Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Tài liệu Đồ án bộ môn Tìm kiếm - Thăm dò docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.97 MB, 77 trang )

Đồ án bộ môn
Tìm kiếm - Thăm dò

MỤC LỤC
Đồ án bộ môn 1
Tìm kiếm - Thăm dò 1
1
MỤC LỤC 2
Mở đầu
Nhằm vận dụng những kiến thức lí thuyết vào thực tế địa chất, sau khi
hoàn thành chương trình học lí thuyết ở trường Đại học Mỏ - Địa chất, thuộc
chuyên ngành Địa chất. Bộ môn Tìm kiếm - Thăm dò. Khoa Địa chất. Trường
Đại học Mỏ - Địa chất đã đồng ý quyết định cho Tôi đi thực tập tốt nghiệp tại
Liên đoàn Địa chất Trung Trung Bộ với thời gian 6 tuần, kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2008 đến hết ngày 23 tháng 2 năm 2008.
Trên cơ sở những tài liệu thu thập được trong thời gian thực tập tại cơ sở
sản xuất thực tế, được sự đồng ý của Khoa Địa chất, Bộ môn Tìm kiếm - Thăm
dò, Giáo viên hướng dẫn. Tôi đã được giao viết đồ án với đề tài: “
Cấu trúc địa
chất vùng An Hải - Ninh Thuận. Thiết kế phương án tìm kiếm đánh giá quặng
titan sa khoáng ven biển khu Từ Thiện
”.
Nội dung đồ án gồm 2 phần, 7 chương (không kể mở đầu và kết luận).
Phần I: Đặc điểm địa chất vùng An Hải, Ninh Thuận.
Chương I: Đặc điểm địa lý tự nhiên, kinh tế nhân văn và lịch sử nghiên
cứu địa chất vùng.
Chương II: Đặc điểm địa chất vùng.
Phần II:
Thiết kế phương án tìm kiếm quặng titan sa khoáng ven biển khu Từ Thiện
Chương III: Mục đích nhiệm vụ.
Chương IV: Đặc điểm địa chất khu Từ Thiện.


Chương V: Các phương pháp áp dụng, kỹ thuật và khối lượng công tác.
Chương VI: Tính tài nguyên và trữ lượng.
Chương VII: Tổ chức thi công và dự toán chi phí.
Sau hơn 2 tháng làm việc khẩn trương, với sự cố gắng nỗ lực hết mình
của bản thân, đặc biệt là được sự giúp đỡ tận tình của Thầy giáo hướng dẫn
TS.Lương Quang Khang, cùng với các thầy cô trong bộ môn Tìm kiếm - Thăm
dò cũng như các phòng ban và cán bộ kỹ thuật Liên đoàn Địa chất Trung Trung
Bộ đã giúp tôi hoàn thành bản đồ án này đáp ứng theo yêu cầu và thời gian quy
định.
Do thời gian có hạn, trình độ, kiến thức chuyên môn còn nhiều hạn chế
nên bản đồ án của tôi không thể tránh khỏi những sai sót, tôi rất mong nhận
được sự chỉ bảo, góp ý của các Thầy - Cô giáo và các bạn đồng ngiệp.
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn đến các Thầy - Cô giáo trong bộ
môn Tìm kiếm - Thăm dò, khoa Tại chức, các cán bộ Liên đoàn Địa chất Trung
Trung Bộ, đặc biệt là sự giúp đỡ dẫn dắt tận tình của Thầy giáo TS. Lương
Quang Khang để tôi hoàn thành bản đồ án tốt nghiệp này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2008
Sinh viên: Nguyễn Cảnh Nho
PHẦN I
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT
VÙNG AN HẢI, NINH THUẬN
Chương I
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN, KINH TẾ NHÂN VĂN
VÀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT VÙNG
I.1- Vị trí địa lý và diện tích vùng nghiên cứu.
Vùng An Hải Thuộc các xã: An Hải, Phước Dinh, huyện Ninh Phước, tỉnh
Ninh Thuận. Cách ngã ba giữa Quốc lộ 1A và tỉnh lộ 407 (nam thị xã Phan
Rang- Tháp Chàm 12km) theo hướng tỉnh lộ 407 xuống biển khoảng 18 km đến
trung tâm vùng công tác. ( Hình 1)
Diện tích nghiên cứu khoảng 139 Km

2
, được giới hạn bởi toạ độ địa lý:
11
o
24’18” - 11
o
30’30” vĩ độ Bắc
108
o
55’46” - 109
o
01’10” kinh độ Đông
I.2- Đặc điểm địa lý tự nhiên, kinh tế nhân văn.
I.2.1- Địa hình.
I.2.1.a- Địa hình đồi núi thấp.
Địa hình núi thấp và đồi nhỏ phân bố chủ yếu ở phần tây nam kéo dài ra
tận bờ biển trùng với phương cấu trúc chung và rải rác một số nơi trong vùng.
Độ cao tuyệt đối từ 100 - 380m, sườn dốc, đỉnh thường nhọn. Địa hình phân cắt
khá mạnh. Thảm thực vật ở đây phát triển các loài cây thân gỗ thấp và các loài
cây có gai cứng. Đây là một hạn chế cho quá trình đi khảo sát thực địa.
I.2.1.b- Địa hình đồng bằng.
Chiếm phần lớn diện tích vùng nghiên cứu là đồng bằng ven biển, được
thành tạo bởi các trầm tích bở rời có nguồn gốc sông, biển, hỗn hợp sông - biển,
biển - đầm lầy. Bề mặt địa hình nghiêng thoải, độ cao tuyệt đối từ vài mét đến
hơn 100m. Đây là đối tượng canh tác của dân trong vùng và đồng thời là đối
tượng tìm kiếm titan sa khoáng ven biển.
I.2.2 Mạng sông, suối, bờ biển.
Mạng sông suối trong vùng khá phong phú, phía bắc vùng có sông Cái bắt
nguồn từ sườn đông khối nâng Đà Lạt chảy về, kết hợp với các sông nhánh khác
là nguồn cung cấp nước sinh hoạt cũng như vật liệu trầm tích chính cho vùng hạ

lưu. Trung tâm vùng có các sông suối nhỏ chảy qua như: Sông Bàu Ngư bắt
nguồn từ dãy núi Chà Bang huyện Ninh Phước với lưu lượng nước ít, nhưng
cũng góp phần vào việc bù đắp vật liệu và điều tiết khí hậu cho vùng. Suối Tam
Lang và một số suối khác, hội tụ với các bàu: Bàu Ngư, Bàu Sơn Hải tạo nên
mạng thủy văn đa dạng.
Bờ biển kéo dài hướng bắc- nam khoảng 18 km, nằm về phía bờ nam cửa
sông Cái, kết hợp với tác động của dòng chảy ven bờ và chịu tác động mạnh của
thuỷ triều là yếu tố thuận lợi cho quá trình tích tụ sa khoáng biển.
Quá trình xâm thực, tích tụ phát triển đường bờ tạo ra dạng địa hình bờ
đặc trưng với các mũi nhô ra biển: Mũi Dinh ; Các vũng, vịnh lõm sâu vào nội
địa: Vũng Ninh Chữ, vũng Sơn Hải Các yếu tố đó làm cho địa hình đường bờ
thêm phức tạp.
I.2.3 Khí hậu.
Khí hậu vùng nghiên cứu mang tính chất nhiệt đới miền duyên hải. Khí
hậu được chia làm hai mùa tương đối rõ rệt:
Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa trung bình 1.400-
1.500mm, Độ ẩm tương đối 75- 85%;
Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, tổng lượng mưa mùa khô 110-
130mm, độ ẩm tương đối 70- 80%;
Nhìn chung đây là khu vực có lượng mưa trung bình trong năm thấp nhất
cả nước, khí hậu khô nóng là chủ yếu.
I.2.4 Dân cư.
Trong vùng đại đa số dân tộc Kinh ngoài ra còn có ít dân tộc Hoa, dân tộc
Chăm cùng sinh sống. Mật độ dân số tập trung cao ở các vùng thị trấn, thị xã.
Trình độ dân trí phát triển. Họ sống với các ngành nghề đa dạng: công, nông,
ngư nghiệp và buôn bán. Dân số ven biển mật độ thưa thớt hơn, nghề nghiệp chủ
yếu nông, ngư nghiệp, một bộ phận buôn bán nhỏ. Lâm nghiệp nghèo nàn, chỉ
mới có một số cánh rừng Tràm dân mới trồng chiếm diện tích ít ỏi. Ngư nghiệp
tương đối phát triển, nghề nuôi trồng thuỷ sản được người dân đặc biệt chú
trọng.

