Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.9 KB, 13 trang )

A. MỞ BÀI
Lực lượng sản xuất là một khái niệm trung tâm của chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Việc nghiên cứu rõ nội hàm của khái niệm này là cơ sở để hiểu toàn bộ sự
vận động và phát triển của quá trình sản xuất vật chất trong lịch sử xã hội loài
người. Để nền kinh tế của một đất nước phát triển thật sự nó được chi phối bởi
rất nhiều yếu tố, trong đó có quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đây là một quy luật hết sức phổ biến
và đóng vai trị quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia.
Để hiểu rõ hơn về mối quan hệ này tôi xin phân tích về: "Quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của luật lượng sản xuất. liên
hệ sự vận dụng này trên đất nước ta nói chung và tại Thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng’’.
B. NỘI DUNG
I. Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
1. Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất:
- Lực lượng sản xuất ( LLSX) là sự kết hợp giữa người lao động (sức khỏe
thể chất, kinh nghiệm,..) với tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động để
tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định. Nó thể hiện năng lực thực tế chinh
phục giới tự nhiên bằng sức mạnh của con người trong q trình đó. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất quy định sự hình thành, tồn tại và chuyển hố giữa
các hình thái kinh tế- xã hội, từ hình thái thấp, ít tiến bộ lên hình thái cao, tiến
bộ hơn.
- Ví dụ: LLSX của TBCN là cơng nhân.
- LLSX gồm hai yếu tố cơ bản: người lao động và TLSX nhất định. Các yếu
tố trong LLSX không thể tách dời nhau. Chúng có quan hệ hữu cơ với nhau
trong đó yếu tố con người giữ vị trí hàng đầu, TLSX đóng vai trị rất quan trọng.
2. Khái niệm và kết cấu của QHSX.

1



- Quan hệ sản xuất (QHSX) là những quan hệ cơ bản giữa người với người
trong quá trình sản xuất vật chất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).
- QHSX kết cấu gồm có ba mặt: quan hệ sở hữu đối với TLSX, quan hệ tổ
chức, quản lý sản xuất và quan hệ phân phối kết quả sản xuất. Ba mặt quan hệ
này thống nhất với nhau, mỗi mặt đều có tác động kích thích , thúc đẩy hoặc cản
trở, kìm hãm những mặt khác. Trong đó, quan hệ sở hữu đối với TLSX đóng vai
trị quyết định hai mặt kia.
QHSX mang tính khách quan, nó được hình thành trong q trình phát triển
lịch sử khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. QHSX là quan hệ
cơ bản quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác của con người.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX.
Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất biện chứng,
trong đó LLSX quyết định QHSX và QHSX tác động ngược trở lại LLSX. Hai
mối quan hệ này tác động qua lại lẫn nhau tạo nên quy luật cơ bản của sự vận
động, phát triển của xã hội. Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chỉ rõ sự phụ thuộc của quan hệ sản
xuất vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tác động
ngược trở lại lực lượng sản xuất.
a. Vai trò quyết định của LLSX đối với sự hình thành và biến đổi của
QHSX:
- Lực lượng sản xuất quyết định sự biến đổi, phát triển của quan hệ sản xuất:
khi lực lượng sản xuất thay đổi thì quan hệ sản xuất cũng thay đổi theo vì lực
lượng sản xuất là yếu tố động, cách mạng thường xuyên thay đổi do nhu cầu của
con người và xã hội ngày càng cao nên con người thường xuyên cải tiến công cụ
lao động, kỷ năng lao động. làm cho lực lượng sản xuất thường xuyên phát triển
cịn quan hệ sản xuất cũng có sự phát triển nhưng vì là hình thức của quá trình
sản xuất nên nó có tính ổn định tương đối nó biến đổi chậm hơn so với lực
lượng sản xuất do đó đến một giai đoạn nhất định sự phát triển của lực lượng
sản xuất làm cho mâu thuẩn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên


2


gây gắt đồi hỏi phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ và xác lập quan hệ sản xuất mới
cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phát triển và quá trình
trên lại tiếp tục tiếp diễn.
- Tương ứng với một trình độ phát triển nhất định của LLSX tất yếu địi hỏi
phải có một QHSX phù hợp với nó trên cả ba mặt của QHSX đó.
- Xu hướng của sản xuất vật chất là khơng ngừng biến đổi và phát triển. Sự
biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của LLSX mà
trước hết là công cụ lao động. Từ sự biến đổi của LLSX này mà QHSX phải
biến đổi cho phù hợp.
- LLSX thường biến đổi nhanh hơn (yếu tố người lao động luôn thúc đẩy sự
phát triển của nó), cịn QHSX thường biến đổi chậm hơn (vì QHSX bị quy định
bởi quan hệ về sở hữu TLSX bị níu giữ bởi yêu cầu phải bảo đảm lợi ích của
giai cấp thống trị hiện đang nắm giữ quyền sở hữu TLSX.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao trải qua các thời kỳ
lịch sử khác nhau đã quyết định thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản
xuất mới cao hơn và đưa lồi người trải qua những hình thái kinh tế xã hội khác
nhau
Do đó, sự phát triển của LLSX khi đạt đến một trình độ nhất định sẽ mâu
thuẫn gay gắt với QHSX hiện có, địi hỏi tất yếu phải phá bỏ QHSX lỗi thời và
thay thế bằng QHSX mới phù hợp.
b. Quan hệ sản xuất tồn tại độc lập tương đối và tác động trở lại lực
lượng sản xuất.
- QHSX quy định mục đích, cách thức sản xuất và cách thức phân phối
những lợi ích từ quá trình sản xuất do đó nó trực tiếp tác động tới thái độ của
người lao động, tới năng suất, chất lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất và cải
tiến công cụ lao động, khi phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất,

quan hệ sản xuất sẽ tạo địa bàn, mở đường và trở thành động lực cơ bản thúc
đẩy và khi không phù hợp, quan hệ sản xuất sẽ trở thành xiềng xích trói buộc,
kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tồn tại độc lập tương

3


đối và tác động trở lại lực lượng sản xuất còn thể hiện ở quan hệ sản xuất quy
định mục đích sản xuất; tác động lên thái độ người lao động; lên tổ chức, phân
công lao động xã hội; lên khuynh hướng phát triển và ứng dụng khoa học và
công nghệ để từ đó hình thành hệ thống yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Thực tiễn cho thấy, lực lượng sản xuất chỉ có
thể phát triển khi có quan hệ sản xuất hợp lý, đồng bộ với nó.
- Phù hợp, khơng phù hợp có tính biện chứng, nghĩa là trong sự phù hợp đã
có những biểu hiện khơng phù hợp và trong không phù hợp đã chứa đựng những
điều kiện, yếu tố để chuyển thành phù hợp. “Tới một giai đoạn phát triển nào
đó của chúng, lực lượng sản xuất mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có (...)
trong đó từ trước đến nay lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là hình thức
phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của
lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng”. Cách mạng
xã hội, vì vậy có mục đích cơ bản là giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất bằng cách xoá bỏ quan hệ sản xuất
cũ và thay vào đó một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ phát triển mới
của lực lượng sản xuất; mở đường cho lực lượng sản xuất đó phát triển tiếp theo.
Cứ như thế, sự phát triển biện chứng của phương thức sản xuất tuân theo chuỗi
xích phù hợp, khơng phù hợp. Việc xố bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng
quan hệ sản xuất mới đồng nghĩa với sự xoá bỏ phương thức sản xuất cũ, tạo
điều kiện cho sự ra đời của phương thức sản xuất mới cao hơn, tiến bộ hơn.
- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất thông
qua các quy luật kinh tế xã hội, đặc biệt là các quy luật kinh tế cơ bản.

- Sự tác động của QHSX với LLSX diễn ra theo hai xu hướng:
+ Một là, Nếu QHSX phù hợp với trình độ của LLSX thì sẽ thúc đẩy LLSX
phát triển.
+ Hai là, Nếu QHSX không phù hợp với trình độ của LLSX thì sẽ kìm hãm
sự phát triển của LLSX.

