SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH ĐẮK NÔNG
CUỘC THI KHOA HỌC KỸ THUẬT CẤP TỈNH
DÀNH CHO HỌC SINH TRUNG HỌC, NĂM HỌC 2021-2022
BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU DỰ ÁN
HỌC SINH TRƯỜNG THPT PHẠM VĂN ĐỒNG VỚI VIỆC
NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ GIÁ TRỊ CỦA ĐÀN ĐÁ ĐĂK KAR,
GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA ĐÀN ĐÁ
TẠI HUYỆN ĐẮK R’LẤP, TỈNH ĐẮK NÔNG
Lĩnh vực dự thi: Khoa học xã hội và hành vi
ĐắkNông, tháng 12 năm 2021
MỤC LỤC
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .................................................................................. 1
II. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU VÀ GIẢ THUYẾT KHOA HỌC......................... 2
1. Câu hỏi nghiên cứu ........................................................................................ 2
2. Giả thuyết khoa học ....................................................................................... 2
III. THIẾT KẾ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................................... 2
1. Tiến trình nghiên cứu ..................................................................................... 2
2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 2
IV. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................................... 3
1. Một số khái niệm cơ bản ................................................................................ 3
2. Khái quát về đàn đá và di sản văn hóa đàn đá Đăk Kar ở huyện Đắk R’lấp .......... 4
3. Thực trạng vấn đề nhận thức, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đàn đá tại
huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nơng ......................................................................... 8
V. PHÂN TÍCH DỮ LIỆU ................................................................................. 8
1. Kết quả nghiên cứu ........................................................................................ 8
2. Giải pháp nâng cao nhận thức cho học sinh trường THPT Phạm Văn Đồng về
giá trị của đàn đá Đăk Kar, góp phần bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đàn đá tại
huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông ....................................................................... 13
3. Kết quả của đề tài ......................................................................................... 17
VI. KẾT LUẬN ............................................................................................... 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 20
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Với chiều dài hơn 4000 năm lịch sử cùng một kho tàng văn hóa đồ sộ và
độc đáo, Việt Nam hiện có 22 di sản được Unesco vinh danh. Riêng với Đắk
Nông - mảnh đất được mệnh danh là "xứ sở của những âm điệu”, khi nhắc đến
những di sản văn hóa nổi tiếng khơng thể không kể đến đàn đá (goong lú). Bởi
nhạc cụ này đã được Unesco xếp vào danh sách các nhạc cụ trong Khơng gian
văn hóa Cồng chiêng Tây Ngun. Nổi bật nhất là đàn đá Đăk Kar. Đây là bộ đàn
đá đầu tiên của tỉnh Đắk Nông được phát hiện tại huyện Đắk R’lấp và các nhà
khoa học đã khẳng định nó có niên đại cổ nhất so với các bộ đàn đá được phát
hiện ở nước ta hiện nay. Khơng chỉ là loại nhạc cụ cổ có giá trị lịch sử văn hóa,
đàn đá Đăk Kar cịn trở thành di sản văn hóa độc đáo, là biểu trưng cho đời sống
tinh thần của đồng bào M’nơng nơi đây.
Hình 1. Đàn đá Đăk Kar trên logo biểu trưng
của huyện Đắk R’lấp
Hình 2. Đàn đá Đăk Kar trưng bày tại
Nhà Triển lãm âm thanh tỉnh Đắk Nông
Tuy nhiên hiện nay, cùng với cồng chiêng, đàn đá đang dần mất đi vị thế so
với các nhạc cụ hiện đại. Số nghệ nhân am hiểu và có khả năng chơi đàn đá khơng
cịn nhiều. Thế hệ trẻ hầu như không mặn mà với nhạc cụ cổ này vì nó khơng phổ
biến. Đại đa số các bạn học sinh vẫn chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về ý nghĩa
và giá trị của đàn đá Đăk Kar, chưa có những hành động cụ thể để bảo tồn quảng
bá giá trị di sản văn hóa đàn đá. Vì vậy việc bảo tồn và phát huy di sản đàn đá Đăk
Kar là vấn đề có ý nghĩa lớn, nó khơng chỉ là nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước,
của các cấp lãnh đạo mà còn là trách nhiệm của tất cả người dân, trong đó nhiệm
vụ của thế hệ trẻ nói chung và học sinh nói riêng là vô cùng quan trọng. Như lời
khẳng định của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Na Uy - Ase Kleveland:“Những người
bảo vệ thực sự di sản của các địa phương chính là cơng dân ở đó. Chúng ta tìm
họ ở đâu? Ở mọi nơi - Những nơi rõ nhất và hiệu quả bắt đầu từ nhà trường”.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy giá trị di sản
đàn đá, để đàn đá Đăk Kar ngày càng phổ biến trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
và bảo tồn những giá trị của nó, chúng tơi chọn đề tài “Học sinh trường THPT
Phạm Văn Đồng với việc nâng cao nhận thức về giá trị của đàn đá Đăk Kar,
góp phần bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đàn đá tại huyện Đắk R’lấp, tỉnh
Đắk Nơng” làm dự án nghiên cứu.
1
II. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU VÀ GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
1. Câu hỏi nghiên cứu
- Thứ nhất, đàn đá Đăk Kar có những ý nghĩa và giá trị văn hóa nào? Vì
sao học sinh phải tìm hiểu di sản văn hóa đàn đá Đăk Kar?
- Thứ hai, thực trạng nhận thức và ý thức trách nhiệm về di sản văn hóa đàn
đá của các bạn học sinh trường THPT Phạm văn Đồng hiện nay như thế nào?
- Thứ ba, giải pháp nào giúp học sinh trong trường nâng cao nhận thức về
đàn đá để có ý thức và hành động cụ thể giữ gìn và phát huy di sản văn hóa đàn
đá Đăk Kar của dân tộc M’nông?
2. Giả thuyết khoa học
Nếu nhận thức của học sinh THPT Phạm Văn Đồng về giá trị đàn đá Đăk
Kar được nâng cao thì sẽ góp phần gìn giữ, bảo tồn di sản văn hóa đàn đá người
M’nơng đồng thời có những hành động cụ thể phát triển văn hóa địa phương.
III. THIẾT KẾ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Tiến trình nghiên cứu
Qua việc tìm hiểu cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu, tình hình thực tế
nhận thức của học sinh trường THPT Phạm Văn Đồng về đàn đá Đăk Kar, nhóm
nghiên cứu đã thiết kế phiếu khảo sát học sinh dưới dạng trắc nghiệm.
Sau đó, nhóm nghiên cứu đã tiến hành cuộc khảo sát lần 1 (theo hình thức
online) lấy ý kiến của 315 học sinh trường THPT Phạm Văn Đồng. Qua q
trình khảo sát, thu thập thơng tin, chúng tơi tìm hiểu được thực trạng và nguyên
nhân đồng thời mạnh dạn đề xuất một số giải pháp mới nhằm nâng cao nhận
thức, thực hiện hóa thành những hành động, việc làm cụ thể và hiệu quả nhằm
bảo tồn, phát huy giá trị di sản đàn đá cho học sinh tại trường THPT Phạm Văn
Đồng. Cuối cùng, tiến hành cuộc khảo sát lấy ý kiến lần 2 với 315 học sinh
trường THPT Phạm Văn Đồng rồi rút ra kết luận.
2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, trong quá trình tiến hành, chúng tơi đã kết hợp,
vận dụng linh hoạt phương pháp nghiên cứu lý luận, phương pháp nghiên cứu
thực tiễn và phương pháp thống kê.
