Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tài liệu Chương III: Ô nhiễm đất doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.19 KB, 11 trang )

Chương XIII
Ô NHIỄM ÐẤT

1. Khái niệm về ô nhiễm đất
Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, nhiều đô thị và thành phố cũng
được hình thành thì tình hình ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng. Khói thải từ các nhà máy
và các xe cơ giới làm ô nhiễm bầu không khí. Nước thải từ các nhà máy và khu dân cư đô thị làm ô
nhiễm nguồn nước. Khi không khí và nước bị ô nhiễm thì đất cũng bị ô nhiễm.
Trong nông nghiệp, chúng ta đã và đang sử dụng ngày càng nhiều các loại thuốc trừ sâu,
thuốc trừ cỏ và một số phân hoá học, một số trong các loại hoá chất đó cũng có thể gây ô nhiễm
đất. Hàm lượng các chất độc hại đó tích luỹ trong đất tới mức độ nào đó sẽ gây hại cho cây trồng
và vi sinh vật đất, từ đó phá vỡ cân bằng sinh thái giữa đất và các hệ sinh thái khác.
Ô nhiễm đất không những làm giảm khả năng sản xuất của đất mà còn lấy đất làm điểm
xuất phát để ảnh hưởng tới thực vật, động vật và người - một số nguyên tố vi lượng hoặc siêu vi
lượng có tính độc hại tích luỹ lại trong nông sản phẩm từ đó gây tác hại nghiêm trọng đối với
động, thực vật và người.
Ô nhiễm đất còn làm hại đến môi trường khác như nước ngầm, nước mặt, không khí. Ví
dụ, một số chất ô nhiễm có tính hoà tan trong nước, thấm xuống nước ngầm, hoặc có thể bị dòng
nước di chuyển đi nơi khác tạo nên sự ô nhiễm nước trên mặt đất. Gió thổi có thể chuyển chất ô
nhiễm đi xa làm cho diện tích ô nhiễm mở rộng hơn. Bởi vậy, ô nhiễm đất cũng có thể trở thành
nguồn ô nhiễn đối với nước và không khí.
Muốn phòng chống ô nhiễm đất cần tìm hiểu nguồn gốc, số lượng, các dạng, sự di
chuyển, sự chuyển hoá, sự tích luỹ và tiêu tan của các chất gây ô nhiễm.

2. Nguồn gây ô nhiễm
Nguồn gây ô nhiễm đất trước hết là từ nước và không khí, ngoài các chất đặc biệt do núi
lửa phun ra còn có các chất thải trong công nghiệp và sinh hoạt (hơi thải, nước thải, cặn thải,
phân hữu cơ, rác). Tất nhiên, phân hoá học, thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ, các khoáng sản đang khai
thác, các chất phóng xạ cũng đều là các chất ô nhiễm từ bên ngoài vào đất.
2.1. Tưới nước thải công nghiệp làm ô nhiễm đất
Nông dân dùng nước thải công nghiệp từ các nhà máy ra hoặc nước cống thành phố để


tưới cho cây, tuy nước đó có thể làm tăng được một ít năng suất cây trồng nhưng nếu sử dụng
không đúng, lâu dài tích luỹ lại có thể gây ô nhiễm đất, làm giảm độ màu mỡ của đất hoặc gây
ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng phát triển cây trồng cũng như sức khoẻ của con người và gia súc.
Ví dụ, nếu dùng nước của một số nhà máy có chứa muối mặn, chất kiềm hoặc chất axit sẽ làm
cho đất dần dần hoá mặn, hoá kiềm hoặc hoá chua từ đó làm giảm khả năng sản xuất của đất.
Nghiêm trọng nhất có nhà máy thải ra một số nguyên tố kim loại nặng như: Cd, Ni, Cr
Các nhà máy hoá chất, các xưởng sản xuất nông dược thải ra Hg, Pb, As. Các chất này
sau khi tích luỹ trong đất thì khó loại ra, có thể ảnh hưởng xấu cho cây. Do hoạt động của vi sinh
vật, chúng có thể bị tiêu tan dần, nhưng dù chỉ nằm trong đất một thời gian ngắn vẫn gây độc hại.
Những vùng mỏ đang khai thác như mỏ pyrit (FeS
2
), mỏ than chứa lưu huỳnh (S), sau
oxy hoá sẽ sinh ra H
2
SO
4
làm cho môi trường rất chua, ảnh hưởng xấu đến đất. Ðất bị nhiễm lưu
huỳnh ban đầu trở nên chua nhiều làm giảm năng suất cây trồng, sau đó còn sinh ra các muối
như sunphat sắt, nhôm hoặc mangan, bị các chất hữu cơ trong đất khử oxy tạo thành các hợp
chất sunphit lưu lại trong đất tiếp tục gây hại dưới dạng axit hoặc dạng lưu huỳnh.
2.2. Một số chất khí thải làm ô nhiễm đất
Thường gặp nhất là SO
2
hoặc HF do các nhà máy thải ra. Chất thứ nhất sinh ra axit
H
2
SO
4
, chất thứ hai sinh ra axit HF. Chúng được nước mưa kéo xuống đất. Chất đầu có thể cho
một vùng đất bị chua, chất sau có thể làm cho hàm lượng flo hoà tan trong đất tăng lên có hại

cho sức khoẻ của người và gia súc.
2.3. Các chất phế thải của công nghiệp làm ô nhiễm đất
Các chất thải của các nhà máy và hầm mỏ thường chứa một số kim loại nặng hoặc một số
chất độc dạng hữu cơ và dạng axit, dạng bazơ hoặc các muối khác làm cho đất bị ô nhiễm ở các
kiểu khác nhau. Vấn đề này rất phổ biến ở các thành phố và khu công nghiệp lớn.
2.4. Nông dược và phân bón làm ô nhiễm đất
Các hợp chất clo hữu cơ trong nông dược dễ tồn lưu lại trong đất, nếu sử dụng liều lượng
lớn và liên tục nhiều năm có thể gây ô nhiễm đất. Trong sản xuất phân hoá học, do nguyên liệu
không tinh khiết có thể đem lại một số nguyên tố có hại như công nghiệp sản xuất phân lân liên
tục với số lượng nhiều sẽ làm cho hàm lượng các nguyên tố Cd, As tăng lên gây ô nhiễm đất.
Nếu dùng phân đạm dạng cyanamit canxi (CaCN
2
) có thể tồn lưu trong đất gây hại cho cây
trồng.
2.5. Các chất phóng xạ làm ô nhiễm đất
Các chất phóng xạ tồn tại trong đất thường là K
40
, Ra
87
, C
14
. Hiện nay người ta đã tìm
thấy nhiều nguyên tố khác nhập vào đất nhưng trong đó chỉ có Sn
90
và Cs
137
là hai chất phóng xạ
bền vững ở trong đất, chu kỳ bán huỷ của chúng là 28 và 30 năm. Theo tài liệu của Mỹ thì trong
đất Mỹ Sn
90

