Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tiểu luận Gốm Bát Tràng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.59 KB, 27 trang )

1)Lý do chọn đề tài:
Quê hương Việt Nam còn lưu lại nhiều làng nghề đặc sắc, góp phần điểm tơ
cho sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa nước ta. Một trong những làng nghề
được lưu danh đó là làng gốm Bát Tràng. Tên gọi Bát Tràng đã đi sâu vào tâm thức
người Việt, ít nhiều chúng ta đã được nghe trong câu:
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc rồi lại xây ngang
Xây Hồ Bán Nguyệt cho nàng rửa chân.
Bát Tràng là một trong những làng gốm cổ xưa và lâu đời của Việt Nam, là
làng nghề với số lượng lò sản xuất nhiều bật nhất cả nước. Với bàn tay tài hoa,
người thợ gốm Bát Tràng đã biến những nắm đất sét “vô hồn, vô tri” thành những
tác phẩm nghệ thuật tinh túy và sinh động.
Làng gốm Bát Tràng chứa đựng trong nó những yếu tố nhân văn và giá trị văn
hóa truyền thống q giá. Ngồi những yếu tố kinh tế thì làng gốm cịn là một di
sản văn hóa quan trọng cần được bảo tồn và phát huy. Chính vì những lí do trên
nên nhóm em chọn đề tài gốm Bát Tràng để nghiên cứu, tìm hiểu làng nghề này
một cách sâu sắc hơn.

2/ Vị trí (địa bàn) Gốm Bát Tràng
Xã Bát Tràng là tên gọi từ trước năm 1945 của làng Bát thuộc huyện Gia Lâm , Hà
Nội . Khi nhà Lý dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long , người dân thôn Bát Tràng di
cư từ làng Bồ Bát (xã Bồ Xuyên và trang Bach Bát thuộc tổng Bạch Bát ,huyện
Yên Mô , phủ Trường Yên ,trấn Thanh Hóa ngoại , nay là hai thơn của xã Yên


Thành , huyện n Mơ , tỉnh Ninh Bình ), theo vua Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư
ra

Thăng


Long

.

Khi những người dân Bạch Bát đến vùng đất bồi trên bờ sông Hồng , họ đã lâp
phường làm nghề gốm ; lúc đầu thôn Bát Tràng được gọi là Bạch Thổ Phường ,
sinh sống chủ yếu bằng nghề làm gốm sứ và buôn bán và làm quan . Thời nhà Hậu
Lê , xã Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm ,phủ Thuận An , trấn Kinh Bắc . Sang thời
nhà Nguyễn , năm 1822 trấn Kinh Bắc đổi làm trấn Bắc Ninh , năm 1831 đổi làm
tỉnh Bắc Ninh , lúc này xã Bát Tràng thuộc tổng Đông Dư , huyện Gia Lâm , phủ
Thuận An . Đến năm 1862 chia về phủ Thuận Thành và năm 1912 chia về phủ
ThuậnThanh và năm 1912 chia về phủ Từ Sơn . Từ tháng 2 đến tháng 11 năm
1949, huyện Gia Lâm thuộc về tỉnh Hưng Yên . Từ năm 1961 đến nay, huyện Gia
Lâm thuộc ngoại thành Hà Nội . Năm 1948, xã Bát Tràng nhập với xã Giang Cao
và xã Kim Lan lập thành xã Quang Minh . Từ năm 1964, xã Bát Tràng được thành
lập

gồm

2

thôn

Bát

Tràng



Giang


Cao

như

hiện

nay

.

Năm 1958 , nhà nước thực hiện đào sông Bắc Hưng Hải -Đại Thủy nông Bắc Hưng
Hải làm thủy lợi tưới tiêu cho một vùng đồng ruộng rộng lớn của 3 tỉnh : Bấc
Ninh , Hưng Yên , Hải Dương ,tạo ra thêm một con đường mới đi vào xã Bát Tràng
, vì vậy từ Hà Nội ,có thể theo đường thủy từ bến Chương Dương hoặc bến Phà
Đen ,xuôi sông Hồng đến bến Bát Tràng ,cũng có thể theo đường bộ qua sơng
Hồng rồi theo đê sông Hồng đến dốc sông Giang Cao rẽ xuống Bát Tràng (khoảng
15km )hoặc theo quốc lộ số 5 đến Trâu Quỳ rẽ về phía tay phải theo đường liên
huyện qua

xã Đa Tốn đến Bát Tràng ( khoảng hơn 20 km )

Ngày nay việc đến Bát Tràng rất thuân lợi vì từ năm 2006 ,cơng ty vận tải Hà Nội
đã mở tuyến xe buýt 47 về đến Chợ Gốm Làng Cổ Bát Tràng là điểm cuối bến .


3/ Lich sử gốm Bát Tràng :
*Thế kỉ 15 - 16 :

Chính sách của nhà Mạc đối với cơng thương nghiệp trong thời kì này là cởi mở

,khơng chủ trương thực hiện 'ức thương' như trước nên kinh tế hàng hóa có điều
kiện phát triển thuận lợi hơn ; nhờ đó , sản phẩm gốm Bát Tràng được lưu thơng
rộng rãi . Gốm Bát Tràng thời Mạc có nhiều sản phẩm có minh văn ghi rõ năm chế
tạo , tên ngươi đặt hàng và ngươi sản xuất . Qua những văn minh này cho thấy
người đặt hàng bao gồm cả một số quan cao cấp và quý tộc nhà Mạc như cơng
chúa Phúc Tràng ,phị mã Ngạn quận cơng ,Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn , Mỹ
quốc

công

phu

nhân

...

Người đặt hàng trải ra trên một không gian rộng lớn bao gồm nhiều phủ huyện
vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ .

* Thế kỉ 16-17 :

Sau các cuộc phát kiến địa lí cuối thế kỉ 15 , nhiều nước phát triển của Tây Âu
tràng sang phương Đông . Các nước : Tây Ban Nha , Hà Lan ,Anh , Pháp ...Thành
lập công ty , xây dựng căn cứ ở phương Đông để buôn bán , hoạt động mậu dịch
hàng hải khu vực Đơng Nam Á vốn có lịch sử lâu đời càng trở nên sôi động ,lôi
cuốn các nước trong khu vực vào hệ thống buôn bán Châu Á và với thị trường thế
giới

đang


hình

thành

.

