Trần Đức Thạnh, Nguyễn Hữu Cử, Đinh Văn Huy, Trần Đình Lân, 2001. Biến động cửa hệ đầm phá Tam GiangCầu Hai. Tạp chí Khoa học và Cơng nghệ biển. T.1, số 3. Tr. 33-43.
BIẾN ĐỘNG CỬA HỆ ĐẦM PHÁ TAM GIANG – CẦU HAI
Trần Đức Thạnh, Nguyễn Hữu Cử,
Đinh Văn Huy và Trần Văn Điện
Mở Đầu
Hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế
dân sinh khu vực Thừa Thiên – Huế. Hệ có hai lạch cửa chính là Thuận An và Tư Hiền tồn tại
nhiều năm, thông nối đầm phá với biển. Về môi trường, các lạch cửa đảm bảo quá trình trao đổi
nước với biển, tăng cường hồn lưu trong đầm phá để làm sạch mơi trường, làm giảm độ tập
trung các chất ô nhiễm, giải tỏa lũ lụt và duy trì lâu bền vực nước thông qua phân tán bùn cát ra
biển, chống lại quá trình nơng hóa vực nước. Về sinh thái, lạch cửa là con đường xuất nhập khẩu
vật chất ra biển, duy trì và ổn định độ mặn, cân bằng sinh thái, cấu trúc quần xã và đa dạng sinh
học cao cho đầm phá. Đây là con đường di cư của sinh vật biển, cung cấp giống và dinh dưỡng
cho nguồn lợi hải sản ven bờ. Về kinh tế, cửa lạch là luồng cảng, huyết mạch giao thông hàng
ngày và lối vào tránh gió bão cho tàu thuyền đi biển. Sự ổn định mở cửa lạch có ý nghĩa cực lớn
đối với duy trì nguồn lợi, ổn định phương thức đánh bắt và nuôi trồng, tạo ra sự phát triển bền
vững của nghề cá biển và đầm phá. Tuy nhiên, cửa lạch thường khơng ổn định về vị trí và trạng
thái đóng mở, gây ra những hậu quả tiêu cực về sinh thái, môi trường và kèm theo những thiệt
hại lớn về kinh tế, dân sinh mà điển hình là trong trận lũ lịch sử vào tháng 11 năm 1999 vừa qua.
Bài viết này trình bày biến động của các cửa liên quan đến q trình hình thành và tiến hố đầm
phá. Đây sẽ là cơ sở góp phần định hướng ổn định cửa và quản lý bền vững hệ đầm phá quan
trọng này. Cơng trình được hồn thành với sự hỗ trợ của Hội Đồng Khoa Học Tự Nhiên.
1. Quá trình hình thành, phát triển đầm phá và sự ra đời của các cửa
1.1. Điều kiện hình thành
Các đầm phá được hình thành ở khu bờ cát có năng lượng sóng mạnh. Quá trình hình thành
và phát triển các đầm phá đã được nhiều nhà khoa học thế giới nghiên cứu [7,9].
Vai trò của kiến trúc và chuyển động kiến tạo hiện đại. Phá Tam Giang nằm ở rìa đồng bằng
Huế, phát triển trên nền kiến tạo hiện đại nâng yếu và chuyển tiếp với các đới sụt hạ trên thềm
lục địa. So với các khối nâng mạnh tây Huế và Bạch Mã, nó trở thành vùng sụt hạ tương đối.
Trên nền nâng yếu này xuất hiện các bồn trũng cục bộ (Cầu Hai, cửa sơng Hương) có vai trị thu
nước từ các sơng và các vịm nâng cục bộ (Thủy Thanh, An Hịa, Phú Vang) có khả năng làm
dịch chuyển, suy tàn các nhánh sông đổ vào đầm phá. Hệ đứt gãy Quốc lộ 1 phương tây bắc đông nam có ý nghĩa phân định hướng chính của đầm phá. Các hệ đứt gãy phương á vĩ tuyến
Phò Trạch, Hương Long, Rào Trăng có vai trị phân định và phân dị đầm phá theo chiều dọc
[1,5]. Cuối cùng, chính sự nâng yếu của đồng bằng Huế trong điều kiện dâng chậm dần của mực
nước chân tĩnh vào nửa sau biển tiến Flandrian đã tạo nên sự bình ổn tương đối hoặc nâng rất
chậm của mực biển khu vực, tạo tiền đề hình thành cồn cát chắn và đầm phá.
1
Vai trị yếu tố địa hình kế thừa. Đầm phá và hệ cồn đụn chắn khơng thể hình thành ở vùng
biển ven bờ sâu và dốc. Chính bề mặt đồng bằng aluvi cổ Pleistocen thoải và rộng ở ven bờ Huế
là tiền đề quan trọng để hình thành các đầm phá cổ và phá Tam Giang đang tồn tại. Với điều kiện
như vậy, hầu như khơng cịn khả năng xuất hiện đầm phá mới phía ngồi đầm phá hiện nay.
Ngồi ra, dường như là đầm Thủy Tú phát triển kế thừa trên nền lịng sơng cổ (Pleistocen) cịn
đầm phá Cầu Hai thì phát triển trên nền một vịnh biển nhỏ bị đê cát phía ngồi khép kín.v.v.
