Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Luật La Mã: Từ kiến thức được học trong học phần Luật La Mã và đối sánh với các kiến thức đã được học trong các học phần Luật Dân sự 1, Luật dân sự 2, em hãy nêu và phân tích kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Dân sự 2015 về nghĩa vụ dân sự, hợp đồng, thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.88 KB, 14 trang )

BÀI TẬP THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN: LUẬT LA MÃ
ĐỀ BÀI: Từ kiến thức được học trong học phần Luật
La Mã và đối sánh với các kiến thức đã được học trong các
học phần Luật Dân sự 1, Luật dân sự 2, em hãy nêu và phân
tích kiến nghị hồn thiện Bộ luật Dân sự 2015 về nghĩa vụ
dân sự, hợp đồng, thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền và
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

HỌ VÀ TÊN :
LỚP

:

MSSV

:


MỤC LỤC :


MỞ ĐẦU :
Luật La mã được đánh giá là hệ thống pháp luật hồn chỉnh nhất của thời
kì chế độ chiếm hữu nô lệ. Nhiều chế định của luật la mã cổ đại được đánh giá
như một nguồn tri thức chung của nhân loại về cấu trúc lập pháp và trình độ lập
pháp. Cho đến nay mặc dù tình hình kinh tế - xã hội đã có nhiều thay đổi nhưng
không thể phủ nhận được những ưu điểm mà chúng mang lại. Luật La mã là một
nguồn tài liệu quý giá cho các nhà nghiên cứu pháp luật và các nhà lập pháp
trong thời hiện đại.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu thế hội nhập quốc tế của đất nước hiện


nay, đặc biệt là sự nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng và ý nghĩa của pháp luật
La mã cổ đại đối với vấn đề xây dựng hoàn thiện hệ thống luật, em xin chọn đề
tài : “Từ kiến thức được học trong học phần Luật La Mã và đối sánh với các
kiến thức đã được học trong các học phần Luật Dân sự 1, Luật dân sự 2, em hãy
nêu và phân tích kiến nghị hồn thiện Bộ luật Dân sự 2015 về nghĩa vụ dân sự,
hợp đồng, thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng”. Đây là những vấn đề phức tạp, có liên quan đến rất nhiều những giao
dịch đang tồn tại trong cuộc sống hàng ngày tuy nhiên pháp luật hiện hành của
nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều thiếu sót cần phải sửa đổi bổ sung cho phù hợp để
tạo điều kiện cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
BÀI LÀM :
1. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định về nghĩa vụ dân sự :
* Thứ nhất, bổ sung thêm quy định về nghĩa vụ liên đới trong trường hợp liên
đới với nhiều người có quyền liên đới với nhiều người có nghĩa vụ liên đới.
Theo pháp luật La mã cổ đại, nghĩa vụ liên đới được thể hiện dưới 03
dạng là: Liên đới chủ động ( liên đới với nhiều chủ nợ liên đới) : trong đó mỗi
chủ nợ đều có quyền như nhau đối với con nợ và con nợ có thể thực hiện đối với
bất cứ chủ nợ nào. Liên đới thụ động (liên đới với nhiều con nợ liên đới) : trong
đó chủ nợ có quyền yêu cầu bất cứ con nợ nào thực hiện toàn bộ nghĩa vụ và
3


nghĩa vụ chỉ được chấm dứt đối với các con nợ khi đã thực hiện xong toàn bộ
nghĩa vụ. Liên đới hỗn hợp ( liên đới với nhiều chủ nợ liên đới với nhiều con nợ
liên đới).
Như vậy pháp luật La mã đã quy định đến trường hợp cả bên có nghĩa vụ
liên đới để thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền mà bên có quyền này cũng
có nhiều người liên đới với nhau, đó gọi là trường hợp liên đới hỗn hợp. Tuy
nhiên pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành lại chỉ mới quy định hai trường hợp
liên đới là liên đới chủ động (Điều 288. Thực hiện nghĩa vụ liên đới ) và liên đới