4


Quy luật này là quy luật cơ bản, quan trọng tác động tới tồn bộ q trình
lịch sử nhân loại, ở đó LLSX khơng ngừng phát triển phá vỡ sự phù hợp về mặt
trình độ của QHSX đối với nó dẫn tới việc phá bỏ QHSX đã lỗi thời thay thế
bằng QHSX tiến bộ hơn. Q trình đó lặp đi lặp lại làm cho xã hội loài người
trải qua những phương thức sản xuất từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế xã hội.
c. Ý nghĩa của phương pháp luận:
Đây là quy luật cơ bản nhất của toàn bộ lịch sử nhân lọai. Nghiên cứu quy
luật này là cơ sở lý luận khoa học để xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử để
giải thích nguồn gốc, động lực sự vận động phát triển của xã hội, của các
phương thức sản xuất trong lịch sử.
+ Đây cũng là cơ sở lý luận khoa học để Đảng ta họach định đường lối phát
triển kinh tế đất nước.
- Muốn thúc đẩy nền sản xuất vật chất của xã hội, phải ưu tiên phát triển
trình độ lực lượng sản xuất, đồng thời phải xây dựng các quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.
- Phải thường xuyên chú ý phát hiện và giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất.
II. Thực tiễn sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển
của LLSX ở nước ta nói chung và tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Qua các kỳ Đại hội, việc nhận thức về các mối quan hệ lớn của Đảng ngày
càng đầy đủ, sâu sắc vào các mặt của đời sống xã hội đã có những thay đổi căn

bản, trong đó đã nêu rõ những bất cập trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ
giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng hoàn thiện từng bước quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa đã cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất, giảm
động lực của nền kinh tế và tính tích cực của người lao động, nhiều nơi sức sản
xuất vẫn ở dưới mức tiềm năng làm cho tăng trưởng kinh tế diễn ra chậm.
1. Thời kì trước đổi mới của nước ta (trước 1986).

5


Trước thời kì đổi mới nước ta nước ta có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
quan liêu bao cấp và sự thể hiện quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển
của LLSX biểu hiện cụ thể:
+ Nước ta đã thiết lập một chế độ công hữu về tư liệu sản xuất một cách ào
ạt, trong khi đó đang tạo địa bàn cho sự phát triển LLSX (vi phạm tính lịch sử cụ
thể).
+ Đồng thời, trong quá trình cải tạo nền sản xuất chỉ tập trung cải tạo QHSX,
chủ trương xây dựng QHSX tiến bộ mở đường cho LLSX phát triển (đi ngược
lại với quy luật QHSX phù hợp với phát triển của LLSX).
+ Thực tế vận dụng quy luật này cho thấy chúng ta đã quá coi trọng vai trị
của QHSX và cho rằng có thể đưa QHSX đi trước để mở đường, thúc đẩy LLSX
cùng phát triển. Việc áp dụng quan niệm ấy là hoàn tồn sai lầm, minh chứng
cho điều đó là LLSX trong thời gian qua thấp kém, QHSX được duy trì ở trình
độ q cao. Từ đó làm mâu thuẫn giữa u cầu phát triển LLSX với hình thức
kinh tế - xã hội được áp đặt một cách chủ quan trên đất nước ta. Mâu thuẫn đó
đã để lại nhiều hậu quả nặng nề cho nền kinh tế nước nhà: kinh tế chậm phát
triển, sản xuất trì trệ, tăng trưởng chỉ đạt 0,4% (trong khi chỉ tiêu đặt ra là 1314%), tình trạng thiếu lương thực diễn ra gay gắt, năm 1980 phải nhập khẩu
1,576 triệu tấn lương thực, ngân sách thiếu hụt, giá cả hàng năm tăng 20%, nhập
khẩu chiếm 4-5 phần xuất khẩu. Nhà nước thiếu vốn đầu tư cho nền kinh tế,
hàng tiêu dùng thiếu trầm trọng,..Qua đó, ta có thể thấy một thực tế của việc làm