Sau khi thành lập , nhà Minh ( Trung Quốc ) chủ trương cấm tư nhân buôn bán với
nước ngoài làm cho việc xuất khẩu gốm sứ nổi tiếng của Trung Quốc bị hạn chế đã
tạo điều kiện cho gốm Bát Tràng mở rộng thị trường ở Đông Nam Á .Khi nhà


Minh ( Trung Quốc ) bãi bỏ chính sách bế quan tỏa cảng (1567) nhưng vẫn cấm
xuất khẩu một số nguyên liệu ,mặt hàng sang Nhật Bản . Đã tạo quan hệ buôn bán
giữa Việt Nam với Nhật Bản đặc biệt phát triển , qua đó nhiều đồ gốm Bát Tràng
được

nhập

cảng

vào

Nhật

Bản

.

Năm 1644 , nhà Thanh (Trung Quốc ) tái lập chính sách cấm vượt biển bn bán
với nước ngồi , cho đến 1684, sau khi giải phóng Đài Loan . Trong thời gian đó

một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam , trong đó có gốm Bát Tràng khơng bị
hàng Trung Quốc cạnh tranh nên có điều kiện phát triển mạnh mẽ .
Thế kỉ 15-17 , là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của ngành gốm xuất khẩu ở Việt
Nam , trong đó ở phía bắc có hai trung tâm quan trọng và nổi tiếng là Bát Tràng và
Chu Đậu - Mỹ Xá (tỉnh Hải Dương ) . Lúc bấy giờ Thăng Long ( Hà Nội ) và Phố
Hiến ( nay thuộc tỉnh Hưng Yên ) là hai đô thị lớn nhất và cũng là hai trung tâm
mậu dịch đối ngoại phát triển nhất ở Đàng Ngoai . Bát Tràng có may mắn và thuận
lợi lớn là nằm ở bên bờ sông Nhị ( sông Hồng ) ở khoảng giữa Thăng Long và Phố
Hiến , trên đường thủy nối liền hai đô thị này và là cửa ngõ thông thứng với thế
giới bên ngồi . Qua thuyền bn Trung Quốc , Nhật Bản , các nước Đông Nam Á
và các nước phương Tây, đồ gốm Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản , các nước
Đông

Nam

Á

,

Nam

Á

.

Các công ty phương Tây nhất là công ty Đông Ấn của Hà Lan , trong phương thức
" từ Ấn Độ (phương đông ) sang Ấn Độ " , đã mua nhiều đồ gốm Việt Nam bán
sang

thị


trường

Đông

Nam

Á



Nhật

Bản

.

*Cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII
Việc xuất khẩu và buôn bán đồ gốm Việt Nam ở Đông Nam Á bị giảm sút
nhanh chóng vì sau khi Đài Loan được giải phóng (1684) và triều Thanh bãi bỏ
chính sách cấm vượt biển bn bán với nước ngồi. Từ đó, gốm sứ chất lượng cao
của Trung Quốc tràn xuống thị trường Đông Nam Á và đồ gốm Việt Nam không đủ


sức cạnh tranh. Nhật Bản, sau một thời gian đóng cửa để bảo vệ các nguyên liệu
quý như bạc, đồng, đã đẩy mạnh được sự phát triển các ngành kinh tế trong nước
như tơ lụa, đường, gốm sứ... mà trước đây phải mua sản phẩm của nước ngoài.
*Thế kỷ XVIII - XIX
Một số nước phương Tây đi vào cuộc cách mạng cơng nghiệp với những
hàng hố mới cần thị trường tiêu thụ rộng lớn. Tình hình kinh tế đó cùng với chính

sách hạn chế ngoại thương của các chính quyền Trịnh, Nguyễn trong thế kỷ 18 và
của nhà Nguyễn trong thế kỷ 19 đã làm cho quan hệ mậu dịch đối ngoại của Việt
Nam sa sút và việc xuất khẩu đồ gốm cũng bị suy giảm. Đó là lý do khiến một số
làng nghề gốm bị gián đoạn sản xuất (như làng gốm Chu Đậu - Mỹ Xá). Gốm Bát
Tràng tuy có bị ảnh hưởng, nhưng vẫn giữ được sức sống bền bỉ nhờ có một thị
trường tiêu thụ rộng rãi trong nước với những đồ gia dụng, đồ thờ, đồ trang trí và
gạch xây rất cần thiết cho mọi tầng lớp xã hội từ quý tộc đến dân thường. Trong
giai đoạn này, gốm Bát Tràng xuất khẩu giảm sút, nhưng làng gốm Bát Tràng vẫn
là một trung tâm sản xuất gốm truyền thống có tiếng trong nước.
*Từ thế kỷ XIX đến nay
Trong thời Pháp thuộc, các lò gốm Bát Tràng tuy bị một số xí nghiệp gốm sứ và
hàng ngoại nhập cạnh tranh nhưng vẫn duy trì được hoạt động bình thường.
Sau Chiến tranh Đơng Dương (1945 - 1954), tại Bát Tràng thành lập Xí nghiệp
gốm Bát Tràng (1958), Xí nghiệp X51, X54 (1988) cùng một số hợp tác xã như
Hợp Thành (1962), Hưng Hà (1977), Hợp Lực (1978), Thống Nhất (1982), Ánh
Hồng (1984) và Liên hiệp ngành gốm sứ (1984)... Các cơ sở sản xuất trên cung cấp
hàng tiêu dùng trong nước, một số hàng mỹ nghệ và một số hàng xuất khẩu.
Những nghệ nhân nổi tiếng như của Bát Tràng như Đào Văn Can, Nguyễn Văn