và Cs
137
có khoảng 150 và 240 milicuri trên 1 cây số vuông Anh. Hàm lượng K
40
tự
nhiên bình quân khoảng 20000 milicuri.
Nói chung sự ô nhiễm của các chất đó đối với đất chưa nghiêm trọng nhưng nếu có các
chất phóng xạ do vũ khí nguyên tử phóng ra thì đất sẽ bị ô nhiễm nặng.
2.6. Các chất thải trong sinh hoạt làm ô nhiễm đất
Ở các vùng dân cư đông đúc như các thành phố lớn, có nhiều chất thải sinh hoạt tập trung
trong các cống rãnh hoặc các bãi rác chưa được xử lý, trong quá trình phân giải xác hữu cơ có
thể sinh ra một số chất làm ô nhiễm đất, nhất là khi nông dân dùng nước bẩn đó để tưới hoặc
dùng các loại phân hữu cơ chưa được xử lý đầy đủ.
3. Các nguyên tố gây độc và sự chuyển hoá của chúng trong đất
Sự ô nhiễm của các nguyên tố kim loại nặng có tính chất "bán vĩnh cửu", vì vậy nếu đất
mới bị ô nhiễm thì khó loại trừ. Nếu các nguyên tố vi lượng cần cho cây như Cu, Cr, As, Zn vượt
quá giới hạn nhất định sẽ độc cho cây và ô nhiễm đất. Trong đó có Cd và As là độc nhất; Hg, Pb
và Ni là loại độc vừa; còn B, Cr, Mn và Zn thì ít độc hơn. Sự tích luỹ và di chuyển các nguyên tố
trên phụ thuộc các điều kiện sau:
+ Tác dụng giữa các hợp chất có nguyên tố kim loại nặng với đất
+ Ðộ pH của đất
+ Ðiện thế oxy hoá khử của đất
Tác dụng này bao gồm sự trao đổi ion, kết tủa hoá học, thuỷ phân, tạo phức có trường
hợp xảy ra đơn độc, có trường hợp liên quan lẫn nhau (bảng 13.1)
3.1. Asen (As)
Trong đất, asen thường tồn tại ở dạng axit bao gồm muối của axit asenic (As hoá trị 5) và
bất cứ As ở dạng vô cơ hoặc hữu cơ đều độc hại, tuy dạng hữu cơ ít độc hơn nhưng ở trong đất
dễ chuyển thành dạng vô cơ. Hàm lượng As trong đất từ 2 - 13 ppm phụ thuộc vào thành phần đá
mẹ, hàm lượng chất hữu cơ và thành phần cơ giới đất. Theo tài liệu của Mỹ, hàm lượng bình
quân của As trong đất Mỹ bị nhiễm As là 165 ppm, cao nhất có thể tới 263 ppm.

Bảng 13.1: Các chất chủ yếu làm ô nhiễm đất và nguồn gốc của chúng
Dạng
Chất ô nhiễm Nguồn gốc chủ yếu
Chất ô
nhiễm
vô cơ
As Nông dược chứa As, H
2
SO
4
, y dược, nước thải công nghiệp
thuỷ tinh
Cd Luyện kim, mạ điện, xưởng thuốc nhuộm, hơi thải chứa Cd
Cu Luyện kim, công nghiệp chế đồ đồng, nông dược chứa chất đồng
Cr Luyện kim, mạ, nước thải xưởng in và nhuộm
Hg Xưởng sản xuất hợp chất có chứa Hg, nông dược chứa thuỷ ngân
Pb Nước thải luyện kim, nông dược
Zn Nước thải luyện kim, xưởng dệt, nông dược chứa Zn, phân lân
Ni Nước thải luyện kim, mạ, luyện dầu, thuốc nhuộm
F Nước thải sau khi sản xuất phân lân
Muối kiềm Nước thải nhà máy giấy, nhà máy hoá chất
Axit Nước thải nhà máy sản xuất H
2
SO
4
, đá dầu, mạ điện
Chất ô
nhiễm
hữu


Phenol
Công nghệ hoá dầu, sản xuất benzen-phenol, cao su, nông dược
Hợp chất xyanua
Mạ, luyện kim, in ấn, phân bón
C
12
H
22
Nước thải công nghiệp đá dầu
Ðá dầu
Khai thác đá dầu, luyện dầu, ống dẫn dầu bị rò
Nông dược hữu cơ
Sản xuất nông nghiệp và sử dụng
Các chất huyền phù
hữu cơ có N
Nước cống rãnh thành phố, thực phẩm, công nghiệp giấy, công
nghiệp xellulo
Gốc axit asenic kết hợp với Ca, Al, Fe tạo thành các hợp chất không tan như Ca
3
(AsO
4
)
2
,
AlAsO
4
, FeAsO
4
. Tích số hoà tan của chất đầu là 6,8.10
-19

, của 2 chất sau là 5,7. 10
-24
do đó chất
đầu độc hại hơn 2 chất sau. Bởi vậy, nếu ta bón các muối sunphat sắt nhôm (phèn chua) vào đất
bị ô nhiễm As có thể giải độc As dần dần do nguyên nhân nói trên.
Ðiều cần lưu ý là cùng một loại đất và cùng bón thử một lượng As như nhau nhưng lượng
As tích luỹ trong bột gạo cao hơn trong bột mỳ. Kết quả thí nghiệm ở đất vùng Tân Trạch (Trung
Quốc) cho thấy hàm lượng As
2
O
3
trong rơm rạ cao hơn trong hạt thóc 10 - 20 lần vì vậy cần lưu
ý lúc sử dụng rơm rạ ở vùng đất có ô nhiễm As làm thức ăn cho trâu bò.
3.2. Cadimi (Cd)
Bản thân nguyên tố Cd không độc nhưng hợp chất của nó thì độc hại nhiều. Hàm lượng
Cd trong đất khoảng 0,5 ppm. Ðất Nhật Bản bị ô nhiễm Cd rất nặng, họ quy định nếu đất chứa
dưới 2 ppm là không độc.
Trong đất ô nhiễm các nguyên tố kim loại nặng, hàm lượng Cd có quan hệ với hàm lượng
Zn và Pb, nếu Cd nhiều thì Zn và Pb cũng nhiều.
Tầng đất mặt ở các vùng lân cận nhà máy luyện kẽm có thể chứa 1700 ppm Cd. Cd trong
đất có thể ở dạng hoà tan trong nước (dạng ion và phức chất) và dạng không tan trong nước (dạng
hấp phụ, dạng kết tủa và dạng phức tạp khó tan). Hai dạng này có thể chuyển hoá lẫn nhau tuỳ điều
kiện môi trường. Cd gây độc hại cho cây chủ yếu ở dạng hoà tan trong nước.
Trong môi trường chua, độ tan của Cd tăng, độ độc sẽ tăng, trong môi trường kiềm, tạo
thành kết tủa Cd(OH)
2
, vì vậy trong đất có phản ứng cacbonat hoặc đất bón nhiều vôi thì độ độc
hại của Cd sẽ giảm. Ðộ hoà tan của các hợp chất Cd theo thứ tự như sau: hợp chất Cd với S <
hợp chất Cd với OH < hợp chất Cd với cacbonat.
Ðiều kiện oxy hoá khử là yếu tố xúc tiến sự chuyển hoá các hợp chất Cd.