Nguồn bồi tích cát tạo thành hệ cồn đụn chắn ngồi. Để có đầm phá, phải có cồn đụn chắn
ngồi tạo nên từ bồi tích cát. Khơng kể đến các cồn cát đồ sộ phía bắc cửa sơng Ơ Lâu và đồng
bằng cát rộng lớn phía tây phá, diện tích các cồn đụn chắn ngồi rộng 190km 2. Nếu tính trung
bình bề dày cát 20m, ta có khối lượng cát khổng lồ là 3,8 tỷ m 3. Trong khi đó, tổng lưu lượng cát
ở các con sơng đổ vào đầm phá chỉ 120 nghìn tấn/năm, tương đương 80 nghìn m 3. Có nghĩa là,
nếu cát từ vùng núi tây Huế do sông mang ra ven biển để tạo nên cồn cát này thì phải cần có
47.500 năm. Trong khi đó, tuổi các cồn cát nguồn gốc biển - gió này mới chỉ 3000 năm (Holocen
muộn) và các giai đoạn biển tiến Holocen hình thành nên đồng bằng Huế chỉ 11 nghìn năm [1,
11, 14]. Nguồn cát khổng lồ này được Zenkovich [17, 18] giải thích là có nguồn gốc sơng Hồng
cổ bồi đắp nên đồng bằng đáy vịnh Bắc Bộ vào Pleistocen, khi mực nước thấp hơn hiện nay trên
dưới 100m. Trong quá trình biển tiến, sóng đã di chuyển ngang bồi tích cát vào ven bờ Bình Trị
Thiên.
Vai trị của biển tiến Flandrian đối với hình thành phá Tam Giang. Phleger [9] cho rằng, hầu
hết đầm phá trên thế giới được hình thành trong vịng 6 - 8 nghìn năm qua. Biển tiến Flandrian
bắt đầu từ 17 - 18 nghìn năm trước từ độ sâu 100 - 120m trên thềm lục địa. Theo Shepard [10],
trong quá trình biển tiến, mực nước dâng cao dần đến mức hiện nay, đến 11 nghìn năm trước, tốc
độ dâng 9mm/năm và đến 6 nghìn năm trước, chỉ cịn 4mm/năm và sau 4 nghìn năm chỉ
1mm/năm. Vào Holoxen giữa, khoảng 6 nghìn năm trước, biển tiến mở rộng nhất về phía lục địa,
tốc độ dâng mực nước chậm hẳn lại và có sự bồi tụ tích cực để tạo đến đồng bằng Huế, trong đó
có các cồn cát cổ, đầm phá cổ đã tàn ở Quảng Điền, Phú Vang, nay cịn sót lại di tích và vơ số
các trầm, bầu nước ngọt. Mực nước chân tĩnh dâng chậm, lại bị triệt tiêu trên đới nâng yếu, địa
hình ven bờ cổ nơng, thoải, lại giầu nguồn bổi tích do di chuyển ngang từ đáy đã tạo điều kiện
thuận lợi hình thành rồi lấp đầy nhanh chóng các đầm phá cổ. Sang đến Holocen muộn đường bờ
lùi do bồi tụ đến vị trí đầm phá hiện nay và với các điều kiện thuận lợi cịn duy trì (đáy nơng
thoải, mực biển dâng chậm chạp, giầu bồi tích cát) đã hình thành nên hệ cồn cát và phá Tam
Giang. Về quy mô, phá Tam Giang lớn hơn nhiều các đầm phá cổ, có lẽ cũng tồn tại lâu dài hơn
do khơng có khả năng thành tạo phá mới phía ngồi biển do đáy sâu, dốc.
1.2. Quá trình phát triển
Giai đoạn khởi đầu. Ban đầu, đầm phá được hình thành nhờ nổi cao một dãy đảo cát chắn
ngồi vùng nước nơng hẹp phía trong. Q trình bồi tụ nhờ dịng bồi tích cát dọc bờ sau đó đã
nối liền dần các đảo cát chỉ để lại hai cửa chính ở Thái Dương Thượng và Vinh Hải (sát phía bắc
núi Vĩnh Phong). Sự hình thành phá bắt đầu bằng quá trình bồi tụ nổi cao của hệ thống cồn cát
Linh Thái - Phú Thuận với tư cách là một đảo cát chắn dần dần nổi cao, mở rộng và kéo dài về
phía tây bắc. Trong khi đó, dịng bồi tích cát dọc bờ rất mạnh phát triển kéo dài cồn đụn sát biển
từ Cửa Việt xuống Thái Dương Thượng. Nhờ đó, đầm phá ban đầu mới hình thành rộng, sâu hơn
hiện nay và có hai cửa đều rộng, một cửa phía nam, có lẽ ở Vinh Hải sát phía bắc núi Linh Thái
và một cửa phía bắc, có lẽ ở giáp phía Thái Dương Thượng và Thái Dương Hạ đã được Krempt.
A [6] nhắc đến. Cửa này, sau đó bị cồn cát vun cao trên 20m chạy dài, lấp thẳng. Giai đoạn khởi
đầu kết thúc khi 2 dải cồn cát kéo dài gặp nhau hình thành nên Đại Trường Sa chạy dọc từ cửa
2
Việt xuống Linh Thái [2]. Cả hai cửa Thái Dương và Vinh Hải bị lấp, đồng thời mở ra cửa Tư
Hiền.
Giai đoạn trẻ. Phá chỉ có một cửa duy nhất ở phía nam là cửa Tư Hiền, hai cửa cổ Thái
Dương Thượng và bắc Vinh Hải bị lấp.
