhìn của ơng khi ơng đã dành ra tám tháng trên Tây Bắc để hiểu thêm về nơi đây cũng như
lấy cảm hứng cho “Vợ chồng A Phủ” dựa trên cặp vợ chồng ông đã gặp gỡ, thể hiện rõ nét
tài năng của một bậc thầy kí họa chân dung ngồi đời thực, bởi nó tập trung vào chủ đề nổi
bật khi ấy là con đường giải phóng của đồng bào các anh em ở miền Tây Bắc, bởi chính họ
cũng là nạn nhân của chế độ thực dân Pháp giống đồng bào Kinh ở miền xi, và cũng là nạn
nhân bị áp bức bóc lột bởi chế độ phong kiến và những tập tục lạc hậu.
B) PHÂN TÍCH:
1. Nhân vật Mị:
Để làm nổi bật cảnh ngộ, thân phận, nỗi niềm và khát vọng của Mị, Tơ Hồi đã sử dụng biện
pháp nghệ thuật kể chuyện vô cùng độc đáo bằng cách kết hợp giữa nghệ thuật tỉnh lược với
thủ pháp cụ thể hóa có định hướng đối tượng miêu tả. Ban đầu qua con mắt xa lạ khách quan
của “ai ở xa về”, Mị hiện lên như con gái nhà thống Lí, nhưng lúc nào cũng ngập đầu ngập
cổ trong công việc, lúc nào cũng trầm ngâm ít nói khiến cho người ta khơng khỏi băn khoăn:
“ Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trơng thấy một cơ gái ngồi quay sợi
gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa,
dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười
rượi.” Nhưng những khúc mắc ấy dần được hóa giải qua lời kể của những người nghèo ở
Hồng Ngài- những người gần gũi và hiểu Mị nhất: Mị vốn mang thân phận của một cơ con
dâu nhà thống lí giàu nhất làng nhưng thực chất lại bị “bắt” về để trả nợ thay cho bố mẹ.
Không gian bao quanh Mị thật chật hẹp, tù túng, chỉ luẩn quẩn từ nơi ngưỡng cửa tới chuồng
ngựa, từng hành động lặp đi lặp lại thật khiến cho người đọc cảm thấy bức bối và ngột ngạt,
huống chi là Mị. Nhà văn Tơ Hồi dường như đã nhập thân vào Mị, để Mị tự ý thức về thân


phận nhỏ bé khơng có tiếng nói của mình trong gia đình ấy, và cũng phần nào dần hé lộ
những nỗi niềm, suy nghĩ và khát vọng đã chìm sâu trong lịng Mị. Lời văn cũng vì thế mà
trầm hơn, nghẹn ngào hơn, dần đưa ta trở về một miền kí ức của một cơ Mị ngày xưa. Trước
kia, Mị vốn là một thiếu nữ trẻ trung, tự do, vơ cùng quyến rũ và có tài thổi sáo làm nức lịng
người, bởi vậy có biết bao người đã say mê tới nỗi “đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng
Mị”. Khơng chỉ thế Mị cịn là cơ con gái hiếu thảo, biết tự ý thức được số phận và hạnh phúc
của bản thân khi bảo bố rằng “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương
ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”, một câu nói tuy thật nhẹ nhàng
nhưng ẩn sâu bên trong lại rất mạnh mẽ kiên cường không chịu đầu hàng số phận. Tơ Hồi ắt
hẳn đã trân trọng Mị vô cùng, ông nâng niu những phẩm chất tốt đẹp của người con gái ấy,


những vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp nhân phẩm trong sáng của một người con gái miền núi- một
điểm sáng trong cảm hứng nhân đạo sâu sắc của ông.
Thế nhưng món nợ truyền kiếp của cha mẹ cùng với tục cướp vợ và cúng trình ma dường
như lại trở thành một tấn bi kịch không thể lường trước đổ ụp lên đầu của một cơ gái đang
trong thời kì mà tuổi trẻ đang nở rộ nhất, Mị bị ép sống với kiếp con dâu gả nợ, cái chốn địa
ngục trần gian ấy đã vùi dập và “chôn sống” Mị, khiến cho Mị trở thành kiếp con trâu, con
ngựa, thậm chí cịn khơng bằng. Nếu từ những ngày đầu tiên làm dâu, “có đến hàng mấy
tháng, đêm nào Mị cũng khóc”, thậm chí Mị cịn có ý định tự tử khi trốn về nhà cùng với
nắm lá ngón để lạy cha trước khi chết; thì sau khi cha Mị qua đời, những ý nghĩ đó cũng dần
phai nhạt đi, “Mị cũng khơng cịn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”, bởi trong
một bầu khơng khí đã biến một một người thiếu nữ trẻ trung yêu đời dần trở nên “lùi lũi như
con rùa ni trong xó cửa”, thì những ý thức về sự phản kháng mạnh mẽ trong cơ cũng đã
dần bị tê liệt. Cùng với đó một trong những dấu hiệu đặc trưng cho con người- tiếng nóicũng bị mất dần ở Mị. Mị lặng lẽ và vơ hồn như một cái bóng, khơng được giao du, bầu bạn,
không được một phút ngơi tay mà chỉ biết lấy công việc và sự đày đọa là những thứ đồng
hành. Căn buồng Mị ở cũng chẳng khác gì một gian tù với một chiếc cửa số “một lỗ vuông
bằng bàn tay”, u ám, tù túng, khiến cho Mị cũng dần mất đi những khái niệm về không- thời
gian, “không biết là sương hay là nắng”. Một cuộc sống khơng hề có màu sắc âm, khơng có
cả ngắn dài thời gian, không chia biệt đêm ngày. Tác giả Tô Hồi lại một lần nữa nhập thân

vào chính nhân vật Mị, thấu hiểu những nỗi niềm, suy nghĩ, sự cam chịu nhẫn nhục đến bất
lực “Mị nghĩ rằng cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ mới chết thì
thơi”, làm ta gợi nhớ đến cảnh ngộ khốn cùng của người con gái Thái trong “Tiễn dặn người
yêu”:
“Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa
Bằng thân con chẫu chuộc thôi”
Nhà văn đã khắc họa đặc biệt thành cơng thân phận của Mị nói riêng cũng như thân phận
của những người làm dâu gạt nợ nói chung, tố cáo mạnh mẽ những thế lực thống trị miền
núi, nhất là cường quyền và thần quyền đã chà đạp lên quyền sống của con người, biến mỗi
một kiếp người thành một kiếp ngựa trâu. Cùng với đó, ông cũng bộc lộ niềm cảm thông sâu
sắc chân thành trước nỗi thống khổ của người phụ nữ nông dân miền núi trong xã hội cũ. Đó
cũng là khía cạnh bộc lộ tư tưởng nhân đạo sâu sắc của nhà văn cũng như giá trị vượt thời
gian của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”: “Loại văn chương siêu việt thời gian là loại văn
làm bất hủ những nỗi thống khổ của con người” (Vôn-te)


2. Tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân:
Khái quát về cảnh ngộ, thân phận Mị:
-Vốn là một bông hoa của núi rừng, một thiếu nữ hiếu thảo, tài hoa, tha thiết với tự do, có ý
thức lựa chọn hạnh phúc cho đời mình; Mị đã bị món nợ truyền kiếp của cha mẹ, tục cướp
vợ và tục cúng trình ma biến thành người con dâu trả nợ trong gia đình thống lí.
- Cái địa ngục trần gian nhà thống lí Pá Tra cùng tục cúng ma lại biến người con dâu khốn
khổ ấy thành một “kiếp trâu”, “kiếp ngựa”, “kiếp rùa”, thậm chị là một kiếp sống “không
bằng con ngựa”.
- Nhưng ngịi bút nhân ái của Tơ Hồi khơng dìm mãi tâm trí người đọc trong nỗi thống khổ
của người con dâu trừ nợ mà luôn thiết tha hướng về phía ánh sáng, về phía sự sống để trân
trọng, nâng niu từng niềm khát khao ham sống, khát khao hạnh phúc và tự do, đồng thời
khẳng định sức sống mãnh liệt tiềm tàng nơi tâm hồn Mị.
Sức sống tâm hồn của Mị đã được trỗi dậy vào những đêm tình mùa xn, khi những đơi trai
gái đi tìm bạn. Người Mèo từ trước đến nay thường ăn Tết khi “các nương ngô, nương lúa

gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho”, họ vui vẻ, sung sướng về một mùa màng
bội thu, họ hân hoan đi đón xn trong một bầu khơng khí với những âm thanh háo hức như
tiếng cười của trẻ chơi quay và những sắc màu sắc rực rỡ như màu cỏ gianh vàng ửng, màu
đỏ của “những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”.
Mùa xuân là mùa của sự sống, của sự khởi đầu, nên có lẽ, trong thâm tâm Mị cũng đã dần
được hồi sinh những khát khao và ham muốn được sống, được là chính mình. Thật vậy, trong
những đêm tình mùa xuân rạo rực ngập tràn hạnh phúc của những đơi trai gái u nhau, nó
gợi lên trong Mị một cảm xúc bồi hồi của tuổi trẻ, khát khao được hạnh phúc, khát khao
được yêu đương say đắm như Mị đã từng được trải qua. Bên cạnh đó, men rượu ngày Tết
cũng là một nhân tố kích thích mạnh mẽ sức sống tâm hồn của Mị: “Ngày Tết, Mị cũng
uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi Mị say, Mị lịm mặt ngồi đấy
nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng trong lịng Mị thì đang sống về ngày trước”.
Cứ mỗi bát rượu, Mị như uống theo tâm hồn đau khổ của mình, bao nhiêu nỗi tủi hờn, uất ức
của cảnh làm dâu bị đè nén bấy lâu này cũng dần tan biến. Rượu làm cơ thể Mị say, nhưng
lại khiến cho tâm hồn Mị tỉnh táo đến lạ thường; cái say làm Mị quên đi thực tại, Mị nhớ về
ngày trước và quan trọng nhất là Mị vẫn cịn một niềm tin rằng mình là con người, mình có
quyền được sống như một con người. Có thể nói, Mị uống rượu như thể đang nuốt trọn cái
cay đắng của phần đời đã qua, và cũng thế hiện một khát khao được sống là chính mình
trong phần đời sắp tới.
Thế nhưng, tác nhân duy nhất khiến cho cái mong muốn ở Mị trở nên cồn cào bùng cháy
chính là tiếng sao gọi bạn yêu, mỗi một lần tiếng sáo xuất hiện lại là một lúc mà tâm trạng
của Mị có sự chuyển biến. Ngay từ khi tiếng sáo cịn ở rất xa, nó đã đầy sức vẫy gọi và
quyến rũ: “Ngoài đầu núi đã lấp ló có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”, tiếng sáo mới chỉ
“lấp ló” nơi đầu núi nhưng cũng đã bắt đầu thắp lên ánh sáng, thắp lên một khởi đầu mới cho
một tâm hồn tưởng chừng như đã bị tê liệt không tài nào cứu vãn nổi. Càng đến gần, tiếng
sáo gọi bạn yêu lại càng thức tỉnh và lay động mạnh mẽ đối với tâm hồn Mị: “Tai Mị văng
vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”, “Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài
đường”. Từ chỗ là một hiện tượng ngoại cảnh, giờ đây tiếng sáo dần dần đã trở thành một



nhân tố tác động mạnh mẽ vào nội tâm Mị, dần đánh thức lại cô Mị của ngày xưa, cô Mị của
một thời tự do yêu đời: “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”, “Mị ngồi nhẩm thầm bài
hát của người đang thổi”. Tiếng sáo vừa như vẫy gọi tha thiết từ bên ngồi, vừa như thơi
thúc từ bên trong khiến lịng Mị bồi hồi thao thức khơng n. Nó như mang cả một thế giới
tự do bên ngồi, nó chứa đựng trong đó một nỗi lịng khát khao hạnh phúc:
“Ta khơng có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”
.nhưng có lúc lại như một lời hờn dỗi trách móc về một tình u khơng được đền đáp:
“Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi…”
Như một mầm cây ngủ quên lâu ngày trong đất, gặp hơi ấm của mùa xuân, sức sống và khát
vọng tâm hồn của Mị bỗng cựa mình tỉnh giấc rồi mạnh mẽ vươn mình trỗi dậy. Nếu như
trước đây Mị gần như hoàn toàn mất ý thức về thời gian, khơng gian thì bây giờ khơng khí
mùa xn, âm thanh tiếng sáo và men rượu ngày Tết lại thức tỉnh ý thức của Mị về quá khứ,
một quá khứ mà tài thổi sáo lá của cơ khiến cho “có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi
sáo đi theo Mị”. Cả một miền kí ức tươi đẹp, tự do, tài hoa và nồng nàn hạnh phúc bỗng bất
chợt hiện về với bao nhiêu nuối tiếc. Quá khứ càng tươi đẹp biết bao nhiêu thì hiện thực xót
xa trước mắt lại thật khắc nghiệt, đau đớn và tàn nhẫn đến bấy nhiêu. Lòng tham yêu, khát
sống giờ đây đang dần thức dậy từ đống tro tàn giá lạnh nơi cõi lòng người con dâu trừ nợ,
khiến cho ta nhận ra rằng hóa ra sức sống và khát vọng của con người thật thiết tha, kì diệu
và mãnh liệt biết bao. Nếu như trước kia nỗi buồn luôn thường trực hiện lên trên gương mặt
Mị, nên Mị “lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”, thì bây giờ tâm hồn Mị lại lâng
lâng niềm vui: “ Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như
những đêm Tết ngày trước”. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm dài đằng đẵng không màng
đến bản thân, Mị bỗng thấy thật chắc chắn rằng: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ”, Mị vẫn ý
thức được sâu sắc tuổi trẻ của mình, Mị ý thức được sâu sắc niềm khát khao hạnh phúc tình
yêu lại càng trỗi dậy thiết tha hơn trong lịng mình. Nếu như trước đây Mị cam lòng chấp
nhận cuộc sống trâu ngựa tù túng: “Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng
chẳng buồn đi”, thì bây giờ, “Mị muốn đi chơi”. Câu văn tuy thật ngắn gọn nhưng nó lại
mang một ý nghĩa vơ cùng to lớn, nó như là một bước ngoặt mới cho cuộc đời của Mị, nó thể