2.1. Nghiên cứu lý luận
Mục đích: tìm hiểu cơ sở khoa học về di sản văn hóa đàn đá nói chung và
đàn đá Đăk Kar nói riêng.
2.2. Nghiên cứu thực tiễn
2.2.1. Phương pháp khảo cứu
Chúng tơi thực hiện khảo cứu và sưu tầm, tìm hiểu các tài liệu liên quan
đến đàn đá Đăk Kar được đăng trên mạng xã hội, các trang web uy tín. Tìm
hiểu, phân tích vấn đề, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao nhận thức cho học
sinh về di sản văn hóa đàn đá Đăk Kar.
2
2.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu khảo sát
- Sử dụng phiếu điều tra để tìm hiểu về nhận thức, ý thức trách nhiệm và hành
động cụ thể của học sinh trường THPT Phạm Văn Đồng đối với đàn đá Đăk Kar.
- Tìm hiểu ngun, phân tích kết quả của thực trạng làm cơ sở cho việc đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao nhận thức, hành động cho học sinh trong
trường.
2.2.3. Phương pháp thống kê, xử lý dữ liệu
Với kết quả các dữ liệu thu thập được, chúng tơi xem xét kĩ lưỡng và phân
tích, từ đó đưa ra những đánh giá, nhận định cho việc đổi mới hình thức tuyên
truyền và định hướng hành vi đến học sinh trường THPT Phạm Văn Đồng về di
sản văn hóa đàn đá.
2.2.4. Phương pháp khảo sát thực địa
Đây là một phương pháp vơ cùng quan trọng, vì để có được những thơng
tin, hình ảnh sát thực tế, phải thơng qua phương pháp khảo sát thực địa về đàn
đá tại bon Bu Bir, xã Quảng Tín, huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nơng – nơi phát
hiện ra di sản văn hóa đàn đá Đăk Kar.
IV. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Khái niệm “văn hóa”
Văn hóa là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo và phát minh trong q trình lịch sử, đó là các giá trị giúp con người hướng
tới chân thiện mỹ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ về sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo, phát minh đó tức là văn hóa”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1998) đã xác định nền
văn hóa mà chúng ta xây dựng bao gồm toàn bộ các hoạt động tinh thần của xã
hội, từ tư tưởng, đạo đức, lối sống tới văn học, nghệ thuật; thông tin đại chúng;
giáo dục - đào tạo; khoa học - công nghệ; bảo tồn di sản văn hóa; văn hóa các
dân tộc thiểu số; xây dựng mơi trường văn hóa; giao lưu văn hóa quốc tế... Đây
là những lĩnh vực góp phần tạo nên nền tảng tinh thần của xã hội. Nhìn một cách
khái qt, văn hóa là khái niệm chỉ thuộc tính của con người, là sáng tạo cải tạo
hiện thực vươn tới giá trị nhân văn, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
1.2. Khái niệm “di sản văn hoá”
“Di sản văn hóa” là các sản phẩm vật chất, tinh thần có giá trị lịch sử,
được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Điều 1, Luật di sản văn hóa (sửa
đổi, bổ sung năm 2009) xác định: “Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi
3
vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có
giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng. Di sản văn
hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học bao gồm di
tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
1.3. Khái niệm “bảo tồn” và “phát huy”
“Bảo tồn” là khái niệm chỉ sự giữ lại, duy trì lại và truyền lại từ trong di
sản truyền thống những nhân tố tích cực, hợp lý, những giá trị nhân bản,... tạo cơ
sở cho sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng đã có và cho sự ra đời, phát triển của
cái mới, cái tiến bộ.
“Phát huy” giá trị văn hóa là đưa các giá trị văn hóa truyền thống thâm
nhập vào thực tiễn đời sống xã hội làm cho cái hay, cái tốt tỏa tác dụng; góp
phần thúc đẩy sự phát triển xã hội. Phát huy giá trị văn hóa là tạo ra môi trường
tốt nhất để các giá trị văn hóa truyền thống ngày càng phát huy hiệu quả, tác
dụng trong đời sống.
“Bảo tồn” và “phát huy” di sản văn hóa là một q trình thống nhất biện
chứng giữa lọc bỏ và kế thừa, giữa tiếp thu và phê phán, giữa giữ gìn và phát
triển, giữa cải tạo và xây dựng,... các giá trị văn hóa truyền thống.
2. Khái quát về đàn đá và di sản văn hóa đàn đá Đăk Kar ở huyện Đắk R’lấp
2.1. Đàn đá ở miền Trung và Tây Nguyên
Đàn đá là một nhạc cụ gõ cổ nhất của Việt Nam và là một trong những
loại nhạc cụ cổ sơ nhất của dân tộc M’nơng nói riêng, của lồi người nói chung.
Đàn đá đã được Unesco xếp vào danh sách các nhạc cụ trong Không gian văn
hóa Cồng chiêng Tây Nguyên. Cách đây hơn 70 năm (1949), nhà dân tộc học
Georges Conđominas đã tìm thấy bộ đàn đá đầu tiên tại buôn N’đút Liêng Krắc,
tỉnh Đắk Lắk. Bộ đàn đá gồm 11 thanh đá xám có dấu hiệu ghè đẽo bởi bàn tay
con người, kích thước từ to đến nhỏ trong đó thanh dài nhất 101,7 cm nặng
11,210 kg; thanh ngắn nhất 65,5 cm nặng 5,820 kg. Tháng 6 năm 1950, Georges
Condominas đưa những thanh đá này về Paris và chúng được nghiên cứu bởi
giáo sư âm nhạc André Schaeffner. Sau đó, Georges Condominas cơng bố kết
quả nghiên cứu trên tạp chí Âm nhạc học (năm thứ 33 – bộ mới) số 97- 98 tháng
7 năm 1951, khẳng định về loại đàn lithophone ở Ndut Liêng Krak, "nó khơng
giống bất cứ một nhạc cụ bằng đá nào mà khoa học đã biết". Hiện bộ đàn đá
này được trưng bày ở Bảo tàng Con người Paris, Pháp.
Năm 1956, trong Chiến tranh Việt Nam, bộ đàn đá thứ hai được phát hiện
và một đại úy Mỹ mang về trưng bày ở New York. Năm 1980, Georges
Condominas lại phát hiện bộ đàn đá thứ ba có 6 thanh tại bon Bù Đơ thuộc xã
Lộc Bắc, huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Đây là bộ đàn do dòng họ Ksiêng
(người Mạ) lưu giữ qua 7 đời.
4
Từ những năm 1979, vấn đề nghiên cứu, sưu tầm về đàn đá được giới
khoa học Việt Nam khơi dậy và cho đến những năm đầu thập niên 1990, người
ta tìm được khoảng 200 thanh đàn đá rải rác ở các tỉnh Đắk Lắk, Khánh
Hòa, Đồng Nai, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Sơng Bé và Phú n...; mỗi bộ đàn
này có từ 3 đến 15 thanh. Nổi tiếng trong đó là: đàn đá Khánh Sơn (Khánh Hòa),
Bác Ái (Ninh Thuận); Di Linh, (Lâm Đồng), đàn đá Đăk Kar (Đắk Nông),…
Những phát hiện trên cùng với những nghiên cứu khoa học khác đã khẳng định
cộng đồng các dân tộc sống ở miền Trung -Tây Nguyên trước đây là chủ nhân thực
sự của những bộ đàn đá thời tiền sử này.