Pha 1: Tư Hiền là cửa chính và Phú Cam là sơng lớn đổ ra đầm Cầu Hai. Sông Hương lúc ấy
chia làm hai nhánh từ Thành Huế. Nhánh chính theo kênh Phú Cam, Đại Giang (vốn là lòng một
phá tàn) đổ vào tây bắc Cầu Hai. Nhánh phụ, có lẽ đổ vào khu đầm Sam - An Truyền. Vực nước
đầm Cầu Hai có lẽ cịn lấn sâu vào cửa Đại Giang đến ngã ba sông Nông. Tư Hiền là cửa duy
nhất của phá sâu, rộng.
Pha 2: Tư Hiền là cửa chính, sơng Phú Cam tàn, sơng Hương là dịng chính đổ vào đầm phá.
Qua q trình phát triển, cửa sơng Hương lúc đó là Đại Giang bị bồi tụ mạnh gây tắc nghẽn thốt
nước. Hoạt động của vịm nâng hiện đại Thủy Thanh làm sông Hương đoạn Phú Cam ngày nay
bị tàn đi. Sơng Hương thốt dịng chính ra biển theo hướng đơng bắc và có vị trí gần như ngày
nay do vịm nâng Phú Vang đẩy lệch nó về phía bắc và nhận hợp lưu sông Bồ, đổ về bồn sụt hạ
cửa sông Hương hiện nay và bồi tụ mạnh châu thổ trong đầm phá.
Pha 3: Sự ách tắc thoát lũ do phát triển delta triều xuống ở phía nam kênh Thủy Tú dẫn đến
mở cửa Thuận An. Do khơng có cửa thốt trực tiếp ra vị trí cửa Thuận An bây giờ, tồn bộ dịng
chảy sơng Hương theo đầm Thủy Tú có vai trị như kênh dẫn đổ nước vào đầm Cầu Hai. Vào
mùa lũ, dịng lũ sơng Hương tràn bờ Thủy Tú tạo nên các bãi đảo định hướng dòng chảy, xâm
thực hai bờ cát và tạo nên các bãi bồi ngập lũ hai bên Thủy Tú, làm thu hẹp đáng kể lòng dẫn
Thủy Tú. Mặt khác, do điều kiện đặc biệt thuận lợi, dòng triều xuống và dòng lũ thoát đã tạo nên
các delta triều xuống dưới dạng các bãi chìm, đảo nổi chắn đầu cửa phía nam Thủy Tú làm cản
trở nghiêm trọng thốt lũ sơng Hương. Dịng lũ sơng Hương cơng phá cồn cát đối diện để tạo lối
thốt mới ngắn nhất. Vì thế cửa Thuận An đã mở vào năm 1404 chấm dứt giai đoạn trẻ của phá.
Giai đoạn trưởng thành. Thực ra đây là giai đoạn suy tàn của phá, gắn liền với việc mở cửa
mới Thuận An và sự phân dị vực nước thành ba phần Tam Giang (tây bắc) Thủy Tú (ở giữa) và
Cầu Hai (đơng nam), khác nhau về hình dạng, hồn lưu nước, q trình trầm tích và đặc điểm
sinh thái vực nước. Từ đầu thế kỷ XV đến nay, cửa Thuận An trở thành cửa chính và lối thốt
nước chủ yếu của sông Hương, Tư Hiền thành cửa phụ và bị lấp, mở với nhịp điệu mau dần.
Trong giai đoạn này có những sự kiện quan trọng như sơng Phú Cam gần như tàn hẳn phải khơi
đào, sông Bồ nhập hẳn vào sơng Hương, sơng Ơ Lâu uốn dịng vng góc chảy thuận hướng vào
đỉnh phá Tam Giang, cửa Thuận An dịch vị trí 4 lần trên cung bờ dài 7km với chu kỳ 100 - 200
năm, vùng Tô Đà ở cửa Đại Giang bị bồi lấp tàn hẳn. Phá đã bị nơng và hẹp đáng kể, ước tính
bồi nông 2,4mm/năm, tổng cộng 1,5m trong giai đoạn này. Nghĩa là, độ sâu trung bình của phá
trong khoảng gần 600 năm qua bị giảm đi một nửa. Riêng Cầu Hai bị bồi nông 1 - 1,4mm/năm,
tương ứng 0,6 - 0,8m kể từ khi Tư Hiền là cửa phụ. ở giai đoạn trưởng thành, tác động nhân sinh
đã ảnh hưởng sâu sắc đến tiến hóa tự nhiên của phá. Ví dụ: đơ thị hóa ven sơng Hương, đào kênh
Vinh Tế (đời Lê) nối Ơ Lâu - Cửa Việt, vét sơng Phú Cam, lập cảng Thanh Hà (cảng cổ gần Bao
Vinh), cảng Tân Mỹ (hiện nay), đắp đê đập ngăn mặn, hồ chứa thượng nguồn, tàn phá rừng.
Con người luôn muốn chỉnh trị hai cửa nhưng đều thất bại. Hai lần đắp đập lấp cửa Thuận
An vào nửa sau thế kỷ XV và nửa đầu thế kỷ XX nhưng đều bị vỡ. Nhiều lần khơi thông cửa Tư
Hiền khi cửa bị lấp đều khơng thành cơng. Lần cuối lấp kín và kè kiên cố cửa Tư Hiền vào năm
1995, nhưng cửa vẫn bị vỡ vào tháng 11 năm 1999.