Cây lúa bị ô nhiễm Cd thì trong gạo có thể chứa trên 1 ppm, nếu ăn liên tục nhiều năm
loại gạo này con người sẽ bị bệnh đau xương. Cây trồng khác nhau thì lượng hút Cd và tồn lưu
cũng khác nhau. Nói chung ở các loại mạch nhiều hơn ở cây họ đậu, cây họ đậu nhiều hơn cây
lúa, cây rau hút Cd ít, cây ăn củ hút tương đối nhiều Cd. Gạo chứa > 1ppm, tiểu mạch: 1 - 3,5
ppm, đỗ tương: 1 ppm, cà: 0,27 ppm, cà rốt: 0,2 ppm, khoai tây: 0,2 ppm, cải bắp: 0,1 ppm,
hành: 0,1 ppm, dưa chuột: 0,15 ppm và nho: 0,06 ppm.
3.3. Crom (Cr)
Theo tài liệu nước ngoài, một số đất bị ô nhiễm nặng, hàm lượng Cr có thể đến 4600
ppm. Một số đất trồng ở Trung Quốc hiện nay có hàm lượng Cr từ 17 - 270 ppm, bình quân là 80
ppm.
Cr trong đất phần lớn ở dạng hợp chất oxit không tan. Keo đất có khả năng hấp phụ Cr
3+

tương đối mạnh, Fe
2
O
3
.nH
2
O và Al
2
O
3
.nH
2
O cũng hấp phụ nhiều Cr
2
O
7
2-

. Trong keo sét, Al trong
khối tám mặt của phiến gipxit có thể trao đổi với Cr
3+
và như thế Cr trở thành nguyên tố cấu tạo
tinh thể keo khoáng. Bởi vậy, Cr trong đất rất khó tan, cây khó hút. Kết quả thí nghiệm trong
chậu của Ðại học Nông nghiệp Triết Giang Trung Quốc về tưới nước nhiễm Cr đã phát hiện 85 -
99% Cr tồn lưu lại trong đất và hầu như toàn bộ nằm trong tầng đất mặt 0 - 5 cm.
Ðộ pH và trạng thái oxy hoá khử của đất có thể làm thay đổi trạng thái hợp chất Cr.
Trong đất trung tính hoặc kiềm Cr
3+
sẽ kết tủa ở dạng Cr(OH)
3
. Khi Eh thấp thì Cr
6+
bị khử thành
Cr
3+
.
Loại cây khác nhau hút Cr
6+
và Cr
3+
cũng khác nhau. Ví dụ cây thuốc lá hút có tính chọn
lọc Cr
6+
, cây ngô không hút Cr
6+
, cây lúa hút cả Cr
6+
và Cr

3+
nhưng bất cứ lúa xuân hoặc lúa mùa
đều hút Cr
6+
nhiều hơn Cr
3+
. Trong các bộ phận cây lúa thì hàm lượng Cr
3+
ở rơm rạ lớn hơn
trong vỏ trấu và thấp nhất là ở gạo.
3.4. Chì (Pb)
Chì gây ô nhiễm môi trường là do một chất chứa chì trộn lẫn vào xăng có tên gọi là
tetraethyl chì Pb(C
2
H
5
)
2
. Chất này được đốt cháy cùng với xăng tạo thành chất khí PbCl
2
, PbBr
2

và một ít PbO sau đó thải ra ngoài gây ô nhiễm không khí rồi rơi xuống đất làm ô nhiễm đất.
Càng gần đường giao thông thì đất ô nhiễm chì càng nhiều. Phần lớn chì phóng ra trong phạm vi
33 cm kể từ lề đường. Càng xuống sâu tỷ lệ chì càng giảm chứng tỏ độ hoạt hoá của chì rất kém.
Trong môi trường trung tính hoặc kiềm chì tạo thành PbCO
3
hoặc Pb
3

(PO
4
)
2
ít hoà tan,
cây khó hút vì vậy trong đất có phản ứng cacbonat hoặc trong đất trung tính vấn đề ô nhiễm chì
không đáng kể. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khả năng hấp phụ chì của keo sét cao hơn 2 - 3 lần
hấp phụ canxi. Chất hữu cơ cũng hấp phụ chì mạnh. Vì tính di động của chì kém nên cây bị ô
nhiễm có lẽ do chì trong không khí là chủ yếu.
3.5. Thuỷ ngân (Hg)
Ở Nhật Bản đất bị ô nhiễm thuỷ ngân rất nặng. Từ 1953 - 1967 trên toàn bộ đất canh tác
Nhật Bản đã sử dụng hơn 6800 tấn thuỷ ngân, hàm lượng thuỷ ngân trong gạo từ 0,02 ppm
(1946) tăng lên 0,15 ppm (1966) vì thế ở Nhật bắt đầu ngừng và hạn chế bón thuỷ ngân.
Hợp chất thuỷ ngân vô cơ vào đất có thể bị hút và giữ chặt vì keo sét và keo hữu cơ hấp
phụ thuỷ ngân mạnh, Fe(OH)
3
và Al(OH)
3
có thể hút các anion HgCl
3-
và HgCl
4
2-
. Một số keo có
thể hấp phụ vật lý đối với thuỷ ngân ở dạng phân tử HgCl và Hg
2
Cl
4
. Mặt khác, tác dụng kết tuả
hoá học của thuỷ ngân vô cơ trong đất rất mạnh, tạo thành các hợp chất hydroxyl thuỷ phân,

muối phosphat, muối cacbonat và HgS đều khó tan, vì vậy thuỷ ngân vô cơ ít độc đối với cây.
Nhưng khi hợp chất thủy ngân bị khử oxy thành thủy ngân kim loại, sau đó xuất hiện dưới dạng
hơi thuỷ ngân (như lúc núi lửa hoạt động) có thể qua khí khổng ở lá mà nhập vào cây.
Dưới tác dụng của vi sinh vật yếm khí, hợp chất thuỷ ngân vô cơ có thể chuyển thành
dạng thuỷ ngân hữu cơ. Trong đất trũng lầy nhờ tác dụng của vi sinh vật yếm khí có thể tạo ra
Hg(CH
3
)
2
và ion CH
3
Hg
+
theo phản ứng:
Hg
2+