trái quy luật đã gây ra hậu quả nặng nề cho nền kinh tế đất nước là rơi vào tình
trạng khủng hoảng trầm trọng. Như vậy, QHSX khơng phù hợp với trình độ
LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.
2. Sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay.
a. Trình độ phát triển của LLSX ở Việt Nam hiện nay:
- Thứ nhất, là trình độ của người lao động: đã được nâng cao rõ rệt và không
ngừng tăng cao, cụ thể: tỉ lệ người lao động đã qua đào tạo có xu hướng tăng
nhanh, theo số liệu “Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2020” của Tổng

6


cục thống kê thì tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn tăng theo từng năm như
sau:

.

- Người lao động năng động, sáng tạo, cần cù, chịu khó,…kinh nghiệm và kĩ
năng lao động của con người Việt Nam cũng khác nhau: có kinh nghiệm và kĩ
năng của người lao động cơ khí, máy móc, có kinh nghiệm và kĩ năng của người
lao động đối với máy móc hiện đại, tự động hóa,… Từ đó, trình độ tổ chức và
phân cơng lao động, trình độ ứng dụng khoa học cơng nghệ vào sản xuất ở Việt
nam hiện nay đã có nhiều tiến bộ. Qua đó, cho thấy trình độ chun mơn tay
nghề của lao động nước ta đang có những chuyển biến tích cực đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu cũng như đòi hỏi thực tế của nền kinh tế đất nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
-Thứ hai, là trình độ của tư liệu sản xuất tiến bộ hơn so với thời kì trước đổi
mới cụ thể:
+ Cơng cụ lao động hiện đại hơn với sự đầu tư, mua mới nhiều máy móc,
cơng cụ hiện đại vào trong q trình sản xuất góp phần làm cho năng suất lao

động tăng cao, giảm bớt được chi phí sức lao động. Điển hình, trước thời kì đổi
mới chúng ta sử dụng trâu, bị để cày, máy móc đưa vào sản xuất cịn hạn chế và
thơ sơ. Nhưng đến giai đoạn hiện nay, đã được thay bằng máy cày,…việc sản
xuất đã được trang bị bởi một hệ thống máy móc hiện đại nhập khẩu từ nước
ngồi góp phần làm cho nền kinh tế đất nước phát triển nhanh. Như Các – Mác
nói: “Các cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy
bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản cơng nghiệp”. Và cái cối xay hiện

7


nay không phải quay bằng tay, không phải chạy bằng hơi nước mà là tự động
hóa.
+ Đối tượng lao động hiện nay cũng hiện đại hơn rất nhiều: nếu trước đây
với nền văn minh nơng nghiệp thì đối tượng lao động chủ yếu là ruộng đất còn
trong giai đoạn hiện nay, với nền văn minh cơ khí thì đối tượng lao động được
mở rộng với các nguyên liệu như: than đá, chất đốt, dầu khí…Tất cả tạo điều
kiện cho sự phát triển ngày càng hiện đại của lực lượng sản xuất.
b. Những QHSX đang được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với trình
độ phát triển của LLSX.
QHSX chúng ta thiết lập và xây dựng hiện nay là QHSX trong nền kinh tế
thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là QHSX xã hội chủ nghĩa tiến
bộ vì nó hơn hẳn QHSX phong kiến và QHSX tư bản chủ nghĩa (có bản chất bóc
lột và ngày càng tỏ ra lỗi thời không phù hợp với lịch sử). Và QHSX xã hội chủ
nghĩa sẽ dần xóa bỏ áp bức bóc lột đưa mọi thành viên trong bộ máy sản xuất và
cả xã hội đến ấm no, hạnh phúc.
- Đa dạng hóa các hình thức sở hữu: Do trình độ của LLSX ở nước ta hiện
nay đa dạng, không đồng đều, nhiều trình độ do đó nước ta phải xây dựng một
QHSX phù hợp. Cùng với tiến trình xã hội hóa lực lượng sản xuất do cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa mang lại, con đường cơ bản của sự phát triển, quan hệ

sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta là sự hình thành đa dạng các hình thức sở
hữu hỗn hợp, đan kết lẫn nhau giữa hai nhân tố cơng hữu và tư hữu bằng những
hình thức kinh tế trung gian q độ. Trong đó, nhân tố cơng hữu sẽ ngày càng
tăng lên thơng qua một q trình tích lũy về lượng bằng những định hướng của
Nhà nước phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và theo đó yếu tố
cơng hữu sẽ ngày càng làm tốt hơn vai trò chi phối và chủ đạo trong nền kinh
tế. Các hình thức kinh tế quá độ để chuyển tư hữu thành công hữu là rất đa dạng.
Thực tiễn cuộc sống và sự phát triển tư duy lý luận sẽ ngày càng bổ sung thêm
những hình thức mới. Cho đến nay chúng ta có thể khẳng định, để chuyển tư
hữu thành công hữu không chỉ bằng con đường tịch thu, quốc hữu hóa hay bằng

8


chủ nghĩa tư bản nhà nước, mà cịn có thể bằng phát triển rộng rãi các hình thức
của kinh tế hợp tác, các công ty cổ phần và các tổ chức kinh tế của những người
lao động làm chủ, liên doanh, liên kết. Đa dạng có nghĩa là chúng ta xây dựng
một nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại: sở hữu toàn dân, sở hữu tập
thể và sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu nhà nước giữ vị trí chủ đạo và then chốt
trong nền kinh tế quốc dân. Điều này hoàn toàn phù hợp với LLSX ở nước ta
hiện nay. Quan hệ sở hữu đang ngày càng tiến bộ vì nó đang vận hành theo
hướng hạn chế đến mức tối thiểu những tiêu cực trong q trình sản xuất và
phấn đấu đi đến xóa bỏ áp bức bóc lột đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
toàn xã hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần: trải qua thời kì chiến tranh
nước ta đã và đang từng bước vượt qua khó khăn, hoàn thiện tiến dần tới sự tiến
bộ và phù hợp. Nếu trước kia chúng ta chỉ công nhận sự tồn tại của hai thành
phần kinh tế: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành
phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Một ví dụ
minh chứng cụ thể cho sự tồn tại của thành phần kinh tế cũ này là: ở nước ta tồn

tại mơ hình hợp tác xã, mơ hình này trước thời kì đổi mới là các hợp tác xã
mang tính chất ép buộc ( buộc mọi người vào làm trong hợp tác xã), tính công
theo ngày không quan tâm tới năng suất, hiệu quả, tinh thần trách nhiệm của mọi
thành viên trong hợp tác, cũng như lợi ích của người lao động, cơng cụ lao động
thủ công nên người này chăm chỉ, người khác vẫn có thể lười biếng. Từ thực
trạng tiêu cực đó nước ta khơng thể duy trì hai thành phần kinh tế đó nữa mà cần
có sự đa dạng, mở rộng với việc công nhận thêm các thành phần kinh tế khác:
thành phần kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản, tư
nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Trong đó, kinh
tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo. Kinh tế tập thể khơng ngừng được củng cố và
phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những
động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích

9


phát triển. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền
kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh
lành mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí của nhà nước nhằm tạo ra
sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế và giữ được sự ổn định về chính trị, gắn với
cơng bằng xã hội.
Như vậy, việc xây dựng và hoàn thiện các QHSX phù hợp với trình độ phát
triển của LLSX hiện có: QHSX xã hội chủ nghĩa là QHSX ở trình độ cao có tác
động mở đường cho sự phát triển của LLSX.
Qua 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, hiện nay nước ta đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa quan trọng như: Tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân giai đoạn 2016 - 2020 vẫn đạt khoảng 6%/năm (riêng năm 2020 tăng
trưởng GDP vẫn đạt 2,91% là mức tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất thế giới).
Quy mơ nền kinh tế và thu nhập bình qn đầu người tăng lên (năm 2020, GDP