3
2. Biến động của các cửa
Kể từ khi ra đời cửa Thuận An, cửa Tư Hiền trở thành cửa phụ và và cả hai cửa đều khơng
ổn định. Tính khơng ổn định cửa biểu hiện qua các trạng thái chuyển đổi vị trí cửa, dịch cửa, mở
cửa, lấp cửa, thu hẹp mặt cắt ướt hoặc biến dạng luồng cửa nhiều lần trong lịch sử. Diễn biến của
qúa trình chuyến lấp cửa đầm phá được theo dõi qua các thư mục cổ “Ô châu cận lục” của
Dương Văn An (từ thế kỷ XVI), Đại việt sử ký toàn thư (từ thế kỷ XVII), “Phủ biên tạp lục” của
Lê Quý Đôn (từ thế kỷ XVIII) [ 2 ] và các nghiên cứu của Kremp. A [ 6 ], Sơn Hồng Đức [3] và
Trần Đức Thạnh [11, 12, 13, 14, 15 ].
2.1. Cửa Tư Hiền
Từ nhiều thế kỷ trước, hệ đầm phá chỉ có một cửa duy nhất gọi là cửa Tư Dung (nay là cửa
Tư Hiền). Chỉ từ năm 1404, cửa Thuận An mở, hệ đầm phá mới có hai cửa [2]. Trên thực tế , cửa
Tư Hiền gồm 2 cửa, cửa chính do dịng lũ mở thơng trực tiếp ra biển ở Vinh Hiền (thôn Phú An),
và cửa phụ ở Lộc Thủy (sát mũi Chân Mây Tây). Hai cửa ngăn cách nhau qua một đê cát dài
3km, cao khoảng 2 - 2,5m chạy dọc bờ (hình 1). Dịng nước từ đầm phá ra biển qua cửa phụ phải
chạy vòng theo một lạch nông nằm sát sau đê cát chắn. Cửa Vinh Hiền tồn tại trước. Kể từ khi
cửa Thuận An mở, động lực dòng qua cửa này yếu đi và dòng bồi tích dọc bờ tạo nên một doi cát
phát triển đẩy lấn cửa về phía nam đế sát mũi Chân Mây Tây. Khi cửa Lộc Thủy ở Chân Mây
Tây bị tàn do bồi lấp dần thì dịng lũ mở lại cửa chính Vinh Hiền. Trạng thái cửa Tư Hiền ln ở
một trong bốn trường hợp: cửa chính mở, cửa phụ đóng; cả hai cửa đều đóng kín; cửa chính
đóng, cửa phụ mở và cả hai cửa đều mở. Trường hợp 1 và 2 hoàn toàn do động lực tự nhiên tạo
ra. Đã nhiều lần cửa chính bị đóng, nhân dân tổ chức đào nhưng ngay sau đó bị lấp trở lại.
Trường hợp 3 tồn tại khi cả hai cửa đều bị lấp và phải tiến hành đào cửa phụ sau khi việc khai
đào cửa chính thất bại. Trên thực tế, chưa lần nào cửa phụ tự mở như cửa chính. Trường hợp 4 ít
xảy ra và tồn tại trong thời gian ngắn vì ngay sau khi dịng lũ mở lại cửa chính, cửa phụ sẽ bị bồi
lấp như sau trận lũ lịch sử tháng 11 năm 1999.
Ngay sau khi cửa Thuận An mở, cửa Tư Hiền bắt đầu có xu thế bị bồi lấp. Vì vậy, năm
Quang Thuận thứ 8 (1467), tham nghị Châu Hóa là Đặng Chiêm có dâng sớ xin lấp cửa Eo
(Thuận An), giữ cửa Tư Dung (Tư Hiền) và đề nghị đã được chấp nhận. Cho tới năm 1811 (năm
Tân Mùi, Gia Long thứ 10), cửa Vinh Hiền mở và cửa Lộc Thủy bị lấp. Như vậy trong khoảng
thời gian 1404 - 1811, cửa Vinh Hiền có lẽ đã từng nhiều lần bị đóng và cửa Lộc Thủy đã từng
tồn tại. Năm 1823, cửa Vinh Hiền bị lấp và năm 1844 thì cửa Vinh Hiền lại mở. Có lẽ trong
khoảng 1931-1952 là thời gian cửa Thuận An bị đập đá đắp chặn, cửa Tư Hiền khá ổn định ở vị
trí Lộc Thuỷ. Cho tới năm 1953, cả hai cửa bị lấp, trong đó cửa Vinh Hiền bị lấp cho tới năm
1959 thì mở. Cũng vào năm 1979, cửa Vinh Hiền bị lấp và cửa Lộc Thuỷ được mở do khai đào.
Năm 1984, cửa Lộc Thủy bị lấp. Cửa Vinh Hiền mở lại năm 1990 rồi lại bị lấp lại năm 1994 và
được gia cố thêm bằng kè đá granite. Đồng thời, cửa Lộc Thuỷ lại được khai đào. Lịch sử biến
động cửa Tư Hiền được tóm lược trên bảng 1.
Bảng 1: Một số sự kiện biến động lấp, mở cửa Tư Hiền
Thời gian
Vị trí cửa
Vinh Hiền
Lộc Thủy
Trước năm 1811
Lấp
Năm 1811
Mở
Lấp
Năm 1823
Lấp
Năm 1844
Mở
4
Sau 1884
Không rõ
Không rõ
Trước 1953
Lấp
Mở
Năm 1953
Lấp
Năm 1959
Mở
Năm 1979
Lấp
Mở nhân tạo
Năm 1984
Lấp
Năm 1990
Mở
Tháng 12 Năm 1994
Lấp tự nhiên và bị kè thêm
Mở nhân tạo
Tháng 11 Năm 1999
Mở
Mở rộng do lũ
Tháng 3 Năm 2000
Lấp
Mỗi lần biến động cửa đều gây khó khăn cho đời sống cộng đồng dân cư trong khu vực.