→
Men
(CH
3
)
2
Hg → CH
3
Hg
+
CH
3
Hg

+
hoà tan trong nước có thể bị cây hút, bởi vậy trong điều kiện đất lúa ngập nước
nếu chứa thuỷ ngân sẽ gây độc cho cây.
Trong đất cạn, lượng thuỷ ngân dễ tiêu rất ít, nhưng sau ngập nước thì thuỷ ngân dễ tiêu
tăng lên, ví dụ một loại đất đá vôi khi khô phân tích Hg dễ tiêu rất ít hoặc không có nhưng sau
ngập nước 7 ngày, Eh giảm xuống 328 mV thì thuỷ ngân dễ tiêu tăng lên 0,05 ppm, sau đó giảm
dần xuống 0,02 - 0,01 ppm, vì thế cây lúa nước bị ô nhiễm thuỷ ngân rõ hơn tiểu mạch.
Theo tiêu chuẩn vệ sinh quy định về hàm lượng Hg trong lương thực không được vượt
quá 0,02 ppm

3.6. Flo (F)
Tuy không phải là nguyên tố kim loại nặng nhưng tính độc hại của nó cũng tương tự.
Vùng không khí bị ô nhiễm flo (F
2
và HF) thì hàm lượng F trong đất tăng. Trong đất cạn có phản
ứng trung tính hoặc kiềm, hợp chất của flo (như CaF
2
) có độ hoà tan rất bé nên cây khó hút.
Trong đất cát và đất chua, F dễ bị cây hút hơn. Kết quả thí nghiệm cho thấy: lúc trong đất chứa
500 ppm F sẽ ức chế cây đậu tằm và cây cà rốt. Cây sống trên đất nhiều F có hàm lượng F trong
các bộ phận cũng khác nhau (rễ > lá > hạt). Nếu bầu không khí nhiễm F sẽ ảnh hưởng rõ đến
cây,
Bảng 13.2: Ảnh hưởng của F ô nhiễm đất và không khí đối với hàm lượng F trong các bộ
phận cây đậu tằm (ppm)
Công thức xử lý Hạt Lá Rễ
Ðất được bón 500 ppm F
Ðất được bón 500 ppm F + ô nhiễm không khí
0
1,5
20

820
35
248

4. Nông dược và phân bón tồn lưu trong đất và sự chuyển hoá của chúng
4.1. Sự tồn lưu và chuyển hoá của nông dược trong đất
Sự ô nhiễm nông dược đã gây ảnh hưởng xấu cho người và gia súc nên người ta rất chú
trọng. Có thể chia nông dược ra 3 loại như sau: hợp chất kim loại nặng (chứa Pb, As và Hg);
thuốc trừ sâu dạng lân hữu cơ và thuốc trừ cỏ.
Thành phần hoá học và tính bền vững của các loại nông dược rất khác nhau, sự chuyển
hoá của chúng ở trong đất cũng khác nhau.
Nông dược gây ô nhiễm chủ yếu là clo hữu cơ (như DDT, 666) và các hợp chất kim loại
nặng, do tính chất của chúng ổn định khó phân huỷ. Thuốc trừ cỏ, lân hữu cơ phần lớn bị vi sinh
vật phân giải, thời gian tồn lưu trong đất ngắn nhưng chúng gây độc hại nhiều cho cá và các
động vật hoang dã. Sự ô nhiễm của nông dược đối với môi trường đã làm ảnh hưởng xấu cho
môi trường sinh thái, vì vậy phải tìm cách phòng chống.
* Sự tồn lưu nông dược trong đất
+ Tính tồn lưu của nông dược
Do đặc tính lý hoá của bản thân nông dược cùng với tác dụng tổng hợp của các yếu tố
ảnh hưởng làm tiêu tan nông dược cho nên tính tồn lưu của chúng ở trong đất khác nhau nhiều.
Bảng 13.3 cho biết thời gian cần cho một loại nông dược ở trong đất tiêu tan một nửa (thời gian
bán hủy). Nếu nông dược nào có thời gian bán hủy trên một năm thì gọi là nông dược có tính tồn
lưu.
Bảng 13.3. Thời gian tồn lưu trong đất của một số nông dược
Loại nông dược
Thời gian bán huỷ (năm)
Hợp chất kim loại nặng (Pb, As, Cu, Hg)
Clo Hữu cơ (666, DDT)
Thuốc trừ cỏ
2,4D và 2,4,5-T

Thuốc trừ sâu dạng lân hữu cơ
Thuốc trừ sâu có gốc ammon
10 - 30
2 - 4
1 - 2
- 0,4
0,02 - 0,2
0,02
Các yếu tố ảnh hưởng đến tính tồn lưu của nông dược là thành phần cơ giới, hàm lượng
mùn, độ pH, độ ẩm, trạng thái vi sinh vật đất, chế độ canh tác, loại cây trồng Thí dụ nghiên cứu
DDT cho thấy trong điều kiện yếm khí chất này chuyển ra dạng DDD nhanh hơn nhiều so với
khi chuyển ra dạng DDE trong điều kiện hảo khí, đặc biệt nếu bón phân xanh vào thì phân giải
càng nhanh. Từ đó ta thấy rằng với các chế độ canh tác khác nhau thì tính tồn lưu nông dược
cũng khác nhau.
Do tốc độ phân huỷ của DDD và DDE rất chậm cho nên dù đã đình chỉ sử dụng DDT
nhưng chúng vẫn tồn lưu lâu dài ở trong đất. Số lượng nông dược tồn lưu trong đất được gọi là
"tồn dư" tính theo đơn vị mg/kg đất hoặc ppm.
+ Ảnh hưởng của sự tồn tại nông dược
Sau phân giải thì tính độc của một số nông dược càng tăng. Ví dụ thuốc trừ cỏ 2,4,5-T ở
trong đất bị vi sinh vật phân giải tạo thành một số chất có thể gây nên quái thai động vật. Năm
1970 ở Mỹ đã công bố hạn chế sử dụng nông dược này, ở Nhật năm 1965 đã chế ra một loại
rượu chống được bệnh đạo ôn không có hại cho lúa nhưng khi sử dụng rơm rạ đã xử lý bằng
rượu này để ủ phân thì vi sinh vật phân giải và tạo ra hai chất có hại cho cây, vì hai chất đó có
đặc tính hoá học ổn định:
Cl
Cl
Cl
Cl
Cl
CH