I.2.5 Giao thông.
I.2.5.a- Đường bộ:
Mạng lưới giao thông trong vùng khá phát triển, có con đường tỉnh lộ 407
là đường đất, cho nên việc đi lại khá thuận tiện. Chưa có phương tiện giao thông
công cộng mà chủ yếu bằng xe gắn máy và xe đạp.
I.2.5.b- Đường thuỷ:
Mạng lưới sông suối nhỏ và giáp biển, suối nông, lượng nước ít nên
không thể đi lại bằng thuyền được. Bờ biển khá dài nhưng không có cảng, chỉ
thuận lợi cho ghe thuyền nhỏ làm nghề đánh bắt thuỷ sản gần bờ.
Tóm lại: các đặc điểm địa lý, kinh tế, nhân văn khu vực nghiên cứu nhìn
chung thuận lợi cho việc phát triển các ngành kinh tế: nông nghiệp, ngư nghiệp,
công nghiệp, tiểu thủ công. Đồng thời các yếu tố đó góp phần cho việc thi công
các đề tài nghiên cứu địa chất và khoáng sản nói chung và phương án “Tìm
kiếm đánh giá
titan sa khoáng ven biển khu Từ Thiện
” nói riêng đạt hiệu quả.
I.3- LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT.
Lịch sử nghiên cứu địa chất khu thiết kế gắn liền với lịch sử nghiên cứu
địa chất toàn vùng và cũng được chia làm hai giai đoạn như sau:
I.3.1. Giai đoạn trước năm 1975
Trước ngày Miền Nam giải phóng (năm 1975), các tài liệu nghiên cứu địa
chất và khoáng sản nói chung và sa khoáng nói riêng ở các tỉnh phía nam còn
mang tính sơ lược. Theo thứ tự thời gian có vài công trình nghiên cứu sau đây:
- Năm 1928 - 1932, E. Saurin nghiên cứu và tổng hợp tài liệu để thành lập
tờ bản đồ địa chất Nha Trang (E- 48) tỷ lệ 1:500.000. Trong đó ông đã chia các
trầm tích hệ Thứ tư thành hai thống Pleistocen (Đệ Tứ cũ) và Holocen (Đệ Tứ
mới)
- Năm 1949, Shepard thành lập bản đồ trầm tích đáy biển ở vùng tây Thái
Bình Dương, trong đó các trường cát hạt thô - nhỏ trước cửa sông Hồng và sông
Cửu Long (ở độ sâu 20 - 50m) được các nhà địa chất biển cho là trầm tích aluvi

cổ.
- Năm 1950, các Chuyên viên địa chất Nhật Bản nghiên cứu và khai thác
cát trắng ven biển vùng Thuỷ Triều - Cam Ranh, sau đó các công ty của Bùi Văn
Quang và Nguyễn Trọng Hồng khai thác 500.000 tấn cát trắng xuất khẩu sang
Nhật.
- Năm 1957 - 1971, Nguyễn Hữu Khổ, Nông Văn Bé (Đại học Hóa học
Sài Gòn cũ) sơ bộ khảo sát cát trắng ven biển từ Phước Tuy đến Ba Ngòi ước
lượng khoảng 2.500.000 tấn.
- Năm 1974, Nguyễn Tấn Thi có bài báo "Đóng góp mới vào nghiên cứu
khoáng vật nặng trong cát của các bãi biển Việt Nam".
Năm 1975, Nguyễn Tấn Thi và Phạm Tuyết Nhung có "Phúc trình khảo
sát sơ khởi cát đen tại bờ biển Việt Nam" Các tác giả đã tổng hợp tài liệu, lập
bảng thống kê hàm lượng khoáng vật nặng của 13 vùng ven biển trên lãnh thổ
Miền Nam, Việt Nam.
I.3.2- Giai đoạn sau năm 1975
Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, các công trình nghiên cứu địa
chất và khoáng sản được xúc tiến khá toàn diện và có hệ thống. Thống kê sơ bộ
theo thời gian, có một số công trình nghiên cứu sau:
Năm 1975 - 1979, Nguyễn Xuân Bao, Trần Đức Lương và n.n.k đã thành
lập Bản đồ địa chất tỷ lệ 1:500.000 toàn lãnh thổ Miền Nam.
- Năm 1985, Nguyễn Kim Hoàn và n.n.k (Viện nghiên cứu Địa chất) hoàn
thành đề tài: "Đặc điểm địa chất và triển vọng khoáng sản titan sa khoáng ven
biển Việt Nam". Các tác giả đã phát hiện hoặc tái khẳng định nhiều điểm tụ
khoáng có giá trị, trong đó một số vị trí được tính tài nguyên dự báo cấp C
2
+ P
1
.
-Năm 1991 Hồ Trọng Ký đoàn địa chất Việt Tiệp đã có báo cáo đo vẽ
thành lập bản đồ địa chất khoáng sản nhóm tờ Cam Ranh - Phan Rang

- Năm 1991 - 1994, Nguyễn Biểu và n.n.k đã điều tra địa chất và tìm kiếm
khoáng sản sa khoáng ven bờ (0 - 30m nước) Miền Trung (Nga Sơn - Vũng
Tàu). Công trình này đã nhắc đến các điểm sa khoáng Mũi Né, Bình Nhơn, Hàm
Tân, La Gi, Hòn Gốm, Ba ngòi - Cam Ranh Đây tài liệu quý, có tính định
hướng cho công tác tìm kiếm sa khoáng tiếp theo.
- Năm 1995, tập thể các nhà địa chất Liên đoàn Bản đồ Địa chất 6 hoàn
thành công trình đo vẽ địa chất tỷ lệ 1:200.000. Công trình này đã xếp các thành
tạo bở rời ven biển Nam Trung Bộ thuộc trầm tích Đệ Tứ và đã sơ bộ phân chia
theo nguồn gốc trầm tích và phân chia đến bậc. Đặc biệt công trình này cũng chỉ
ra nhiều tụ khoáng ven biển định hướng cho công tác tìm kiếm tiếp theo.
Năm 2004 (từ tháng 8 đến tháng 9), Đội khảo sát Liên đoàn Địa chất
Trung Trung Bộ dựa trên kết quả tổng hợp các tài liệu đã có tiến hành khảo sát
thực địa 8 vùng: Đầm Môn (Khánh Hoà), An Hải (Ninh Thuận), Tuy Phong,
Bắc Phan Thiết, Nam Phan Thiết, Tân Thắng (Bình Thuận), Hồ Tràm, Long Hải
(Bà Rịa- Vũng Tàu). Đội đã tiến hành 300 mét khoan tay, phân tích 97 mẫu
trọng sa cơ bản, 16 mẫu trọng sa toàn diện. Các tác giả bước đầu nhận định các
phân vị Đệ Tứ có khả năng chứa sa khoáng ilmenit, zircon Thuộc các tích tụ:
trầm tích biển tướng bar cát hệ tầng Phan Thiết (m
b
Q
1
2-3
pt), tích tụ trầm tích
nguồn gốc gió Holocen trung- thượng, Holocen thượng: mvQ
2
2-3
, vQ
2
3
.