Khi cửa bị lấp, ngồi việc làm ách tắc giao thơng và nghề khai thác biển khơi, còn làm thay đổi
cơ cấu tài nguyên và giá trị tài nguyên sinh vật trong đầm Cầu Hai do bị ngọt hóa. Sau gần 5 năm
kể từ ngày bị lấp (12/1994 - 11/1999) mặc dù đã được kè khá kiên cố cửa Tư Hiền đã bị phá mở
vào ngày 2/11/1999 trong cơn ngập lụt thế kỷ khủng khiếp với mực nước dâng cao 5,94m tại
Huế. Cùng với thời khoảng mở 4 năm vào 1990 - 1994, thời khoảng lấp lần này chỉ 5 năm,
chứng minh rằng nhịp điệu lấp mở cửa mau hơn nhiều so với trước đây (hình 1).
2.2. Cửa Thuận An
So với cửa Tư Hiền, cửa Thuận An có cơ chế và lịch sử biến động phức tạp hơn. Ngoài chế
độ động lực biển san bằng bờ, sự biến động của cửa còn liên quan tới cơ chế uốn khúc của đoạn
hạ lưu sông Hương, thay đổi tương quan giữa chủ lưu và chi lưu có tác dụng của vịm nâng Phú
Vang. Do vậy, cửa Thuận An đã từng tồn tại nhiều vị trí cũng như tên gọi khác nhau trong lịch
sử. Năm 1404, cửa Thuận An mở tại vị trí Hồ Duân bây giờ và trở thành cửa chính của hệ đầm
phá. Năm 1467, sớ dâng của tham nghị Châu Hóa là Đặng Chiêm được chấp nhận, chính quyền
phong kiến sai truyền dân binh lấp trở lại. Cho tới đời Cảnh Thống (1498 - 1504), cửa vỡ trở lại.
Trong khoảng thời gian chừng 200 năm kể từ năm Giáp Tý (1504), cửa có vị trí ở Thái Dương
Hạ. Trong khoảng thời gian chừng 200 năm tiếp theo cho tới năm 1897, cửa có vị trí tại làng
Hồ Dn. Kể từ năm 1897 tới nay, cửa có vị trí cơ bản như hiện nay [8]. Cho tới ngày 11
tháng 6 năm 1904, cửa Hoà Duân mới bị lấp hẳn trong một trận bão và sau 95 năm, cửa được
mở lại vào ngày 2 tháng 11 năm 1999, trong trận lũ lịch sử. Việc mở cửa Hoà Duân đã dược dự
báo trước [13, 15].
Vào năm 1931, một đập đá lớn dài 2000m, cao trình đỉnh đập ở + 2m được xây dựng
ngang qua cửa Thuận An với mục đích ngăn mặn từ biển qua cửa vào đầm phá và sơng ngịi
vùng đồng bằng. Nhưng do đó, đến mùa lũ, việc thốt lũ rất khó khăn. Người ta phải hạ bớt cao
trình đỉnh đập đá từ + 2m xuống 0,00m trên chiều dài 100m rồi sau đó mở rộng 200m ở giữa
đập. Đến thời giặc Pháp tái chiếm Huế, cao trình đỉnh đập lại tiếp tục được hạ xuống để tầu
thuyền qua lại. Trận lụt lớn năm 1953 đã phá vỡ hoàn toàn đập đá và xoáy tạo ra một trục sâu
đến 21m. Từ đó, cửa lạch tiếp tục xu hướng di chuyển lên phía bắc. Cửa Thuận An thường xuyên
thay đổi vị trí theo chu kỳ dài và động thái của nó chịu sự chi phối của trạng thái cửa Tư Hiền.
Khi cửa Tư Hiền mở, cửa Thuận An dường như thu hẹp và chảy chậm. Khi cửa Tư Hiền đóng,
cửa Thuận An chảy mạnh hơn, bị biến dạng, nông dần và di chuyển vị trí gây ảnh hưởng đến sa
bồi luồng vào cảng Tân Mỹ. Tính từ vị trí đập chắn cũ (1931) đến nay trục cửa di chuyển lên
phía bắc 15m/năm, cịn bờ lạch bị bồi lấn dịch chuyển về phía bắc có chỗ 40m/năm. Sự di
chuyển vị trí cửa Thuận An tạo nên sự không ổn định của đoạn bờ dài 7km do bồi lấp, và ảnh
hưởng đến sự ổn định của khu dân cư tại đây (hình 2).
5
2.3. Tình thế năm cửa trong trận lũ lịch sử tháng 11 năm 1999
Trận lũ lụt lịch sử xảy ra ngày 1 - 6/11/1999 đã phá mở thêm 3 cửa và ngay sau lũ đầm
phá có tất cả 5 cửa (hình 3). Theo thứ tự từ bắc xuống nam, các cửa đó lần lượt là:
Cửa Thuận An rộng 350m , sau lũ cửa rộng 400m. Trong trận lụt tháng 11, cửa được mở
thêm một lạch mới rộng 600m ở thôn Hải Dương. Lạch Hải Dương thực ra là một của một lạch
cửa rất cổ xưa. Đến tháng 3 năm 2000, lạch này bị bồi lấp trở lại hồn tồn.