Khiếu, Lê Văn Vấn... đào tạo được nhiều thợ gốm trẻ cung cấp cho các lò gốm mới
mở ở các tỉnh.
Sau năm 1986 làng gốm Bát Tràng có sự chuyển biến lớn theo hướng kinh tế thị
trường. Các hợp tác xã lần lượt giải thể hoặc chuyển thành công ty cổ phần, những
công ty lớn được thành lập nhưng vẫn còn tồn tại nhiều tổ sản xuất và phổ biến là
những đơn vị sản xuất nhỏ theo hộ gia đình. Từ thơn Bát Tràng, nghề gốm nhanh
chóng lan sang thơn Giang Cao và đến nay, cả xã Bát Tràng (gồm hai thôn Bát
Tràng, Giang Cao) trở thành một trung tâm gốm lớn.
Hiện nay, sản phẩm gốm Bát Tràng càng ngày càng phong phú và đa dạng.
Ngoài các mặt hàng truyền thống, các lò gốm Bát Tràng còn sản xuất nhiều sản

phẩm mới đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong Việt Nam như các loại ấm chén, bát
đĩa, lọ hoa... kiểu mới, các vật liệu xây dựng, các loại sứ cách điện... và các sản
phẩm xuất khẩu theo đơn đặt hàng của nước ngồi. Sản phẩm Bát Tràng có mặt
trên thị trường cả nước và được xuất khẩu sang nhiều nước châu Á, châu Âu. Bát
Tràng cuốn hút nhiều nhân lực từ khắp nơi về sáng tác mẫu mã mới và cải tiến
công nghệ sản xuất. Một số nghệ nhân đã bước đầu thành công trong việc khôi
phục một số đồ gốm cổ truyền với những kiểu dáng và nước men đặc sắc thời Lý,
Trần, Lê, Mạc...

4/ Quy trình sản xuất đồ gốm Bát Tràng
Để làm ra đồ gốm người thợ gốm phải qua các khâu chọn, xử lí và pha chế đất, tạo
dáng, tạo hoa văn, phủ men, và cuối cùng là nung sản phẩm. Kinh nghiệm truyền
đời của dân làng gốm Bát Tràng là "Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò".
Người thợ gốm quan niệm hiện vật gốm không khác nào một cơ thể sống, một vũ
trụ thu nhỏ trong đó có sự kết hợp hài hịa của Ngũ hành là kim , mộc , thuỷ , hoả
và thổ . Sự phát triển của nghề nghiệp được xem như là sự hanh thông của Ngũ


hành mà sự hanh thông của Ngũ hành lại nằm trong quá trình lao động sáng tạo với
những quy trình kĩ thuật chặt chẽ, chuẩn xác.
1.Quá trình tạo cốt gốm
1.1Chọn đất
Điều quan trọng đầu tiên để hình thành nên các lò gốm là nguồn đất sét làm gốm.
Những trung tâm sản xuất gốm thời cổ thường là sản xuất trên cơ sở khai thác
nguồn đất tại chỗ. Làng gốm Bát Tràng cũng vậy, sở dĩ dân làng Bồ Bát chọn khu
vực làng Bát Tràng hiện nay làm đất định cư phát triển nghề gốm vì trước hết họ đã
phát hiện ra mỏ đất sét trắng ở đây. Đến thế kỉ 18, nguồn đất sét trắng tại chỗ đã
cạn kiệt nên người dân Bát Tràng buộc phải đi tìm nguồn đất mới. Không giống
như tổ tiên, dân Bát Tràng vẫn định cư lại ở các vị trí giao thơng thuận lợi và thơng
qua dịng sơng bến cảng, dùng thuyền toả ra các nơi khai thác các nguồn đất mới.

Từ Bát Tràng ngược sông Hồng lên vùng Sơn Tây, Phúc Yên, rẽ qua sơng Đuống,
xi dịng Kinh Thầy đến Đơng Triều, khai thác đất sét trắng ở Hồ Lao, Trúc Thôn.
Đất sét Trúc Thơn có độ dẻo cao, khó tan trong nước, hạt mịn, màu trắng xám, độ
chịu lửa ở khoảng 1650°C. Thành phần hố học (tính trung bình theo % trọng
lượng) của đất sét Trúc Thôn như sau: Al 203: 27,07; Si02: 55,87; Fe203 1,2; Na2O
0,7; CaO 2,57; MgO 0,78; K2O: 2,01; Ti02: 0,81. Tuy là loại đất tốt được người
thợ gốm Bát Tràng ưa dùng nhưng sét Trúc Thôn cũng có một số hạn chế như
chứa hàm lượng ơxít sắt khá cao, độ ngót khi sấy khơ lớn và bản thân nó khơng
được trắng.
1.2 Xử lí, pha chế đất


Trong đất ngun liệu thường có lẫn tạp chất, ngồi ra tuỳ theo yêu cầu của từng
loại gốm khác nhau mà có thể có những cách pha chế đất khác nhau để tạo ra sản
phẩm phù hợp. Ở Bát Tràng, phương pháp xử lí đất truyền thống là xử lí thông qua
ngâm nước trong hệ thống bể chứa, gồm 4 bể ở độ cao khác nhau.
Bể thứ nhất ở vị trí cao hơn cả là "bể đánh" dùng để ngâm đất sét thô và nước (thời
gian ngâm khoảng 3-4 tháng). Đất sét dưới tác động của nước sẽ bị phá vỡ kết cấu
hạt nguyên thuỷ của nó và bắt đầu quá trình phân rã (dân gian gọi là ngâm lâu để
cho đất nát ra). Khi đất đã "chín" (cách gọi dân gian), đánh đất thật đều, thật tơi để
các hạt đất thực sự hoà tan trong nước tạo thành một hỗn hợp lỏng. Sau đó tháo
hỗn hợp lỏng này xuống bể thứ hai gọi là "bể lắng" hay "bể lọc". Tại đây đất sét
bắt đầu lắng xuống, một số tạp chất (nhất là các chất hữu cơ) nổi lên, tiến hành loại
bỏ chúng.
Sau đó, múc hồ lỗng từ bể lắng sang bể thứ ba gọi là "bể phơi", người Bát Tràng
thường phơi đất ở đây khoảng 3 ngày, sau đó chuyển đất sang bể thứ tư là "bể ủ".
Tại bể ủ, ôxyt sắt (Fe2O3) và các tạp chất khác bị khử bằng phương pháp lên men
(tức là quá trình vi sinh vật hố khử các chất có hại trong đất). Thời gian ủ càng lâu
càng tốt.
Nhìn chung, khâu xử lí đất của người thợ gốm Bát Tràng thường không qua nhiều

cơng đoạn phức tạp. Trong q trình xử lí, tuỳ theo từng loại đồ gốm mà người ta
có thể pha thêm cao lanh ở mức độ nhiều ít khác nhau.
1.3 Tạo dáng