Theo thời gian, các công trình nghiên cứu địa chất, khoáng sản, các
nghiên cứu chuyên đề : địa mạo, kiến tạo, chuyên khoáng Đã góp phần làm
sáng tỏ hơn về cấu trúc địa chất và khoáng sản Miền Nam nói chung và ven biển
Nam Trung Bộ nói riêng mà trong đó có vùng An Hải.
Nhiều công trình nghiên cứu địa chất và khoáng sản sa khoáng đã
khẳng định khu vực Nam Trung Bộ giàu tiềm năng sa khoáng. Tuy nhiên trữ
lượng đã thăm dò và tài nguyên dự báo thấp hơn nhiều so với khu vực Trung
Trung Bộ và Bắc Trung Bộ, song hàm lượng zircon cao hơn và diện phân bố các
đối tượng chứa sa khoáng rất rộng. Hiện nay titan sa khoáng ven biển được các
đơn vị khai thác và xuất khẩu tinh quặng ilmenit, chủ yếu sang Nhật Bản và
Trung Quốc với sản lượng. Sản lượng khai thác quặng titan toàn quốc năm
1995: 57.000 tấn; năm 1996: 63.000 tấn; năm 1997: 97.000 tấn; năm 1998:
116.000 tấn; năm 1999: 177.000 tấn.
Công nghệ khai thác titan của các doanh nghiệp trong nước về cơ bản
giống nhau: dùng dòng chảy sức nước kết hợp với máy xúc, máy gạt, tuyển bằng
phân ly côn, tuyển vít đứng và tuyển từ. Công nghệ tuyển khoáng Việt Nam có
thể tuyển tinh quặng đến hàm lượng thương phẩm: ilmenit chứa TiO
2
>52%;
Zircon > 60- 65%; Rutin> 90%.
Như vậy thì việc tiến hành tìm kiếm đánh giá titan sa khoáng ven
biển khu Từ Thiện là việc làm cần thiết, góp phần vào công cuộc phát triển kinh
tế địa phương cũng như thêm cơ sở cho chiến lược phát triển kinh tế của đất
nước.
Chương II.
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT VÀ KHOÁNG SẢN
VÙNG NGHIÊN CỨU
II.1- ĐỊA TẦNG.
Vùng An Hải - Ninh Thuận thuộc rìa đông cấu trúc cung núi lửa Nha
Trang- Đà Lạt, được hình thành vào Mesozoi muộn. Có đặc điểm là đồng bằng

ven biển hẹp, không liên tục bởi các khối magma tuổi Mesozoi muộn đến
Kainozoi sớm chia cắt. Các thành tạo trầm tích có mặt trong vùng từ cổ đến trẻ
như sau: Hệ tầng La Ngà (J
2
ln); các đá phun trào hệ tầng Nha Trang (Knt). Các
thành tạo Neogen- Đệ Tứ có các phân vị: Trầm tích biển tầng Mộ Tháp (N
2
-
Q
1
mt); Các thành tạo Đệ Tứ khá phong phú có tuổi liên tục từ Pleistocen sớm
đến Holocen: Trầm tích biển tướng bar cát, hệ tầng phan thiết (m
b
Q
1
2-3
pt
); Trầm
tích gió (vQ
1
3
); Trầm tích Holocen giữa-muộn (Q
2
2-3
); Trầm tích Holocen muộn
(Q
2
3
) với nhiều nguồn gốc khác nhau: biển, sông, biển- đầm lầy, sông- biển,
gió Chúng chiếm hầu hết diện tích dải ven biển. Khoáng sản sa khoáng ven

biển chủ yếu tập trung trong một số phân vị của các thành tạo này.
GIỚI MEZOZOI (MZ)
HỆ JURA, THỐNG TRUNG (J
2
),
Hệ tầng La Ngà(J
2
ln)
Hệ tầng La Ngà chiếm diện tích nhỏ, dạng dải hẹp, lộ ra ở gần rìa một số
khối xâm nhập thuộc phức hệ Định Quán hoặc Đèo Cả. Bị xuyên cắt và biến đổi
mạnh mẽ, đá bị cà ép, dập vỡ nứt nẻ mạnh. Phân bố ở trung tâm vùng nghiên
cứu. Thành phần nham thạch chính của hệ tầng là tập hợp các lớp cát kết, bột kết
xen đá phiến sét màu đen, bột kết silic cấu tạo sọc dải, đá phiến thạch anh
felspat mica, đá phiến silic chiều dày 800- 900m.
Đá phiến thạch anh felspat mica, đá phiến silic-sét màu đen dạng sọc dải,
chiếm khối lượng chủ yếu của hệ tầng, Chúng là những lớp mỏng, tập trung
thành dải xen trong các đá phiến khác; Đá có kiến trúc vảy hạt biến tinh. Thành
phần khoáng vật gồm: Thạch anh 28÷42%, felspat: 22÷30%, biotit: 17%,
muscovit: 5÷15%, vật chất than: 15÷20%, sét sericit hoá: 10÷15%, Khoáng vật
quặng: 6÷15%.
HỆ CRETA, THỐNG THƯỢNG (K
2
),
Hệ tầng Nha Trang (K
2
nt)
Hệ Kreta-Thống thượng, hệ tầng Nha Trang (K
2
nt): Phân bố thành chỏm
nhỏ ở phía đông của vùng, diện lộ hơi kéo dài theo phương đông bắc - tây nam.

Thành phần nham thạch gồm: Đá phiến thạch anh sericit, đá phiến sét, đá phun
trào riolit, trachyriolit, felsit, riodacit và tuf của chúng xen cát bột kết, phủ
không chỉnh hợp lên các đá trầm tích của hệ tầng La Ngà, chiều dày chung
khoảng 50m.
Đá phiến thach anh sericit chiếm đa số trong hệ tầng, thường tạo thành
các lớp từ vài mét đến vài chục mét; đá có màu xám lục, cấu tạo phân phiến,
kiến trúc vi vảy hạt. Thành phần khoáng vật: Thạch anh 50 ÷ 60%, sericit
10÷15%, clorit 10÷15%, biotit 0,2%, khoáng vật phụ có sfen 0 ÷ 1%, zircon ít
hạt.
Đá phun trào riolit (theo kết quả phân tích một só mẫu lát mỏng:
Lm.4075, Lm.4101, Lm.4216/1). Thành phần khoáng vật có hai phần: Ban tinh
10÷20%, bao gồm: thạch anh 2÷8%, felspat kali 1÷12%, plagiocla 1÷6%, biotit
ít tấm. Phần nền 80÷90%, gồm Thạch anh 30÷40%, felspat 40÷50%, biotit 5%,
Đá có cấu tạo nổi ban, kiến trúc ban trạng với nền vi pecmatit đến vi hạt
GIỚI KAINOZOI (KZ)
HỆ NEOGEN, THỐNG PLIOCEN THƯỢNG - PLEISTOCEN HẠ
Hệ tầng Mộ Tháp (N
2
- Q
1
mt)
Trầm tích biển, hệ tầng Mộ Tháp (mN
2
- Q
1
mt) phân bố thành những dải
hẹp dọc theo một số thung lũng suối có trong vùng, diện tích không lớn lắm.
Thành phần gồm các trầm tích bở rời cát, bột, sét lẫn sỏi sạn xen các kết hạch
laterit màu xám trắng phớt lục; chiều dày 10- 15m.
HỆ ĐỆ TỨ, THỐNG PLEISTOCEN