thụ động ( Điều 289. Thực hiện nghĩa vụ đối với nhiều người có quyền liên đới.
Những trường hợp liên quan đến liên đới hỗn hợp thì vẫn được giải quyết một
cách tương tự như hai điều luật trên.
Đề xuất : Vì vậy bên cạnh việc quy định hai điều luật về nghĩa vụ liên đới như
Điều 288 và 289 trong Bộ luật dân sự 2015 thì cần có thêm một điều quy định
về nghĩa vụ liên đới giữa nhiều người có nghĩa vụ liên đới với nhiều người có
quyền liên đới. Theo đó sẽ có nhiều người có quyền đối với nhiều người có
nghĩa vụ. Trong đó mỗi người có quyền đều có thể yêu cầu mỗi người có nghĩa
vụ thực hiện tồn bộ nghĩa vụ đối với mình. Nếu người có nghĩa vụ thực hiện
hiện tồn bộ nghĩa vụ đối với người có quyền bất kỳ thì nghĩa vụ được coi là
chấm dứt đối với những người có quyền khác đồng thời với đó những người có
nghĩa vụ khác cũng sẽ được giải phóng khỏi người có quyền trong quan hệ nghĩa
vụ này.
* Thứ hai, bổ sung quy định về trách nhiệm của bên chuyển quyền yêu cầu
đối với bên thế quyền.
Chuyển quyền yêu cầu của người có quyền trong quan hệ nghĩa vụ là nhu
cầu thiết yếu nhằm đơn giản hóa các thủ tục thực hiện nghĩa vụ cũng như quyền
của bên có quyền mà khơng ảnh hưởng đến quyền lợi của bên có nghĩa vụ.
Trong luật pháp La mã cũng đã có quy định về việc chuyển quyền yêu cầu. Theo
đó chủ nợ ủy quyền cho người thứ ba thực hiện quyền yêu cầu của mình đối với
4


con nợ, thay mặt chủ nợ thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu con nợ thực hiện
nghĩa vụ. Con nợ chỉ cần được thông báo về việc chuyển quyền yêu cầu nhằm
bảo đảm con nợ không thực hiện nghĩa vụ đối với chủ nợ cũ mà thực hiện đối
với chủ nợ mới, bởi việc con nợ thực hiện nghĩa vụ đối với chủ nợ mới khơng
làm xấu đi tình trạng của con nợ. Người thứ ba thay thế chủ nợ mới thực hiện
quyền yêu cầu đối với con nợ, kể cả tự mình kiện yêu cầu con nợ thực hiện
nghĩa vụ. Chủ nợ phải chịu trách nhiệm về hiệu lực của quyền yêu cầu đối với

người thứ ba nhưng không phải chịu trách nhiệm về việc con nợ có thực hiện
được nghĩa vụ hay không.
Như vậy theo luật pháp La mã thì người có quyền u cầu vừa phải có
nghĩa vụ bảo đảm về hiệu lực của việc chuyển quyền cho bên thứ ba vừa có
nghĩa vụ chịu trách nhiệm phải thơng báo cho bên có nghĩa vụ và thanh tốn chi
phí thiệt hại ch bên có nghĩa vụ trong trường hợp khơng thơng báo. Trong khi đó
theo pháp luật dân sự Việt Nam chỉ yêu cầu “người chuyển giao quyền yêu cầu
phải thông báo bằng văn bản cho bên có nghĩa vụ biết về việc chuyển giao
quyền yêu cầu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp bên chuyển giao
quyền yêu cầu không thông báo về việc chuyển giao quyền mà phát sinh chi phí
cho bên có nghĩa vụ thì bên chuyển giao quyền yêu cầu phải thanh tốn chi phí
này”1 và “Người chuyển giao quyền u cầu không phải chịu trách nhiệm về khả
năng thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ sau khi chuyển giao quyền yêu
cầu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”2. Từ việc quy định trên ta có thể thấy
pháp luật nước ta hiện nay chưa đưa ra giải pháp cho trường hợp thiệt hại của
bên thế quyền do lỗi của bên chuyển quyền yêu cầu mang lại.
Đề xuất : Bổ sung Điều 367 như sau : “Người chuyển giao quyền yêu cầu
phải chịu trách nhiệm về hiệu lực của quyền yêu cầu đối với bên thế quyền.
Trong trường hợp do lỗi của bên chuyển giao quyền yêu cầu trong việc thông
báo với bên có nghĩa vụ mà gây thiệt hại cho bên thế quyền thì bên chuyển giao
quyền yêu cầu phải chịu trách nhiệm”
1 Khoản 2 Điều 365 Bộ luật dân sự 2015.
2 Điều 367 Bộ luật dân sự 2015.