Phương pháp tạo dáng cổ truyền của người làng Bát Tràng là làm bằng tay trên bàn
xoay. Trong khâu tạo dáng, người thợ gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến lối "vuốt
tay, be chạch" trên bàn xoay, trước đây công việc này thường vẫn do phụ nữ đảm
nhiệm. Thợ ngồi trên một cái ghế cao hơn mặt bàn rồi dùng chân quay bàn xoay và
tay vuốt đất tạo dáng sản phẩm. Đất trước khi đưa vào bàn xoay được vò cho thật
nhuyễn, cuốn thành thoi rồi ném ("bắt nẩy") để thu ngắn lại. Sau đó người ta đặt
vào mà giữa bàn xoay, vỗ cho đất dính chặt rồi lai nén và kéo cho đất nhuyễn dẻo
mới "đánh cử" đất và "ra hương" chủ yếu bằng hai ngón tay bên phải. Sau quá trình
kéo đất bằng tay và bằng sành tới mức cần thiết người thợ sẽ dùng sành dan để
định hình sản phẩm. Sản phẩm "xén lợi" và "bắt lợi" xong thì được cắt chân đưa ra
đặt vào "bửng". Việc phụ nữ sử dụng bàn xoay vuốt tạo dáng ban đầu của sản
phẩm là cơng việc bình thường phổ biến ở mỗi lị gốm cổ Việt Nam (khơng chỉ
riêng Bát Tràng) nhưng lại rất xa lạ với một số người thợ gốm phương Tây. Tuy
thế, kĩ thuật này đã mất dần và hiện nay khơng cịn mấy người thợ gốm Bát Tràng
cịn có thể làm được cơng việc này nữa. "Be chạch" cũng là một hình thức vuốt sản
phẩm trên bàn xoay nhẹ đà và chủ yếu do thợ đàn ông đảm nhiệm.
Người thợ "đắp nặn" gốm là người thợ có trình độ kĩ thuật và mĩ thuật cao. Có khi
họ đắp nặn một sản phẩm gốm hoàn chỉnh, nhưng cũng có khi họ đắp nặn từng bộ
phận riêng rẽ của một sản phẩm và sau đó tiến hành chắp ghép lại. Hiện nay theo
yêu cầu sản xuất gốm công nghiệp hay mĩ nghệ, nghệ nhân gốm có thể đắp nặn
một sản phẩm mẫu để đổ khuôn thạch cao phục vụ cho việc sản xuất hàng loạt.
Việc tạo hình sản phẩm gốm theo khuôn in (khuôn thạch cao hay khuôn gỗ) được
tiến hành như sau: đặt khuôn giữa bàn xoay, ghim chặt lại, láng lịng khn rồi
ném mạnh đất in sản phẩm giữa lịng khn cho bám chắc chân, vét đất lên lợi
vành, quay bàn xoay và kéo cán tới mức cần thiết đề tạo sản phẩm. Ngày nay

người làng gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến kĩ thuật "đúc" hiện vật. Muốn có hiện


vật gốm theo kĩ thuật đúc trước hết phải chế tạo khn bằng thạch cao. Khn có
cấu tạo từ đơn giản đến phức tạp. Loại đơn giản là khuôn hai mang, loại phức tạp
thì thường cớ nhiều mang, tuỳ theo hình dáng của sản phẩm định tạo. Cách tạo
dáng này trong cùng một lúc có thể tạo ra hàng loạt sản phẩm giống nhau, rất
nhanh và giản tiện. Ngoài ra người ta cịn dùng phương pháp đổ rót: đổ "hồ thừa"
hay "hồ đầy" để tạo dáng sản phẩm.
1.4 Phơi sấy và sửa hàng mộc
Tiến hành phơi sản phẩm mộc sao cho khơ, khơng bị nứt nẻ, khơng làm thay đổi
hình dáng của sản phẩm. Biện pháp tối ưu mà xưa nay người Bát Tràng vẫn thường
sử dụng là hong khô hiện vật trên giá và để nơi thoáng mát. Ngày nay phần nhiều
các gia đình sử dụng biện pháp sấy hiện vật trong lò sấy, tăng nhiệt độ từ từ để cho
nước bốc hơi dần dần.
Sản phẩm mộc đã định hình cần đem "ủ vóc" và sửa lại cho hồn chỉnh. Người thợ
gốm đặt sản phẩm vào mà trên bàn xoay nhẹ đà rồi vừa xoay bàn xoay vừa đẩy nhẹ
vào chân vóc cho cân, dùng dùi vỗ nhẹ vào chân "vóc" cho đất ở chân "vóc" chặt
lại và sản phẩm tròn trở lại (gọi là "lùa"). Người thợ gốm tiến hành các động tác
cắt, gọt chỗ thừa, bồi đắp chỗ khuyết, chắp các bộ phận của sản phẩm (như vòi ấm,
quai tách...), khoan lỗ trên các sản phẩm, tỉa lại đường nét hoa văn và thuật nước
cho mịn mặt sản phẩm. Những sản phẩm sửa lại mà không dùng bàn xoay thì gọi là
"làm hàng bộ", phải dùng bàn xoay thì gọi là "làm hàng bàn".
Theo yêu cầu trang trí, có thể đắp thêm đất vào một vài vùng nào đó trên sản phẩm
rồi cắt tỉa để tạo hình (đắp phù điêu), có khi phải khắc sâu các hoạ tiết trang trí trên
mặt sản phẩm...