PHỤ THỐNG TRUNG - THƯỢNG.
Hệ tầng Phan Thiết (Q
1
2-3
pt )
Hệ Đệ Tứ- thống Pleistocen phụ thống trung - thượng, trầm tích biển
tướng bar cát, hệ tầng Phan Thiết (m
b
Q
1
2-3
pt): Phân bố từng diện lộ rộng ở vùng
trung tâm vùng nghiên cứu và ở phần tương đối cao của địa hình đồng bằng với
những đồi cát, động cát. Phủ bất chỉnh hợp lên hệ tầng Mộ Tháp (mN
2
-Q
1
mt) và
thành tạo granitoid phức hệ Đèo Cả (G/K
2
đc), bị các thành tạo Holocen phủ lên.
Thành phần: Cát thạch anh hạt nhỏ chiếm 70-95%; sét chiếm tỷ lệ phổ
biến từ 5- 16% và có xu thế tăng dần theo chiều sâu (cá biệt một số mẫu tỷ lệ sét
lên đến 45%). Màu sắc thay đổi: đỏ nhạt, đỏ sẫm, đỏ tươi. Độ hạt tương đối
đồng đều. Mức độ gắn kết tương đối chặt có chứa ilmenit. Chiều dày vài chục
mét đến hơn 47 mét. Tuy nhiên cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu sâu
nào khống chế hết chiều dày của hệ tầng này.
HỆ ĐỆ TỨ, THỐNG HOLOCEN,
PHỤ THỐNG THƯỢNG (Q
2

3
)
+ Trầm tích sông biển (amQ
2
3
): Phân bố thành những dải hẹp kéo dài phía
tây vùng khoảng 3,5km. Thành phần cát pha bột, sét màu xám nhạt, cát lẫn ít
sạn; gắn kết bở rời, chiều dày 5- 10m.
+ Trầm tích sông (aQ
2
3
): Dải hẹp uốn cong dạng vòng cung dọc theo suối
phía nam vùng, kéo dài khoảng 5km. Thành phần cát pha bột, sét, chứa xác thực
vật phân hủy kém, màu xám đen; chiều dày 2- 9m.
+ Trầm tích biển- đầm lầy (bmQ
2
3
): dải hẹp kéo dài khoảng 2km từ Bàu
Tú lên phía bắc vùng. Thành phần cát pha bột, sét màu xám nhạt, cát lẫn ít sạn;
chiều dày 1- 8m.
+ Trầm tích gió (vQ
2
3
): Diện phân bố khoảng 10 km
2
, thành các dải kéo
dài không liên tục song song với bờ biển, chiều rộng 100m đến hơn nghìn mét,
tạo ra các cồn cát, đụn cát cao 5 đến 40m. Thành phần cát hạt nhỏ đến trung xám
vàng, chứa ilmenit, chiều dày 5- 30m.
+ Trầm tích biển (mQ

2
3
): Dải hẹp kéo dài theo bờ biển, chiều rộng vài mét
đến vài trăm mét. Thành phần cát hạt nhỏ đến trung thô màu xám vàng, chứa
ilmenit.
+ Trầm tích không phân chia deluvi (dpQ): Các trầm tích này phân bố chủ
yếu xung quanh các chân đồi núi, đây là sản phẩm phong hoá của các thành tạo
đá gốc.
ở các diện tích phát triển các đá gốc là xâm nhập granitoit thì sản phẩm là
cát sạn, dăm cuội, mảnh vụn màu xám sáng, xám trắng, xám vàng. Thành phần
chủ yếu là thạch anh, có độ mài tròn và chọn lọc kém.
Tóm lại vùng nghiên cứu có diện tích bị phủ là chủ yếu, do đó việc phân
chia các trầm tích Đệ Tứ theo các nguồn gốc khác nhau nhằm định hướng cho
công tác tìm kiếm khoáng sản một cách thuận lợi.
II.2- MAGMA.
Trong vùng nghiên cứu tồn tại hai phức hệ magma đó là các đá xâm nhập
của phức hệ Định Quán, các đá granitoit của phức hệ Đèo Cả và các đai đá mạch
thành phần đa dạng không phân chia.
II.2.1- Đặc điểm địa chất - Thạch học:
II.2.1.a- Phức hệ Định Quán, pha 2 (GDi/J
3
-K
1
đq
2
).
Các đá thuộc phức hệ Định Quán có trong vùng là những thể xâm nhập có
quy mô nhỏ, phân bố ở gần trung tâm vùng công tác. Chúng xuyên cắt và gây
biến đổi các đá của hệ tầng La Ngà, đồng thời bị các thành tạo của phức hệ Đèo
Cả xuyên cắt và bị các đứt gãy phương tây bắc- đông nam chia cắt dịch chuyển.

Dọc theo hai cánh đứt gãy đá bị dập vỡ mạnh, có rất nhiều đai mạch dolerit,
diabas, granit áp lit, calcit đi cùng. Phần lớn đá của phức hệ này bị các thành tạo
trầm tích proluvi - deluvi phủ lên.
Thành phần thạch học gồm: Granodiorit biotit horblend, granit horblend
biotit hạt trung đến lớn. Đá có màu xám trắng lốm đốm đen. Đá có kiến trúc hạt,
tấm, lăng trụ nửa tự hình và cấu tạo khối.
- Đá Granodiorit biotit hạt trung có thành phần khoáng vật bao gồm:
thạch anh 18÷23%, felspat kali 20÷21%, plagiocla (trung tính, acid) 41÷47%,
biotit 5÷12%, horblend 4÷19%, pyrocen ít, khoáng vật quặng ít hạt.
- Đá granit horblend biotit hạt không đều có thành phần khoáng vật gồm:
Thạch anh 28%, felspat kali 30%, biotit 4%, horblend 5%, khoáng vật phụ
apatit, zircon ít hạt, khoáng vật quặng ít hạt.
Giữa hai loại đá trên có sự khác biệt rõ rệt về lượng thạch anh và felspat.
Đá granit horblend biotit thường sẫm màu hơn granodiorit biotit horblend.
+Tuổi của phức hệ:
Đựa vào mối quan hệ xuyên cắt các đá của hệ tầng La Ngà (J
2
ln) và bị các
đá granitoit của phức hệ Đèo Cả cắt qua nên việc xếp tuổi của phức hệ vào J
3
-K
1
là hợp lý.
II.2.1.b- Phức hệ Đèo Cả ( G/K
2
đc).
Theo tài liệu đo vẽ bản đồ địa chất 1:50.000 nhóm tờ Cam Ranh - Phan
Rang (Hồ Trọng Ký và nnk (Đoàn Việt Tiệp) , 1991) phức hệ này có tuổi Kreta
muộn.
Các đá granitod phức hệ Đèo Cả (G/K

2
đc) phân bố trung tâm và phía Tây
nam vùng, chiếm diện tích chừng 16 km
2
. Với hai pha xâm nhập chính (2&3).
Chúng là những thể xâm nhập có qui mô từ nhỏ đến lớn, xuyên cắt và gây biến
đổi các đá trầm tích của hệ tầng La Ngà (J
2
ln), phức hệ Định Quán (GDi/J
3
đq)
Thành phần granit biotit, granit biotit porphyr, granosienit.
+ Phức hệ Đèo Cả, pha 2 ( G/K
2
đc
2
).
Đá granitoit pha 2 của phức hệ, chiếm diện tích chủ yếu (khoảng 19km
2
)
trong các thành tạo magma xâm nhập của vùng nghiên cứu. Chúng phân bố ở
trung tâm và phần rìa tây nam vùng có hình dạng đẳng thước, méo mó. Thành
phần thạch học gồm : granit, granit biotit hạt vừa đến lớn, màu hồng nhạt phớt
vàng, một số khối có màu xám xanh trứng sáo đẹp, cấu tạo khối kiến trúc dạng
porphyr, xuyên cắt và gây biến đổi các đá trầm tích của hệ tầng La (J
2
ln) và
phức hệ Định Quán (GDi/J
3
-K

