Tải bản đầy đủ (.pdf) (161 trang)

luận án tiến sĩ luật học hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 161 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LIÊU CHÍ TRUNG

HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2022



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................... 1
Chuơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .............................................................................................. 8
1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước .................................................................... 8
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi................................................................. 17
1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt
ra nghiên cứu trong luận án ............................................................................................ 21
Kết luận Chƣơng 1 ......................................................................................................................... 24
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI THẨM NHÂN
DÂN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................................................................................. 26
2.1. Khái niệm, đặc điểm, địa vị pháp lý của hội thẩm nhân dân
trong tố tụng hình sự .......................................................................................................... 26
2.2. Vai trò và các mối quan hệ của hội thẩm nhân dân trong tố
tụng hình sự ............................................................................................................................. 36
2.3. Thể chế hóa bằng pháp luật các vấn đề về hội thẩm nhân dân


trong tố tụng hình sự .......................................................................................................... 42
2.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự ....................................................... 51
2.5. Đại diện nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử trong các
mơ hình tố tụng hình sự .................................................................................................... 55
Kết luận Chƣơng 2 ......................................................................................................................... 69
Chƣơng 3: THỰC TIỄN QUY ĐỊNH VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT
VỀ HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở
VIỆT NAM ........................................................................................................................................... 71
3.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về hội thẩm nhân dân trong
tố tụng hình sự........................................................................................................................ 71
3.2. Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về hội thẩm
nhân dân trong tố tụng hình sự ở Việt Nam ......................................................... 89
Kết luận Chƣơng 3 .......................................................................................................................113


Chƣơng 4: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG VAI
TRỊ CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......................................................................................................115
4.1. Yêu cầu tăng cường vai trị của hội thẩm nhân dân trong tố
tụng hình sự ở Việt Nam ................................................................................................115
4.2. Các giải pháp tăng cường vai trị của hội thẩm nhân dân trong
tố tụng hình sự......................................................................................................................121
Kết luận Chƣơng 4 .......................................................................................................................145
KẾT LUẬN ........................................................................................................................................147
DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI ..................................................................................................................................................149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................150



DANH MỤC VIẾT TẮT
+ Bộ luật Tố tụng hình sự

: BLTTHS

+ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

: CHXHCN

+ Hội đồng nhân dân

: HĐND

+ Hội đồng xét xử

: HĐXX

+ Hội thẩm nhân dân

: HTND

+ Nhà xuất bản

: Nxb

+ Thành phố

: TP.

+ Tố tụng hình sự


: TTHS

+ Tịa án nhân dân

: TAND

+ Xã hội chủ nghĩa

: XHCN


DANH MỤC PHỤ LỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Danh mục bảng

Bảng 2.1. Phân biệt giữa bồi thẩm viên và hội thẩm nhân dân ............................ 160
Bảng 3.1. So sánh phụ thẩm nhân dân và hội thẩm nhân dân ............................... 161
Bảng 3.2. Bảng thống kê kết quả xét xử các vụ án hình sự có hội thẩm
nhân dân tham gia của TAND TP. Hải Phòng 2015-2021..................... 162
Bảng 3.3. Bảng thống kê kết quả xét xử các vụ án hình sự có hội thẩm
nhân dân tham gia của TAND TP. Hà Nội 2015-2021 ............................ 162
Bảng 3.4. Bảng thống kê kết quả xét xử các vụ án hình sự có hội thẩm
nhân dân tham gia của TAND TP. Đà Nẵng 2015-2021 ........................ 163
Bảng 3.5. Bảng thống kê kết quả xét xử các vụ án hình sự có hội thẩm
nhân dân tham gia của TAND TP. Hồ Chí Minh 2015-2021............... 163
Bảng 3.6. Thời gian xem xét hồ sơ trước phiên tòa của thẩm phán trong
vụ án hình sự ..................................................................................................................... 164
Bảng 3.7. Bảng thống kê kết quả xét xử các vụ án có hội thẩm nhân dân
tham gia của TAND huyện Hoài Đức (Hà Nội) 2008-2018 ................. 164
Bảng 3.8. Bảng thống kê kết quả xét xử các vụ án có hội thẩm nhân dân

tham gia của TAND huyện Tiên Lữ (Hưng Yên) 2008-2018 .............. 165
Bảng 3.9. Trình độ học vấn của hội thẩm nhân dân cấp tỉnh tại một số
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nhiệm kỳ 2016-2021............... 165
Bảng 3.10. Trình độ hội thẩm nhân dân cấp tỉnh có kiến thức luật và
trình độ chun mơn khác tại một số tỉnh, nhiệm kỳ 2016-2021 ....... 166
Bảng 3.11. Hội thẩm nhân dân tái cử và tham gia lần đầu tại một số tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, nhiệm kỳ 2016-2021 .......................... 166
Bảng 3.12. Bảng thống kê kết quả xét xử các vụ án có hội thẩm nhân dân
tham gia của TAND huyện Phúc Thọ (Hà Nội) 2015-2021 ................. 166
Bảng 3.13. Bảng thống kê kết quả xét xử các vụ án có hội thẩm nhân dân
tham gia của TAND quận Hoàng Mai (Hà Nội) 2015-2021................. 167


Bảng 3.14. Bảng thống kê kết quả xét xử các vụ án có hội thẩm nhân dân
tham gia của TAND quận Dương Kinh (Hải Phịng) 2015-2021 ...... 167
Bảng 3.15. Tình hình giải quyết, xét xử án hình sự theo thủ tục sơ thẩm,
phúc thẩm cả nước năm 2018, 2019, 2020 ...................................................... 168
Bảng 3.16. Cơ cấu hội thẩm nhân dân cấp tỉnh kiêm nhiệm tại một số tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, nhiệm kỳ 2016-2021.......................... 169

Danh mục biểu đồ
Biểu đồ 3.1. Vai trò đại diện cho người dân tham gia xét xử trong các vụ
án hình sự của hội thẩm nhân dân như vừa qua? ......................................... 170
Biểu đồ 3.2. Yếu tố chính khiến vai trị, nhiệm vụ của hội thẩm nhân dân
khó đạt như yêu cầu là do? ....................................................................................... 170
Biểu 3.3. Hầu hết các quyết định của hội đồng xét xử vừa qua, hội thẩm
nhân dân đều thể hiện đồng tình với quan điểm của thẩm phán
(chủ tọa phiên tịa), nguyên nhân vì? .................................................................. 171
Biểu đồ 4.1. Hội thẩm nhân dân chiếm đa số (2/3 hoặc 3/5) trong hội
đồng xét xử và trực tiếp tham gia xét xử sơ thẩm các vụ án hình

sự theo quy định của pháp luật như hiện nay? .............................................. 171
Biểu đồ 4.2. Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử trong các vụ án hình sự
vừa qua? ............................................................................................................................... 172
Biều đồ 4.3. Sự tham gia của hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử
hiện nay ở Việt Nam? .................................................................................................. 172
Biều đồ 4.4. Để phát huy vai trò đại diện nhân dân tham gia xét xử các