đạt 271,2 tỉ USD và thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD/người). Chất
lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai
đoạn 2011 - 2015 lên 5,9%/năm giai đoạn 2016 - 2020.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII trong định hướng phát triển đất
nước giai đoạn 2021 - 2030, Đảng ta đã nêu rõ chủ trương “Tạo đột phá trong
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu,
chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số
ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng
trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với
khu vực và thế giới”.
Những thành tựu đạt được là kết quả của con đường đổi mới do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo. Nó là kết quả của nhận thức đúng đắn quy luật QHSX phù
hợp với trình độ phát triển LLSX để phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.
3. Sự vận dụng quy luật này ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.

10


Với truyền thống năng động sáng tạo, luôn bám sát thực tiễn, Thành phố Hồ
Chí Minh đã đạt được một số thành tựu về kinh tế và ngày càng khẳng định vai
trị là đơ thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế lớn của đất nước. Theo số liệu
thống kê, nguồn nhân lực lao động của Thành phố là 4,7 triệu người vào năm
2019, chiếm 8,62% lao động cả nước. Tỷ lệ lao động qua đào tạo là 85,2%, tỷ lệ
lao động có trình độ đại học trở lên là 18,8%, cao hơn cả nước (cả nước là
10,6%) và đây chính là cơ sở quan trọng góp phần đưa năng suất lao động của
Thành phố cao gấp 2,6 lần của cả nước.
Tốc độ tăng thu ngân sách nhà nước từ khu vực kinh tế giai đoạn 2016 2019 đạt 11,39%, cao hơn so với tốc độ tăng của cả nước (9,29%) và tốc độ tăng
trưởng GRDP của thành phố. Thu ngân sách Thành phố luôn chiếm tỷ trọng lớn

nhất cả nước (năm 2019 khoảng 27%).
Ngành công nghiệp - xây dựng tăng trưởng khá; trong đó, chỉ số sản xuất
tồn ngành cơng nghiệp tăng bình qn giai đoạn 2016 - 2019 đạt 7,70%/năm và
giá trị tăng thêm công nghiệp chiếm 17,93% GRDP, đứng đầu cả nước.
Khu Công nghệ cao Thành phố phát triển mạnh mẽ, với tổng giá trị xuất
khẩu 4 năm đạt 46,36 tỷ USD (ước năm 2020 là 17,24 tỷ USD) và là hạt nhân
thúc đẩy sự phát triển của Khu Đô thị Sáng tạo tương tác cao phía Đơng Thành
phố. Đây cũng đồng thời là nơi cung cấp và nuôi dưỡng những ý tưởng khoa học
và công nghệ, thu hút vốn, công nghệ, nhân lực công nghệ cao trong và ngồi
nước, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Ngành nông nghiệp phát triển đúng định hướng nông nghiệp đô thị hiện
đại, năng suất lao động gấp hơn 3 lần cả nước; tập trung vào các ngành nông
nghiệp công nghệ cao, công nghệ sinh học. Năng suất lao động tăng bình quân
giai đoạn 2016 -2019 đạt 21,1%/năm, giai đoạn 2016 - 2020 đạt 23%/năm. Các
sản phẩm chủ lực được xác định và đầu tư phát triển mạnh mẽ. Giá trị sản xuất
bình quân trên 1 ha đất sản xuất nông nghiệp năm 2019 đạt 550 triệu
đồng/ha/năm, gấp 1,5 lần năm 2015 (367 triệu đồng/ha/năm). Tốc độ tăng
trưởng giá trị gia tăng bình quân ngành nông nghiệp giai đoạn 2016 - 2019 đạt