Cửa Hịa Duân được mở ra trong trận lũ tháng 11/1999, tại vị trí cũ trước năm 1897. Sau
khi mở, cửa rộng 700m, sâu đến 8m.
Cửa Vinh Hải vốn là một cửa rất cổ bị tàn từ lâu, dấu vết để lại là một lạch trũng và một
khu đất thấp dạng yên ngựa phía bắc núi Vĩnh Phong. Sau cơn ngập lụt, cửa mở ra với chiều
rộng 200m, độ sâu 1 - 1,5m. Đến tháng 3 năm 2000, cửa bị lấp trở lại.
Cửa Tư Hiền trong điều kiện bình thường rộng khoảng 200m, sâu 3m. Vào cuối tháng 10
năm 1994 (hơn một tháng trước khi bị lấp) cửa chỉ còn rộng 50m, sâu 0,5 - 1m. Sau trận lũ lịch
sử, cửa được mở với chiều rộng 600m và độ sâu đạt khoảng 4 - 8m.
Cửa Lộc Thủy trước trận lũ ngập lịch sử tháng 11/1999 ở trạng thái mở nhờ cơng trình kè
cửa Tư Hiền, khai thông lạch nước sau cồn cát và xây dựng một số kè mỏ hàn chống cát tràn dọc
bờ từ phía cửa Tư Hiền xuống. Lạch cửa Lộc Thủy rất nhỏ hẹp, xâm thực mở rộng hơn vào mùa
mưa lũ nhưng bị cạn hẹp đáng kể về mùa khơ. Năng lực thốt lũ và phục vụ giao thông ra biển
của lạch này rất kém. Sau trận lũ, cửa rộng 200m, sâu 2 - 5m nhưng phần đầu lạch phía trong,
giáp cửa chính Tư Hiền nhanh chóng bị bồi cạn sau lũ lịch sử.
Cho đến tháng 3 năm 2000 , các cửa Vĩnh Hải, Lộc Thuỷ và lạch Hải Dương đã bị bồi lấp,
chỉ còn lại 3 cửa lớn là Thuận An, Hoà Duân và Vinh Hiền. Cho đến thánh 8 năm 2000, cửa Hoà
Duân bị kè lấp lại.
Đầm phá Tam Giang - Cầu Hai có đến 5 cửa do trận lũ lịch sử là một hiện tượng phát triển
tự nhiên có chịu ảnh hưởng của các yếu tố bất thường, hiếm gặp và tác động của các hoạt động
nhân sinh. Đó là, xuất hiện mưa lũ cực lớn trùng vào khi cửa Thuận An bị tàn và cửa Tư Hiền bị
lấp. Mưa lớn kéo dài trong nhiều ngày liên tục. Lượng mưa 6 ngày (1 - 6/11/1999) tại Huế là
2288mm và tại A Lưới là 2771mm. Lượng mưa ngày cao nhất ở Huế vào 3/11/1999 là 978mm.
Nếu lượng mưa ngày tính từ 7 h ngày 2/11 - 7h ngày 3/11/1999 là 1384mm, chưa từng gặp ở Việt
Nam. Tại Huế, mực lũ sông Hương đạt kỷ lục 5,94m vào 14 h ngày 2/11/1999, cao hơn mức báo
động III là 2,94m và vượt 1,05m so với đỉnh lũ lịch sử 1983 (4,89m). Trong ngày 2/11/1999 tại
Huế, có lúc cường xuất lũ lên tới 1m/h [ 4, 16]. Mưa cực lớn kéo dài lại rơi đúng vào thời gian
lấp cửa Tư Hiền, nên khả năng thoát nước hai ngày đầu bị giảm rất nhiều. Trong khi đó luồng
cửa Thuận An đã cắt chéo quá dài cồn cát và dòng chảy sơng Hương ra biển phải đi theo lịng
dẫn uốn q cong lên phía bắc. Lũ lớn làm mực nước dâng cao đột biến trong đầm phá, làm
ngập tất cả các vị trí cửa cổ của đầm phá đã có vốn thấp, tạo dòng dẫn, phát triển thành dòng
xung phá tạo một lúc nhiều cửa. Đợt mưa lũ lớn trùng vào dịp khơng khí lạnh ảnh hưởng bắt đầu
từ ngày 1/11/1999, làm nhiệt độ giảm nhanh 8 - 100C sau 24 giờ, gió đơng bắc trên đất liền cấp 3
- 4, vận tốc gió trung bình 5 - 7m/s, ngồi khơi cấp 6 - 7, vận tốc gió mạnh nhất 19 - 21m/s (cấp
8 - 9). Hướng gió bắc và đơng bắc, hướng sóng chủ yếu là đơng bắc. Sóng ven bờ cao trung bình
0,50 - 0,75m, ngồi khơi sóng cao nhất 3,0 - 3,5m (cấp V - VI). Đến ngày 5/11/1999 lại xuất hiện
một áp thấp nhiệt đới ở phía bắc quần đảo Trường Sa và chiều tối di chuyển đến sát bờ Phú Yên Ninh Thuận, gây ảnh hưởng mưa đến khu vực Huế. Điều kiện này đã tăng cường xói lở bờ biển
6
ven ngồi đầm phá, góp phần tạo xung yếu mở phá cửa do dịng lũ từ đầm phá. Khơng kể đến
các tác động lâu dài của con người ở lưu vực thượng nguồn, việc đặt kè chắn cửa Tư Hiền đã cản
thốt lũ nghiêm trọng, góp phần dâng cao mực nước lũ lớn, gây ra phá mở nhiều cửa đầm phá
một lúc.