5


*Thứ ba, sửa đổi về khái niệm của cầm cố tài sản :
Theo pháp luật La mã, trong trường hợp con nợ không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng, không đầy đủ, chủ nợ có thể thỏa mãn quyền của mình

thơng qua tài sản của con nợ - dùng vật quyền để bảo đảm việc thực hiện trái
quyền. Quyền cầm cố là một dạng quyền đối với tài sản của người khác là quyền
của chủ nợ thỏa mãn yêu cầu của mình thơng qua tài sản của con nợ.
Pháp luật Việt Nam quy định cầm cố tài sản tại điều 309 : “Cầm cố tài
sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu
của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ.”. Ta có thể nhận thấy bản chất của việc cầm cố là nếu bên cầm cố
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ được bảo
đảm thì bên nhận cầm cố được quyền ưu tiên thỏa mãn lợi ích của mình từ tài
sản cầm cố. Bởi vậy mà khái niệm mà luật dân sự đưa ra chưa bộc lộ được bản
chất của việc cầm cố.
Đề xuất : Sửa đổi khái niệm về cầm cố tài sản tại Điều 309 như sau “Cầm cố là
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, theo đó bên nhận cầm cố được quyền ưu
tiên thỏa mãn lợi ích vật chất của mình từ giá trị của tài sản là động sản thuộc
sở hữu của bên cầm cố (gọi là tài sản cầm cố) nếu như bên cầm cố không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ được bảo đảm”
* Thứ tư, bổ sung thêm quy định về việc người chuyển giao nghĩa vụ không
phải chịu trách nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên thế nghĩa vụ :
Pháp luật La mã quy định chuyển nghĩa vụ là sự thỏa thuận giữa chủ nợ,
con nợ và người thứ ba nhằm chuyển nghĩa vụ của con nợ cho người thứ
ba.Trong chuyển quyền yêu cầu thì nhân thân của chủ nợ khơng đóng vai trị
quan trọng, nhưng trong việc chuyển nghĩa vụ thì nhân thân của con nợ có vai
trò quan trọng đặc biệt.

6


Pháp luật Việt Nam quy định về chuyển giao nghĩa vụ “Bên có nghĩa vụ
có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền
đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc

pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ”. Trong thực tiễn có thể
xảy ra trường hợp bên thế nghĩa vụ khơng có khả năng thanh tốn, cho nên khi
chuyển nghĩa vụ các bên cần phải xem xét khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên
thế nghĩa vụ. Mặc dù pháp luật đã có quy định về việc cần phải có sự “đồng ý”
của bên có quyền nhưng thiết nghĩ điều luật vẫn chưa giải phóng hồn tồn cho
người chuyển giao nghĩa vụ. Liệu người chuyển giao nghĩa vụ có cịn phải chịu
trách nhiệm đối với khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên thế nghĩa vụ hay
không. Việc pháp luật chưa quy định rõ ràng đã làm cho quá trình áp dụng pháp
luật gặp phải nhiều cách hiểu khác nhau. Bên cạnh đó việc quy định thêm về giải
phóng nghĩa vụ cho bên có nghĩa vụ cịn tạo nên sự đối xứng so với quy định
giải phóng quyền đối với người có quyền
Đề xuất : Bổ sung thêm quy định về giải phóng nghĩa vụ cho người chuyển giao
nghĩa vụ tại khoản 3 Điều 370 : “Người chuyển giao nghĩa vụ không phải chịu
trách nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên thế nghĩa vụ”
2. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định về hợp đồng :
* Thứ nhất, bổ sung thêm quy định về xác định lãi xuất khi vay vật nhưng trả
tiền bằng giá trị của vật :
Theo pháp luật La mã, hợp đồng vay nợ là sự thỏa thuận của hai bên, theo
đó bên cho vay chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên vay (tiền,
lương thực, thực phẩm, rượu, bơ, sữa...). Bên vay có nghĩa vụ trả vật cùng loại
hoặc số tiền đã vay khi hết hạn của hợp đồng. Ngoài số tiền vay hoặc số tài sản
tương xứng phải trả thì bên vay phải trả một khoản lãi suất, theo luật Justinian là
6%/năm nếu vay để tiêu dùng và 8%/năm nếu vay để kinh doanh, khơng tính lãi
mẹ đẻ lãi con.