1
đq).
+ Phức hệ Đèo Cả, pha 3 ( G/K
2
đc
3
).
Đá xâm nhập granitoit pha 3 của phức hệ Đèo Cả (G/K
2
đc
3
) gồm những
khối nhỏ granitbiotit hạt nhỏ, granitporphyr, phân bố rải rác xung quanh núi Từ
Thiện, chúng xuyên cắt các đá pha 2 cùng phức hệ. Đá có màu xám trắng phớt
hồng, độ hạt từ nhở đến vừa. Qua phân tích một số mẫu lát mỏng, đá có thành
phần khoáng vật gồm: thạch anh 31÷37%, felspat kali 32÷39%, plagiocla
30÷33%, biotit ít, khoáng vật quặng ít, Kiến trúc hạt nhỏ, cấu tạo khối. Đá bị nứt
nẻ, dập vỡ mạnh.
II.2.1.c- Đai mạch không phân chia:
Ngoài các đá xâm nhập của các phức hệ đã được đề cập ra, trong khu vực
còn gặp một số đai mạch granit áplít, điabas phân bố rải rác ở khu vực núi Từ
Thiện, chúng xuyên cắt các đá magma thuộc phức hệ Đèo Cả.
II.2.2- Mô tả khoáng vật:
Plagiocla: Trong đá có hai thế hệ thành tạo. Thế hệ I thành phần oligiocla
N
o
29, hạt lớn dạng tấm, kích thước 0,4÷3mm nhiều khi đạt đến 4mm. Song tinh
đa hợp hoặc liên phiến thường bị sericit hoá. Một số hạt bị ôctocla thay thế có
ranh giới lồi lõm, đôi chỗ có cancit. Thế hệ II plagioclacó thành phần là anbit
tạo thành riềm bao quanh hạt plagiocla thế hệ I, hoặc khảm trong ôctocla, độ nổi

thấp hơn ôctocla, giao thoa xám bậc I có song tinh.
-Felspat kali: Hạt méo mó kích thước 0,1÷3mm cá biệt đạt tới 4mm, phát
triển giữa các hạt thạch anh thành dải hoặc theo khe nứt, ranh giới rõ ràng, bị
pelit hoá mạnh mẽ. Dưới 1 nicon khoáng vật có màu nâu bẩn. Một số hạt có cấu
tạo pelit mỡ, độ nổi thấp hơn thạch anh, giao thoa xám bậc 1.
Thạch anh: Có hai thế hệ thành tạo. Thạc anh thế hệ I hạt méo mó, ranh
giới rõ, mặt sạch, tắt đều, kích thước hạt 0,1÷1mm phân bố không đều trong lát
mỏng. Thế hệ II hạt nhỏ, phát triển thành từng đám, ở rìa một số hạt plagiiocla
bị felspat kali thay thế, tắt đều.
-Biotit: Dạng tấm tương đối tự hình, cát khai rõ, nhiễm ôxit sắt bị clorit
hoá không đều. Đa sắc N
g
- nâu đỏ, N
m
- nâu, N
p
- nâu vàng, kích thước hạt từ
0,1÷1mm.
-Muscovit: Vảy nhỏ thường tập trung thành từng đám xung quanh biotit,
cát khai rõ, giao thoa xanh bậc II, tắt đứng, hơi có hình rẻ quạt.
II.2.3- Đặc điểm sinh khoáng liên quan đến các phức hệ:
Hiện nay chưa phát hiện được biểu hiện khoáng sản liên quan đến các
phức hệ có mặt trong vùng.
II.3- KIẾN TẠO.
Trên bản đồ địa chất tỷ lệ 1/50.000 nhóm tờ Cam Ranh - Phan Rang do
đoàn địa chất Việt Tiệp, liên đoàn địa chất 6 thành lập năm 1986 thì diện tích
vùng nghiên cứu nằm ở rìa đông namcấu trúc cung núi lửa Nha Trang - Đà Lạt.
Bị phủ bởi đa số trầm tích trẻ Kainozoi bở rời, cho nên việc nghiên cứu các đứt
gãy tương đối khó khăn, song sự có mặt và trật tự sắp xếp theo phương tây bắc-
đông nam của các thể magma xâm nhập có tuổi Jura - Creta, là minh chứng cho

sự tồn tại của đứt gãy sâu Tháp Chàm - Sông Cái. Sự hoạt động của đứt gãy này
kéo theo hàng loạt các đứt gãy nhỏ phương đông bắc - tây nam và khe nứt lông
chim, tạo điều kiện để các đai mạch phát triển.
II.3.1- Phân chia tầng kiến trúc.
Dựa vào các chu kỳ trầm tích các ranh giới bất chỉnh hợp, sự khác biệt
của các thành hệ địa chất tương ứng với một chu kỳ magma, kiến tạo. Vùng
nghiên cứu được chia ra các tầng kiến trúc như sau:
II.3.1.a- Tầng kiến trúc Mezozoi.
Các thành tạo của tầng kiến trúc này phân bố rải rác ở phía tây vùng
nghiên cứu và kéo dài theo phương tây bắc- đông nam, bao gồm các trầm tích
lục nguyên vụn thô của hệ tầng La Ngà có tuổi Jura giữa (J
2
ln), trong chúng
chứa khá nhiều các gân mạch thạch anh nhiệt dịch có xâm tán sulfua. Đá bị nứt
nẻ dập vỡ rất mạnh, thế nằm chung là cắm về hương nam - đông nam với góc
dốc 40÷70
o
và bị vò nhàu uốn lượn. Thêm vào đó là một phần nhỏ các đá trầm
tích lục nguyên hạt mịn xen phun trào thuộc hệ tầng Nha Trang, phân bố ở rìa
đông vùng và phủ không chỉnh hợp lên hệ tầng La Ngà. Chiều dày của tầng kiến
trúc này khoảng từ 800÷2000m.
II.3.1.b- Tầng kiến trúc Kainozoi.
Tầng kiến trúc này phổ biến khá rộng rãi trong vùng nghiên cứu. Gồm các
trầm tích bở rời của hệ tầng Mộ Tháp có tuổi (N
2
- Q
1
mt), các trầm tích
Pleistocen hệ tầng Phan Thiết (Q
1

2-3
pt), cùng các trầm tích biển, hỗn hợp sông
biển hiện đại Holocen. Ngoài ra không thể thiếu các trầm tích hạt vụn thô đeluvi
-proluvi không phân chia (dpQ) phân bố dọc theo các chân núi. Chiều dày của
tầng kiến trúc này từ vài mét đến hơn 100m.
II.3.2- Đứt gãy.
Mặc dù vùng nghiên cứu bị phủ bởi đa số các trầm tích bở rời, song sự thể
hiện về hình thái của các thể magma kết hợp với phân tích đặc điểm địa hình,
địa mạo, ta thấy tồn tại một số đứt gãy như sau:
-Đứt gãy dạng cánh cung Tháp Chàm - Cà Ná: Phát triển ở rìa phía tây
vùng nghiên cứu, dọc quốc lộ 1A, là một đứt gãy sâu, phân chia khu vực thành
hai vùng có đặc điểm riêng biệt: Phần tây - nam có địa hình cao gồm các dải núi
kéo dài theo phương tây bắc- đông nam, phần phía đông bắc có địa hình thấp
hơn, rải rác những chỏm đồi núi thấp và chủ yếu là bị phủ bởi trấm tích bở rời
hiện đại. Sự có mặt của đứt gãy này tạo điều kiện để các thể xâm nhập magma
từ dưới sâu đi lên.
-Đứt gãy Tháp Chàm - Sơn Hải: Kéo dài theo phương tây bắc- đông nam,
cắt qua vùng nghiên cứu bị phủ chủ yếu bởi trầm tích Đệ Tứ, dọc rtheo đứt gãy
phát triển các khối magma phức hệ Định Quán và phức hệ Đèo Cả, xuyên cắt
các trầm tích lục nguyên hệ tầng La Ngà. Các đá của hệ tầng này bị vò nhàu đảo
lộn, có thế nằm dốc đứng.
Do ảnh hưởng của nhiều chu kỳ hoạt động kiến tạo liên tục từ trước
Baical đến Kainozoi, nên hoạt động đứt gãy xảy ra mạnh mẽ theo các phương
tây bắc- đông nam, đông bắc - tây namvà á kinh tuyến. Trong đó hệ thống đứt
gãy tây bắc- đông nam xảy ra vào sau Jura là chủ đạo, quyết định hình thái cấu
trúc chung của vùng, làm cho phần lớn các thành tạo địa chất có mặt bị chia cắt,
dập vỡ, dịch chuyển và biến vị mạnh. Dọc theo hệ thống đứt gãy chính, phát
triển các đới dập vỡ rộng và các đứt gãy phụ kéo theo dạng bậc thang làm cho
đới nứt nẻ, dập vỡ mở rộng thêm. Chính hệ thống đứt gãy này là môi trường và
điều kiện thuận lợi để các thành tạo magma xâm nhập phức hệ Định Quán và