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Phán quyết của tịa án về vụ án hình sự được thể hiện bằng bản án hoặc
quyết định của hội đồng xét xử không những liên quan trực tiếp đến quyền sống,
quyền tự do hay sinh mệnh chính trị của mỗi cá nhân mà nó cịn có thể ảnh hưởng lớn
đến xã hội, uy tín của nhà nước. Chính vì ý nghĩa đặc biệt đó nên pháp luật ln coi trọng


quy định trình tự, thủ tục tố tụng, xét xử hết sức chặt chẽ nhằm xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, nhưng đồng thời cũng nhằm tránh bất công, hạn chế oan, sai và bảo
vệ quyền con người.

Trải qua hàng nghìn năm phát triển của lịch sử xã hội loài người, đến nay luật
pháp ở hầu hết các nước đều quy định đại diện nhân dân tham gia xét xử các vụ án
hình sự. Tuy nhiên, tùy theo quan điểm, điều kiện ở mỗi quốc gia, mơ hình tổ chức,
cách thức thực hiện mà có tên gọi khác nhau, như “bồi thẩm”, “hội thẩm”, “thẩm phán
không chuyên”,… nhưng về cơ bản nó đều nhằm thể hiện tính dân chủ, nhân đạo và
để các phán quyết của tòa án đảm bảo công lý, công bằng.
Ở Việt Nam, từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, xét xử có hội
thẩm đã trở thành nguyên tắc hiến định, được ghi nhận trong các bản Hiến pháp. Hội
thẩm tham gia xét xử vụ án hình sự khơng chỉ dựa trên cơ sở pháp luật mà còn dựa
trên các giá trị, chuẩn mực đạo đức xã hội để đánh giá tính chất, mức độ, sự tác động

mà hành vi của bị cáo và các sự việc liên quan đối với xã hội. Đây cũng là cách thức
để nhân dân trực tiếp tham gia vào công tác quản lý nhà nước, giám sát hoạt động tư
pháp, đồng thời góp phần để các phán quyết tư pháp không bị lệ thuộc một cách cứng
nhắc vào các quy phạm pháp luật, giúp cho việc xét xử được chính xác, khách quan,
cơng bằng. Hơn nữa, hội thẩm là những người có kiến thức thực tế, gắn liền với đời
sống xã hội nên trong quá trình thực hiện vai trị của mình, họ cịn là nhịp cầu nối
giữa tịa án và cộng đồng, tích cực hỗ trợ cho công tác tuyên truyền và thực thi pháp
luật.
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới và để xây
dựng thành công nhà nước pháp quyền XHCN, vấn đề phát huy dân chủ, bảo vệ quyền
con người tiếp tục đặt ra với những yêu cầu mới. Nghị quyết số 08-NQ/TW


ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong
thời gian tới xác định “Khi xét xử, các tòa án phải đảm bảo cho mọi cơng dân đều bình
đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật; việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng
tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên,
của người bào chữa, của bị cáo, nguyên đơn, bị đơn” [6]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng chỉ rõ “Tịa
án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”, đồng thời đặt ra yêu cầu “Đổi mới
việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính cơng khai dân chủ, nghiêm
minh,…” [8].
Tuy nhiên, đến nay vai trị của HTND nói chung và HTND trong TTHS vẫn chưa
thực sự được phát huy, nhiều quy định và quá trình tổ chức thực hiện đang bộc lộ những
hạn chế, bất cập. Khơng ít vấn đề liên quan đến địa vị pháp lý, trách nhiệm của HTND
trong xét xử cũng như hoạt động, quản lý hội thẩm chưa được làm rõ; hoạt động của
HTND trong TTHS chưa đáp ứng đúng yêu cầu; tình trạng vi phạm pháp luật, oan sai
trong các vụ án hình sự vẫn diễn ra khá nghiêm trọng. Thống kê cho thấy, trong cơ cấu

thành phần hội thẩm hiện nay có đến 99,95 % hội thẩm đại diện cho 7% dân số Việt Nam
là cán bộ, cơng chức, viên chức và lực lượng hưu trí, nhưng chỉ có 0,03% hội thẩm đại
diện cho 93% dân số còn lại tham gia hoạt động xét xử của tịa án [4]. Chỉ tính từ 1/1/2010
đến hết năm 2020 các cơ quan nhà nước giải quyết xong trên 420 vụ việc bồi thường oan
sai với số tiền phải bồi thường ước tính trên 225 tỷ đồng [47]. Báo cáo sơ kết 5 năm thực
hiện Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đánh giá “Mặc dù Nghị quyết 49-NQ/TW
xác định “tịa án có vị trí trung tâm”, nhưng trên thực tế, vị trí và vai trị của tịa án chưa
được đặt đúng tầm. Hoạt động của các TAND các cấp vẫn cịn một số sai sót, chất lượng
xét xử chưa cao; có nhiều vụ án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị; nhiều vụ án đã có
hiệu lực pháp luật nhưng vẫn bị đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm… Một bộ phận nhân
dân chưa thực sự tin tưởng tính đúng đắn của nhiều bản án, quyết định của TAND” [2,
tr.114].

2


Từ một số phân tích trên cho thấy, việc nghiên cứu về HTND trong TTHS một
cách toàn diện, khoa học, có hệ thống nhằm làm rõ bản chất, thực trạng để chỉ ra
những ưu điểm, khuyết điểm, cũng như những bất cập, hạn chế, đồng thời đề ra các
giải pháp phù hợp, nhằm đáp ứng các yêu cầu cải cách tư pháp là một trong những
nhiệm vụ hết sức cấp thiết. Đây chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Hội thẩm nhân
dân trong tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu.
Cơ sở lý thuyết của luận án
- Câu hỏi nghiên cứu trọng tâm: Làm thế nào để hoàn thiện quy định và thực
hiện có hiệu quả vai trị của HTND trong TTHS ở Việt Nam hiện nay?.
- Lý thuyết nghiên cứu:
Hệ thống lý luận về tố tụng nói chung và lý luận về chính sách pháp luật, chính
sách TTHS nói riêng; định hướng, chiến lược cải cách tư pháp trong xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
Lý thuyết về chế định HTND nói chung, HTND trong TTHS nói riêng trong tư

pháp TTHS.
- Giả thuyết nghiên cứu
+ HTND trong TTHS được hình thành, phát triển và có quan hệ, chịu sự tác
động của rất nhiều yếu tố, trong đó có chính sách pháp luật của nhà nước nhằm phát
huy dân chủ, đảm bảo công bằng, công lý và quyền con người.
+ Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về HTND trong TTHS cịn nhiều
bất cập, nhất là ở q trình tham gia xét xử của HTND trong vụ án hình sự.
+ Các giải pháp hoàn thiện HTND trong TTHS ở Việt Nam hiện nay chưa
được nghiên cứu, thực hiện một cách đầy đủ, tồn diện.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn về HTND trong TTHS,
luận án đề xuất các giải pháp tăng cường vai trò của HTND trong TTHS ở Việt Nam.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên đây, luận án tập trung thực hiện các nhiệm vụ chủ
yếu sau:

3


Thứ nhất, xem xét, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
liên quan đến đề tài, làm rõ những kết quả nghiên cứu đã công bố, xác định những
khoảng trống, các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Thứ hai, làm rõ khái niệm, đặc trưng, vai trò của HTND trong TTHS; xem xét
về các mối quan hệ, cơ sở hình thành, những yếu tố tác động đến HTND trong TTHS;
quá trình hình thành, phát triển của đại diện nhân dân trong xét xử hình sự; việc tổ
chức, hoạt động của một số mơ hình TTHS tiêu biểu hiện nay trên thế giới để liên hệ
với Việt Nam.
Thứ ba, phân tích, đánh giá quy định và thực tiễn thi hành quy định pháp luật

về HTND trong TTHS ở Việt Nam từ khi có Hiến pháp năm 2013 đến nay; chỉ ra
những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó.
Thứ tư, phân tích các yêu cầu và đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường vai
trò của HTND trong TTHS ở Việt Nam trên cơ sở phù hợp với đặc thù tình hình chính
trị - xã hội Việt Nam và xu hướng phát triển hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận, thực tiễn quy định
pháp luật và thi hành quy định về HTND trong TTHS ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu quy định về hội thẩm nhân dân trong xét xử
vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh và cấp huyện ở Việt Nam.
- Về thời gian: Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong đó tập trung
vào giai đoạn từ khi có Hiến pháp năm 2013 đến nay.
- Phạm vi khơng gian: Nghiên cứu trên phạm vi tồn quốc.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận mà luận án sử dụng gồm: Phép duy vật biện chứng và phép
duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; chính sách, pháp luật của Nhà nước CHXHCN Việt
Nam về xây dựng và cải cách tư pháp. Từ phương pháp chung đó,

4


tác giả sử dụng hướng tiếp cận hệ thống đa ngành, liên ngành đối với nội dung
nghiên cứu của luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu trong từng chương, mỗi tiểu
mục, vấn đề của luận án, tác giả sẽ lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp, như:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Sử dụng để nghiên cứu phân tích, tổng
hợp các văn bản, tài liệu, số liệu liên quan đến quy định của pháp luật về HTND và
hoạt động xét xử đã và đang được áp dụng trong thực tiễn; các kết quả nghiên cứu
đã được công bố và áp dụng;
- Phương pháp thống kê: Sử dụng để thống kê từ số liệu thực tế và kết quả
hoạt động thực tế liên quan đến HTND trong TTHS của các cơ quan chức năng và tài
liệu tin cậy từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay;
- Phương pháp lịch sử: Sử dụng để tìm hiểu, nghiên cứu quá trình hình
thành, phát triển và hoạt động TTHS có sự tham gia của quần chúng nhân dân;
- Phương pháp so sánh: Sử dụng để so sánh HTND nói chung và HTND trong
TTHS ở từng giai đoạn tại Việt Nam và một số mơ hình TTHS tiêu biểu của
các nước thực hiện việc người dân tham gia xét xử;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Sử dụng để tổng kết và rút ra những
vấn đề có tính ngun tắc của chế định HTND;
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Sử dụng lựa chọn các tài liệu, số liệu,
mơ hình tiêu biểu có liên quan từ các kết quả nghiên cứu, thu thập để làm căn cứ, cơ
sở cho các nội dung luận án.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Sử dụng để thu thập ý kiến của các chuyên gia,
nhà khoa học, người làm việc trong các cơ quan tiến hành tố tụng,… để làm rõ đánh

giá, nhận xét về thực trạng vai trò, hoạt động của HTND trong TTHS ở Việt Nam.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là cơng trình đầu tiên về HTND trong TTHS ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay với những điểm mới cơ bản như sau:
- Hệ thống, bổ sung, phân tích làm sâu sắc hơn những vấn đề lý luận và thực
tiễn về khái niệm, vai trò, địa vị pháp lý, đặc điểm và các yếu tố tác động, mối quan

5



hệ của HTND trong TTHS cũng như sự hình thành, phát triển của cơ chế đại diện
nhân dân trong xét xử án hình sự.
- Khảo sát, phân tích làm rõ quy định, thực tiễn hoạt động của HTND trong
TTHS ở Việt Nam từ sau khi có Hiến pháp năm 2013 đến nay.
- Phân tích về các ưu điểm, những bất cập, hạn chế và nguyên nhân của HTND
trong TTHS hiện nay; các yếu tố liên quan đến công tác lựa chọn (bầu), quản lý hội
thẩm; các điều kiện làm việc, chính sách đãi ngộ, trách nhiệm pháp lý của HTND
trong TTHS.
- Phân tích, so sánh về lý luận, thực tiễn một số mơ hình TTHS tiêu biểu trên
thế giới, q trình phát triển của HTND trong TTHS ở Việt Nam; đồng thời nêu ra
những yêu cầu tăng cường vai trò của HTND trong TTHS ở Việt Nam hiện nay.
- Kiến nghị các giải pháp (bao gồm cả lý luận, quy định pháp luật và hoạt
động) tăng cường vai trò của HTND trong TTHS hiện nay ở Việt Nam. Đặc biệt, luận
án sẽ đề xuất một số giải pháp, quy định mới liên quan đến cơng tác quản lý; q trình
lựa chọn, bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm hội thẩm; thành phần HTND tham gia HĐXX
và nhiệm vụ của HTND trong quá trình xét xử,... nhằm nâng cao vị trí, vai trị, hiệu
quả hoạt động của HTND trong TTHS.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Với việc làm rõ các vấn đề về quan điểm, điều kiện, thực trạng và nguyên nhân
tồn tại, hạn chế, bất cập của HTND trong TTHS ở Việt Nam, luận án góp phần nhận
thức một cách sâu sắc, đúng đắn, thống nhất những vấn đề lý luận về HTND trong
TTHS trong bối cảnh cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở
nước ta.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên
cứu, giảng dạy mang tính chuyên sâu về HTND trong TTHS; đồng thời là nguồn tham
khảo cho công tác xây dựng pháp luật và phục vụ cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong nghiên cứu, hoạt động tư pháp, xét xử.