hiện khát khao đi theo tiếng gọi của tình yêu, là niềm khát khao thoát khỏi căn buồng tối tăm
đang cầm tù cuộc đời Mị. Và đây cũng là lần đầu tiên người con gái ấy thầm so sánh cảnh
ngộ hiện tại của mình với cảnh ngộ của biết bao người phụ nữ có chồng khác, để lại càng
thấm thía hơn cái nỗi đau tủi nhục tột cùng của cuộc đời cơ, “Bao nhiêu người có chồng
cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, khơng có lịng với nhau nhưng vẫn phải ở
với nhau”. Đó là ý thức sâu sắc của Mị về thực trạng hôn nhân trừ nợ, về thực tại đau xót mà
mình đã phải hứng chịu bấy lâu nay, một sự bất công, một sự cản trở mà hiếm có một ai dám
lên tiếng về nỗi bất hạnh ấy. Nếu trước đây ý thức phản kháng của Mị đã bị tê liệt khi Mị
“cũng không cịn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”, thì giờ đây ý nghĩ ấy lại quay
trở về, “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn
nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Nhìn từ khía cạnh khách quan, thì hành
động này là một hành động thật bồng bột và thiếu suy nghĩ khi biết bao con người đang


mong chờ được sống ngồi kia thì lại có một con người muốn kết liễu cuộc đời ngay tức thì,
nhưng nếu nhìn vào những gì Mị đã từng phải trải qua thì đó lại là một điều hợp lí. Vì Mị đã
biết rằng mình cần phải giải thốt, thà chết như một con người cịn hơn sống khơng bằng một
con vật. Những dịng nước mắt ứa ra cũng chính là hiện thân cho nỗi đau đớn tủi nhục uất ức
kìm nén từ bao lâu nay giờ đã trào dâng lên đến đỉnh điểm, khơng thể nào kìm nén nổi nữa.
Ta thật thấy cảm phục trước nét diễn tả tâm lí vô cùng tinh tế ở Mị mà tác giả Tô Hồi đã dày
cơng khắc họa, đan xen giữa niềm “vui phơi phới” lại là một nỗi đau không ai thấu, đồng
thời cho thấy sự trân trọng của ông với từng khoảnh khắc xúc cảm trong sự hồi sinh âm thầm
mà mạnh mẽ nơi tâm hồn Mị.
Niềm khát khao tình yêu hạnh phúc tự do, khát khao ham sống không chỉ trào dâng mạnh
mẽ nơi tâm hồn Mị mà còn được bộc lộ qua nhiều hành động bên ngoài, nổi bật nhất chính là
hành động thắp sáng căn buồng vốn âm u của mình “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một
miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Người con dâu trừ nợ ấy đã lấy chính ánh sáng của
niềm khát khao sống, khát khao yêu và được yêu mới bừng lên trong tâm hồn mình để tiếp
thêm ánh sáng cho ngọn đèn vẫn le lói ở góc phịng. Đó cũng là hành động của sự thức tỉnh,
khát khao được tự thắp sáng tâm hồn mình, Nó cũng gợi nhớ chi tiết nhân vật Tràng giơ cái