Đèo Cả xuyên lên.
II.3.2- Hệ thống khe nứt chính.
Theo kết quả đo vẽ bản đồ địa chất của đoàn Địa chất Việt Tiệp liên đoàn
Địa chất 6 và liên đoàn Địa chất Trung Trung Bộ thì trong vùng có hai hệ thống
khe nứt chính phương đông bắc - tây nam, tây bắc- đông nam và á kinh tuyến,
đó chính là sự có mặt của các đai cơ, đai mạch thành phần từ bazơ đến acit (các
đai mạch lamprophyr, riolit của hệ tầng Nha Trang). Phân bố rải rác ở vùng núi
Từ Thiện.
II.4- ĐẶC ĐIỂM ĐỊA MẠO.
Nhìn vào sự tồn tại và sắp xếp của các thành tạo địa chất trong vùng
nghiên cứu, ta thấy rằng hoàn toàn vắng mặt các trầm tích Paleogen (E) trên cột
địa tầng. Điều đó chứng tỏ rằng thời kì này vùng nghiên cứu được nâng lên và bị
bào mòn mãnh liệt, tạo nên bề mặt mài mòn để sau này các trầm tích Neogen -
Đệ Tứ của hệ tầng Mộ Tháp (N
2
-Q
1
mt) phủ bất chỉnh hợp lên trên.
Dựa vào đặc điểm nguồn gốc hình thái, có thể chia địa mạo của vùng
thành các dạng sau:
II.4.1- Địa hình xâm thực bóc mòn.
a- Sườn xâm thực - bóc mòn.
Đây là kiểu địa hình đặc trưng cho các sườn đồi, núi. Địa hình xâm thực
bóc mòn được cấu thành bởi các đá xâm nhập granitoit phức hệ Đèo Cả,
granodiorit của phức hệ Định Quán, các đá trầm tích hệ tầng La Ngà, các đá
phun trào riolit, riodacit hệ tầng Nha Trang. Đặc điểm của dạng địa hình này là
các dãy núi có phương kéo dài theo tây bắc- đông nam như núi Chà Bang, núi
Từ Thiện, chiếm diện tích nhỏ ở phía tây nam và rải rác ở trung tâm vùng. Độ
cao không lớn lắm từ 200÷400m, đỉnh núi tương đối tròn sườn không dốc lắm,
độ dốc của sườn từ 20 - >30

o
. Vỏ phong hóa kiểu sialit tới ferosialit, dày tới
hàng mét. Các núi này có tuổi tương đối trẻ và phát triển một số hệ thống khe
nứt đứt gãy nhỏ tạo điều kiện cho quá trình phong hoá, xâm thực bóc mòn xảy
ra mạnh mẽ, là nguồn cung cấp sản phẩm cho các thành tạo eluvi - deluvi.
b- Sườn bóc mòn tổng hợp.
Đây là kiểu sườn phổ biến trên các núi cao. Kiểu sườn này có trắc diện lồi
lõm phức tạp, độ dốc sườn từ 15 - 40
o
Trên một sườn gặp nhiều quá trình phá
hủy địa hình như: đổ lở, bóc mòn, xâm thực. Chân sườn gặp các tích tụ như vạt
gấu sườn tích, đống đá đổ. Vỏ phong hóa ở đây khá dày đến hàng chục mét.
c- Sườn bóc mòn.
Thường gặp ở các đồi thấp rải rác trong vùng đồng bằng. Sườn có trắc
diện lồi, chân sườn thường có dải vạt gấu sườn tích rộng từ từ 10 - 30m phủ lên
các mặt thềm kề cận. Sườn phát triển trên các đá xâm nhập phức hệ Đèo Cả. Vỏ
phong hóa ở đây thuộc kiểu sialit, ferosialit, nhiều nơi lộ đá gốc. Chiều dày vỏ
có nơi dến hàng chục mét.
II.4.1- Địa hình tích tụ.
Địa hình này chiếm diện tích chủ yếu trong vùng, phân bố từ phía nam
vùng đến tận bờ nam sông Cái, bao gồm:
A- Địa hình tích tụ nguồn gốc biển: Địa hình tích tụ nguồn gốc biển
chiếm diện tích khá lớn trên cả các vùng nghiên cứu, đó là các bậc thềm, bar cát,
đồng bằng có tuổi Pleistocen giữa đến nay.
- Các tích tụ nguồn gốc biển tuổi Pleistocen giữa đến Holocen sớm, tạo ra
dạng địa hình đồng bằng, bar cát phân bố độ cao vài chục m đến hơn 100m, cách
bờ biển hiện đại từ vài trăm mét đến hàng nghìn mét. Chúng có bề mặt xu thế
nghiêng thoải dần ra biển độ dốc 5 -15
0
.

- Các tích tụ nguồn gốc biển tuổi holocen giữa đến nay: Tích tụ này chiếm
diện tích nhỏ, chúng tạo thành các dải hẹp kéo dài song song với bờ biển hiện
đại và phân bố ở gần biển. Độ cao phân bố từ 0m đến vài chục mét, chiều rộng
vài chục mét đến hơn 100m, bề mặt tích tụ thoải dần ra biển.
B- Địa hình tích tụ nguồn gốc sông): Địa hình tích tụ nguồn gốc sông
chủ yếu phân bố phía tây các vùng nghiên cứu, đó là các đồng bằng bề mặt bằng
phẳng hoặc thoải. Trong phạm vi diện tích nghiên cứu, dạng địa hình nguồn gốc
này chiếm diện tích rất nhỏ hẹp. Chúng tạo thành các dải hẹp phân bố dọc theo
thung lũng một số con sông, suối trong vùng.
C- Địa hình tích tụ nguồn gốc hỗn hợp biển- đầm lầy: hình thành các
dải hẹp phân bố dọc theo thung lũng một số con suối lớn hoặc các phần trũng
chứa nước của địa hình. Độ cao phân bố từ vài m đến vài chục m, chiều rộng vài
chục m đến 500-600m, chiều dài có khi đến hàng km.
D- Địa hình tích tụ nguồn gốc gió: Địa hình này có tuổi từ Pleistocen
giữa đến nay. Đặc điểm địa mạo rõ nét của dạng địa hình này là các cồn cát, đê
đụn cát nhấp nhô trên bề mặt địa hình
- Tích tụ do gió có tuổi Pleistocen muộn- Holocen sớm: Tích tụ này phân
bố cách bờ biển hiện đại từ 500-600m đến hàng chục km, có hướng kéo dài theo
đường bờ. Độ cao phân bố từ vài chục m đến hơn 100m. Bề mặt khá thoải, đôi
nới còn dấu tích mờ nhạt của cồn cát. Nhìn chung, tích tụ này thường tạo nên
các gò, cồn cát thoải, độ dốc từ 0 - 10
0
, từ đỉnh nghiêng thoải dần về phía đông
hoặc đông-nam.
- Tích tụ do gió có tuổi Holocen giữa- muộn: Phân bố gần bờ biển hiện
đại và song song với đường bờ, chúng cách bờ từ vài chục m, lấn sâu vào nội địa
có khi đến 5km. Tích tụ do gió thời kỳ Holocen giữa- muộn phân bố ở độ cao
tuyệt đối từ vài mét đến hàng chục mét. Chúng tạo nên các đê, đụn cát nhấp nhô,
kéo dài không liên tục và có hướng theo đường bờ. Các đê, đụn cát thường có
sườn đón gió (đông bắc, đông nam) thoải và sườn khuất gió dốc (tây nam, Tây