6


7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4
chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
Chương 2: Những vấn đề lý luận về hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự
Chương 3: Thực tiễn quy định và thi hành pháp luật về hội thẩm nhân dân
trong tố tụng hình sự ở Việt Nam
Chương 4: Yêu cầu và các giải pháp tăng cường vai trò của hội thẩm nhân
dân trong tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay

7


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CĨ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nƣớc
1.1.1. Nhóm cơng trình nghiên cứu về khái niệm, địa vị pháp lý và vai trò
của hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự
Về khái niệm HTND trong TTHS gồm sách, tài liệu, cơng trình nghiên cứu
liên quan, như: cuốn “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên, Nxb Đà Nẵng xuất
bản năm 2011; cuốn “Từ điển tiếng Việt” do Trung tâm Từ điển và Viện ngôn ngữ
học thực hiện, được Nxb Bách khoa ấn hành năm 2007; Luận văn thạc sĩ đề tài “Địa
vị pháp lý của hội thẩm trong TTHS”, Khoa Luật trường Đại học quốc gia Hà Nội
(2015) của tác giả Trần Thị Kim Cúc. Các tài liệu này đã góp phần giải thích, phân
tích về khái niệm HTND hiểu theo nghĩa gốc Hán, theo từ điển Pháp, gốc Latinh,…
từ đó có cách hiểu thống nhất về thuật ngữ, vị trí của HTND trong xét xử nói chung.

Nhóm các cơng trình nghiên cứu về địa vị pháp lý, vai trò của HTND trong
TTHS, gồm: Đề tài KX.04.06 (2007) “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ
thống các thủ tục tư pháp, nêu cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của tòa án trong nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân” (Chương trình khoa học xã hội cấp
nhà nước 2001 - 2005, do Bộ Tư pháp chủ trì, nghiệm thu năm 2007); Đề tài khoa
học cấp bộ “Đổi mới chế định hội thẩm trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”
do Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Văn Sản làm Chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2009;
Đề tài cấp cơ sở của TAND tối cao (2014) “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản
lý hội thẩm TAND, giải pháp và kiến nghị” do Thẩm phán Chu Xuân Minh làm Chủ
nhiệm. Các cơng trình này đã nêu một cách khái quát về khái niệm, địa vị pháp lý,
vai trò và hoạt động cơ bản của HTND.
Ở tập bài viết gồm 42 trang về công tác tư pháp năm 1950 của Thứ trưởng Bộ
Tư pháp Trần Công Tường đã tập trung phân tích q trình xây dựng chính quyền
dân chủ, nhiệm vụ của TAND và HTND. Tập bài viết đã lý giải về việc đổi tên gọi
“phụ thẩm nhân dân” thành “hội thẩm nhân dân”, đồng thời cho thấy đây khơng chỉ
là sự thay đổi về hình thức mà còn ẩn chứa các giá trị cốt lõi về quan
8


niệm, nhận thức, bản chất, vai trò của HTND thể hiện tính nhân dân với những quy
định tương đối cụ thể [89].
Trong luận án tiến sĩ luật học về đề tài “Địa vị pháp lý của hội thẩm ở Việt
Nam hiện nay”, Học viện Khoa học xã hội 2019, tác giả Trần Thị Thu Hằng đã luận
giải một số vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của HTND, nêu ra thực trạng các mối
quan hệ và các giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lý của HTND. Mặc dù vậy, luận
án không đề cập nhiều đến lịch sử ra đời của cơ chế đại diện nhân dân trong xét xử
và chưa đặt ra các vấn đề riêng về HTND trong TTHS.
Trong nhóm cơng trình nghiên cứu cịn có các bài báo khoa học, chẳng hạn
như bài viết “Bàn về mơ hình tổ chức hệ thống tịa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay”
của TS Nguyễn Minh Đoan đăng trên Tạp chí Tịa án số 4 năm 2010; bài viết “Luận

bàn về tòa án là cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam” của Nguyễn
Bằng Phi đăng trên Tạp chí Tịa án số 15/2014. Tuy không chú trọng vào đặc điểm,
hoạt động của HTND trong TTHS nhưng các bài viết đó đã cung cấp các thông tin,
quan điểm để làm rõ hơn về khái niệm, vai trò, địa vị của HTND cùng thực trạng hoạt
động của HTND nói chung ở Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, trong bài viết “Đôi điều
về chế định hội thẩm trong xét xử hình sự” của Ths. Liêu Chí Trung đăng trên Tạp
chí Luật sư Việt Nam số 6/2015, đã nêu khá rõ quan điểm về vai trò và việc áp dụng
thực hiện hội thẩm trong xét xử hình sự ở Việt Nam hiện nay khi cho rằng việc quy
định và áp dụng xét xử có hội thẩm cùng với ý nghĩa nhân đạo, góp phần giải quyết
vụ án được khách quan còn giúp tăng cường nhận thức và hiểu biết pháp luật của
người dân, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, để người dân giám
sát hoạt động của tòa án một cách trực tiếp, rộng rãi.
1.1.2. Nhóm cơng trình nghiên cứu về lý luận, lịch sử quy định của pháp
luật đối với hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự
Vấn đề quan điểm, nhận thức và lịch sử phát triển chế độ đại diện nhân dân
tham gia xét xử, phải kể đến các tài liệu, cơng trình nghiên cứu như:
Cuốn sách “Lịch sử tư tưởng phương Đông và Việt Nam” của PGS.TS Nguyễn
Minh Tường do Nxb Khoa học và xã hội ấn hành năm 2012, đã giới thiệu về lịch sử
phát triển tư tưởng ở phương Đông như Trung Quốc, Ấn Độ, Ả Rập và Việt Nam.
Trong đó, cuốn sách cung cấp một số thơng tin bổ ích về sự hình thành

9


các quan điểm, tư tưởng tiêu biểu và các điều kiện kinh tế - xã hội gắn liền với bối
cảnh lịch sử, cũng như cách thức tổ chức, hoạt động xét xử ở một số quốc gia ở
phương Đông thời cổ đại. Nội dung cuốn sách cũng chỉ ra những nét cơ bản về các
cơ sở, sự tác động, ảnh hưởng và hoạt động xét xử trong lịch sử ở Việt Nam.