7


Tại khoản 2 Điều 466 BLDS 2015 “Trường hợp bên vay khơng thể trả vật
thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả

nợ, nếu được bên cho vay đồng ý”, tuy nhiên luật lại thiếu quy định cụ thể trong
trường hợp tính lãi suất nếu như bên vay trả nợ bằng tiền theo giá trị của vật.
Bởi lẽ giá cả của vật luôn luôn biến đổi, đặc biệt trong thời hạn từ khi giao kết
đến khi kết thúc hợp đồng vay tài sản luôn là một quãng thời gian nhất định.
Nếu tính lãi thì lãi suất được tính theo giá cả của vật tại thời điểm giao kết hợp
đồng, hay là trong cả quá trình vay, hay là tại thời điểm trả nợ. Nếu không quy
định rõ điều này sẽ dẫn tói việc thiếu thống nhất trong hoạt động xét xử bên
cạnh đó cịn tiềm ẩn hậu quả bất lợi cho một trong hai bên trong hợp đồng vay.
Đề xuất : Bổ sung Điều 466 “Lãi suất trong trường hợp bên vay trả tiền theo
giá của vật tại thời điểm vay được tính dựa trên giá của vật tại thời điểm và địa
điểm giao kết hợp đồng. Mức lãi suất này có thể thay đổi tùy theo tỉ lệ biến động
giá của vật, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”
* Thứ hai, thay chữ “tiền vay” tại khoản 1 Điều 468 thành chữ “tài sản vay”
Như ở trên, pháp luật La mã đã quy định đối tượng của hợp đồng vay nợ
là tài sản thuộc quyền sở hữu của bên cho vay. Đồng thời bên cạnh đó cũng quy
định ngoài số tiền vay hoặc số tài sản tương xứng phải trả thì bên vay phải trả
một khoản lãi suất. Như vậy thì bên vay phải trả lãi cho khoản tiền vay nếu đối
tượng vay là tiền, phải trả lãi cho khoản tài sản vay nếu đối tượng vay là tài sản
khác ngoài tiền.
Tuy nhiên tại khoản 1 Điều 468 lại chỉ nhắc tới mức lãi suất 20%/năm của
khoản “tiền vay”. Điều này tạo ra các cách hiểu khác nhau về điều luật. Có ý
kiến cho rằng mức lãi suất 20%/năm này chỉ có thể áp dụng cho khoản vay có
đối tượng là tiền cịn những tài sản khác thì khơng thể áp dụng mức lãi suất này
được.
Đề xuất : Sửa chữ “tiền vay” tại khoản 1 Điều 468 thành chữ “tài sản vay” ,
hoặc sửa chữ “tiền vay” thành chữ “tiền vay và tài sản vay khác”.
8


* Thứ ba, bổ sung thêm quy định về hình thức của hợp đồng vay tài sản :

Pháp luật La mã quy định hợp đồng cho vay được ký kết dưới hình thức
giấy vay nợ do người vay tự tay viết. Người vay ghi nhận số tiền hoặc tài sản
vay, lãi suất và thời gian trả nợ vào giấy vay nợ đó. Đây là chứng cứ cho vay để
buộc người vay phải trả nợ như đã ghi trong giấy công nhận nợ.
Tại Việt Nam hiện nay, pháp luật chưa có quy định về hình thức của hợp
đồng vay, vì vậy mà hợp đồng vay có thể được thực hiện bằng hình thức miệng
hoặc văn bản. Vì tính chất tiện lợi nhanh gọn và do sự tin tưởng lẫn nhau nên
nhiều người chọn hình thức vay bằng miệng. Tuy nhiên trong thời gian vừa qua
có khơng ít trường hợp người cho vay khơng địi lại được tiền vay vì khơng
chứng minh được việc cho vay do khơng có chứng cứ. Vì vậy nên chăng pháp
luật cần phải quy định thêm về hình thức của hợp đồng vay tài sản để tránh rủi
ro cho cả hai bên.
Đề xuất : Bổ sung thêm khoản 2 vào Điều 463 Bộ luật Dân sự 2015 : “Hợp
đồng vay tài sản phải được lập thành văn bản có chữ ký của bên cho vay và bên
vay.”
3. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định về thực hiện cơng việc khơng
có ủy quyền.
* Thứ nhất, bổ sung thêm quy định về trường hợp một người nhầm tưởng
mình có nghĩa vụ thực hiện một cơng việc nhất định và đã thực hiện cơng
việc đó
Theo luật La mã thì thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là một trong
các căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ thuộc dạng nghĩa vụ ngồi hợp đồng 3 theo đó
người thực hiện công việc đã tự nguyện thực hiện công việc vì lợi ích của người
khác (thực hiện cơng việc, quản lý tài sản,...) mà khơng có sự ủy quyền của
người có cơng việc. Người thực hiện cơng việc khơng có nghĩa vụ phải thực
hiện cơng việc (theo hợp đồng, theo quy định của pháp luật). Như vậy người
3 Nghĩa vụ như từ hợp đồng ( ex quasi contractu)