bắc), độ dốc sườn có khi đến 40
0
.
Trong tích tụ do gió thời kỳ Holocen muộn có hai kiểu địa hình khác
nhau: Kiểu địa hình cồn cát cố định và kiểu địa hình cồn cát biến động. Kiểu địa
hình cồn cát cố định như đã trình bày trên. Kiểu địa hình cồn cát biến động phân
bố hạn chế. Kiểu địa hình này thường xuyên thay đổi hình thái tương đối dưới
tác dụng của gió.
II.5- ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT THUỶ VĂN.
Công tác nghiên cứu địa chất thuỷ văn của vùng được tiến hành cùng với
quá trình đo vẽ bản đồ địa chất khoáng sản nên tài liệu còn nhiều hạn chế. Dựa
vào đặc điểm phân bố có thể chia ra hai loại: Trên mặt và dưới đất.
II.5.1- Đặc điểm nước trên mặt.
Trong diện tích vùng công tác, mạng sông suối tuy có phát triển song
không dài. Phía bắc vùng có sông Cái bắt nguồn từ sườn đông khối nâng Đà Lạt
chảy về, kết hợp với các sông nhánh khác là nguồn cung cấp nước sinh hoạt
chính cho vùng hạ lưu. Trung tâm vùng có các sông suối nhỏ chảy qua như:
sông Bàu Ngư bắt nguồn từ dãy núi Chà Bang huyện Ninh Phước với lưu lượng
nước ít. Suối Tam Lang và một số suối khác, hội tụ với các bàu: Bàu Ngư, Bàu
Sơn Hải tạo nên mạng thủy văn đa dạng. Nước ở vùng hạ lưu sông chịu ảnh
hưởng của thuỷ triều nên thường bị nhiễm mặn, tổng độ khoáng hoá miền hạ lưu
thay đổi từ 0,5÷2mg/l, nước có dạng bicabonat, clorua canxi. Các suối ở đây
thường có chiều dài ngắn, vế mùa khô lượng nước ít và chứa lượng hydrocit sắt
khá cao.
Vào mùa khô phần lớn các sông suối đều có dòng chảy yếu. Mùa mưa
nước khá lớn, có thể gây lũ lụt song chỉ mang tính tức thời. Nhìn chung, các
sông không có khả năng giao thông đường thuỷ.
II.5.2- Đặc điểm nước dưới đất.
Dựa vào cấu trúc vùng nghiên cứu, thành phần thạch học và đặc điểm
ĐCTV, vùng công tác được chia ra các phức hệ nước như sau:

II.5.2.a- Phức hệ chứa nước trong các trầm tích bở rời Đệ Tứ (Q)
Phức hệ chứa nước trong các trầm tích bở rời Đệ Tứ có diện phân bố khá
rộng. Dựa vào nguồn gốc, thành phần thạch học và đặc điểm của trầm tích thì
nước trong trầm tích Đệ Tứ của vùng nghiên cứu được chia ra:
+ Nước chứa trong trầm tích bở rời có nguồn gốc biển, biển-đầm lầy:
Diện phân bố khá rộng, thành phần chủ yếu là cát, cát bột thấm chứa nước tốt.
Qua các giếng khơi của dân trong vùng thì mực nước thường từ 1÷2m về mùa
mưa, còn về mùa khô mực nước thấp hơn, lưu lượng nước từ 0,3÷ hơn 1,0 lít/s
Nước trong tầng này thường là loại nước lợ, nước trong, vị hơi mặn. Một số nơi
nước bị nhiễm hydrocit sắt dễ tạo thành kết tủa có màu vàng. Nước có dạng
bicabonat natri, tổng độ khoáng hoá từ 0,5÷1 mg/l. Nguồn cung cấp nước cho
phức hệ này là nước mưa, nước mặt.
+ Nước trong trầm tích bở rời deluvi-eluvi, aluvi: Ven chân các dải đồi-
núi thấp và dọc các con suối trong vùng.
Diện phân bố các trầm tích loại này không lớn lắm mà chỉ tập trung dọc
theo các chân đồi và dọc theo các con suối. Bề dày dự đoán khoảng từ 0,5 ÷ 9m.
Thành phần trầm tích chủ yếu các mảnh vụn, sạn, sỏi và ít sét, mức độ gắn kết
yếu, rời rạc, độ lỗ hổng lớn tạo khả năng thấm thoát nước tốt, qua khảo sát các
giếng dân dùng trong vùng có trầm tích deluvi-eluvi, aluvi cho thấy mực nước
cách mặt từ ~2-3m, lưu lượng 0,3÷0,5 l/s. Nước trong, không mùi, vị nhạt, tổng
độ khoáng hoá từ 0,1÷0,5mg/l, độ ph: 6÷7, nhiệt độ của nước từ 18÷24
o
c, nước
thuộc loại bicacbonat cloruacanxi. Nguồn cung cấp cho nước trong các trầm tích
này là nước mưa, Miền thoá nước là các điểm xuất lộ ở những nơi có địa hình
thấp hơn. Nước ở đây có chất lượng khá tốt nhưng lưu lượng không lớn, là một
trong những vùng nghèo nước nhất trong cả nước.
+ Phức hệ chứa nước trong trầm tích hệ tầng La Ngà (j
2
ln): Phức hệ chứa

nước trong các trầm tích hệ tầng La Ngà chiếm diện tích rất ít và tạo thành
những dải hẹp. Thành phần đất đá chứa nước chủ yếu là cát bột kết, cát kết thạch
anh bị cà nát, nứt nẻ, dập vỡ có chiều dày khoảng từ 800÷900m. Nước trong hệ
tầng này thường bị nhiễm mặn, tổng độ khoáng hoá từ 0,5÷1mg/l, lưu lượng từ
0,3÷0,5 l/s. Mặc dù hơi bị nhiễm mặn song đây lại là nguồn nước uống chính
cho các loài động vật trong vùng, về mùa khô hạn người dân phải đào thành hồ
chứa cho vật nuôi tồn tại.
+ Phức hệ chứa nước trong trầm tích hệ tầng Nha Trang (R/K
2
nt) và các
thành tạo xâm nhập phức hệ Định Quán (GDi/J
3-
K
1
đq), phức hệ Đèo Cả
(G/K
2
đc) :
Thành phần đất đá của hệ tầng này chủ yếu là các trầm tích phun trào
riolit, riolit porphyr granit biotit, granodiorit, bị nứt nẻ, ở đây rất nghèo nước,
nên đây không phải là đối tượng chứa và cung cấp nước cho sinh hoạt trong
vùng.
II.6- ĐẶC ĐIỂM KHOÁNG SẢN
II.6.1- Khoáng sản kim loại.
Dọc theo đường bờ biển trong diện tích vùng nghiên cứu có các điểm
quặng sa khoáng titan và các khoáng vật khác ( Ilmenit, rutin, zircon, monazit,
leucoxen, anataz, brookit) do liên đoàn Địa chất Trung Trung Bộ khảo sát, đặc
biệt là Công ty Cổ phần khoáng sản Trung Việt đang khai thác.
Đặc điểm các thân quặng sa khoáng chủ yếu phân bố trong các tích tụ do
gió Holocen trung - thượng (mvQ