Cuốn sách “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền” do GS. TS Nguyễn

Đăng Dung (Chủ biên), được Nxb Tư pháp xuất bản năm 2004, đã chỉ ra những vấn đề
cơ bản về tổ chức, hoạt động tư pháp và vai trò của người dân trong nhà nước pháp quyền.
Trong đó, tác giả khơng chỉ nêu lên những đặc điểm của các mơ hình tư pháp trong nhà
nước pháp quyền, mà còn nêu ra các dấu hiệu, sự hình thành, mối quan hệ trong tổ chức,
hoạt động của chính quyền, hệ thống tư pháp mà các quốc gia áp dụng thực hiện khi xây
dựng nhà nước pháp quyền.

Trong cuốn sách “Nhận diện nhà nước pháp quyền” của Trần Quyết Thắng do
Nxb Đà Nẵng phát hành năm 2017, dựa trên cơ sở những khảo cứu về nhà nước pháp
quyền đã liệt kê các dấu hiệu nhằm nhận diện một nhà nước pháp quyền hiện đại.
Cuốn sách có phần nêu rõ vai trò của người dân trong tổ chức, hoạt động tư pháp và
quản lý nhà nước của nhà nước pháp quyền.
Ở cuốn sách “Độc lập xét xử trong nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” của TS
Lưu Tiến Dũng do Nxb Tư pháp xuất bản năm 2012, tác giả đã phân tích các cơ
sở khoa học của nguyên tắc độc lập xét xử cũng như các khía cạnh liên quan đến độc
lập xét xử và đưa ra 13 yếu tố cơ bản bảo đảm độc lập xét xử, trong đó có 7 yếu tố có
vai trị quan trọng thuộc về thẩm phán, bồi thẩm, HTND.
Luận án tiến sĩ luật học về đề tài “Các yếu tố bảo đảm độc lập xét xử ở Việt
Nam hiện nay”, Học viện Khoa học xã hội năm 2013 của Nguyễn Hải Ninh đề cập
đến cội nguồn và quá trình hình thành của tư tưởng độc lập xét xử, đồng thời chỉ ra
các yếu tố quan trọng về lý luận, thực tiễn nhằm bảo đảm về độc lập xét xử. Đặc biệt,
đặt trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh cải cách tư pháp, luận án cịn phân tích
thực trạng, đề xuất các giải pháp nâng cao về đảm bảo độc lập xét xử ở Việt Nam
hiện nay.
Cuốn sách “Quy trình lập hiến trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam” của TS. Nguyễn Quang Minh do Nxb Tư pháp phát hành năm 2013 cung

10



cấp những kiến thức cơ bản về lý luận quy trình lập pháp, quá trình hình thành và
thực hiện quy trình lập hiến ở Việt Nam.
Cuốn sách “Chủ tịch Hồ Chí Minh với cơng tác tư pháp” do Tạp chí Dân chủ
và pháp luật tổ chức biên soạn và xuất bản năm 2010, gồm nhiều bài viết có giá trị
của các nhà khoa học, quản lý rất đáng chú ý như: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền tư
pháp nhân dân và các cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam” của TS Uông Chu Lưu;
“Công lý và pháp lý dưới lá cờ “chí cơng vơ tư” của Hồ Chủ tịch” của tác giả Vũ
Đình Hịe. Các bài viết đã nêu bật quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về
hoạt động tư pháp; vai trị của người dân trong quản lý, giám sát hoạt động của bộ
máy nhà nước, hoạt động xét xử; cung cấp nhiều thông tin bổ ích về q trình ra đời,
hoạt động tư pháp, xét xử ở Việt Nam, nhất là sự thay đổi trong nhận thức, quan điểm
vai trò đại diện của người dân trong xét xử từ năm 1950. Các bài viết trong cuốn sách
này cùng với “Tập bài viết của Thứ trưởng Trần Công Tường về công tác tư pháp
năm 1950” [89] đã làm rõ về việc chính thức gọi tên tòa án nhân dân, “phụ thẩm nhân
dân” được đổi là “hội thẩm nhân dân” với những quy định thể hiện rõ hơn về thẩm
quyền, vai trò của HTND trong xét xử hình sự.
Cùng với đó là các cơng trình khoa học, các bài báo, như: Bài viết “Bàn về
vai trò của chế định HTND ở nước ta hiện nay” của Ths Cao Việt Thắng đăng trên
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 9/2011, lưu ý về sự giao thoa và tiếp nhận văn hóa
pháp lý Trung Quốc, đồng thời nhận định pháp luật chưa phải là quy tắc cao nhất để
phán xét đối với các hành vi của xã hội. Do đó, sự tham gia của HTND vào hoạt động
xét xử góp phần đưa tiếng nói từ phía người dân, từ phía xã hội giúp cho các phán xét
“thấu tình, đạt lý”. Các bài viết “Độc lập tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm cho tòa án thực hiện đúng đắn quyền tư pháp” của tác giả Trương
Hịa Bình đăng trên Tạp chí TAND số 16/2016, “Chế định HTND: Tạo điều kiện cho
nhân dân trực tiếp thực hiện quyền tư pháp” của tác giả Trần Minh Giang đăng trên
báo Công lý năm 2014, “Sự hình thành và phát triển của chế định hội thẩm ở Việt
Nam” của Lê Thu Hương đăng trên Tạp chí Thơng tin Khoa học pháp lý số 1/1999,
đã khái lược về lịch sử hình thành và phát triển của chế định hội thẩm ở Việt Nam.
Cùng với đó, Luận văn thạc sĩ “HTND trong pháp luật TTHS Việt Nam và thực tiễn

trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” của Hoàng Trí Lý bảo

11


vệ tại Đại học Quốc gia năm 2015; bài viết “Đổi mới TAND theo định hướng cải cách
tư pháp” của tác giả Nguyễn Hà Thanh đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
6/2009;… đã nêu ra vấn đề hội thẩm tham gia xét xử - một chế định pháp luật thể
hiện tư tưởng lấy dân làm gốc trong hoạt động tư pháp, khẳng định chế định HTND
trong hệ thống pháp luật của nước ta nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân
trong hoạt động xét xử của tòa án, tạo điều kiện để nhân dân trực tiếp thực hiện quyền
tư pháp; giúp cho việc xét xử chính xác, khách quan, phù hợp với quyền lợi và nguyện
vọng của nhân dân.
Dù xuất phát ở các góc nhìn khác nhau, nhưng về cơ bản các nhà nghiên cứu
đều cho rằng sự tham gia của đại diện nhân dân trong TTHS là biểu hiện của dân chủ,
nhân đạo, công bằng, bảo vệ quyền con người của tư pháp (xét xử) và là một trong
những giá trị quan trọng của xã hội dân chủ. Các cơng trình này chủ yếu đề cập đến
chế định HTND nói chung, gợi mở ở các góc độ khác nhau về q trình hình thành,
vai trị đại diện của nhân dân trong xét xử dù cịn ít đề cập về HTND trong TTHS một
cách cụ thể.
Một số lượng khơng nhỏ các cơng trình nghiên cứu đã được công bố đề cập
đến các quy định của pháp luật Việt Nam và các nước về đại diện nhân dân trong
TTHS, trong đó có thể kể đến như:
Cuốn sách “Cổ luật Việt Nam thông khảo và tư pháp sử (quyển I - tập III)” (cùng
một số tác phẩm khác) của GS Vũ Văn Mẫu xuất bản ở Sài Gòn năm 1974 là một trong
những tài liệu rất có giá trị nói về sự hình thành, phát triển của pháp luật Việt Nam. Từ
đó cho thấy những nét đặc trưng, độc đáo trong việc xây dựng, thực thi luật pháp, nhất
là về luật hình của các triều đại phong kiến và dưới thời Pháp thuộc. Liên quan đến hoạt
động tố tụng ở Việt Nam dưới triều Nguyễn cịn có cuốn sách “Định chế pháp luật và tố
tụng triều Nguyễn (1802-1885)” của Tiến sĩ sử học Huỳnh Công Bá do Nxb Thuận Hóa

phát hành năm 2017 giới thiệu về các quy định, hoạt động tố tụng nói chung, kể từ khi
triều đại này ra đời vào năm 1802 đến năm 1885.

Cuốn sách “Án lệ vựng tập (1948-1967)” của Trần Đại Khâm do Nhà sách
Khai Trí xuất bản tại Sài Gịn năm 1969 đã tập hợp những án lệ tiêu biểu thuộc các
lĩnh vực khác nhau của các tòa án Nam triều, tòa án của thực dân Pháp, chính quyền
Sài Gịn. Nội dung cuốn sách cho thấy những nét cơ bản về hoạt động TTHS và vai

12


trò của phụ thẩm, hội thẩm dưới thời Pháp thuộc và trong chính quyền Sài Gịn trước
năm 1975. Vai trị, lịch sử phát triển của cơ chế đại diện nhân dân tham gia xét xử ở
Việt Nam cũng được nêu ra trong cuốn “Sơ thảo lịch sử nhà nước pháp quyền Việt
Nam” (tập 1) của tác giả Đinh Gia Trinh do Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 1968;
“Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà
Nội do Nxb Công an nhân dân in năm 2007.
Trong các tác phẩm này, các tác giả đã phân tích khá chi tiết lịch sử quy định
của pháp luật, hoạt động tố tụng hình sự với sự tham gia của đại diện nhân dân ở nước
ta trong thời kỳ phong kiến, dưới thời Pháp thuộc và của chính quyền Sài Gịn trước
năm 1975. Bên cạnh đó, các cơng trình, bài báo cũng đã nêu ra một số vấn đề lý luận,
thực tiễn liên quan đến quy định, áp dụng thực hiện chế định HTND hiện nay cũng
như sự tác động và yêu cầu đặt ra của chế định này theo định hướng cải cách tư pháp.
Vấn đề đại diện nhân dân trong các mơ hình TTHS trên thế giới và kinh nghiệm
cho Việt Nam được đề cập trong một loạt cơng trình nghiên cứu ở trong nước, trong
đó có thể kể đến cuốn “Chính sách pháp luật” của GS. TS Võ Khánh Vinh do Nxb
Khoa học xã hội xuất bản năm 2020. Cuốn sách đề cập đến các nội dung như lịch sử
nghiên cứu, những vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến chính sách pháp luật trên
thế giới và Việt Nam. Riêng đối với hoạt động TTHS, cuốn sách khơng chỉ chỉ ra
chính sách xét xử mà cịn cung cấp nhiều thơng tin cơ đọng về mơ hình TTHS của

các nước có sự tham gia của đại diện nhân dân trong TTHS. Cuốn sách “Những mơ
hình tố tụng hình sự điển hình trên thế giới” do Nxb Hồng Đức ấn hành năm 2012,
gồm nhiều bài viết của các chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài giới thiệu khá nhiều
nội dung liên quan đến việc tổ chức, hoạt động của bồi thẩm, hội thẩm trong TTHS ở
các nước như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Italia, Nhật Bản, Hàn Quốc. Cuốn sách “Tính
độc lập của tịa án – nghiên cứu pháp lý về các khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức,
Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị đối với Việt Nam” của TS Tô Văn Hòa do Nxb
Lao động phát hành năm 2007, đã phân tích, đánh giá về đặc trưng của hoạt động xét
xử ở góc độ lý luận và thực tiễn của Đức, Mỹ, Pháp và tại Việt Nam, qua đó đưa ra
các kiến nghị trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam. Cùng với đó là các bài viết: “Tố
tụng tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm ở

13


Việt Nam, Hoa Kỳ và một số kiến nghị đối với Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi)” của
tác giả Phạm Quang Huy đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp năm 2015; bài viết
“Bồi thẩm, hội thẩm, thẩm phán khơng chun trong tố tụng hình sự hiện nay ở các
nước trên thế giới” của tác giả Liêu Chí Trung đăng trên Tạp chí Nghề luật, số
10/2020. Các cơng trình này cung cấp nhiều thơng tin có giá trị về mơ hình TTHS
của các nước, đồng thời có cái nhìn khái qt, tồn diện hơn để phân tích, so sánh và
có định hướng để nêu lên những đề xuất, kiến nghị.
1.1.3. Nhóm cơng trình nghiên cứu về thực trạng, yêu cầu và các giải pháp
tăng cường vai trò của hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự
Trong nhóm các cơng trình này, trước hết cần kể đến cuốn sách “Cải cách tư
pháp vì một nền tư pháp liêm chính” do GS.TSKH Đào Trí Úc và PGS.TS. Vũ Cơng
Giao chủ biên, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2014. Cuốn sách chỉ ra
những yêu cầu, sự cần thiết và những giải pháp cơ bản về cải cách tư pháp hiện nay
ở Việt Nam, trong đó đã đề cập đến thực trạng hạn chế, yếu kém của công tác tư pháp,
xét xử hiện tại cần khắc phục.