9



thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền tham gia vào quan hệ này với ý chí chủ
quan của bản thân là hồn tồn tự nguyện, họ khơng có một sự ràng buộc pháp
lý nào yêu cầu họ phải thực hiện công việc. Đồng thời người thực hiện công việc
không có ủy quyền đã thực hiện cơng việc đó với ý định bằng chi phí của người
có cơng việc (mặc dù tự họ có thể bỏ ra các chi phí đó). Người thực hiện cơng
việc khơng có ý định tặng cho người chủ cơng việc để thể hiện lịng hảo tâm.
Nên người chủ cơng việc phải bồi hồn tồn bộ chi phí mà người thực hiện cơng
việc khơng có ủy quyền đã bỏ ra để thực hiện công việc.
Tuy nhiên trong thực tế có thể xảy ra trường hợp một người lầm tưởng
rằng mình có nghĩa vụ phải thực hiện một cơng việc nào đó và đã thực hiện nó
mặc dù họ khơng có nghĩa vụ đó. Hiện nay pháp luật Việt Nam tuy đã ghi nhận
sự tự nguyện về mặt ý chí chủ quan của người thực hiện cơng việc khơng có ủy
quyền giống như trong pháp luật La mã nhưng chưa có quy định về trường hợp
được nêu ra ở trên. Điều này gây ra sự mâu thuẫn với quy định về giao dịch dân
sự vô hiệu do nhầm lẫn.
Đề xuất : Bổ sung quy định : “Một người do nhầm lẫn tưởng mình có nghĩa vụ
và đã thực hiện cơng việc thì có quyền u cầu người có quyền hồn trả lại
những gì đã nhận”
* Thứ hai, bổ sung thêm quy định về việc người có cơng việc từ chối trả các
chi phí cho việc thực hiện cơng việc nếu đó là cơng việc khơng cần thiết đối
với họ.
Luật La mã có quy định nếu người có công việc không coi công việc đã
thực hiện là cần thiết , chủ cơng việc có quyền từ chối trả các chi phí cho việc
thực hiện, thậm chí có thể buộc người đã thực hiện công việc phục hồi lại tình
trạng ban đầu.
Pháp luật Việt Nam hiện hành cịn quy định “Người có cơng việc được
thực hiện phải trả cho người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền một khoản
thù lao khi người này thực hiện công việc chu đáo, có lợi cho mình, trừ trường
10



hợp người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền từ chối”4. Như vậy có thể có
trường hợp người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền thực hiện tốt, chu đáo
cơng việc nhưng cơng việc đó lại khơng cần thiết đối với người có cơng việc. Ví
dụ như ơng A có một thửa ruộng trồng lúa nhưng dự tính thửa ruộng này sẽ được
giải phóng mặt bằng để làm đường giao thơng trước khi lúa được thu hoạch vì
vậy ông A cũng không chăm sóc đám lúa đó nữa. Một lần ơng A đi thăm con
cháu ở xa thì ông B là hàng xóm đã phun thuốc trừ sâu hộ cho ông A. Như vậy
trường hợp này rõ ràng ông A được lợi nhưng đó không phải là công việc cần
thiết mà ông A muốn làm nên việc phải bỏ ra chi phí để thanh tốn cho ơng B là
khơng hợp lý, ngồi ra việc phun thuốc trừ sâu làm cho ông A được lợi nên theo
quy định pháp luật ơng A cịn phải trả một khoản thù lao cho ông B, điều này là
không phù hợp.
Đề xuất : Bổ sung thêm quy định : “Người có cơng việc có thể từ chối tiếp nhận
cơng việc, trả thù lao cho người đã thực hiện công việc mà bị từ chối nếu họ có
lý do chính đáng cho việc từ chối này. Người có cơng việc phải bồi hồn chi phí
mà người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền đã bỏ ra để thực hiện kể cả
trong trường hợp đã từ chối tiếp nhận công việc”.
4. Kiến nghị về việc sửa đổi bổ sung một số quy định về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng.
* Bổ sung quy định về việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại đối với
người thừa kế của người gây ra thiệt hại.
Luật La mã có quy định nghĩa vụ từ các hành vi vi phạm không được dịch
chuyển theo pháp luật về thừa kế (kế quyền tổng hợp). Người thừa kế của người
có hành vi vi phạm khơng phải thực hiện nghĩa vụ từ các hành vi vi phạm của
người để lại thừa kế trừ trường hợp người thừa kế đó được lợi do chính hành vi
của người vi phạm.