2. Q trình trang trí hoa văn và phủ men
2.1 Kỹ thuật vẽ

Thợ gốm Bát Tràng dùng bút lông vẽ trực tiếp trên nền mộc các hoa văn hoạ tiết.
Thợ vẽ gốm phải có tay nghề cao, hoa văn họa tiết phải hài hồ với dáng gốm, các
trang trí hoạ tiết này đã nâng nghề gốm lên mức nghệ thuật, mỗi cái là một tác
phẩm. Thợ gốm Bát Tràng cũng đã dùng rất nhiều hình thức trang trí khác, có hiệu
quả nghệ thuật như đánh chỉ, bôi men chảy màu, vẽ men màu...
Gần đây, Bát Tràng xuất hiện kĩ thuật vẽ trên nền xương gốm đã nung sơ lần 1
hoặc kĩ thuật hấp hoa, một lối trang trí hình in sẵn trên giấy decal, nhập từ nước
ngoài. Hai kiểu này tuy đẹp nhưng không phải là truyền thống của Bát Tràng.
Những loại này không được coi là nghệ thuật và sáng tạo trong di sản gốm Bát
Tràng, cũng như gốm Việt Nam nói chung.
2.2 Chế tạo men
Men tro là men đặc sắc của gốm Bát Tràng, ngồi ra cịn có men màu nâu, thành
phần loại men này bao gồm men tro cộng thêm 5% đá thối (hỗn hợp ơxít
sắt và ôxít mangan lấy ở Phù Lãng, Hà Bắc). Từ thế kỉ 15 thợ gốm Bát Tràng đã
từng chế tạo ra loại men lam nổi tiếng. Loại men này được chế từ đá đỏ (có
chứa ơxít cơban) đá thối (chứa ơxít mangan) nghiền nhỏ rồi trộn với men áo. Men
lam phát màu ở nhiệt độ 1250 °C. Đầu thế kỉ 17 người Bát Tràng dùng vôi sống,
tro trấu và cao lanh chùa Hội (thuộc Bích Nhơi, Kinh Mơn, Hải Dương) có màu
hồng nhạt điều chế thành một loại men mới là men rạn.
Thợ gốm Bát Tràng thường quen sử dụng cách chế tạo men theo phương pháp ướt
bằng cách cho nguyên liệu đã nghiền lọc kĩ trộn đều với nhau rồi khuấy tan trong
nước đợi đến khi lắng xuống thì bỏ phần nước trong ở trên và bã đọng ở dưới đáy


mà chỉ lấy các "dị" lơ lửng ở giữa, đó chính là lớp men bóng để phủ bên ngồi đồ
vật. Trong quá trình chế tạo men người thợ gốm Bát Tràng nhận thấy để cho men
dễ chảy hơn thì phải chế biến bột tro nhỏ hơn nhiều so với bột đất, vì thế mà có câu
"nhỏ tro to đàn".
2.3 Tráng men
Khi sản phẩm mộc đã hoàn chỉnh, người thợ gốm có thể nung sơ bộ sản phẩm ở

nhiệt độ thấp rồi sau đó mới đem tráng men hoặc dùng ngay sản phẩm mộc hồn
chỉnh đó trực tiếp tráng men lên trên rồi mới nung. Người thợ gốm Bát Tràng
thường chọn phương pháp tráng men trực tiếp lên trên sản phẩm mộc hoàn chỉnh.
Sản phẩm mộc trước khi đem tráng men phải được làm sạch bụi bằng chổi lông.
Những sản phẩm mà xương gốm có màu trước khi tráng men phải có một lớp men
lót để che bớt màu của xương gốm, đồng thời cũng phải tính tốn tính năng của
mỗi loại men định tráng lên từng loại xương gốm, nồng độ men, thời tiết và mức
độ khó của xương gốm... Kĩ thuật tráng men có nhiều hình thức như phun men, dội
men lên bề mặt cốt gốm cỡ lớn, nhúng men đối với loại gốm nhỏ nhưng thông
dụng nhất là hình thức láng men ngồi sản phẩm, gọi là "kìm men", và khó hơn cả
là hình thức "quay men" và "đúc men". Quay men là hình thức tráng men bên trong
và bên ngồi sản phẩm cùng một lúc, cịn đúc men thì chỉ tráng men trong lịng sản
phẩm. Đây là những thủ pháp tráng men của thợ gốm Bát Tràng, vừa là kĩ thuật
vừa là nghệ thuật, được bảo tồn qua nhiều thế hệ, thậm chí đã từng là bí quyết
trong nghề nghiệp ở đây.
2.4 Sửa hàng men
Người thợ gốm tiến hành tu chỉnh lại sản phẩm lần cuối trước khi đưa vào lò nung.
Trước hết phải xem kĩ từng sản phẩm một xem có chỗ nào khuyết men thì phải bôi


quệt men vào các vị trí ấy. Sau đó họ tiến hành "cắt dò" tức cạo bỏ những chỗ dư
thừa men, cơng việc này gọi là "sửa hàng men".
3.Q trình nung
Khi cơng việc chuẩn bị hồn tất thì đốt lị trở thành khâu quyết định sự thành công
hay thất bại của một mẻ gốm. Vì thế giờ phút nhóm lị trở nên thiêng liêng trọng
đại với người thợ gốm. Người thợ cả cao tuổi nhất thắp ba nén hương và thành
kính cầu mong trời đất và thần lửa phù giúp. Việc làm chủ ngọn lửa theo nguyên
tắc nâng dần nhiệt độ để lò đạt tới nhiệt độ cao nhất và khi gốm chín thì lại hạ nhiệt
độ từ từ chính là bí quyết thành cơng của khâu đốt lị.
Trước đây người thợ gốm Bát Tràng chuyên sử dụng các loại lị như lị ếch (hay lị

cóc), lị đàn và lị bầu để nung gốm, sau này, xuất hiện thêm nhiều loại lò nung
khác, càng ngày càng hiện đại và đơn giản trong việc thao tác hơn.
3.1 Lò nung
Lò ếch là kiểu lò gốm cổ nhất được sử dụng một cách phổ biến ở khắp mọi nơi,
hiện nay mất hết dấu tích nhưng qua các nguồn tư liệu gián tiếp vẫn có thể hình
dung được lị có hình dáng giống như một con ếch dài khoảng 7 mét, bề ngang chỗ
rộng nhất khoảng 3-4 mét, cửa lò rộng khoảng 1,2 mét, cao 1 mét. Đáy lò phẳng
nằm ngang, vòm lò cao khoảng từ 2 mét đến 2,7 mét. Bên hơng lị có một cửa
ngách rộng 1 mét, cao 1,2 mét phục vụ cho việc chồng lò và dỡ sản phẩm. Lò có 3
ống khói thẳng đứng cao 3-3,5 mét. Trong mỗi bầu lò người ta chia thành 5 khu
vực xếp sản phẩm là: hàng dàn, hàng gáy, hàng giữa, hàng chuột chạy và hàng mặt.
Trong quá trình lâu dài sử dụng lò ếch, để khắc phục nhược điểm của lớp đất gia cố
bên trong và sàn lò, người ta thay vào đó lớp gạch mộc và vữa ghép lại.