chai dầu con con lên khoe với tất cả niềm hãnh diện giữa những ngày tối sầm lại vì đói khát
trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của tác giả Kim Lân. Hóa ra, ngay trong những hoàn cảnh khốn
cùng, bi thảm nhất, những người nông dân như Mị, như Tràng vẫn luôn khao khát được thắp
lên ánh sáng của sự sống, của hi vọng, của niềm tin. Khơng chỉ “muốn đi chơi”, Mị cịn sửa
soạn đi chơi: “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”, “Mị rút
thêm cái áo”. Như quên cả mọi trói buộc khắc nghiệt trong gia đình thống lí, Mị đang sửa
soạn để tự do đi theo tiếng gọi của lịng mình, đi theo tiếng gọi của những cuộc vui ngoài
kia, của những trải nghiệm sống lại thời tươi trẻ. Thế nhưng, giữa lúc mà khát vọng nơi tâm
hồn Mị đang trỗi lên thiết tha mãnh liệt nhất, thì cũng là lúc cơ lại một lần nữa bị chà đạp
dập vùi phũ phàng: “A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một
thúng đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn ln tóc lên cột,
làm cho Mị khơng cúi, khơng nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt
lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại”. Từng hành động diễn ra
chỉ trong chớp mắt, rất rõ ràng, chính xác và rành mạch, biểu thị cho một sự tàn ác đến thản
nhiên không chỉ mới xảy ra lần đầu. Ngọn đèn mà Mị đã ao ước được thắp sáng lên thêm,
giờ đây cũng đã bị chính A Sử dập tắt.
Thế nhưng những vịng dây trói ác liệt ấy cũng chỉ có thể buộc chặt được thể xác Mị chứ
nào đâu cầm tù được cái khát vọng tâm hồn ấy. Người con dâu trừ nợ khốn khổ ấy vẫn tự do
sống với khát vọng của lịng mình: “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc
chơi, những đám chơi”, nó trỗi dậy mạnh mẽ thơi thúc Mị “vùng bước đi”, nhưng những
vịng dây trói thít lại đau nhức, kéo Mị trở về thực tại đau đớn. Thay vì tiếng sao thơ mộng
ấy, giờ đây chỉ cịn lại tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khốc, “Ngựa vẫn đứng yên, gãi
chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình khơng bằng con ngựa”. Suốt đêm bị trói đứng
khốn khổ ấy, Mị lúc mê lúc tỉnh, “lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức”, “lúc lại
nồng nàn tha thiết nhớ”. Người con dâu trừ nợ khốn khổ ấy đang sống trong sự giằng xé
giữa khát vọng và thực tại, giữa ước mơ tình yêu hạnh phúc và tự do với hiện thực tủi nhục.
Tơ Hồi đã đặt sự hồi sinh của Mị vào một tình huống bi kịch: khi hiện thực càng phũ phàng


thì khát vọng càng mãnh liệt hơn, khiến cho sức sống và khát vọng tâm hồn Mị càng trở nên

mạnh mẽ thiết tha.
Khi “bàng hồng tỉnh” vào buổi sáng hơm sau, Mị lại càng thấm thía hơn cái đau đớn tủi
nhục khốn cùng của cuộc đời làm dâu trừ nợ, của thân phận những người đàn bà ở Hồng
Ngài: “Không biết tất cả những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan đã được đi chơi
hay là họ cũng đang phải trói như Mị”, “đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng
Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng”. Đặc biệt, khi nhớ
lại việc có người vợ từng bị trói đứng đến chết trong nhà, “Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem
mình cịn sống hay chết”, khiến cho ta vẫn cịn có một niềm tin rằng dù có đang ở trong
hồn cảnh vơ cùng đau đớn nhưng Mị vẫn cịn khát khao được sống, khát khao được giải
thoát. Nhưng chỉ sau đêm ấy, thì dường như Mị lại trở về là một con người vơ hồn như trước,
dù cho có bị A Sử đạp chân vào mặt do gục đầu nằm thiếp đi lúc xoa thuốc dấu cho chồng,
thì cơ cũng khơng hề có chút phảng kháng mà chỉ “chồng thức, nhặt nắm lá thuốc, xoa
đều đều trên lưng chồng”. Trước một hành động vừa gây đau đớn về thể xác và sỉ nhục về
tinh thần khiến cho người đọc khơng khỏi căm phẫn, thì Mị chỉ nhẫn nhục, câm lặng và cam
chịu, bằng lòng quay về với kiếp con trâu con ngựa như trước kia.
Qua những chi tiết về đêm tình mùa xn, Tơ Hồi đã thể hiện niềm cảm thông sâu sắc và
chân thành trước số phận bị thảm, trước nỗi thống khổ của người phụ nữ nông thôn miền núi
trong xã hội cũ- những người bị tước đoạt đi tiếng nói, khơng được lên tiếng và bảo vệ lấy
chính mình trước sự tàn bạo của tầng lớp thống trị. Nhưng bên cạnh đó, ta cũng có thể thấy
rõ rằng nhà văn đã phát hiện ra những vẻ đẹp tâm hồn, những khát vọng sống lớn lao và nét
đẹp tiềm tàng trong những người con gái ấy, ông trân trọng và nâng niu những giá trị quý giá
của con người, thể hiện một tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ và độc đáo.