3. Dự báo
Trường hợp giữ lại cửa Hoà Duân, luồng cửa Thuận An sẽ bị sa bồi nhanh chóng, cạn dần
và lấp hẳn. Vì vậy, cảng Tân Mỹ trong đầm phá có nguy cơ khơng sử dụng được. Cửa Hoà Duân
mới mở vừa qua sẽ tồn tại cỡ thế kỷ. Cửa Tư Hiền lại tiếp tục luân vòng mở - lấp. Nhiễm mặn
trên sơng Hương và ven rìa đầm phá có thể tăng do độ mặn trong đầm phá tăng cao và áp lực
xâm nhập mặn qua cửa Hòa Duân ngược sông Hương lớn. Tuy nhiên, điều kiện môi trường lợ
mặn trong đầm phá tạo điều kiện rất tốt cho phục hồi hệ sinh thái, phát triển nguồn lợi thủy sản
và đặc biệt tạo cơ hội mới cho nuôi trồng lợ mặn. Các giá trị bảo vệ đất ngập nước khơng bị suy
giảm. Tình hình ngập lụt ven bờ và đồng bằng Thừa Thiên - Huế cũng đỡ căng thẳng hơn.
Trong trường hợp kè lấp cửa Hoà Duân như hiện nay, sẽ lặp lại những diễn biến như đã
xảy ra vào những năm trước lũ lịch sử. Luồng cửa Thuận An sau khi được cải thiện ít nhiều nhờ
lũ lớn vào tháng 11 năm 1999 sẽ tiếp tục bị sa bồi và chuyển dịch lên phiá bắc. Cửa Tư Hiền sẽ
lại luân vòng mở - lấp với thời khoảng 5-10 năm. Đầm phá và ven bờ Thừa Thiên - Huế sẽ ngập
lũ liên miên. Gặp khi mưa rất lớn trùng vào thời khoảng lấp cửa Tư Hiền, sẽ xảy ra lũ ngập lớn
như vào tháng 11 năm 1999. Khi đó, đập Hồ Dn có thể bị phá nếu khơng đủ kiên cố. Nếu
không, lũ sẽ phá mở cửa mới ở vị trí bên cạnh hoặc một vị trí xung yếu nào đó trên hệ cồn cát
chắn ngồi đầm phá.
Kết Luận
Đầm phá trải qua 3 hình thái luân đổi nhau: một cửa (khi cửa Tư Hiền bị lấp), hai cửa
(khi cửa Tư Hiền mở) và nhiều cửa. Trạng thái hai cửa thường dài lâu nhất, được coi là bình ổn.
Hai trạng thái kia là những tai biến. Hình thái nhiều cửa hiếm khi xảy ra, chu kỳ cỡ thế kỷ. Sự
kiện phá mở nhiều cửa vào tháng 11/1999 vừa là sự trùng hợp giữa ba yếu tố: mưa cực lớn kéo
dài, cửa Tư Hiền bị lấp và cửa Thuận An bước sang giai đoạn suy tàn. Cửa Hòa Duân được mở
là để thay thế cho cửa Thuận An và sẽ tồn tại cỡ thế kỷ nếu không bị con người can thiệp chặn
lấp vào tháng 8 năm 2000.
Hiện tượng bồi lấp cửa Tư Hiền có nguyên nhân sâu xa từ q trình tiến hóa địa chất hệ đầm
phá Tam Giang - Cầu Hai. Hoạt động nội sinh và ngoại sinh làm suy tàn sông Phú Cam đổ
vào đầm Cầu Hai và tăng cường hoạt động của sông Hương dẫn đến mở cửa Thuận An từ
năm 1404 và thay đổi vai trò của Tư Hiền, từ cửa duy nhất chuyển thành cửa phụ và có xu
thế suy tàn. Sau một quá trình sa bồi từ từ, cửa bị lấp kín đột ngột ở một thời điểm có điều
kiện khí tượng thủy văn thích hợp và được mở lại sau một số năm khi có pha xói lở bờ
mạnh trùng với một kỳ mưa lũ lớn.
Trong những tình huống cỡ thế kỷ, việc lấp cửa Tư
Hiền vào tháng 12/1994 là nhân tố kích hoạt gây mở nhiều cửa như trong trận ngập lũ lịch
sử tháng 11/1999, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản, đảo lộn phân bố cơ sở hạ
tầng và tạo khả năng nhiễm mặn lớn. Tuy nhiên, khả năng lũ giảm đi, môi trường sinh
thái tự nhiên được phục hồi và đầm phá có những cơ hội tốt để phát triển nguồn lợi thuỷ
sản tự nhiên và nuôi trồng.
ổn định cửa đầm phá là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với chiến lược phòng tránh thiên tai và
phát triển bền vững kinh tế xã hội ven bờ Thừa Thiên – Huế. Trong mọi trường hợp, cửa Tư
Hiền đều cần mở ổn định. Giữ cửa Thuận An hay Hịa Dn là một bài tốn phức tạp phải căn cứ
7
vào các yếu tố: động lực tự nhiên, chi phí đầu tư, lợi ích kinh tế - sinh thái và đặc biệt phải biết
rút kinh nghiệm từ các bài học lịch đã có về chỉnh trị các cửa. Việc giữ cửa Hòa Duân là phù
hợp với xu thế phát triển tự nhiên của đầm phá.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Hữu Cử, 1996. Đặc điểm địa chất hệ đầm phá Tam Giang-Cầu Hai (Thừa Thiên - Huế) trong
Holoxen và phức hệ trùng lỗ chứa trong chúng. Luận án PTS.