2
OH
Cl
Cl
Cl
Cl
COOH
Cl Cl
Cl
COOH
2,3,4,5,6 Pentachlobenzylic
2,3,5,6 axit Tetrachlobenzoic
2,3,6 axit Trichlobenzoic
(§éc h¹i cho c©y)
R îu chèng ®¹o «n (kh«ng h¹i cho c©y)
+
Vi sinh vËt
Một số nông dược tồn lưu trong đất cây hút sẽ tồn lưu trong cây. Một số cây trồng có thể
tích luỹ nông dược. Ví dụ rơm rạ của cây lúa sống trên đất ô nhiễm 666 có hàm lượng 666 nhiều
hơn 4 - 6 lần so với trong đất. Cây có dầu như lạc, hạt lạc có thể chứa clo hữu cơ nhiều hơn ở
trong đất 3 - 4 lần do đó có ảnh hưởng xấu đến con người.
Các loại cây như khoai tây, cà rốt, cải củ có lớp biểu bì ở rễ có thể hút trực tiếp sau đó
qua tác dụng thẩm thấu vào trong cây tạo thành nông dược tồn lưu. Một số cây như dưa chuột,
ngô thì qua rễ nông dược được vận chuyển lên các bộ phận của cây trên mặt đất như thân, lá,
quả, hạt.
Nồng độ nông dược tồn lưu trong đất có ảnh hưởng tới khả năng hút nông dược của rễ
cây. Trong phạm vi nồng độ thấp thì lượng hút tương quan thuận với nồng độ nông dược trong
đất.
Ngoài ra loại nông dược khác nhau thì cây hút được cũng khác nhau.
Thuốc trừ sâu còn ảnh hưởng rất xấu tới động vật và vi sinh vật đất. Ví dụ, DDT có thể

giết chết 99% động vật bé ở trong đất, nếu muốn phục hồi phải mất 2 năm. Sau khi dùng nông
dược, các tuyến trùng, vi khuẩn và nấm sẽ giảm số lượng, tuy chúng sẽ được phục hồi nhưng vẫn
ảnh hưởng đến độ màu mỡ của đất đặc biệt là những đất dùng nhiều nông dược và dùng liên tục.
Các nông dược có thể bị các động vật hút giữ lại trong đất ví dụ lượng DDT trong cơ thể
giun đất nhiều gấp 1,18 - 4,86 lần trong đất, nơi nó sống.
Sự biến hoá vi sinh vật, động vật trong đất tất nhiên sẽ gây nên sự biến hoá độ màu mỡ
và chế độ dinh dưỡng trong đất.
* Sự chuyển hóa nông dược trong đất
Nông dược trong đất chuyển hoá theo các con đường sau đây:
+ Bay hơi
Một số nông dược có tính bay hơi như thuốc trừ cỏ (EPTA, CDEA) và thuốc trừ sâu,
chúng bốc hơi ở tầng đất mặt. Tuy nhiên thuốc trừ sâu dạng lân hữu cơ có áp suất bay hơi bé
nhưng nó bốc hơi từ trong đất rất rõ: khi bốc hơi kéo dài và gặp mưa, 2 dòng đối lưu đó sẽ làm
cho phân tử thuốc bay hơi và cuối cùng trở lại mặt đất. Theo tính toán, trên diện tích 1 km
2
mỗi
năm có thể tích luỹ 20 g DDT.
+ Hoà tan, rửa trôi và chảy tràn
Loại nông dược có tính hoà tan mạnh ở trong nước (như 2,4D) dễ di động và rửa trôi ra
khỏi đất gây ô nhiễm nước trên mặt đất và nước ngầm. Nói chung, thuốc trừ cỏ dễ rửa trôi hơn
thuốc trừ sâu và thuốc diệt khuẩn. Nếu loại thuốc nào bị đất hút chặt thì không di chuyển theo
phẫu diện xuống dưới nhưng khi mưa to hoặc sau tưới sẽ theo nước nhập vào mặt đất rồi lắng
xuống cùng bùn, nếu dùng bùn đó bón ruộng thì đất bị ô nhiễm. Nước chảy tràn trên mặt có thể
hoà tan và di chuyển một số nông dược vì vậy sau khi sử dụng nông dược 1 - 2 ngày nếu trời
mưa to thì nước xung quanh vùng đó dễ bị ô nhiễm gây hại cho người và cây.
+ Ánh sáng phân giải
Mặt đất chịu bức xạ của mặt trời, tia tử ngoại có tác dụng phân giải một số thuốc trừ cỏ
và DDT. Tốc độ phân giải thường chậm.
+ Tác dụng hoá học
Thuốc trừ sâu dạng lân hữu cơ bị tiêu tan chủ yếu do tác dụng phân giải theo con đường

hoá học có xúc tác và không có xúc tác. Phản ứng không xúc tác bao gồm thuỷ phân, oxy hoá,
ion hoá và hình thành muối. Cơ chế xúc tác trong đất chưa được sáng tỏ, chủ yếu phụ thuộc vào
tính chất nông dược. Nồng độ ion H
+
xung quanh keo sét ảnh hưởng rõ đến phân giải hoá học.
Ngược lại, sự tồn tại của chất hữu cơ sẽ cản trở tác dụng phân giải hoá học.
+ Tác dụng phân giải của vi sinh vật
Ðây là con đường tự hoại quan trọng của nông dược trong đất. Các yếu tố ảnh hưởng đến
sự hoạt động của vi sinh vật như nhiệt độ, ẩm độ, hàm lượng mùn, điện thế oxy hoá khử (Eh) và
độ pH đều ảnh hưởng đến tốc độ phân giải.
+ Tác dụng hấp phụ nông dược của đất
Chủ yếu là hấp phụ lý học, hấp phụ trao đổi ion. Hấp phụ trao đổi ion bao gồm:
- Hấp phụ anion: trong phân tử nông dược có các gốc OH, NH
2
, NHR và CONH
2
chúng
có thể bị keo dương trong đất hút. Hiện tượng này rõ nhất ở đất giàu sắt, nhôm như đất đỏ
(Ferralsols).
- Hấp phụ cation: khi nông dược phân ly ra cation hoặc tồn tại ở dạng cation chúng có thể
trao đổi với những cation trên bề mặt keo sét hoặc keo hữu cơ, kết quả là cation của nông dược
được hút bám trên keo. Tác dụng hấp phụ cation này phụ thuộc vào hàm lượng mùn và thành
phần cơ giới đất (đất sét > đất thịt > đất cát). Mùn càng nhiều thì hấp phụ càng mạnh.
Tác dụng hấp phụ nông dược của đất chẳng những hạn chế sự di động của nông dược mà
còn làm yếu sự phân giải hoá học và tốc độ phân giải của vi sinh vật. Vì thế khi hấp phụ càng
nhiều thì lượng tồn lưu nông dược trong đất càng nhiều.