3. Tâm trạng và hành động của Mị khi cắt dây trói cho A Phủ:
Khái quát về cảnh ngộ, thân phận Mị:


-Vốn là một bông hoa của núi rừng, một thiếu nữ hiếu thảo, tài hoa, tha thiết với tự do, có ý
thức lựa chọn hạnh phúc cho đời mình; Mị đã bị món nợ truyền kiếp của cha mẹ, tục cướp
vợ và tục cúng trình ma biến thành người con dâu trả nợ trong gia đình thống lí.

- Cái địa ngục trần gian nhà thống lí Pá Tra cùng tục cúng ma lại biến người con dâu khốn
khổ ấy thành một “kiếp trâu”, “kiếp ngựa”, “kiếp rùa”, thậm chị là một kiếp sống “khơng
bằng con ngựa”.
- Nhưng ngịi bút nhân ái của Tơ Hồi khơng dìm mãi tâm trí người đọc trong nỗi thống khổ
của người con dâu trừ nợ mà ln thiết tha hướng về phía ánh sáng, về phía sự sống để trân
trọng, nâng niu từng niềm khát khao ham sống, khát khao hạnh phúc và tự do, đồng thời
khẳng định sức sống mãnh liệt tiềm tàng nơi tâm hồn Mị.
- Khi mùa xn đến, khơng khí của những đêm tình mùa xuân cùng với âm thanh tiếng sáo
và men rượu ngày Tết đã thổi bùng lên nơi tâm hồn Mị một sức sống thiết tha mãnh liệt, tiềm
tàng, đã thức tỉnh ở Mị niềm khát khao ham sống, khát khao hạnh phúc tự do. Nhưng chỉ sau
đêm bị trói đứng, sức sống và khát khao trong tâm hồn của Mị lại dần bị chai sạn đi. Phải
đến tận đêm đơng chứng kiến A Phủ bị trói đứng, sức sống ấy mới lại hồi sinh.
Ban đầu khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói đứng khốn khổ, Mị hồn tồn dửng dưng, thờ ơ,
vơ cảm: “thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống”, “Nếu A Phủ là cái xác
chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Thơng thường, giữa con người với con người trong hồn
cảnh ấy chắc chắn sẽ phải có chút lịng thương người, hoặc chí ít là chút lịng đồng cảm với
một con người đang trong hồn cảnh mình đã từng phải chịu qua. Thế nhưng ở đây có thể do
những hành động tàn ác đã xảy ra quá thường xuyên trong gia đình thống lí khiến cho lịng
trắc ẩn trong Mị dường như cũng dần tan biến và khơng cịn quan tâm đến nữa. Trái tim Mị
giờ đây đã hoàn toàn bị tê liệt, hóa đá khơ cằn trơ trọi, cho đến khi cơ chứng kiến được dịng
nước mắt của A Phủ, “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”.
Dòng nước mắt đau đơn, tuyệt vọng ấy đã thức tỉnh sức sống nơi tâm hồn Mị, đánnh thức
tình u thương, lịng đồng cảm của người con dâu trừ nợ. Như vậy, nếu như trước kia điều
thức tỉnh Mị chủ yếu là những nguyên nhân ngoại cảnh như khơng khí mùa xn trong
những đêm tình và âm thanh tiếng sáo; thì điều thức tỉnh tình thương và lòng đồng cảm của
Mị ngay lúc này lại diễn ratrong gia đình thống lí, ngay sát nơi đêm đêm Mị vẫn thường sưởi
lửa. Nhờ nhập thân vào nhân vật Mị, ngịi bút tâm lí tinh tế của Tơ Hồi đã phát hiện ra và
diễn tả rất chính xác từng cảm nhận, từng nỗi niềm, suy nghĩ của Mị khi đối diện trước dòng
nước mắt đau đớn, tuyệt vọng và cảnh ngộ khốn cùng của A Phủ. Mị nhớ lại q khứ tủi
nhục, đau thương của chính mình khi bị trói đứng trong đêm tình mùa xn năm trước,

“Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải
trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau
đi được”. Mị nhớ lại. Mị “giật mình mình lại thương mình xót xa” (Nguyễn Du), tình
thương nơi tâm hồn Mị ngày càng sâu sắc thấm thía hơn. Mị thương xót cho chính thân phận
mình, rồi thương đến A Phủ, thương đến người đàn bà bị trói đến chết- những con người
không thể tự định đoạt được số phận của mình, “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết,
nó bắt mình chết cũng thơi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà
này”. Tơ Hồi dường như đã trao ngịi bút cho Mị để Mị tự viết lên nỗi niềm, tâm trạng, khát
vọng của lịng mình, nên dường như lời văn bỗng chợt thổn thức, nghẹn ngào hơn, nó thể


hiện được tâm trạng, tình thương của những người đồng cảnh ngộ với nhau, họ thường sẽ
thương nhau hơn, hiểu nhau hơn mà ở đây chính là mối đồng cảm giai cấp giữa Mị và A Phủ.
Lần đầu tiên, người phụ nữ tưởng chừng chỉ để yêu thương ấy cũng đã biết căm thù: “Chúng
nó thật độc ác”. “Chúng nó” ở đây khơng chỉ là cha con nhà thống lí Pá Tra mà cịn là tồn
bộ chế độ thống trị miền núi bất công tàn bạo, là hiện thân cho chế độ cường quyền cổ hủ lạc
hậu chà đạp lên số phận của con người. Càng thương A Phủ, Mị lại càng phập phồng lo lắng
cho số phận của A Phủ, Mị lo cho A Phủ sẽ cầm chắc cái chết nếu khơng được cởi trói qua
đêm nay: “ Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải
chết”. Trước sự thơi thúc của thời gian, của hoàn cảnh, từng ý nghĩ trong đầu Mị dần được
thức tỉnh, Mị thầm so sánh cảnh ngộ của mình với cảnh ngộ của A Phủ để nhận thấy việc A
Phủ phải chết là điều bất công, phi lí: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó
rồi thì chỉ cịn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế”.
Chính lịng thương người sâu sắc cùng sự thúc bách của thời gian dường như đã ý thực được
rằng A Phủ nếu chết ở đây thì sẽ thật bất công, và đồng thời cũng cho ta thấy sự nhẫn nhục
chịu đựng của thân phận đàn bà lẫn nỗi sợ hãi trước tục cúng ma. Có thể nói, tục cúng mahiện thân của thần quyền- đã trở thành cái vịng xích vơ hình trói chặt cuộc đời Mị vào gia
đình thống lý, khiến cho Mị dần quên mất đi chính mình, qn mất đi chính sự tự do mà
mình đáng phải có. Tới đây, Mị dần nghĩ lại về tồn bộ qng đời đã qua, và hình dung ra
một tương lai thật thê thảm: “Mị nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng tượng như có thể một lúc
nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị cởi trói cho

nó, Mị liền phải trói thay vào đó, Mị sẽ phải chết trên cái cọc ấy”. Như vậy, dù ý nghĩ cứu
A Phủ đã xuất hiện, nhưng vẫn bị ngăn cản, bị kìm nén bởi nỗi lo cho bản thân, nỗi sợ trước
cái chết. Tơ Hồi thật sự đã rất thành công khi đã diễn tả được tinh tế cuộc đấu tranh nội tâm
đang giằng xé căng thẳng giữa lòng thương người và sự tự thương thân đang diễn ra nơi tâm
hồn Mị. Và giữa những dòng suy nghĩ đắn đo ngổn ngang ấy, nhà văn đã chốt hạ một câu
văn thật giàu ý nghĩa: “Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng khơng thấy sợ”.
Đối với Mị, khi đứng trước tình cảnh A Phủ sắp chết đến nơi, dù cho Mị có phải trói thay,
chết thay cho A Phủ, thậm chí có bị làm sao đi nữa thì Mị cũng khơng thấy sợ, bởi giờ đây
lòng thương người dường như đã mạnh hơn nỗi thương thân, thậm chí ý nghĩ cứu A Phủ cịn
mạnh mẽ hơn nỗi sợ chết. Chính điều đó đã tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho Mị, giúp Mị
vượt qua nỗi sợ để biến ý nghĩ cứu A Phủ trở thành hành động.
Thế nhưng khi những hành động đó đã xảy ra, thì nỗi lo sợ, sự hồi hộp và căng thẳng của Mị
lại càng lớn hơn. “Mị rón rén bước lại”, “Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước
lại”, Mị thận trọng và sợ hại vô cùng, đặc biệt là lúc vừa cởi được hết dây trói cho A Phủ, nỗi
sợ lại càng ập đến và choáng ngợp hơn, “Đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì
Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào một tiếng “Đi ngay”, rồi Mị nghẹn lại”. Khi A Phủ
“quật sức vùng lên, bỏ chạy”, người con dâu trừ nợ ấy cũng chỉ biết đứng lặng trong bóng
tối, đứng lặng trong hố sâu đang từng ngày kéo Mị xuống. Đó là khi nỗi lo cho bản thân, nỗi
sợ trước cái chết, nỗi sợ hãi trước việc mình sẽ phải trói thay chọt hiện ra trước mắt, Mị bất
động, tê cứng tồn thân thậm chí bàng hồng khơng thốt nên lời. Bởi khi đối diện với những
viễn cảnh mà bản thân sẽ phải hứng chịu cái chết đau đớn thay cho người khác, thì bản năng
ham sống trong lịng con người ta sẽ trỗi dậy thiết tha mãnh liệt nhất. A Phủ và Mị vốn là hai
người cùng cảnh ngộ, cùng số phận, vậy tại sao A Phủ đã được tự do, được trả lại quyền định
đoạt mạng sống của mình, mà Mị vẫn phải đứng đây, chìm đắm xong chốn địa ngục trần gian