2.2. Đàn đá Đăk Kar của huyện Đắk R’lấp
Đàn đá Đăk Kar - bộ đàn đá đầu tiên của tỉnh Đắk Nông được phát hiện
tại huyện Đắk R’lấp vào năm 1993 - đã được các nhà nghiên cứu giải mã có
niên đại gần 3000 năm. Nó được các nhà khoa học khẳng định có niên đại cổ
nhất so với các bộ đàn đá đã phát hiện ở nước ta hiện nay. Người M’nông gọi
theo cách gọi của họ là goong lú (chiêng đá). Cịn gọi là đàn đá Đăk Kar là vì bộ
đàn đá này được phát hiện tại dòng suối Đăk Kar, bon Bu Bir, xã Quảng Tín,
huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nơng.
Hình 3. Suối Đăk Kar - nơi phát hiện ra đàn đá
Hình 4. Các nghệ nhân biểu diễn đàn đá
Về chất liệu và cấu tao: Đàn đá Đăk Kar được làm từ chất liệu đá sừng
cordierit, qua gia công, ghè đẽo, người tiền sử đã tạo ra bộ đàn đá gồm 3 thanh:
thanh Tru (cha), thanh T’rơ (mẹ) và thanh Tê (con). Nó khác với những bộ đàn
có nhiều thanh và được chế tác công phu của các tỉnh Phú Yên, Ninh Thuận hay
bộ đàn mới phát hiện ở huyện Đắk Mil sau này. Nhờ sự nhạy cảm, giỏi thẩm âm
và tìm tịi sáng tạo, người M’nơng đã dùng những phiến đá thơ, tưởng như vơ
tri, vơ giác có sẵn ngay trên mảnh đất mình sinh sống để tạo ra nhạc cụ đàn đá.
Về đặc điểm tính chất âm thanh: Thanh âm của đàn đá được Giáo sư –
Tiến sĩ Trần Văn Khê ca ngợi là "biểu hiện tâm tư hệt như con người" bởi loại
nhạc cụ này có âm sắc gọn, độ cao rõ rệt, ngân dài, đạt được yêu cầu của một
nhạc khí. Ở âm vực cao, tiếng đàn đá thánh thót xa xăm. Ở âm vực trầm, đàn đá
vang như tiếng dội của vách đá.
5
Người M’nông xưa quan
niệm thanh âm của đàn đá như
một phương tiện để nối liền
giữa con người với trời đất thần
linh, nối quá khứ với hiện tại.
Vì ý nghĩa linh thiêng, đây là
nhạc cụ duy nhất được trình tấu
trong những ngày lễ hội như:
Lễ mừng lúa mới, lễ mừng
được mùa, lễ hội ăn trâu, lễ hội
uống rượu cần.
Hình 5. Đàn đá Đăk Kar tại bon Bu Bir
Năm 1993, nhân dịp kỷ niệm 18 năm ngày chiến thắng Buôn Ma Thuột,
Sở Văn hóa Thơng tin tỉnh Đắk Lắk tổ chức Liên hoan Cồng chiêng và đua voi.
Sau hoạt động văn hóa lớn này, Sở tổ chức một chương trình đi cơ sở để khảo
sát tình hình đời sống văn hóa nơng thôn, nhất là tại các buôn, bon đồng bào dân
tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Đoàn của Sở Văn hóa Thơng tin do ơng Đinh Thế
Lệ dẫn đầu đã đến bon Bu Bir xã Quảng Tín huyện Đắk R’lấp và phát hiện ra
ngoài những bộ chiêng cổ, người dân trong bon còn nhắc đến một bộ đàn đá
(goong lú) mà xưa kia tổ tiên thường vẫn sử dùng trong các nghi lễ.
Theo lời những bài dân ca, hát nói (tâm bất), Ĩt N’Rơng, sử thi của người
M’nơng trong bon kể rằng: xưa kia có người trong bon Bu Bir đi bắt cá ở suối
Đăk Kar có nhặt được một bộ Goong lú 3 thanh tại thác Liêng Kăng mang về
cho già làng phục vụ các nghi lễ trong bon. Khơng ngờ năm đó trong vùng có lụt
lớn, nước dâng ngập hết nương rẫy, nhà cửa. Mọi người trong bon cho rằng:
“bon làng bị thần linh trách phạt vì đã lấy Goong lú của thần về đánh”. Chính vì
vậy ngày hôm sau goong lú được mang trả về với ngọn thác Liêng Kăng bên
suối Đắk Kar và từ đó khơng ai nhắc đến thứ nhạc cụ này nữa.
Năm 1985, ông Điểu Bang cùng người cháu đi đánh cá tình cờ nhặt lại
được bộ đàn đá xưa kia và mang về dùng để đuổi thú giữ. Đêm ấy, ơng cùng bạn
mình ra rẫy đánh đàn goong lú. Sáng hôm sau trời nổi giơng bão, mưa gió dữ
dội. Ở một mình trong rẫy, nhìn vào goong lú ơng nhớ lại chuyện kể năm xưa
nên quyết định trả goong lú về chỗ cũ. Năm 1993, ơng Điểu Bang cùng đồn
nghiên cứu của Sở Văn hóa lại một lần nữa đưa bộ đàn đá (goong lú) trở lại để
tìm hiểu và nghiên cứu.
Năm 1996, Bộ Văn hóa Thơng tin ban hành Quyết định số 2946/QĐ-TC,
về việc thành lập Hội đồng Khoa học nghiên cứu, thẩm định đàn đá Đăk Kar.
Hội đồng thẩm định do Bác sỹ Huỳnh Thị Xuân – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đắk
Lắk làm Chủ tịch Hội đồng; Giáo sư tiến sỹ Tơ Ngọc Thanh – Viện trưởng Viện
Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam đồng Chủ tịch. Hội đồng thẩm định cịn có nhiều
nhạc sỹ, các nhà khoa học cùng tham gia. Qua nghiên cứu, hội đồng đã kết luận:
Ba thanh đá T’RU, T’RƠ VÀ TÊ đều có thang âm của âm nhạc thời cổ đại, ước
đoán về niên đại vào khoảng nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công
Nguyên. Hiện bộ đàn này được lưu giữ tại bảo tàng tỉnh Đắk Nông.
6
Nhạc âm được đo được tại nhà
máy Z.775 Bộ Quốc phòng với
kết quả đo đạc ba thanh T’RU,
T’RƠ và TÊ cụ thể như sau:
Thanh T’RU: f = 698 Hz = fa 4
Thanh T’RƠ: f = 778 Hz = Sol 4
Thanh TÊ: f = 864 Hz = la 4
Hình 6. Đàn đá Đăk Kar tại Bảo tàng tỉnh Đắk Nông
Hội đồng đã khẳng định: “Việc đồng bào M’nông ở bon Bu Bir và các
bon lân cận sử dụng thành thạo ba thanh T’ru, T’rơ và Tê để trình diễn âm nhạc
dân tộc và hòa tấu cùng với dàn cồng chiêng ba chiếc của họ cho phép khẳng
định rằng ba thanh đá này là nhạc cụ. Chúng chắc chắn là những thanh đàn đá.
Suối Đăk Kar là nơi có nhiều loại đá kêu, đây chính là nơi khai thác nguyên liệu
và là nơi chế tác đá kêu và đàn đá - nhạc cụ độc đáo của đồng bào M’nông”.
Từ kết luận trên với quyết tâm tìm kiếm, nhân dân trong huyện Đắk R’lấp
đã tìm thêm được một số bộ đàn đá. Mặc dù những bộ đàn đá này chưa được các
nhà khoa học thẩm âm nhưng theo các nghệ nhân trong bon, chúng có âm vực
giống với ba thanh T’RU, T’RƠ và TÊ đã được nghiên cứu và thẩm định trước
đó. Bởi vậy, hiện nay mỗi gia đình M’nơng đều coi đàn đá Đăk Kar - goong lú là
báu vật gia truyền và các nghệ nhân bon Bu Bir vẫn dùng chúng trong sinh hoạt
văn hóa văn nghệ.