Lò đàn xuất hiện vào giữa thế kỉ 19. Lò đàn có bầu lị dài 9 mét, rộng 2,5 mét, cao
2,6 mét được chia thành 10 bích bằng nhau. Vị trí phân cách giữa các bích là hai
nống (cột). Cửa lị rộng 0,9 mét, cao l mét. Bích thứ 10 gọi là bích đậu thơng với
buồng thu khói qua 3 cửa hẹp. Để giữ nhiệt, bích lị kéo dài và ôm lấy buồng thu
khói. Lớp vách trong ghép gạch Bát Tràng, lớp vách ngoài xây bằng gạch dân
dụng. Mặt dưới của cật lò gần như bằng phẳng còn mặt trên hình vịng khum. Hai
bên cật lị từ bích thứ 2 đến bích thứ 9 người ta dấu mở hai cửa nhỏ hình
trịn, đường kính 0,2 mét gọi là các lỗ giịi để ném nhiên liệu vào trong bích. Riêng
bích đậu người ta mở lỗ đậu (lỗ giòi rộng hơn nửa mét). Nhiệt độ lị đàn có thể đạt
được 1250–1300 °C.
Lị bầu, hay lò rồng, xuất hiện vào đầu thế kỉ 20. Lị bầu chia ra làm nhiều ngăn,
thường có từ 5 đến 7 bầu (cũng có khi đến 10 bầu). Bầu lị có vịm cuốn liên tiếp
vng góc với trục tiêu của lò tựa như những mảnh vỏ sò úp nối với nhau. Người
ta dùng gạch chịu lửa đề xây dựng vòm cuốn của lò. Lò dài khoảng 13 mét cộng
với đoạn để xây ống khói ở phía đi dài 2 mét thì tồn bộ độ dài của lị tới 15 mét.

Độ nghiêng của trục lò khoảng 12-15⁰. Nhiệt độ của lị bầu có thể đạt tới 1300 °C.
Lị hộp hay lò đứng: Khoảng năm 1975 trở lại đây người Bát Tràng chuyển sang
xây dựng lò hộp để nung gốm. Lò thường cao 5 mét rộng 0,9 mét, bên trong xây
bằng gạch chịu lửa giống như xây tường nhà. Lò mở hai cửa, kết cấu đơn giản,
chiếm ít diện tích, chi phí xây lị khơng nhiều, tiện lợi cho quy mơ gia đình. Vì thế
hầu như gia đình nào cũng có lị gốm, thậm chí mỗi nhà có đến 2, 3 lị. Nhiệt độ lị
có thể đạt 1250 °C.
Lị con thoi (hay lò gas), lò tuynen (lò hầm, lò liên tục): Trong những năm gần đây,
Bát Tràng xuất hiện thêm những kiểu lò hiện đại là lò con thoi, hoặc lị tuynen, với
nhiên liệu là khí đốt hoặc dầu. Trong quá trình đốt, nhiệt độ được theo dõi qua hỏa
kế, việc điều chỉnh nhiệt độ mà thực chất là quá trình tăng giảm nhiên liệu được


thực hiện bán tự động hoặc tự động, công việc đốt lò trở nên đơn giản hơn nhiều.
Tuy nhiên, đây khơng phải là những lị truyền thống của Bát Tràng.
3.2 Bao nung
Trước đây, các lò gốm Bát Tràng dùng một loại gạch vuông ghép lại làm bao nung.
Loại gạch này sau hai ba lần sử dụng trong lò đạt đến độ lửa cao và cứng gần như
sành (đó chính là gạch Bát Tràng nổi tiếng).
Gần đây bao nung thường được làm bằng đất sét chịu lửa có màu xám sẫm trộn
đều với bột gạch hoặc bao nung hỏng nghiền nhỏ (gọi là sa mốt) với tỉ lệ 25–35%
đất sét và 65–75% sa mốt. Người ta dùng một lượng nước vừa đủ để trộn đều và
đánh nhuyễn chất hỗn hợp này rồi đem in (dập) thành bao nung hay đóng thành
gạch ghép ruột lị. Bao nung thường hình trụ để cho lửa có điều kiện tiếp xúc đều
với sản phẩm. Tuỳ theo sản phẩm mà bao nung có kích thước khơng giống nhau
nhưng phổ biến hơn cả là loại có đường kính từ 15 đến 30 cm, dày 2–5 cm và cao
từ 5 đến 40 cm. Một bao nung có thể dùng từ 15 đến 20 lần.
Nếu sản phẩm được đốt trong lị con thoi hoặc lị tuynen, thường khơng cần dùng
bao nung.
3.3 Nhiên liệu

Đối với loại lị ếch có thể dùng các loại rơm, rạ, tre, nứa để đốt lò, sau đó Bát
Tràng dùng kết hợp rơm rạ với các loại "củi phác" và "củi bửa" và sau nữa thì củi
phác và củi bửa dần trở thành nguồn nhiên liệu chính cho các loại lị gốm ở Bát
Tràng. Củi bửa và củi phác sau khi đã bổ được xếp thành đống ngoài trời, phơi
sương nắng cho ải ra rồi mới đem sử dụng. Đối với loại lò đàn, tại bầu, người ta
đốt củi phác còn củi bửa được dùng để đưa qua các lỗ giòi, lỗ đậu vào trong lò.