Luận án tiến sĩ luật học “Nghiên cứu so sánh cải cách tòa án ở Trung Quốc và
Việt Nam” của Trương Thị Thu Trang tại Học viện Khoa học xã hội năm 2016 đã
phân tích, so sánh, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách tòa án ở
Trung Quốc và Việt Nam, rút ra những bài học kinh nghiệm cho hoạt động tòa án tại
Việt Nam.
Đề tài khoa học cấp cơ sở của TAND tối cao “Những vấn đề lý luận và thực
tiễn về quản lý hội thẩm TAND, giải pháp và kiến nghị” do Chu Xuân Minh làm Chủ
nhiệm năm 2014 đã khái quát và cung cấp nhiều nội dung về lý luận và thực tiễn quá
trình ra đời, phát triển của chế định HTND ở Việt Nam. Đề tài cũng chỉ ra thực trạng
và kiến nghị về một số giải pháp quản lý HTND trong điều kiện hiện nay.
Tiếp đến, cần phải kể đến cuốn sách “Tư pháp trong nhà nước pháp quyền và
những yêu cầu đặt ra đối với cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” do GS.TSKH
Lê Cảm và PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí chủ biên và được Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội xuất bản năm 2014. Đúng như tên gọi, cuốn sách góp phần chỉ ra những vấn đề
cơ bản của hoạt động tư pháp trong nhà nước pháp quyền, đồng thời đưa ra các định
hướng, yêu cầu cải cách của ngành tư pháp, xét xử ở Việt Nam.

14


Cuốn sách có tên gọi “Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện
nay” do GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên được Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm
2002, đã chỉ ra thực trạng, những yêu cầu đặt ra và việc nghiên cứu, triển khai cải
cách hệ thống tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Các khuyến nghị cùng những yêu cầu
mới nêu lên trong cuốn sách đến nay một phần đã được chỉnh sửa, bổ sung trong quy
định và áp dụng thực hiện, như vấn đề bảo vệ quyền con người, vị trí, vai trò của tòa
án trong hệ thống tư pháp,… Dẫu vậy, một số hạn chế hay sự gợi mở liên quan đến
việc hồn thiện mơ hình TTHS, tính độc lập trong xét xử vẫn đang tiếp tục cần được
nghiên cứu, cập nhật, bổ sung.
Bên cạnh đó, cịn có một loạt cơng trình, bài báo khoa học đáng lưu ý đã được

cơng bố, chẳng hạn: Bài viết “Một số yếu tố ảnh hưởng đến nguyên tắc “thẩm phán
và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” của tác giả Nguyễn Ngọc Chí
đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2009; bài “Đổi mới tổ chức và hoạt
động của TAND theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” của
tác giả Trương Hòa Bình đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2+3/2009; bài
“Cải cách tư pháp ở Việt Nam: Một số vướng mắc cần tháo gỡ” của Lê Thị Thu Thủy
đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2006; bài “Đổi mới mơ hình tổ chức
TAND đáp ứng u cầu cải cách bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay” của Ths
Nguyễn Hữu Chính đăng trên Tạp chí Tòa án, số 22/2012; bài “Nguyên tắc xét xử của
TAND có HTND tham gia, hội thẩm ngang quyền với thẩm phán: Thực tiễn và những
bất cập” của tác giả Trần Kỳ đăng trên Tạp chí Tịa án năm 2014; bài “Thấy gì qua
những vụ án oan?” của tác giả Đinh Văn Quế đăng trên Tạp chí Luật sư Việt Nam,
số 1+2/2015; … Các cơng trình, bài báo này đã chỉ ra thực trạng của việc quy định
và áp dụng chế định HTND hiện nay ở nước ta cũng như những yếu tố tác động, ảnh
hưởng đến việc đảm bảo các nguyên tắc xét xử nói chung, đồng thời nêu ra một số
giải pháp nhằm nâng cao vai trò xét xử của tòa án.
Yêu cầu và giải pháp tăng cường vai trò, năng lực của HTND trong xét xử
cũng được đề cập trong các cơng trình, như: Đề tài cấp bộ “Đổi mới chế định hội thẩm
trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” do Nguyễn Văn Sản làm Chủ nhiệm,
nghiệm thu năm 2009; Đề tài khoa học cấp cơ sở “Những vấn đề lý luận và thực tiễn
của việc xây dựng dự án pháp lệnh về thẩm phán và hội thẩm TAND (sửa đổi)” của
TAND tối cao 2002, do Trần Văn Tú thực hiện; bài “Hiệu quả của công

15


tác xét xử nhìn từ khía cạnh hoạt động và tiêu chuẩn của hội thẩm” của Chu Hải
Thanh đăng trên Thông tin Khoa học pháp lý, số 1/1999; bài “Đổi mới chế định hội
thẩm, nâng cao hiệu quả hoạt động của tòa án” của tác giả Nguyễn Tất Viễn đăng
trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 1/2000; bài “Mấy ý kiến về đổi mới, nâng cao

hiệu quả hoạt động của hội thẩm” của Hoàng Hùng Hải đăng trên Tạp chí TAND, số
6/2005; bài “Quản lý cơng tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho HTND – thực trạng và giải
pháp” của Nguyễn Quang Lộc đăng trên Tạp chí TAND, số 8/2006; bài “Độc lập tư
pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho tòa án thực hiện
đúng đắn quyền tư pháp” của tác giả Trương Hòa Bình đăng trên Tạp chí TAND số
16/ 2016; bài “Chế định về hội thẩm, vai trò của hội thẩm khi tham gia xét xử - Một
số kiến nghị hoàn thiện” của Lê Văn Sua đăng trên Tạp chí Tịa án năm 2015. Đáng
chú ý mới đây là bài viết “Đổi mới và hoàn thiện cơ chế nhân dân tham gia hoạt động
xét xử tại tòa án, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn mới” của PGS.
TS Nguyễn Hịa Bình đăng trên Tạp chí Cộng sản ở tháng 11/2021 [4]. Bài viết đã
cung cấp các số liệu, nêu ra về những thông tin, quan điểm và gợi mở một số định
hướng, giải pháp về tổ chức, hoạt động của HTND trong điều kiện hiện nay ở Việt
Nam.
Đặc biệt, để có cơ sở thực tế và khoa học trong việc phân tích, đánh giá và đề
ra các giải pháp phù hợp, trong tháng 5/2020, tác giả còn tiến hành một cuộc khảo sát
về HTND trong TTHS hiện nay đối với 100 người là những người có trình độ, quan
tâm đến hoạt động tư pháp hiện nay. Đây là những ý kiến, quan điểm bổ ích, thiết
thực liên quan đến thực trạng HTND trong TTHS hiện nay ở Việt Nam [113].
Những cơng trình, bài báo khoa học, ở các mức độ và góc độ quan tâm khác
nhau đều chỉ ra và cho thấy sự cần thiết của việc nghiên cứu, nâng cao hiệu quả, hiệu
lực của tòa án và hoạt động xét xử. Hầu hết các cơng trình đã đặt ra vấn đề ở tầm vĩ
mô hoặc chỉ ra thực trạng cùng các giải pháp thuyết phục, cụ thể, nhưng chưa có cơng
trình nào thực sự đi sâu nghiên cứu về HTND trong TTHS. Dẫu vậy, nhưng đây là
những cơ sở, sự tham khảo hết sức quý giá gợi mở cho việc chỉ ra những yêu cầu,
giải pháp mang tính đặc trưng của HTND trong TTHS hiện nay được đúng hướng,
phù hợp hơn.