Hình 7
Hình 8
Anh Điểu Phương (bon Bu Bir) và những bộ đàn đá sưu tầm
Từ những nghiên cứu nêu trên, có thể khẳng định tổ tiên của nhạc cụ
truyền thống xuất hiện đầu tiên ở Tây Nguyên là đàn đá, trong đó có đàn đá Đăk
Kar, khởi nguồn của các nhạc cụ khác, mang tố chất lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Đàn đá Đăk Kar có giá trị văn hóa sâu sắc bổ sung vào sưu tập nhạc cụ cổ đại
của dân tộc Việt Nam. Việc bảo tồn và phát huy loại nhạc cụ độc đáo này cần
tiếp tục được quan tâm để âm thanh đại ngàn mãi vang vọng và trở thành nét văn
7
hóa độc đáo của người M’nơng trên mảnh đất Đắk Nông hùng vĩ.
3. Thực trạng vấn đề nhận thức, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đàn đá
tại huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông
Với quyết tâm thực hiện cơng tác bảo tồn và gìn giữ các giá trị văn hóa
truyền thống, từ năm 2016, cơng tác sưu tầm đàn đá Đăk Kar được quan tâm
triển khai. Đàn đá được chọn là hình ảnh đại diện về văn hóa trên logo biểu
trưng huyện Đắk R’lấp. Nhạc sĩ Võ Cường đã cũng sáng tác ca khúc “Tiếng đàn
Goong lú”. Hiện nay, ca khúc này được nhân dân địa phương rất yêu thích và
thường xuyên hát trong các sự kiện văn hóa quan trọng. Đàn đá Đăk Kar cịn
tham gia vào các buổi tái hiện các nghi lễ cổ truyền của người M’nông và là một
nhạc cụ quan trọng trong việc tái hiện khơng gian văn hóa cồng chiêng trên địa
bàn huyện Đắk R’lấp.
Hình 9
Hình 10
Hình 11
Các nghệ nhân bon Bu Bir, xã Quảng Tín (Đắk R’lấp) biểu diễn đàn đá Đăk Kar
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do ảnh hưởng mặt trái của nền kinh
tế thị trường, quá trình đơ thị hóa và hội nhập quốc tế làm cho đàn đá và các
nhạc cụ cổ ngày càng mất dần vị thế vai trò trong đời sống sinh hoạt văn hóa của
nhân dân. Số đàn đá hiện nay tại các bon đồng bào dân tộc M’nông trên địa bàn
xã Quảng Tín – nơi phát hiện những bộ đàn đá này cịn q ít. Ngồi bộ đàn đá
đã được các nhà khoa học thẩm định được bảo lưu tại Bảo tàng tỉnh Đắk Nơng
ra, tồn huyện chỉ cịn lại 6 bộ. Hơn nữa, số nghệ nhân am hiểu và có thể diễn
tấu về đà đá cịn khơng nhiều và chủ yếu là các già làng và những người lớn tuổi
tại các bon. Thế hệ trẻ không tha thiết với sinh hoạt văn hóa truyền thống. Nhiều
bạn người dân tộc M’nơng cịn không biết về sự hiện diện của đàn đá trong bon.
Nhận thức của thế hệ trẻ nói chung và học sinh THPT trên địa bàn huyện nói
riêng về giá trị của đàn đá và trách nhiệm đối với việc bảo tồn và phát huy di sản
đàn đá còn hạn chế. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức cho học sinh để góp phần
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đàn đá tại huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nơng là
một vấn đề đáng được quan tâm.
V. PHÂN TÍCH DỮ LIỆU
1. Kết quả nghiên cứu
1.1. Khảo sát nhận thức về đàn đá Đăk Kar của học sinh THPT Phạm Văn Đồng
Với đồng bào M'nông sinh sống trong vùng Công viên địa chất Đắk Nơng
nói chung và ở bon Bù Bir xã Quảng Tín nói riêng, đàn đá thể hiện sự giao hòa,
8
chinh phục của con người đối với thiên nhiên. Thanh âm của đàn đá là sợi dây
linh thiêng, là phương tiện để nối liền giữa con người với trời đất thần linh, nối
quá khứ với hiện tại và hướng con người đến những điều tốt đẹp trong tương lai.
Để tìm hiểu nhận thức của các bạn học sinh về đàn đá Đăk Kar, nhóm nghiên
cứu đã tiến hành khảo sát lần 1 (theo hình thức online) với 315 học sinh trường
THPT Phạm Văn Đồng. Sau khi thu thập số liệu, chúng tơi xử lí thơng tin và có
kết quả cụ thể các câu hỏi theo tỉ lệ % như sau:
Đầu tiên, nhóm nghiên cứu
đặt ra câu liên quan đến người
M’nơng – chủ nhân của đàn đá Đăk
Kar: “Đàn đá Đắk Kar là nhạc cụ
truyền thống của dân tộc nào?”. Kết
quả thu được thể hiện ở biểu đồ bên.
Nhìn vào biểu đồ, ta thấy tỉ lệ các
bạn học sinh trả lời đúng là dân tộc
M’nông chiếm lỉ lệ tương đối cao
(47,90%), có 28,60% số học sinh
được khảo sát trả lời là dân tộc Ê đê, 14,90% chọn phương án dân tộc
Mạ và 8,60% chọn phương án dân
tộc H’mông.
Đàn đá Đăk Kar là nhạc cụ truyền
thống của dân tộc nào ?
8.60%
14.90%
Dân tộc Ê - đê
28.60%
Dân tộc
M’nông
Dân tộc Mạ
47.90%
Dân tộc
H’mông
Biểu đồ 1. Nhận thức của học sinh về đàn đá
Đăk Kar
Như vậy, ta có thể thấy mặc dù đàn đá Đăk Kar khá nổi tiếng song vẫn còn
nhiều bạn học sinh chưa từng biết đến nó là nhạc cụ của dân tộc M’nơng.
Đàn đá Đăk Kar với các
bạn học sinh trong trường
THPT Phạm Văn Đồng còn là
khái niệm khá xa lạ, kể cả đối
các bạn học sinh là người
M’nơng. Nhóm đã nghiên cứu
và đặt ra các câu hỏi liên quan
đến sự hiểu biết về đàn đá Đăk
Kar, đồng thời tìm hiểu kĩ
nhận thức của các bạn học
sinh về và giá trị ý nghĩa của
đàn đá. Với câu hỏi thứ 2:
“Bạn đã từng biết đến đàn đá
Đăk Kar chưa?”. Qua khảo
sát, chúng tôi đã thu được kết
quả như biểu đồ hình bên.
Bạn đã từng biết đến đàn đá
Đăk Kar chưa ?
3.20%
Biết rõ
Có nghe nói
47.30%
49.50%
Chưa từng
biết
Biểu đồ 2. Hiểu biết của học sinh về đàn đá Đăk Kar
Quan sát biểu đồ, ta thấy số học sinh chưa từng biết đến đàn đá chiếm
47,30%, có đến 49,50% số học sinh có nghe nói đến đàn đá và đặc biệt số học
9
sinh biết rõ về đàn đá chiếm tỉ lệ rất thấp (chỉ 3,20%).