4 khoản 2 Điều 576 Bộ luật Dân sự 2015.


11


Hiện tại pháp luật Việt Nam chưa có quy định về điều này mà tại chế định
về quyền thừa kế lại quy định “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực
hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác5”. Như vậy có thê người thừa kế phải thực hiện việc bồi
thường thiệt hại do hành vi vi phạm của người để lại di sản. Thực tế ta có thể
thấy rằng nhiều người thừa kế là trẻ em, người mất năng lực hành vi dân sự, khi
người để lại di sản chết thì họ mất đi chỗ nương tựa, vậy nên di sản thừa kế
giống như một chỗ dựa cho cuộc sống của họ vậy mà họ phải bồi thường thiệt
hại cho người khác trong khi họ chẳng biết gì về hành vi vi phạm của người thân
mình hay nói cách khác họ hồn tồn khơng có lỗi trong trường hợp này.
Đề xuất : Bổ sung thêm tại Điều 615 như sau : “Người thừa kế của người có
hành vi vi phạm khơng phải bồi thường thiệt hại từ các hành vi vi phạm của
người để lại di sản thừa kế trừ trường hợp người thừa kế đó được lợi do chính
hành vi vi phạm đó”
KẾT LUẬN :
Từ việc phân tích và so sánh sự giống và khác nhau giữa pháp luật La Mã
và pháp luật dân sự nước ta, có thể thấy được những điểm tiến bộ cũng như chưa
tiến bộ trong pháp luật Việt Nam. Cấu trúc của bộ luật như các khái niệm, cách
xử lý vấn đề có thay đổi phù hợp với hồn cảnh kinh tế - xã hội hiện tại nhưng
những tư tưởng pháp lý cơ bản vẫn được tiếp thu và kế thừa một cách khoa học
nhất. Luật La Mã đóng một vai trị khơng thể phủ nhận trong việc tạo ra cơ sở,
nền tảng trong xây dựng pháp luật dân sự hầu hết các quốc gia trên thế giới. Bởi
vậy, việc tìm hiểu và tiếp thu Luật La Mã là cần thiết trong xây dựng , hoàn
thiện các chế định về nghĩa vụ, hợp đồng, thực hiện cơng việc khơng có ủy
quyền và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong bộ luật dân sự ở Việt Nam
hiện nay.


5 khoản 1 Điều 615 Bộ luật Dân sự 2015.

12


13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO :
1. Giáo trình Luật La mã, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003
2. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 1, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb
CAND.
3. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 2, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb
CAND.
4. Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015.
5. Nguyễn Võ Linh Giang, Điểm mới, điểm hạn chế của chế định hợp đồng vay
tài sản trong Bộ luật dân sự 2015 và hướng hồn thiện, Tạp chí luật học số
8/2017.
6. Luật Dân sự Việt Nam (Bình giảng và áp dụng) - Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng : sách chuyên khảo / Phùng Trung Tập
7 . Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện công việc khơng có ủy
quyền : luận văn thạc sĩ luật học / Nguyễn Thị Thu Thủy ; PGS. TS. Phùng
Trung Tập hướng dẫn
8. Sửa đổi quy định về nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự . TS. Bùi Đăng
Hiếu, Tạp chí Luật học số ĐS SĐBLDS 01/12/2003.
9. Những nội dung còn bất cập của phần nghĩ vụ và hợp đồng, Nguyễn Minh
Tuấn, Tạp chí Luật học , số ĐSBLDS, 2015

14




×