Khi chuyển sang sử dụng lò đứng, nguồn nhiên liệu chính là than cám cịn củi chỉ
để gầy lị. Than cám đem nhào trộn kĩ với đất bùn theo tỷ lệ nhất định có thể đóng
thành khn hay nặn thành bánh nhỏ phơi khô. Nhiều khi người ta nặn than ướt rồi
đập lên tường khô để tường hút nước nhanh và than chóng kết cứng lại và có thể
dùng được ngay.
3.4 Chồng lị
Sản phẩm mộc sau q trình gia cơng hồn chỉnh được đem vào lị nung. Việc xếp
sản phẩm trong lò nung như thế nào là tuỳ theo sản phẩm và hình dáng kích, cỡ của
bao nung trên ngun tắc vừa sử dụng triệt để khơng gian trong lị vừa tiết kiệm
được nhiên liệu mà lại đạt hiệu nhiệt cao. Bởi cấu tạo của mỗi loại lò khác nhau
nên việc chồng lị theo từng loại lị cũng có những đặc điểm riêng. Đối với loại lò
ếch, người ta xếp sản phẩm từ gáy lò ra tới cửa lò, còn đối với loại lị đàn thì người
ta xếp sản phẩm từ bích thứ 2 đến bích thứ 10 (riêng bích thứ 10 vì lửa kém nên
sản phẩm thường để trần khơng cần có bao nung ở ngồi). Ở bầu cũi lợn (bầu đầu
tiên) nơi dành để đốt nhiên liệu, có nhiệt độ cao nên đôi khi người ta xếp các loại
sản phẩm trong các bao ngoại cỡ. Sản phẩm được xếp trong lò bầu giống như lò
đàn. Riêng đối với lò hộp, tất cả các sản phẩm đều được đặt trong các bao nung
hình trụ khơng đậy nắp và xếp chồng cao dần từ đáy lên nóc, xung quanh tường lò
và chỗ khoảng trống giữa các bao nung đều được chèn các viên than.
Làng Bát Tràng xưa có các phường Chồng Lò, mỗi phường thường gồm 7 người (3
thợ cả, 3 thợ đệm và 1 thợ học việc). Họ chia thành 3 nhóm trong đó mỗi nhóm có
1 thợ cả và 1 thợ đệm, cịn thợ học việc có nhiệm vụ bưng bao nung và sản phẩm

mộc phục vụ cho cả 3 nhóm trên. Nhóm thứ nhất có nhiệm vụ chồng đáy (xếp bao
nung và sản phẩm ba lớp từ đáy lên), nhóm thứ hai có nhiệm vụ chồng giữa (xếp
ba lớp giữa), cịn nhóm thứ ba là nhóm gọi mặt (xếp ba lớp cuối cùng ở vị trí cao


nhất trong lò). Phường Chồng Lò ở Bát Tràng chủ yếu tập hợp những người thợ
gốm ở Sài Sơn (Quốc Oai, Hà Tây) và Vân Đình (Mỹ Đức, Hà Tây) chun phục
vụ chơ các lị gốm Bát Tràng.
3.5 Đốt lị
Nhìn chung đối với các loại lò ếch, lò đàn, lò bầu thì quy trình đốt lị đều tương tự
nhau và với kinh nghiệm của mình, người "thợ cả" có thể làm chủ được ngọn lửa
trong tồn bộ q trình đốt lò. Ở lò đàn khoảng một nửa ngày kể từ khi nhóm lửa
người ta đốt nhỏ lửa tại bầu cũi lợn để sấy lò và sản phẩm trong lò. Sau đó người ta
tăng dần lửa ở bầu cũi lợn cho đến khi lửa đỏ lan tới bích thứ tư thì việc tiếp củi ở
các bầu cũi lợn được dừng lại. Tiếp tục ném củi bửa qua các lỗ giòi. Người xuất cả
bằng kinh nghiệm của mình kiểm tra kỹ các bích và ra lệnh ngừng ném củi bửa vào
bích nào khi biết sản phẩm ở bích đó đã chín. Càng về cuối sản phẩm chín càng
nhanh. Khi sản phẩm trong bích đậu đã sắp chín thì người thợ cả quyết định ném
dồn dập trong vịng nửa tiếng khoảng 9-10 bó củi bửa qua lỗ đậu rồi kết thúc việc
tiếp củi. Trong phường đốt lò, người phường trưởng (xuất cả) phụ trách chung về
kỹ thuật, hai người thợ đốt ở cửa lò (đốt dưới), bốn người chuyên ném củi bửa qua
cấc lỗ giòi (đốt trên).
Sau khi nung xong người ta bịt hết các cửa lò, lỗ giòi, lỗ xem lửa để làm nguội từ
từ. Q trình làm nguội trong lị kéo dài 2 ngày 2 đêm, sau đó mới mở cửa lò và để
tiếp 1 ngày 1 đêm nữa rồi mới tiến hành ra lò.
Đối với lò đứng, việc đốt lò trở nên đơn giản hơn nhiều vì khi hồn tất khâu chồng
lị cũng có nghĩa là đã kết thúc việc nạp nhiên liệu. Thế nhưng do đặc điểm của lò,
người thợ đốt lị dù có dày dạn kinh nghiệm cũng rất khó có thể làm chủ được
ngọn lửa, đây thực sự là vấn ra khó khăn nhất trong khâu kĩ thuật ở làng Bát Tràng.



Người ta dùng gạch chịu lửa bịt cửa lò lại rồi nhóm lị bằng củi. Lửa cháy bén vào
than và bốc từ dưới lên. Than trong lò cháy hết cũng là lúc kết thúc cơng việc đốt
lị. Thời gian đốt lị kể từ lúc nhóm lửa đến khi hồn tồn tắt lửa kéo dài khoảng 3
ngày 3 đêm. Sau khi lò nguội, sản phẩm ra lò được đánh giá phân loại và sửa chữa
lại các khuyết tật (nếu có thể được) trước khi đem ra phân phối sử dụng.