Nhằm đánh giá rõ hơn, cụ thể hơn thực trạng mức độ hiểu biết của các
bạn học sinh về đàn đá Đăk Kar, nhóm khảo sát đặt ra câu hỏi: “Theo bạn, âm
thanh của tiếng đàn đá Đăk Kar có ý nghĩa gì?”, kết quả thu được như sau: 145
học sinh trả lời đúng và đầy đủ khi chọn phương án D, chiếm tỉ lệ 46,04%, còn
lại 170 bạn trả lời chưa đầy đủ chiếm tỉ lệ 53,06%. Trong đó, có 13,33% các bạn
chọn âm thanh của đàn đá Đăk Kar thể hiện sự giao hòa, chinh phục của con
người đối với thiên nhiên; 26,98% các bạn chọn phương án âm thanh của đàn
đá Đăk Kar là sợi dây linh thiêng nối liền giữa con người với trời đất thần linh
và có 13,65% các bạn chọn âm thanh của đàn đá Đăk Kar thể hiện vẻ đẹp tâm
hồn, tâm tư tình cảm của người dân tộc bản địa. Như vậy, trong số 315 bạn được
khảo sát vẫn còn rất nhiều các bạn học sinh chưa có sự hiểu biết đầy đủ, tồn diện
về di sản văn hóa đàn đá Đăk Kar. Qua đó, ta thấy việc nâng cao nhận thức cho
học sinh THPT về đàn đá Đắk Kar là điều rất cần thiết. Kết quả cụ thể được thể
hiện trong biểu đồ dưới đây:
Tỉ lệ(%)
Âm thanh của đàn đá Đăk Kar có ý nghĩa gì?
Số lượng
100%
315
90%
270
80%
225
70%
60%
180
46.04%
50%
135
40%
26.98%
30%
20%
90
13.33%
13.65%
45
10%
0%
Tỉ lệ(%)
Số lượng
Thể hiện sự giao
hòa, chinh phục
của con người
đối với thiên
nhiên
13.33%
Là sợi dây linh
thiêng nối liền
giữa con người
với trời đất, thần
linh
26.98%
Thể hiện vẻ đẹp
tâm hồn, tâm tư
tình cảm của
người dân tộc
bản địa
13.65%
42
85
43
0
Tất cả các ý trên
46.04%
145
Biểu đồ 3. Nhận thức của học sinh về âm thanh của đàn đá Đăk Kar
10
Với câu hỏi: “Tên gọi của đàn đá
Tên gọi của đàn đá Đăk Kar bắt
Đăk Kar bắt nguồn từ đâu?”, nhóm
nguồn từ đâu?
nghiên cứu đã thu được kết quả cụ
thể như sau: chỉ 35,87% các bạn
được khảo sát trả lời đúng khi chọn
Đúng
phương án đó là tên của dịng suối
35.87%
Đăk Kar - nơi phát hiện ra đàn đá,
64.13%
Chưa đúng
64,13% còn lại các bạn cho rằng tên
của đàn đá Đăk Kar là tên buôn làng
nơi lưu giữ nhiều đàn đá, tên của
người đầu tiên phát hiện ra đàn đá
hoặc tên của lễ hội gắn liền với nhạc Biểu đồ 4. Hiểu biết của học sinh về tên gọi của
đàn đá Đăk Kar
cụ đàn đá.
1.2. Khảo sát về ý thức trách nhiệm và mức độ hành vi bảo tồn, phát huy di
sản văn hóa đàn đá Đăk Kar của học sinh trường THPT Phạm Văn Đồng
Cùng với cồng chiêng, đàn đá là loại nhạc cụ cổ xưa, đến nay vẫn cịn gắn
bó trong đời sống cộng dân tộc M’nông ở Đắk Nông. Tại huyện Đắk R’lấp hiện
nay, bon Bu Bir được xem là bon giàu có về văn hóa truyền thống, lưu giữ khá
nhiều bộ đàn đá có giá trị, đặc biệt là bộ đàn đá Đăk Kar. Mỗi khi địa phương tổ
chức sự kiện quan trọng đều không thể thiếu tiết mục hòa tấu đàn đá của nghệ
nhân bon Bu Bir. Nhằm đánh giá mức độ nhận thức của các bạn học sinh về
trách nhiệm của việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đàn đá Đăk Kar, nhóm
nghiên cứu đã đặt ra câu hỏi: “Theo bạn, trách nhiệm bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa đàn đá Đăk Kar thuộc về ai?”. Kết quả cụ thể như sau:
Tỉ lệ(%)
100%
90%
Số lượng
315
Trách nhiệm bảo tồn và phát huy
di sản văn hóa đàn đá Đăk Kar thuộc về ai?
270
80%
225
70%
60%
52.07%
180
50%
135
40%
30%
27.61%
20%
90
10.48%
10%
0%
Tỉ lệ(%)
Số lượng
9.84%
Trách nhiệm
của chính
quyền địa
phương
Trách nhiệm
của các nghệ
nhân chơi đàn
đá
27.61%
10.48%
Trách nhiệm
của những nhà
khoa học
nghiên cứu về
đàn đá
9.84%
87
33
31
45
0
Trách nhiệm
của tất cả mọi
người
52.07%
164
Biểu đồ 5. Nhận thức của học sinh về trách nhiệm đối với đàn đá Đăk Kar
11
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy, kết quả thu được có đến 52,07% các bạn
học sinh được khảo sát cho rằng đó là trách nhiệm của tất cả mọi người, cịn lại
47,03% các bạn cho rằng đó là trách nhiệm của chính quyền địa phương, là
trách nhiệm của các nghệ nhân chơi đàn đá và trách nhiệm của những nhà khoa
học nghiên cứu về đàn đá. Điều này cho thấy, rất nhiều học sinh đã có nhận thức
đúng đắn về trách nhiệm của bản thân trong việc giữ gìn và phát huy di sản đàn
đá. Tuy nhiên các bạn lại chưa có những hành động cụ thể, thiết thực để bảo tồn
và phát huy di sản đàn đá Đăk Kar.
Từ thực trạng về nhận thức,bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đàn đá trên
địa bàn Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông trong những năm qua, cần thiết phải xác định
việc bảo tồn và phát huy là một trong những nhiệm vụ trọng yếu trong xây dựng
và phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Bên cạnh quan điểm, chủ trương của
Đảng và Nhà nước, nâng cao vai trị nhận thức và trách nhiệm của người dân nói
chung và nhận thức của thế hệ trẻ nói riêng trong bảo tồn di sản văn hóa đàn đá
Đăk Kar đóng một vai trị có ý nghĩa quyết định. Theo đó, muốn các bạn học
sinh nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa đàn đá thì cơng tác bảo tồn di sản văn hóa phải gắn với giáo dục văn hóa
trong nhà trường. Từ đó, từng bước nâng cao trình độ thưởng thức của mọi tầng
lớp nhân dân và các bạn học sinh trên địa bàn huyện về nhạc cụ đàn đá Đăk Kar
của huyện Đắk R’lấp.
Bạn đã làm để bảo tồn và phát huy di sản
Để tìm hiểu về mức độ hành
văn hóa đàn đá Đăk Kar?
vi bảo tồn, phát huy di sản văn
hóa đàn đá Đăk Kar của học
Tìm hiểu và chia sẻ thông
tin trên mạng xã hội
sinh trường THPT Phạm Văn
Facebook, Zalo
Đồng, chúng tơi đặt ra câu hỏi:
9.84%
Chưa có hành động cụ thể
“Bạn đã làm gì để bảo tồn và
10.48%
nào
27.62%
phát huy di sản văn hóa đàn đá
Đăk Kar?”, kết quả khảo sát thể
Giới thiệu cho bạn bè cùng
52.06%
hiện rõ trong biểu đồ hình bên.
lớp
Có nhiều bạn đã có những hành
động cụ thể góp phần bảo tồn và
Giới thiệu cho gia đình,
người thân, người quen
phát huy di sản văn hóa đàn đá,
tuy nhiên chỉ dừng lại ở mức:
10,48% các bạn giới thiệu cho Biểu đồ 6. Khảo sát mức độ hành vi bảo tồn, phát huy
di sản văn hóa đàn đá Đăk Kar của học sinh
bạn bè cùng lớp, 9,84%
các bạn giới thiệu cho gia đình, người thân, người quen 27,62% các bạn chỉ sử
dụng duy nhất hình thức đăng tải thông tin, chia sẻ bài viết liên quan đến đàn đá
Đăk Kar trên mạng xã hội như Facebook, Zalo. Cịn lại có đến 52,06% các bạn
chưa có hành động cụ thể nào.