4.2. Sự tồn lưu và chuyển hoá của phân bón trong đất
* Sự tồn lưu của phân bón trong đất
Phân hoá học phổ biến được sử dụng trên thế giới là phân đạm, phân lân và phân kali.

Phân đạm chủ yếu là urê, amonisunphat, amonclorua, amoninitrat Phân lân chủ yếu là
superphosphat, tecmophosphat, phosphorit Phân kali chủ yếu là kali clorua, kali sunphat Phân
bón là một trong những yếu tố quan trọng làm tăng năng suất cây trồng, nhưng cũng có những
mặt trái, đặc biệt ở những vùng thâm canh cao bằng phân hoá học, sử dụng không cân đối phân
N, P, K và các loại phân hữu cơ và phân vi lượng khác. Hiện tượng có thể gặp là sự hoá chua của
đất, kết cấu đất bị kém đi, sự tích đọng kim loại nặng (Pb, Cd, Cu, Zn, Ni ) và NO
3
-
, NH
4
+

trong đất, nước.
Sự tồn lưu của phân bón trong đất khác nhau tuỳ thuộc loại phân sử dụng.
+ Ðối với phân đạm: phần lớn phân đạm dễ tan, ngoài phần cây trồng sử dụng, phần còn
lại trong đất tham gia vào các quá trình chuyển hoá khác nhau trong đất và được giữ lại chủ yếu
ở dạng NO
3
-
và NH
4
+
. NH
4
+
được keo đất giữ, trong điều kiện oxi hoá NH
4
+
dễ dàng bị nitrat hoá
để hình thành NO

3
-
. Theo Viện Tài nguyên thế giới, đến năm 1993 quỹ đất của thế giới là 13.042
triệu ha. Như vậy, theo mức sử dụng phân đạm năm 1995 của thế giới là 91 triệu tấn N và hiệu
suất sử dụng đạm của cây trồng khoảng 50% thì mỗi ha đất sẽ chứa khoảng 15 kg NO
3
-
. Diện
tích đất trồng trọt bằng 20,6% quỹ đất, vì vậy lượng NO
3
-
tích luỹ trong đất trồng trọt tăng lên 5
lần, khoảng 75 kg/ha. Nếu tính lượng đất trong 1 ha có chứa NO
3
-
ngấm sâu 0,5m thì sau 1 năm
sử dụng phân đạm hoá học, lượng NO
3
-
tích luỹ trong đất khoảng 7,5 - 8,0ppm. Tuy nhiên do
NO
3
-
ít được keo đát giữ và sự hấp phụ hoá học xảy ra với ion này rất yếu nên quá trình rửa trôi
theo nước mặt và thấm sâu, cộng với quá trình phản nitrat hoá làm hàm lượng NO
3
-
trong đất
giảm nhiều sau một năm canh tác.
+ Ðối với phân lân: khác với phân đạm, phân lân ít bị mất đi trong quá trình sử dụng.

Ngoài phần P cây hút và một phần nhỏ dễ hoà tan bị mất đi theo dòng chảy, phần lớn lân tồn tại
ở trong đất ở dạng các hợp chất khó tan với Ca, Al và Fe. Ngoài ra, trong điều kiện đất vùng
nhiệt đới chua nhiều, một phần P bị giữ chặt do hấp phụ lý hoá học bởi các keo dương. Ðây
chính là lý do tại sao hàm lượng lân tổng số trong một số loại đất tăng lên nhiều trong những
năm gần đây do bón phân lân liên tục. Tồn dư của P trong đất tuy không ảnh hưởng xấu đến môi
trường, nhưng sự cố định lân quá mạnh của một số loại đất làm giảm hiệu suất sử dụng của phân
lân.
+ Ðối với phân kali: Khác với phân lân, phân kali dễ tan hơn. Tồn dư của kali trong đất
không gây độc cho đất và môi trường. Kali tồn lưu này có thể tồn tại ở trong đất dưới các dạng
khác nhau tuỳ thuộc vào lượng tồn dư và loại đất. Một phần kali tồn lưu có thể hoà tan tồn tại
trong nước, phần kali này dễ bị rửa trôi khỏi đất hoặc dễ dàng được cây hấp thụ. Phần lớn kali
tồn lưu được keo đất hấp phụ ở dạng kali trao đổi hoặc kali nằm sâu trong khe hở giữa các lớp
tinh thể của keo sét. Ðặc biệt các đất có chứa nhiều hydromica sự hấp phụ và cố định kali càng
mạnh. Khác với lân, kali sau khi được đất hấp phụ hoặc cố định trong các khe hở của keo sét có
thể chuyển thành kali dễ hoà tan và kali trao đổi để cung cấp cho cây.
* Sự chuyển hoá của phân bón trong đất
Phân bón trong đất chịu tác động của những chuyển hoá chính sau:
+ Quá trình điện ly, ví dụ sự điện ly của amonisunphat
(NH
4
)
2
SO
4
D 2NH
4
+
+ SO
4
2-

+ Quá trình hoà tan, ví dụ sự hoà tan của superphosphat
Ca(H
2
PO
4
)
2
+ H
2
O → Ca
2+
+ 2H
2
PO
4
-
+ H
2
O
+ Quá trình thuỷ phân, ví dụ sự thuỷ phân ure để hình thành NH
3
CO(NH
2
)
2
+ 2H
2
O D (NH
4
)

2
CO
3
(NH
4
)
2
CO
3
D 2NH
4
+
+ CO
3
2-
+ Quá trình nitrat hoá
Nitrosomonas
2NH
4
+
+ 3O
2
2NO
2
-
+ 4H
+
+2H
2
O + Q

Nitrono monas
2NO
2
-
+ O
2
2NO
3
-
+ Q
+ Quá trình phản nitrat hoá
NO
3
-
→ NO
2
-
→ NO → N
2
O → N
2
+ Quá trình hấp phụ trao đổi, ví dụ sự hấp phụ trao đổi kali

H
+
Ca
2+
+ 3 KCl

K

+
K
+
K
+
+ HCl + CaCl
2
+ Quá trình kết tủa
Ca(H
2
PO
4
)
2
+ Ca(HCO
3
)
2
→ 2CaHPO
4
+ 2H
2
CO
3

5. Tình hình ô nhiễm đất Việt Nam hiện nay
5.1. Ô nhiễm đất do sử dụng phân hoá học
Theo báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam năm 1999, ở Việt Nam, 80% phân bón hoá
học dành cho lúa, lượng NPK bón còn thấp. Năm 1980 toàn bộ phân bón cả nước qui ra đơn vị
dinh dưỡng nguyên chất là 129.000 tấn, đến năm 1998, đỉnh cao của phân hoá học đã dùng (qui

ra nguyên chất) là 636.000 tấn.
Nếu tính trên mỗi ha: năm 1970 tổng lượng NPK đã bón 51,3 kg/ha (tỷ lệ N: P
2
O
5:
K
2
O =
1,0: 0,61: 0,24); bình quân năm từ 1976 - 1980 đã bón 36,5 kg/ha (tỷ lệ N: P
2
O
5:
K
2
O = 1,0: 0,36:
0,15); bình quân từ năm 1981 - 1985 đã bón 62,7 kg/ha (tỷ lệ N: P
2
O
5:
K
2
O=1,0: 0,29: 0,07). So
với bình quân thế giới vào thời gian ấy là 95,5 kg/ha (tỷ lệ N: P
2
O
5:
K
2
O = 1,0: 0,8: 0,35) thì mức
bón và lượng P, K còn rất thấp. Ở trung du và miền núi lại càng thấp.