2
2-3
) và Holocen thượng (vQ
2
3
). Một số thân
quặng quy mô nhỏ trong cát biển hiện đại (mQ
2
3
). Đáng chú ý, trong cát đỏ hệ
tầng Phan Thiết (m
b
Q
1
2-3
pt), một số dạng thấu kính đơn lẻ đã được phát hiện, với
hàm lượng xấp xỉ chỉ tiêu công nghiệp hiện hành, nhưng đây là hệ tầng có chiều
dày lớn. Điều đó cho thấy, tiềm năng sa khoáng của hệ tầng này rất lớn, cần
được đầu tư đánh giá tiếp theo.
Nhìn chung, các thân quặng thường có phương kéo dài song song hoặc
gần song song với bờ biển hiện đại (phương ĐB-TN, hoặc gần á kinh tuyến),
chiều dài vài trăm mét đến hàng km, chiều rộng từ vài chục đến hàng trăm mét
đôi khi hàng km. Thân quặng thường uốn lượn theo hình thái các đê đụn cát
chứa chúng.
Thành phần khoáng vật sa khoáng nhóm titan: chủ yếu là ilmenit, ít rutil,
anatas, leucoxen và rất ít brookit. Các khoáng vật nhóm này chiếm tỷ lệ từ
>75% đến >95% phần nặng trong các mẫu phân tích. Khoáng vật monazit trong
hầu hết các mẫu đều ít đến rất it. Đặc biệt hàm lượng zircon khá cao, phổ biến
trong các mẫu chúng chiếm 7-20% phần nặng có ích, cá biệt có mẫu > 25%. Các
khoáng vật quý hiếm khác như: corindon, saphyr gặp 1- vài hạt trong một số

mẫu.
Theo kết quả điều tra khảo sát của Liên đoàn Địa chất Trung Trung Bộ,
đã phát hiện va khoanh định được một số thân quặng sa khoáng như sau:
+Thân quặng sa khoáng khu Từ Thiện:
Quặng sa khoáng titan phân bố trong tầng trầm tích hỗn hợp biển gió tuổi
Holocen giữa - muộn (mvQ
2
2-3
) thuộc địa phận xã An Hải và thôn Từ Thiện xã
Phước Dinh, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.
Các công trình khống chế: KT.1091 ÷ KT.1111
Chiếu dài thân quặng trung bình: 4000m
Chiều rộng Trung bình: 1561m
Chiều dày trung bình: 6,3
Hàm lượng khoáng vật nặng có ích: 12,48 kg/m
3
Tài nguyên dự báo: 490.535 tấn
+Thân quặng sa khoáng khu Sơn Hải:
Quặng sa khoáng titan phân bố trong tầng trầm tích hỗn hợp biển gió tuổi
Holocen giữa - muộn (mvQ
2
2-3
), thuộc địa phận và thôn Sơn Hải, xã Phước Dinh,
huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Tạo thành dải hẹp dọc theo bờ biển.
Chiếu dài thân quặng trung bình: 1600m
Chiều rộng Trung bình: 375m
Chiều dày trung bình: 7,7
Hàm lượng khoáng vật nặng có ích: 20 kg/m
3
Tài nguyên dự báo: 92.400 tấn.

Ngoài khoáng sản sa khoáng trong vùng nghiên cứu còn có các khoáng
sản khác như đá ốp lát, đá xây dựng, cát xây dựng
II.6.2- Vật liệu xây đựng.
a- Đặc điểm khoáng sản đá ốp lát.
Trong vùng nghiên cứu đã xác định được các thể đá granitoit màu xanh
trứng sáo đậm, thuộc pha 2, phức hệ Đèo Cả, đạt yêu cầu làm đá ốp lát và được
thị trường ưa chuộng. Đây là loại granitoit có màu sắc đẹp, duy nhất có mặt ở
đây, phân bố ở dải phía bắc đỉnh núi Chà Bang (327m), thuộc địa phận xã Phước
Nam và một số khối ở vùng núi Từ Thiện (cao 190m) xã Phước Dinh huyện
Ninh phước. Đỉnh núi nhọn, đường chia nước hẹp và kéo dài, sườn dốc 25÷30
o
.
Lớp phủ thực vật thưa, đá lăn phân bố chồng chất trên đỉnh và vùng trũng khe
cạn.
Các đá ở đây có màu sắc đặc trưng là màu xanh trứng sáo đậm đến xanh
nhạt, xanh xám trắng lốm đốm đen. Đá có kiến trúc hạt, tấm, lăng trụ nửa tự
hình và cấu tạo khối.
Thành phần khoáng vật gồm: thạch anh 25÷33%, felspat kali 33÷42%,
plagiocla (trung tính, acid) 28 ÷ 33%, biotit ít÷3%, horblend (xanh đậm, phớt
vàng) ít÷3%, pyrocen, zircon, apatit, khoáng vật quặng ít hạt. Đá có cấu tạo
khối, kiến trúc hạt nửa tự hình.
Kết quả phân tích một số mẫu cơ lý và mẫu sức tô điểm cho thấy: Cường
độ kháng nén từ 1200÷1900 KG/Cm
2
, hệ số kiên cố 12÷29, hệ số hoá mềm
K
m
=0,96 ÷ 0,98. Sức tô điểm trung bình, độ bóng gương đạt từ 77 ÷ 98%.
Cường độ phóng xạ từ 16 ÷ 24 µR/h, hàm lượng sulfur <1%.
Đá gốc lộ theo sườn núi, với diện lộ từ vài chục đến trăm m

2
. Đá có độ
liền khối tốt, đảm bảo yêu cầu làm đá ốp lát. Trên bề mặt thường nứt nẻ và
phong hoá không đồng đều.
Một số vị trí tập trung các khối đá lăn có màu sắc đẹp, có thể làm đá ốp lát
đạt yêu cầu thương mại.
Kết quả nghiên cứu của liên đoàn Địa chất Trung Trung Bộ đã đánh giá
trữ lượng ở cấp C
2
và tài nguyên dự báo cấp P
1
ở hai khu: Bàu Ngữ và Từ Thiện
như sau:
-Khu Bàu Ngữ: Trữ lượng và TNDB cấp C
2
+ P
1
= 4.874.593 m
3
.
Trong đó: Cấp C
2
= 524.156 m
3
; P
1
= 4.350.437 m
3
.
-Khu Từ Thiện: Trữ lượng và TNDB cấp C

2
+ P
1
= 3.648.134 m
3
.
Trong đó: Cấp C
2
= 1.221.118 m
3
; P
1
= 2.738.938 m
3
.
Ngoài ra trong vùng còn có nhiều điểm khai thác tự do làm vật liệu xây
dựng thông thường với quy mô nhỏ lẻ.
b- Cát xây dựng:
Đây là vùng phổ biến các trầm tích biển bở rời, hiện đại. Thành phần
thạch học chủ yếu là cát thạch anh hạt nhỏ, lẫn bột. Cát có độ mài tròn chọn lọc
tốt. Ngoài ra còn có các điểm tích tụ cát proluvi với độ hạt lớn hơn cũng là
nguồn cung cấp tốt cho vấn đề xây dựng địa phương. Cho nên vấn đề cát xây
dựng thông thường là khá thuận lợi. Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là trong cát
còn bị nhiễm các tạp chất nhiễm muối là vấn đề có hại cho việc xây dựng các
công trình lớn.

×