Như vậy qua việc phân tích dữ liệu khảo sát tiền tác động, ta có thể thấy:
Thứ nhất, còn khá nhiều các bạn học sinh trường THPT Phạm Văn Đồng chưa
có nhận thức đầy đủ về giá trị, ý nghĩa của di sản hóa đàn đá Đăk Kar.
Thứ hai, đa số các bạn chưa có nhiều hành động cụ thể để bảo tồn và phát huy
12
các giá trị ấy do chưa có những định hướng cụ thể và đúng đắn.
2. Giải pháp nâng cao nhận thức cho học sinh trường THPT Phạm Văn
Đồng về giá trị của đàn đá Đăk Kar, góp phần bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa đàn đá tại huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông
2.1. Giải pháp chung
2.1.1. Đối với các cấp chính quyền
Tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cán bộ và nhân dân, đặc
biệt là người M’nơng về đàn đá và những giá trị cần gìn giữ và bảo lưu. Cần
phải giúp nhân dân hiểu rằng: đàn đá Đăk Kar là nhạc cụ cổ xưa của người
M’nông cổ. Chơi đàn đá và truyền dạy cho thế hệ sau là góp phần bảo tồn gìn
giữa những nét đẹp văn hóa, niềm tự hào của dân tộc.
Cần xây dựng những chương trình du lịch tổng hợp có sự liên kết giữa
những vùng văn hóa, điểm văn hóa với các điểm tham quan cảnh quan thiên
nhiên trong vùng. Ngành du lịch Đắk Nông cần công khai quy hoạch và liên kết
với các địa phương để đưa đàn đá vào trong các chương trình, các tour du lịch.
Đây là việc làm vừa có thể duy trì các sinh hoạt cộng đồng cho đàn đá, vừa là
dịp quảng bá, giới thiệu cái hay, cái đẹp của nó đến với du khách và để giải
quyết về mặt kinh tế, có thêm thu nhập cho các đội biểu diễn đàn đá.
Ngành văn hóa cần tổ chức biểu diễn, giới thiệu trên các phương tiện
thông tin đại chúng, ở các trường học để nâng cao trình độ thưởng thức của mọi
tầng lớp nhân dân về đàn đá Đắk R’lấp. Đẩy mạnh việc nghiên cứu về, tăng
cường công tác tiếp thị và quảng cáo giới thiệu.
2.1.2. Đối với nhà trường
Cần phối hợp với các tổ chức mở các lớp truyền dạy chơi đàn đá bởi hiện
nay số nghệ nhân có khả năng chơi đàn đá cịn rất ít và chủ yếu là những nghệ nhân
lớn tuổi tại bon Bu Bir. Bên cạnh việc mở các lớp truyền dạy cho thế hệ trẻ người
M’nông tại các bon cần mạnh dạn tổ chức các buổi truyền dạy trong các trường học
ở các tiết học ngoại khóa. Việc tổ chức trong các trường học để thế hệ trẻ trong
toàn huyện biết về nhạc cụ độc đáo này và phù hợp với Dự án “Giáo dục di sản
trong nhà trường tại Việt Nam” đã được Đảng và Nhà nước ta triển khai thực hiện.
Việc tổ chức truyền dạy đàn đá khơng chỉ bảo tồn gìn giữ những giá trị văn hóa
truyền thống cho thế hệ mai sau mà cịn là điều kiện để các nghệ nhân am hiểu
có điều kiện trao đổi thống nhất về các kỹ năng chơi đàn đá. Cần thành lập các
câu lạc bộ văn hóa đàn đá, tạo điều kiện tổ chức các hoạt động tìm hiểu về văn
hóa vùng miền cho học sinh.
2.2. Giải pháp cụ thể
2.2.1. Nhóm giải pháp tác động vào nhận thức
2.2.1.1. Đăng tải thơng tin, hình ảnh trên các phương tiện thông tin đại
chúng, mạng xã hội
Nhờ sự phát triển của internet mà ta có thể cập nhật, chia sẻ được nhiều
13
thông tin khác nhau ở mọi lĩnh vực một cách vơ cùng nhanh chóng và tiện lợi.
Hiện nay, các trang mạng xã hội như facebook hay zalo trở nên rất quen thuộc
với các bạn học sinh. Vì vậy, việc áp dụng các giải pháp liên quan đến truyền
thông không thể bỏ qua lợi ích thiết thực và hiệu quả mà mạng xã hội đưa lại.
Thứ nhất, chúng tôi tiến hành lập
trang facebook “Đàn đá Đăk Kar nhạc cụ độc đáo của người
M’nơng”. Trên trang này, nhóm
nghiên cứu sẽ đăng tải những thông
tin, bài viết liên quan đến đàn đá
Đăk Kar để tuyên truyền, nâng cao
nhận thức cho các bạn học sinh. Sau
giờ học, có rất nhiều học sinh sử
dụng điện thoại thơng minh truy cập
mạng xã hội để giải trí.
Ngồi những thơng tin giải trí
chia sẻ với bạn bè, người thân thì
các bạn khá thích thú với việc tìm
hiểu về đàn đá Đăk Kar trên fanpage
của nhóm nghiên cứu.
Hình 12. Trang facebook của nhóm nghiên cứu
Thứ hai, chúng tơi cịn tăng cường cơng tác truyền thơng bằng việc xây
dựng “Góc văn hóa truyền thống – Nét đẹp đàn đá” trên trang web nhà trường.
Trên trang của trường THPT Phạm Văn
Đồng, nhóm nghiên cứu xây dựng ““Góc văn hóa truyền thống – Nét đẹp đàn
đá”. Qua trang web này, hình ảnh về đàn đá Đắk Kar sẽ được nhiều bạn biết
đến, từ đó khích lệ, kêu gọi các bạn học sinh tìm hiểu về di sản văn hóa đàn đá.
Thứ ba, khai thác hiệu quả lợi ích của Fanpage Đồn trường, đặc biệt là
tuyên truyền thông qua trang Ban truyền thông và sự kiện THPT Phạm Văn
Đồng. Qua Fanpage này học sinh sẽ dễ dàng tìm đọc được các bài viết, hình ảnh,
video giới thiệu về đàn đá Đăk Kar từ đó giúp các bạn sẽ nhận thức đầy đủ, có
thái độ và hành vi góp phần bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đàn đá tại huyện
Đắk R’lấp.
2.2.1.2. Thành lập nhóm cộng tác viên tuyên truyền
Để góp phần thực hiện dự án “Giáo dục di sản trong nhà trường tại Việt
Nam” đã được Đảng và Nhà nước triển khai, cùng với các giải pháp nêu trên,
nhóm nghiên cứu xác định tuyên truyền qua câu lạc bộ là một giải pháp tốt có
thể tác động đến nhiều đối tượng học sinh.