ấy? Chính Mị là người đã cứu sống A Phủ, cứu A Phủ bằng chính những gì Mị có, vậy tại sao
Mị khơng thể tự cứu lấy chính mình? “Ở đây thì chết mất”, câu nói ấy được thốt ra như là
một câu nói thể hiện sự ý thức sâu sắc về sự ngang trái giữa môi trường sống tù túng với
cuộc đời của Mị, nó thơi thúc Mị đi theo A Phủ để rời khỏi Hồng Ngài, rời bỏ những đau

thương khổ sở đã qua để tìm đến Phiềng Sa, khát khao tìm đến một chân trời mới, tốt đẹp và
có ý nghĩa hơn. Có thể nói, từ khi cắt dây trói cho A Phủ, Mị cũng đã cắt ln cái sợi dây của
hủ tục đã trói buộc lấy mình, đã suýt hủy hoại cuộc đời của mình. Hành động cứu A Phủ
chính là hành động giải phóng người nhưng cũng tự giải phóng lấy mình, tự cứu lấy mình.
Họ trốn khỏi nơi đây trong một đêm tối trời tối đất, nhưng không như chị Dậu trong “Tắt
đèn” của Ngô Tất Tố vẫn phải nhận lấy cái kết cục bế tắc “Trời tối đen như mực và tối như
cái tiền đồ của chị”, mà A Phủ và Mị đã bước sang một trang mới của cuộc đời, một tương
lai tươi sáng và tốt đẹp hơn khi họ được giác ngộ và tham giam gia Cách mạng. Cuộc đời của
họ khơng cịn bị chà đạp vùi dập nữa, cái khát vọng tự do kìm nén bao lâu nay cũng dần
được bộc lộ ra bên ngồi, và cũng khơng cịn là sức sống tiềm tàng nữa.
Nhà văn Tơ Hồi đã thể hiện đặc biệt thành công diễn biến tâm trạng và hành động của Mị
khi cắt dây trói cho A Phủ, với nhiều trạng thái tâm lí vơ cùng chân thực, tinh tế mà phải thật
sự thấu hiểu mới có thể viết nên được. Đồng thời ông cũng thể hiện niềm cảm thông sâu sác,
chân thành trước số phận bi thảm, trước nỗi thống khổ của người nông dân miền núi trong xã
hội cũ, và cũng mạnh mẽ tố cáo những thế lực địa chủ cường quyền miền núi đã tước đoạt đi
sự tự do và hạnh phúc của những người dân ấy, biến họ trở thành kiếp trâu ngựa không có lối
thốt. Song, ơng cũng chợt phát hiện ra, trân trọng và yêu quý vẻ đẹp tâm hồn của những
người phụ nữ miền núi, đặc biệt là lòng thương người, sức phản kháng tiềm tàng và niềm
khát khao sống mãnh liệt và vô cùng bền bỉ, mà ở nhân vật Mị ta đã thấy rất rõ. Kết thúc lại
tác phẩm, nhà văn còn cho thấy được sự thay đổi số phận của người nông dân miền núi theo
chiều hướng tươi sáng và tốt đẹp hơn cũng như sự gắn bó rất tự nhiên của họ với Cách
mạng- một trong những nét giá trị tiêu biểu mà chỉ những tác phẩm sau Cách mạng tháng
Tám mới có thể làm được.



×