2. Lê Quý Đôn, 1776. Phủ biên tạp lục, Nxb.Khoa học Xã hội. Hà Nội 1977.
3. Sơn Hồng Đức, 1974. Việt Nam hình thể các đồng bằng. Nxb. Trăm Hoa Miền Tây.
4. Nguyễn Văn Hải, 1999. Đợt mưa lũ kỷ lục tại miền Trung và một số vấn đề khoa học cần quan tâm.
Hoạt động khoa học. Số 12/1999, trang 42 - 43.
5. Nguyễn Chu Hồi, Đỗ Nam, Trần Đức Thạnh, Nguyễn Miên và nnk, 1996. Nghiên cứu khai thác, sử
dụng hợp lý tiềm năng phá Tam Giang. Báo cáo khoa học đề tài KT.ĐL.95.09. Lưu trữ tại Phân viện Hải
dương học tại Hải Phòng.
6. Krempf. A., 1931. Rapport sur le Fonctionnement de l’annee’ 1929 - 1933. Note No. 15. Inst.
Oceanogr. de L’Indochine.
7. Nichols M. and Allen G., 1981. Sedimentary process in coastal lagoons. In: Coastal lagoon research,
present and future. UNESCO Technical paper in marine science. No.33. p.27-80.
8. Hồ Tấn Phan, Hồ Thị Thu Trang, 1991. 500 năm cửa biển Thuận An. Thông tin Khoa học và Kỹ
thuật Thừa Thiên - Huế. Ban KHKT tỉnh Thừa Thiên - Huế.
9. Phleger F.B., 1981. A rewiew of some features of coastal lagoon. . In: Coastal lagoon research,
present and future. UNESCO Technical paper in marine science. No.33. p.1-6.
10. Shepard F.B., 1964. Submarine geology. Harper and Row Pub. New York, Evanston & London. P. 1557.
11. Trần Đức Thạnh, 1985. Cửa Thuận An và Tư Hiền ( Bình Trị Thiên). Những phát hiện mới về khảo
cổ học 1985. Viện khảo cổ. Hà Nội. Tr.20- 22.
12. Trần Đức Thạnh, Trần Đình Lân và Nguyễn Hữu Cử, 1995. Về hiện tượng bồi lấp cửa Tư Hiền.
Tạp chí hoạt động số 9. Hà Nội. Tr.20-23.
13. Trần Đức Thạnh, 1997. Tác động môi trường của việc lấp cửa, chuyển cửa ở hệ đầm phá Tam Giang
- Cầu Hai. Tài nguyên và môi trường biển, tập IV - Nxb KH - KT. Hà Nội. Tr.185-197.
14. Trần Đức Thạnh và nnk, 1998.Nguyên nhân bồi lấp cửa Tư Hiền ở hệ đầm phá Tam Giang - Cầu
Hai. Tài nguyên và môi trường biển, tập V - Nxb KH - KT.Hà Nội. Tr.28-43.
15. Trần Đức Thạnh, 1999. Risk of Tu Hien Inlet closure in Tam Giang - Cau Hai Lagoon. Journal of
Geology. Series B.No.13-14. Special Issue. Hanoi. p.262a-262b.
16. Tóm tắt tình hình khí tượng, khí tượng nông nghiệp, thủy văn và hải văn tháng 11 năm 1999. Tạp chí
khí tượng - thủy văn. Số 12 (468) 1999. Trang. 42 - 51.
17. Zenkovich V.P., 1963. Về bờ biển nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Hải dương học. Tập III, Quyển
3. ( Tiếng Nga).
18. Zenkovich V.P., 1967. Bờ Thái Bình Dương. Nxb. Nauka. Mascơva. Tr.1-375. ( Tiếng Nga)
8
ABSTRACT
Change in inlets of Tam Giang-Cau Hai Lagoon
From 12 coastal lagoon in the Vietnam Centre, Tam Giang – Cau Hai is most typical and
largest one. It’s great values of natural resources are used for the local economic sectors of
fishery, agriculture, waterway-harbour and tourism-service. The lagoon also takes a very
important function in coastal ecology and environment that influences deeply to the survival
of great number of inhabitants in surrounding. Used values and function of the lagoon are
influenced by the situation of it’s inlets. During its natural evolution, the lagoon has been
being in three inlet situation: one inlet (from 1995-1999, for example), two inlets (from
1990-1994, for example) and many inlets ( from November, 1999 to August, 2000 for
example). In fact, the situation of two inlets is best for lagoonal ecosystem and
environment and social-economical development and the situations of one or many inlets are
serious coastal risks. The enclosure of Tu Hien inlet in the south of lagoon in 1994
strengthened the coastal flood, blocked the waterway to the sea, freshened the lagoon water
and promoted the pollution that led to the degradation of lagoonal ecosystem and strong
decrease of fishery production. Contrarily, the terrible flood in November 1999 created the
situation of five lagoon inlets, which have made the deep changes in lagoonal ecosystem,
environment and infrastructure factors. So far, two from five inlets were enclosed by natural
sedimentation and one embanked by a dam named Hoa Duan. However, a resolution for
the lagoonal inlet control is being searched.
9