Trong quá trình thực hiện dự án, chúng tơi tập hợp những bạn có sự đam
mê, u thích về đàn đá, có tinh thần trách nhiệm thành lập nhóm “Tơi u đàn
đá”. Về thực chất, đây là một câu lạc bộ gồm các cộng tác viên tuyên truyền về
nét đẹp nhạc cụ truyền thống - di sản văn hóa đàn đá của người M’nơng. Hoạt
động của câu lạc bộ sẽ gắn liền với hoạt của tổ chức Đoàn thanh niên và hoạt
14
động của Ban truyền thông và sự kiện THPT Phạm Văn Đồng. Đây vừa là sự trải
nghiệm để nâng cao nhận thức về giá trị, ý nghĩa của đàn đá Đắk Kar vừa giúp
các bạn có nhiều hành động cụ thể để bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản
văn hóa đáng tự hào của địa phương.
Bên cạnh đó, chúng tơi phối hợp với các bộ phận liên quan đặc biệt là
giáo viên chủ nhiệm các lớp, tiến hành tuyên truyền thông qua các buổi sinh
hoạt 15 phút đầu giờ, tiết sinh hoạt lớp và các tiết Hoạt động ngồi giờ lên lớp.
Đây cũng là hình thức tác động trực tiếp khá hiệu quả vừa tiết kiệm được thời
gian vừa tiết kiệm được nhân lực.
2.2.1.3. Tổ chức cuộc thi trực tuyến “Nét đẹp đàn đá Đăk Kar”
Phối hợp với tổ chức Đồn trường, nhóm nghiên cứu tổ chức cuộc thi tìm
hiểu về di sản văn hóa đàn đá Đăk Kar. Cuộc thi được phát động và tổ chức theo
hình thức online trên trang facebook “Đàn đá Đăk Kar - nhạc cụ độc đáo của
người M’nông” và trên fanpage Đồn trường. Cuộc thi diễn ra trong vịng 3
tuần, bắt đầu từ tháng 11/2021 và chia thành hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Các bạn đoàn viên,
thanh niên trong trường sẽ tham gia trả
lời các câu hỏi trắc nghiệm một hoặc
nhiều lựa chọn theo địa chỉ
/>Giai đoạn 2: Các bạn sẽ tham gia
chia sẻ những video giới thiệu, thuyết
trình về đàn đá Đắk Kar mà bản thân thực
hiện.
Kết quả được tổng hợp quy ra điểm
dựa trên tổng số lượt share và lượt like tại
fanpage của nhóm nghiên cứu và của
Đồn trường. Cụ thể được tính theo thang
điểm như sau: 1 like = 1 điểm, 1 share =
5 điểm. Cuộc thi là cơ hội để các bạn học
sinh trong trường nâng cao nhận thức,
góp phần bảo tồn và phát huy giá trị của
di sản văn hóa đàn đá Đắk Kar.
Hình 13. Cuộc thi trực tuyến trên trang
facebook của nhóm nghiên cứu
2.2.2. Nhóm giải pháp hướng vào hành động
2.2.2.1. Hoạt động tham quan thực tế Trải nghiệm cùng đàn đá
Khổng Tử đã từng nói: “Những gì tơi nghe, tơi sẽ qn. Những gì tơi
thấy, tơi sẽ nhớ. Những gì tơi làm, tơi sẽ hiểu”. Trong quá trình tham quan trải
nghiệm thực tế, các bạn học sinh có cơ hội được tiếp cận, được chiêm ngưỡng
đàn đá Đăk Kar. Ngày 15 tháng 11 năm 2021, nhóm nghiên cứu cùng đội cộng
tác viên tuyên truyền đã tổ chức chuyến đi trải nghiệm thực tế. Địa điểm đầu
15
tiên mà các bạn học sinh được đến thăm đó là bon Bu Bir với dòng sối Đăk Kar
- nơi phát hiện ra bộ đàn đá đầu tiên của tỉnh. Đây là hoạt động gắn kết hiệu quả
giữa lý thuyết và thực tế, giúp các bạn học sinh có cái nhìn thực tế về nét đẹp di
sản văn hóa đàn đá.
Địa điểm thứ hai mà các em học sinh được tham quan đó là gian trưng
bày đàn đá thuộc Nhà Triển lãm Âm thanh của Trung tâm Văn hóa tỉnh Đắk
Nông. Đây là điểm di sản số 32 trong tổng số 44 điểm di sản thuộc Công viên
địa chất Đắk Nông.
Gian đầu tiên của Nhà Triển lãm
gọi là âm thanh của đá và bộ đàn đá
Đăk Kar của người M’nông tìm thấy
tại suối Đăk Kar được trưng bày tại
đây. Bộ đàn đá phát ra âm thanh dựa
trên nguyên tắc cảm ứng từ bàn tay
con người, không cần dụng cụ gõ, chỉ
cần đặt nhẹ tay hoặc vuốt lên bề mặt
của từng thanh đá thì sẽ phát ra âm
thanh. Chạm tay vào đá, cảm nhận âm Hình 14. Sonolithique – tác phẩm nghệ thuật
thanh kỳ diệu tại nhà triển lãm âm tương tác trực quan và đầy tính nhạc, lấy cảm
thanh duy nhất ở Việt Nam.
hứng từ đàn đá.
Hoạt động trải nghiệm thực tế đã mang đến cho các bạn học sinh những
bài học giá trị, những kiến thức bổ ích, hấp dẫn, sinh động về đàn đá Đăk Kar
cùng những kỹ năng thiết yếu để tiến hành triển khai một đề tài nghiên cứu khoa
học. Đồng thời, hoạt động này còn giúp các bạn dễ dàng tiếp cận, rèn luyện và
trang bị cho mình nhiều kỹ năng cần thiết. Đó là những kỹ năng mềm như thuyết
trình, phản biện, làm việc nhóm,… ,… Khi về trường, rất nhiều bạn học sinh đã
có sự thay đổi về nhận thức, trách nhiệm và hành động của bản thân đối với di
sản văn hóa đàn đá Đăk Kar.
2.2.2.2. Biên soạn, thiết kế cẩm nang và tờ rơi giới thiệu về đàn đá Đăk Kar
Cẩm nang văn hóa - Độc đáo tiếng đàn đá Đăk Kar là những quyển sổ
tay để tuyên truyền, quảng bá về di sản văn hóa đàn đá Đắk Kar. Đây là ấn phẩm
gồm những bài viết, hình ảnh do nhóm nghiên cứu sưu tầm và biên soạn. Cẩm
nang là tài liệu hữu ích giúp các bạn học sinh tìm hiểu tổng quan về đàn đá. Nội
dung của cẩm nang được biên soạn ngắn gọn, súc tích, xen kẽ hình ảnh độc đáo,
trình bày ấn tượng, bắt mắt. Với các thơng tin hữu ích được trình bày trong cuốn
cẩm nang, chúng tôi hi vọng đây sẽ là tài liệu thiết thực góp phần thay đổi nhận
thức, hành động về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của người M’nơng tại địa
phương.
Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cịn giới thiệu nét đặc sắc của nhạc cụ đàn
đá Đăk Kar dưới dạng tờ tơi nhằm mục đích tuyên truyền và quảng bá di sản văn
hóa đàn đá đến với tất cả các bạn học sinh nhà trường.
16
2.2.2.3. Thiết kế mơ hình đàn đá Đăk Kar
Để tiếp lửa cho niềm đam mê nghiên cứu, tìm hiểu về nhạc cụ đàn đá,
chúng tôi phối hợp với câu lạc bộ “Tôi yêu đàn đá” tiến hành thiết kế mô hình
đàn đá Đăk Kar. Đây vừa là sân chơi để các bạn đam mê nghiên cứu khoa học
tìm hiểu và sáng tạo ra các mơ hình đàn đá vừa giúp mọi người có cái nhìn gần
gũi hơn về di sản văn hóa độc đáo này của huyện nhà.