16



1.2. Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngồi
1.2.1. Nhóm cơng trình nghiên cứu về địa vị pháp lý, vai trị đại diện của
người dân trong tố tụng hình sự
Trong đó có thể kể đến: “The U. N. Basic Principles on Judicial
Independence” (Các nguyên tắc cơ bản của Liên hợp quốc về độc lập xét xử của
ngành tịa án) thơng qua vào tháng 9/1985 tại Milan, Italia; “Beijing Statement of
Principles of the Independence of the LAWASIA region” (Tuyên bố Bắc Kinh về các
nguyên tắc độc lập xét xử ở khu vực LAWASIA), thơng qua tháng 8/1995, sau đó
được sửa vào năm 1997 tại Manila, Philippin với việc mở rộng hơn, bao gồm cả
những vấn đề liên quan đến độc lập của thiết chế tòa án, và các tài liệu của Liên hợp
quốc được gọi là Nguyên tắc Bangalore về ứng xử của cơ quan tịa án (2002) với phần
bình luận về những nguyên tắc này (2007). “The Use of Analogy in Legal Argument”
(Việc sử dụng phép tương tự trong lập luận pháp lý) của Lloyd L. Weinreb, Legal
Reason, do đại học Cambridge ấn hành năm 2005. Các tài liệu này đã nêu lên quan
điểm về độc lập xét xử cũng như các dấu hiệu, sự cần thiết, các nguyên tắc và vai trò
đại diện của người dân thể hiện trong các phán quyết độc lập của tịa án.
Cuốn sách “Những mơ hình tố tụng hình sự điển hình trên thế giới” do Chương
trình đối tác tư pháp (JPP) thực hiện và được Nxb Hồng Đức xuất bản năm 2012, bao
gồm những nghiên cứu do các chuyên gia nước ngoài viết về mơ hình tổ chức, hoạt
động TTHS điển hình tại một số nước. Trong đó, đáng chú ý như: “Mơ hình tố tụng
hình sự của Nhật Bản”, “Mơ hình tố tụng hình sự của Hàn Quốc” của GS. ByungSun Cho; “Mơ hình TTHS của Trung Quốc” của GS Liling Yue; “Mơ hình tố tụng
hình sự của CHLB Nga” của GS. Wiliam Burham; “Mơ hình tố tụng hình sự của
Liên bang Hoa Kỳ” của GS. Richard S.Shine; “Mơ hình tố tụng hình sự của Cộng
hịa Pháp” của Jean-Philippe Ravaud;... Bên cạnh đó, cịn có cuốn 我国

人民陪审制的历史沿革与改革背景 (Nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát
triển chế định hội thẩm nhân dân của Trung Quốc) của 周媛媛 (Zhou Yuanyuan)
do Nxb Nhà nước pháp quyền và xã hội in năm 2015; bài viết “The People’s
Assessors in China’s Legal System: Current Legal Structure for their Duty and its
Justification” (Hội thẩm nhân dân trong hệ thống pháp luật của Trung Quốc: Cơ


17


cấu pháp lý hiện tại cho nghĩa vụ của họ và sự biện minh của nó) của các tác giả QIU
Qunran, YAN Chen đăng trên Tạp chí Luật Thanh Hoa Trung Quốc, số 12/2019, giới
thiệu về sự hình thành, phát triển và tổ chức hoạt động của chế định HTND ở Trung
Quốc.
Các cơng trình, tài liệu này cho thấy, đảm bảo độc lập xét xử là vấn đề vô cùng
quan trọng để tạo nên sự công bằng, dân chủ trong xã hội. Vai trò đại diện nhân dân
tham gia xét xử được áp dụng trong TTHS ở hầu hết các nước và cơ chế này ngày
càng được quan tâm nghiên cứu. Dù mang tên gọi khác nhau, như “bồi thẩm”, “hội
thẩm” hay “thẩm phán khơng chun” với các mơ hình tố tụng khác nhau, nhưng đều
mang tính đại diện cho quần chúng nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử án hình
sự. Sự tham gia của họ là yếu tố quan trọng góp phần để phán quyết của tịa án được
minh bạch, bảo đảm công bằng, công lý và bảo vệ quyền con người. “Bồi thẩm”, “hội
thẩm”, “thẩm phán khơng chun” là những cơng dân bình thường, khơng địi hỏi cao
về trình độ văn hóa, kiến thức pháp luật và việc tham gia cùng với các thẩm phán
chuyên nghiệp xét xử đối với các vụ án hình sự nghiêm trọng được xem là quyền và
nghĩa vụ công dân. Tùy theo mỗi mơ hình tố tụng khác nhau mà vai trò xét xử của họ
được thể hiện khác nhau, nhưng về cơ bản đó khơng phải là những người xét xử
chuyên nghiệp, quyết định của họ mang tính tập thể và họ được bảo vệ, bảo đảm các
quyền lợi khi làm nhiệm vụ.
Xét xử có sự tham gia của người dân khơng những góp phần làm cho các vụ
án, nhất là các vụ án hình sự nghiêm trọng được giải quyết “thấu tình đạt lý”, mà cịn
đảm bảo tính cơng bằng, nhân văn. Mặc dù cịn có những quan điểm, cách tổ chức
thực hiện khác nhau, nhưng cơ bản các nhà nghiên cứu cùng có nhận định thống nhất
về việc xác định vai trò độc lập của tòa án và vai trò của người dân tham gia xét xử
là xu hướng chung của các nền tư pháp trên thế giới.
1.2.2. Nhóm cơng trình nghiên cứu về lý luận, lịch sử hình thành, phát

triển của cơ chế đại diện nhân dân trong tố tụng hình sự
Trong số các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi, vấn đề cơng dân tham gia
vào hoạt động xét xử đến nay vẫn được bàn đến khá nhiều, nhưng tùy theo quan điểm
và hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước mà có cách nhìn nhận, quy định và áp dụng thực
hiện khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng, trong xã

18


×