11


5,23%, giai đoạn 2016 - 2020 đạt 4,72%/năm (cao hơn bình quân cả nước
2,5%/năm).
Những thành tựu đạt được là kết quả của việc nhận thức đúng đắn quy luật
QHSX phù hợp với trình độ phát triển LLSX. Đây chính là động lực cho Thành
phố phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng cho mục tiêu kinh
tế - xã hội. Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ X, về
các chỉ tiêu phát triển chủ yếu nhiệm kỳ 2020 - 2025, bên cạnh các mục tiêu
quan trọng khác, Đảng bộ Thành phố nêu rõ mục tiêu “Đến năm 2025, tỷ lệ lao

động đang làm việc đã qua đào tạo nghề có chứng chỉ hoặc giấy chứng nhận đạt
87% trong tổng số lao động đang làm việc”.
Bên cạnh những thành tựu như đã nêu, hiện nay nguồn nhân lực tại Thành
phố Hồ Chí Minh vẫn cịn những hạn chế như: chưa có được đội ngũ trí thức
thực mạnh, chuyên gia tầm quốc tế, thiếu vắng các đơn vị nghiên cứu mạnh ở
tầm quốc tế trên các lĩnh vực khác nhau. Các sản phẩm nghiên cứu khoa học
chất lượng kém, khả năng ứng dụng thấp, đội ngũ cán bộ công quyền không
giỏi, thiếu chuyên nghiệp, thiếu kỹ năng (đặc biệt 2 kỹ năng quan trọng nhất là
tổ chức hành động thực tiễn và ngoại ngữ), thiếu sáng tạo và khá phụ thuộc.
Đặc biệt, Thành phố thiếu nhóm tham mưu giỏi, chuyên sâu cho lãnh đạo.
Các kết quả khảo sát cho thấy cán bộ cấp cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu mới,
chỉ 28% có bằng đại học. Trong đó, số được đào tạo về các lĩnh vực đô thị 25%,
chỉ 9% biết sử dụng ngoại ngữ, 13,6% thành thạo tin học văn phòng, rất nhiều
cán bộ phụ trách địa chính được chuyển qua từ hội phụ nữ, dân phòng, mặt trận
tổ quốc; 58 cán bộ phụ trách văn hóa của 58 xã ngoại thành chỉ có 5 người là
được đào tạo về văn hóa ở trường lớp, cịn lại được ln chuyển qua lại từ các vị
trí khác nhau.
III. Một số phương hướng để tiếp tục vận dụng đúng đắn quy luật này
ở Việt Nam:
- Không ngừng phát triển LLSX thông qua việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, phát triển khoa học công nghệ, giáo dục, đào tạo. Không

12


ngừng xây dựng và phát triển các QHSX phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX thơng qua việc xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế nhiều thành phần kinh
tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường. Quy hoạch,
định hướng phát triển các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu phần mềm,

khu công nghệ sinh học. Thúc đẩy phát triển công nghiệp ở các tỉnh để cơng
nhân khơng phải di chuyển vào TPHCM. Hình thành tầng lớp cư dân có đẳng
cấp đóng vai trị dẫn dắt xã hội, thông qua việc thu hút dân cư có chất lượng cao
(chuyên gia) từ các nơi trong nước kể cả nước ngồi.
- Nâng cấp có trọng điểm cán bộ cấp cơ sở theo hướng tinh thông và chuyên
nghiệp, thơng qua các khóa huấn luyện, khóa học trung hạn, đặc biệt là quản lý
đơ thị. Thúc đẩy hình thành tầng lớp doanh nhân có tầm quốc tế làm lực lượng
dẫn dắt cho doanh nghiệp.
- Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước đối
với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
C. KẾT LUẬN
Qua phần phân tích trên ta thấy được mối quan hệ mật thiết giữa phát triển
LLSX với xây dựng hồn thiện từng bước QHSX trong thời kì quá độ là mối
quan hệ biện chứng, không tách dời nhau. Qua đó, địi hỏi chúng ta phải đẩy
mạnh việc phát triển mạnh mẽ LLSX với một trình độ khoa học công nghệ ngày
càng cao làm cơ sở cho việc lựa chọn, vận dụng quy luật QHSX phù hợp với
trình độ của LLSX. Góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển với tốc độ
nhanh, bền vững, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của
nhân dân cả nước.

13



×