Hình 15, 16. Mơ hình đàn đá Đăk Kar
Dựa trên thơng tin về đàn đá Đăk Kar, nhóm nghiên cứu phác thảo, chọn
lựa những ngun vật liệu có sẵn để thiết kế mơ hình gắn liền với khơng gian
cộng đồng. Tác phẩm hồn thiện phải có sự hài hịa về màu sắc, đường nét, bố
cục và đặc biệt phải có tính thẩm mỹ, độc đáo, ấn tượng, tôn vinh những giá trị,
ý nghĩa của nhạc cụ đàn đá - di sản văn hóa của đồng bào M’nơng. Cuối cùng,
nhóm tiến hành chụp ảnh, quay video và đăng tải tại trang “Đàn đá Đăk Kar nhạc cụ độc đáo của người M’nông”, trên fanpage Đoàn trường và trang web
của nhà trường.
3. Kết quả của đề tài
Việc nâng cao nhận thức cho học sinh trường THPT Phạm Văn Đồng về
giá trị của đàn đá Đăk Kar, góp phần bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đàn đá tại
huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nơng là một công việc nghiêm túc và lâu dài. Hiệu
quả chính là sự thay đổi về nhận thức, thái độ, ý thức trách nhiệm và hành vi của
từng bạn học sinh đối với di sản văn hóa độc đáo của người M’nông.
Sau khi thực hiện các giải pháp, chúng tôi nhận thấy các giải pháp này có
tính khả thi. Sự hiểu biết của các bạn học sinh trường THPT Phạm Văn Đồng về
giá trị, ý nghĩa của đàn đá Đăk Kar nâng cao khá rõ. Các bạn cũng đã nhận thức
đúng đắn, toàn diện, đầy đủ về ý nghĩa của việc bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa đàn đá Đăk Kar tại địa phương. Khi nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát thực
nghiệm ngẫu nhiên lần 2 với 315 bạn học sinh của trường, nhận thấy hầu hết tất
cả các bạn đều khơng chỉ có sự chuyển biến trong nhận thức, thái độ mà đã có
nhiều hành động cụ thể, thiết thực để góp phần bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
đàn đá Đăk Kar tại huyện Đắk R’lấp. Đặc biệt, khi nhóm nghiên cứu đặt câu hỏi:
17
“Theo bạn việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đàn đá Đắk Kar là việc làm có
ý nghĩa như thế nào?”. Kết quả khảo sát cho thấy: phần lớn các bạn đều cho rằng
đây là việc làm có ý nghĩa quan trọng rất cần thiết và cần thiết.
Bạn hiểu về giá trị, ý nghĩa của đàn đá Đăk Kar như thế nào?
7%
Hiểu rõ
23%
Ít hiểu
70%
Khơng hiểu
Biểu đồ 7. Khảo sát mức độ hiểu biết về đàn đá Đăk Kar của học sinh (sau tác động)
Tỉ lệ(%)
Chúng ta cần làm gì để góp phần bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa đàn đá Đắk Kar?
100%
90%
80%
73%
70%
60%
50%
40%
30%
20%
12%
10%
0%
Dành thời gian
tìm hiểu, nâng
cao nhận thức về
đàn đá
Tỉ lệ(%)
12%
9%
6%
Tuyên truyền,
giới thiệu cho mọi
người về giá trị, ý
nghĩa của đàn
9%
Tham gia các lớp
dạy chơi đàn đá
Tất cả các
phương án trên
6%
73%
Biểu đồ 8. Thống kê những hành động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đàn đá Đăk Kar
của học sinh (sau tác động)
Đồng thời, qua khảo sát chúng tơi cịn nhận thấy tất cả các bạn đều cảm
thấy rất hào hứng khi tham gia vào nhóm giải pháp do nhóm nghiên cứu đưa ra.
Điều đó chứng tỏ thế hệ trẻ nói chung và học sinh THPT Phạm Văn Đồng nói
riêng đã tỏ ra hứng thú, yêu thích đối với di sản văn hóa đàn đá Đăk Kar. Đây là
động lực, hướng phát triển mới của dự án nghiên cứu sau này của nhóm nghiên
cứu như: làm các video luyện tập chơi đàn đá, thành lập câu lạc bộ nhạc cụ
18
truyền thống hay sinh hoạt âm nhạc với các tiết mục hoà tấu của đà đá Đăk Kar.
VI. KẾT LUẬN
Edouard Herriot nhà khoa học - viện sỹ nổi tiếng của Viện Hàn lâm Pháp
từng khẳng định:"Văn hố là thứ cịn lại khi ta quên đi tất cả và là thứ vẫn cịn
thiếu khi ta đã học tất cả". Câu nói của Herriot đã khẳng định được giá trị và
chức năng vơ cùng to lớn của văn hố - thứ có sức sống bền vững, lan toả và
trường tồn lâu dài qua thời gian. Văn hóa khơng chỉ làm nên sự khác biệt, tính
đặc thù của mỗi dân tộc mà qua đó làm cho đời sống thêm phong phú, đa dạng,
giúp cho con người vun đắp lòng tự hào đối với bản sắc của dân tộc mình. Và
với đồng bào M’nơng sinh sống tại huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông, một trong
những nhạc cụ truyền thống làm nên nét văn hóa độc đáo của họ chính là goong
lú (đàn đá Đắk Kar).
Đàn đá Đăk Kar là di sản văn
hóa vật thể, là nhạc cụ độc đáo thể
hiện sự sáng tạo nghệ thuật của
người của người M’nông trên địa
bàn huyện Đắk R’lấp. Từ bao đời
nay, đàn đá đã đi sâu vào sử thi,
truyền thuyết, ca dao, được diễn tấu
cùng những bài dân ca bên bếp lửa
bập bùng trong những căn nhà dài
truyền thống của đồng bào M’nơng.
Hình 17. Đàn đá Đăk Kar
Đàn đá (goong lú) không chỉ là sợi dây linh thiêng kết nối với các vị thần
trong khu rừng thiêng để cầu cho mưa thuận gió hịa, mùa màng tốt tươi, đời
sống yên vui,… mà còn tham gia vào đời sống sinh hoạt văn hóa hàng ngày của
con người. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức, bảo tồn và phát huy di sản đàn đá
Đăk Kar không chỉ tái hiện lại khơng gian văn hóa cổ xưa của người M’nơng
thời tiền sử, mà cịn góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa tốt đẹp, làm phong
phú đời sống tinh thần của nhân dân trong xã hội mới, góp phần quảng bá nét
đẹp văn hóa độc đáo của huyện Đắk R’lấp nói riêng và của tỉnh Đắk Nơng nói
chung.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Trọng Hiền (2006) “Cồng chiêng Tây Nguyên – Một số đặc điểm
nghệ thuật cơ bản”, Các nhạc cụ gõ bằng đồng – những giá trị văn hóa, Nhà xuất
bản Văn hóa dân gian, Hà Nội.
2. Luật di sản văn hóa (2001) Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Nguyễn Khoa Điềm (2002), Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Vũ Ngọc Khánh (1998), Sơ lược truyền thống văn hóa các dân tộc thiểu
số ở Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
5. Hội Đồng Nhân Dân tỉnh Đắk Nông, Đề án “Bảo tồn, phát huy các giá
trị văn hóa lễ hội hoa văn cồng chiêng và nhạc cụ dân gian của dân tộc M’nông
tỉnh Đắk Nông, giai đoạn 2021 – 2025.
20
PHỤ LỤC 1
QUYẾT ĐỊNH THẨM ĐỊNH ĐÀN ĐÁ ĐĂK KAR