Năm 1997 đã bón 126,1 kg/ha, xấp xỉ mức trung bình của thế giới, nhưng còn thấp hơn
nhiều so với Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc. Tuy nhiên ở một số vùng thâm canh tăng vụ
cao thì lượng phân bón có thể được sử dụng nhiều hơn.
Tuy chưa gây ra những tác động ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nhưng việc bón phân
vô cơ đơn độc liên tục đã ảnh hưởng đến sự chua hoá ở tầng canh tác. Một số vùng sử dụng đạm
nhiều có liên quan với sự tích luỹ NO
3
-
trong nước. Theo kết quả điều tra của Bộ Y tế, 20% số
giếng khoan ở vùng biển có chứa đến 10 mg NO
3
-
/lít nước, 13,8% số giếng khơi ở vùng đồng
bằng có chứa hơn 7 mg NO
3
-
/lít nước.
5.2. Ô nhiễm đất do sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và diệt cỏ
Những loại thuốc chính được sử dụng là: thuốc diệt sâu, diệt cỏ, diệt nấm, diệt chuột, diệt
giun tròn
Thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng ở nước ta trong những năm qua thuộc 4 nhóm chính:
clo hữu cơ, lân hữu cơ, cacbamat và pyrethroid, trong đó thuốc nhóm lân hữu cơ trong những
năm gần đây chiếm 60%.
Khối lượng thuốc bảo vệ thực vật ở nước ta sử dụng không nhiều trong vòng 10 năm gần
đây, tính bình quân chỉ đạt 0,3 - 0,4 kg hoạt chất /ha/năm. Năm cao nhất cũng chỉ đạt 0,6 - 0,7 kg
hoạt chất/ha/năm. Năm 1990 dung 0,2 kg hoạt chất/ha/năm. Tuy nhiên, nếu dùng không đúng
vẫn gây ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí.
Cần rất chú ý vì hiện nay người dân vẫn sử dụng một số loại thuốc mà thế giới đã hạn chế
hoặc cấm sử dụng vì rẻ tiền. Việc sử dụng thuốc chưa tuân thủ chặt chẽ qui chế và qui trình sử
dụng trong khi đó một số loại thuốc có thể tồn tại trong đất khá lâu.

5.3. Ô nhiễm đất do ảnh hưởng của nước thải thành phố, khu công nghiệp
+ Kết quả nghiên cứu của N.M. Maqsud (1995-1997) về ô nhiễm môi trường vùng nội và
ngoại ô thành phố Hồ Chí minh cho thấy: nước và bùn ở kênh, rạch thuộc thành phố đã bị ô
nhiễm đến mức rất nặng: nồng độ các kim loại nặng trong nước ô nhiễm của các kênh, rạch này
vượt quá ngưỡng cho phép, so với nước kênh, rạch không bị ô nhiễm tăng từ 16 - 700 lần (bảng
13.4).
Bảng 13.4. Hàm lượng một số kim loại nặng trong nước kênh, rạch của
thành phố Hồ Chí Minh
Kênh, rạch
Nồng độ (mg/L)
Cd Cr Cu Pb Zn
Hệ thống Nhiêu Lôc, Thị Nghè
Chi lưu kênh Cầu Bông
1-3
7-8
15-20
15-18
12-30
18-25
5-140
7-300
100-500
395-650
Các hệ thống Tân Hoà 3-4 20-22 20-72 10-20 150-800
Kênh Doi Tê, Tân Hu, Bến Nghé 2-7 12-19 10-180 10-160 200-250
Nhánh kênh U Cay 2-6 8-10 8-85 30-350 690-900
Nước kênh, rạch không bị ô nhiễm 0,5 1 3 0,5 10
Tích tụ (tối đa) 16 22 60 700 90
+ Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị An Hằng (1995-1998) về ô nhiễm kim loại nặng
của khu vực công ty pin Văn Ðiển và Orion-Hanel cho thấy:

- Nước thải của mỗi công ty đều chứa kim loại nặng vượt quá TCVN 5945/1995 (Tiêu
chuẩn Việt Nam) đối với nước thải công nghiệp loại B. Ở Công ty pin Văn Ðiển Hg gấp 9,04
lần, ở công ty Orion-Hanel Pb gấp 1,12 lần. Các kim loại này có nồng độ đáng kể trong đoạn
sông Tô Lịch và mương Hanel gần cống thải.
- Hàm lượng các kim loại nặng trong trầm tích sông Tô Lịch cao hơn hàm lượng nền
13,88 - 20,50 lần.
+ Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Khang và Nguyễn Xuân Thành (1997), các sông
của nội thành Hà Nội: Kim Ngưu, Tô Lịch và phần cuối của sông Nhuệ (tiếp giáp với sông Tô
Lịch) đều bị ô nhiễm cả về mùi, màu sắc và nhiều chỉ tiêu lý, hoá học khác, ví dụ đối với nước
sông Kim Ngưu có BOD
5
: 50 - 190mg/L, NH
4
+
: 3 - 25mg/L, COD: 90 - 495mg/L, DO: < 1mg/L,
H
2
S: 7 - 11mg/L, cặn lơ lửng: 50 - 200mg/L.
Bảng 13.5. Hàm lượng (ppm) của một số kim loại nặng trong đất gần công ty Orion-Hanel
Kim loại Ðộ sâu, cm ÐR.200 ÐR.1500 ÐL.200 ÐL.1500 ÐR.1
Cu
0 - 20 21,24 18,80 23,02 20,65 20,01
20 - 40 18,22 17,36 17,26 16,14 16,86
Pb
0 - 20 27,93 18,50 26,83 19,02 16,35
20 - 40 21,46 13,77 19,28 14,18 7,47
Zn
0 - 20 43,72 36,65 44,50 37,69 32,25
20 - 40 39,25 32,46 41,02 32,58 28,26
Cd

0 - 20 0,31 0,17 0,30 0,17 0,09
20 - 40 0,28 0,13 0,23 0,11 0,08
Hg
0 - 20 0,08 0,05 0,06 0,04 0,02
20 - 40 0,03 0,03 0,04 0,03 0,01
Ghi chú: ÐR.200 - Ðất trồng rau cách mương thải 200m
ÐR.1500 - Ðất trồng rau cách mương thải 1500m
ÐL.200 - Ðất lúa cách mương thải 200m
ÐL.1500 - Ðất lúa cách mương thải 1500m
ÐR.1 - Ðất trồng rau không tưới nước thải
6. Phương hướng phòng chống ô nhiễm đất
Muốn phòng chống ô nhiễm đất cần tiến hành các mặt sau:
6.1. Ðiều tra và phân tích đất
Triển khai điều tra và phân tích đất bị ô nhiễm. Ðịnh ra tiêu chuẩn đánh giá ô nhiễm. Ðây
là một trong những công tác cơ bản đánh giá đất, phòng ngừa phát sinh và phát triển ô nhiễm đất.
Ðiều tra ô nhiễm đất là tìm hiểu trạng thái ô nhiễm và đánh giá mức độ ô nhiễm. Hiện nay người
ta lấy "trị số cơ bản" làm tiêu chuẩn đánh giá. Căn cứ vào hàm lượng bình quân của hợp chất
hoặc nguyên tố độc hại trong đất vượt quá "trị số cơ bản" để đánh giá.
Ðánh giá chất lượng đất là khâu quan trọng trong công tác bảo vệ môi trường. Cần lấy
mẫu đất định kỳ hoặc đặt máy đo tự động ở khu vực đại diện, phân tích các tính chất lý, hoá và
sinh học đất để theo dõi động thái biến đổi, quy luật ô nhiễm, từ đó tính toán số lượng tồn lưu
chất ô nhiễm trong đất, dự kiến được trạng thái ô nhiễm và xu thế chuyển hoá của chúng và nêu
ra biện pháp phòng tránh.
6.2. Loại bỏ nguồn gây ô nhiễm
Trong các xí nghiệp, nhà máy, hầm mỏ cần nghiên cứu công nghệ khép kín, không sản
xuất hoặc ít sản xuất chất độc. Những chất thải loại cần có cách xử lý thu hồi. Hiện nay, ô nhiễm
đất chủ yếu bắt nguồn từ các nhà máy và nước cống thành phố, bởi vậy lúc tưới nước cho cây
trồng cần phải cẩn thận. Trước lúc dùng, cần phân tích thành phần độc hại và nồng độ của chúng,
nếu không đạt được tiêu chuẩn nước tưới thì phải tìm cách cải tạo hoặc tìm nguồn nước khác.
Cần chọn dùng loại nông dược có hiệu lực cao nhưng ít độc, ít tồn lưu trong đất. Hiện

nay còn phải tạm dùng một số nông dược tồn lưu nhiều như chế phẩm kim loại nặng, cần được
hạn chế phạm vi sử dụng, lượng dùng và số lần dùng. Một hướng mới hạn chế dùng thuốc gây ô
nhiễm là cần mở rộng phương pháp sinh vật phòng trừ kết hợp với phương pháp khác (phòng trừ
tổng hợp).
6.3. Làm sạch hoá đồng ruộng
Dùng vôi và muối phosphat kiềm để khử chua, chuyển phần lớn nguyên tố kim loại nặng
sang hợp chất khó tan từ đó làm giảm nồng độ của chúng trong dung dịch.
Tiêu nước vùng trũng, điều tiết Eh đất làm cho một số nguyên tố kim loại nặng chuyển
sang dạng khó tan.
Luân canh lúa màu có thể xúc tiến phân huỷ DDT.
Cải thiện thành phần cơ giới đất, tăng cường bón phân hữu cơ.
Ðối với đất cát cần nâng cao tính đệm và khả năng hấp phụ để hút các cation kim loại và
nông dươc, áp dụng biện pháp tổng hợp nâng cao độ màu mỡ của đất, tạo điều kiện cho vi sinh
vật hoạt động phân huỷ các nông dược tồn lưu trong đất.
6.4. Ðổi đất, lật đất
Khi đất bị ô nhiễm nặng (như Cd) có thể áp dụng biện pháp đổi đất, lật đất. Ưu điểm của
cách này là cải tạo triệt để nhưng khó thực hiện trên diện tích rộng.
6.5. Thay cây trồng và lợi dụng hấp thu sinh vật
Nếu đất bị ô nhiễm nặng nên thay cây lương thực, cây ăn quả bằng cây hoa, cây cảnh
hoặc cây lấy gỗ. Nếu đất trồng cỏ chăn nuôi thì nên thu hoạch vào thời gian hàm lượng chất độc
thấp nhất.
Ngoài ra có thể trồng những cây không dùng để ăn mà có khả năng hút mạnh các chất có
chứa nguyên tố kim loại nặng. Ví dụ, nếu trồng lúa nước trên đất ô nhiễm 10% Cd phải mất 350
năm mới hút hết Cd, nếu trồng lúa nương (cạn) mất 30 năm, nhưng có loại cây chỉ mất 7 năm là
hút hết. Các nhà khoa học Trung Quốc cho rằng Cúc vạn thọ (Marigold) có khả năng chịu được
ô nhiễm Cd, Pb.
Gần đây người ta thấy có thể lợi dụng vi sinh vật để chống ô nhiễm. Ví dụ, các nhà khoa
học đã phát hiện được một loài vi khuẩn chuyên ăn dầu mỏ, hễ gặp dầu là ăn ngay và phát triển
nhanh chóng. Sau lúc ăn, chúng phân giải dầu mỏ thành CO
2

và H
2
O làm sạch môi trường.
Phenol là một chất độc hại cho người, một số vi sinh vật có thể phân giải phenol thành
CO
2
và H
2
O. Có loài trực khuẩn nha bào có thể biến phenol thành axit axetic để làm thức ăn cho
bản thân.
6.6. Thực hiện Luật môi trường
Nhà nước đã công bố Luật môi trường, phải giáo dục bồi dưỡng cho toàn dân, đặc biệt là
các nhà máy sản xuất kinh doanh có kiến thức về môi trường và sinh thái học. Ðối với các cơ sở
sản xuất hiện có cần áp dụng các biện pháp tái sử dụng (thu hồi) để giảm ô nhiễm và hạ giá
thành, xử lý chất thải, thay đổi quy trình công nghệ. Cần xử lý nghiêm khắc những trường hợp vi
phạm Luật môi trường.
Câu hỏi ôn tập
1. Khái niệm về ô nhiễm đất, các nguyên nhân gây ô nhiễm đất.
2. Sự tồn lưu và chuyển hoá của nông dược trong đất.
3. Sự tồn lưu và chuyển hoá của phân bón trong đất.
4. Tình hình ô nhiễm đất ở Việt Nam và phương hướng phòng, chống ô nhiễm đất.

×