5/ Những đặc điểm của gốm Bát Tràng
Căn cứ vào những đặc điểm chung về xương gốm, màu men, đề tài trang trí và đặc
biệt nhờ các dịng minh văn, có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của gốm cổ Bát
Tràng.
Loại hình
Hầu hết, đồ gốm Bát Tràng được sản xuất theo lối thủ công, thể hiện rõ rệt tài năng
sáng tạo của người thợ lưu truyền qua nhiều thế hệ. Do tính chất của các nguồn
nguyên liệu tạo cốt gốm và việc tạo dáng đều làm bằng tay trên bàn xoay, cùng với
việc sử dụng các loại men khai thác trong nước theo kinh nghiệm nên đồ gốm Bát
Tràng có nét riêng là cốt đầy, chắc và khá nặng, lớp men trắng thường ngả màu
ngà, đục... Dựa vào ý nghĩa sử dụng, có thể phân chia loại hình của đồ gốm Bát
Tràng như sau:


Đồ gốm gia dụng: Bao gồm các loại đĩa, chậu hoa, âu, thạp, ang, bát, chén,
khay trà, ấm, điếu, nậm rượu, bình vơi, bình, lọ, ch và hũ.



Đồ gốm dùng làm đồ thờ cúng: Bao gồm các loại chân đèn, chân nến, lư hương,
đỉnh, đài thờ, mâm gốm và kiếm. Trong đó, chân đèn, lư hương và đỉnh là
những sản phẩm có giá trị đối với các nhà sưu tầm đương đại vì lẽ trên nhiều



chiếc có minh văn cho biết rõ họ tên tác giả, quê quán và năm tháng chế tạo,
nhiều chiếc còn ghi khắc cả họ và tên của những người đặt hàng. Đó là một nét
đặc biệt trong đồ gốm Bát tràng.


Đồ trang trí: Bao gồm mơ hình nhà, long đình, các loại tượng như tượng nghê,
tượng ngựa, tượng Di Lặc, tượng Kim Cương, tượng hổ, tượng voi, tượng
người ba đầu, tượng đầu khỉ mình rắn và tượng rồng.

Trang trí
Thế kỉ 14 – 15: Hình thức trang trí trên gốm Bát Tràng bao gồm các kiểu như khắc
chìm, tơ men nâu theo kĩ thuật gốm hoa nâu thời Lý–Trần, kết hợp với chạm nổi và
vẽ men lam. Khoảng thời gian này đánh dấu sự ra đời của dòng gốm hoa lam đồng
thời xuất hiện những đồ gốm hoa nâu vẽ theo gốm hoa lam. Đề tài trang trí cịn
giới hạn trong các đồ án hoa lá, tiếp nối gốm hoa nâu thời Trần.


Thế kỉ 16: cùng với việc xuất hiện những chân đèn, lư hương có kích thước lớn
hơn, kĩ thuật trang trí chạm nổi kết hợp vẽ men lam đạt đến trình độ tinh xảo.
Đề tài trang trí phổ biến có các loại: rồng, phượng, xen kẽ cụm mây, ngựa có
cánh, hoạt cảnh người, cánh sen đứng, hoa dây, lá đề, phong cảnh sơn thuỷ...
Trang trí vẽ men lam cịn giữ được nhịp độ phát triển, nhiều loại văn hình học
và hoa lá còn thấy gần gũi với đồ gốm hoa lam xuất hiện cùng thời ở Chu Đậu,
(Hải Dương).



Thế kỉ 17: kĩ thuật chạm khắc, đắp nổi trên gốm Bát Tràng càng tinh tế, cầu kì,
gần gũi với chạm đá và gỗ. Đề tài trang trí tiếp nối thế kỉ 16, đồng thời xuất

hiện các đề tài trang trí mới: bộ tứ linh, hổ phù, nghê, hạc... Những đề tài chạm
nổi, để mộc điển hình khác như bơng cúc hình ơvan, bơng hoa 8 cánh, bơng cúc
trịn, cánh hoa hình lá đề, cánh sen vng, các chữ Vạn-Thọ (chữ Hán)... Việc
sử dụng men lam kém dần, tuy đề tài trang trí vẽ tương đồng với chạm nổi. Thế


kỉ 17 xuất hiện dòng gốm men rạn với sự kết hợp trang trí đề tài nổi bật như
rồng, tứ linh, hoa lá, cúc-trúc-mai. Trong khoảng thời gian này còn xuất hiện
loại gốm nhiều màu, nổi trội nhất là màu ngọc với các đề tài trang trí độc đáo:
hoa sen, chim, nghê, hình người...


Thế kỉ 18, trang trí chạm nổi gần như chiếm chủ đạo thay thế hẳn trang trí vẽ
men lam trên gốm Bát Tràng. Các kỹ thuật đúc nổi, dán ghép, chạm khắc nổi đã
thích ứng với việc sử dụng men đơn sắc (men trắng xám và men rạn). Đề tài
trang trí ngồi bộ tứ linh, rồng, nghê cịn thể hiện các lồi cây tượng trưng cho
bốn mùa. Ngồi đề tài sen, trúc, chim và hoa lá cịn thấy xuất hiện các loại văn
bát quái, lá lật... Hoa văn đường diềm phát triển manh các nền gấm, chữ vạn,
cánh sen nhọn, hồi văn, sóng nước...



Thế kỉ 19, gốm hoa lam Bát Tràng phục hồi và phát triển phong cách kết hợp sử
dụng nhiều loại men vào trang trí. Bên cạnh các đề tài đã có, Bát Tràng cịn
xuất hiện thêm các đề tài du nhập từ nước ngoài theo các điển tích Trung Quốc
như Ngư ơng đắc lợi, Tô Vũ chăn dê, Bát tiên quá Hải, Ngư ông kéo lưới...

Các dịng men
Gốm Bát Tràng có 5 dịng men đặc trưng được thể hiện qua mỗi thời kì khác nhau
để tạo nên những sản phẩm đặc trưng khác nhau: men lam xuất hiện khởi đầu ở Bát

Tràng với những đồ gốm có sắc xanh chì đến đen sẫm; men nâu thể hiện theo
phong cách truyền thống và được vẽ theo kĩ thuật men lam; men trắng ngà sử dụng
trên nhiều loại hình đồ gốm từ thế kỉ 17 đến thế kỉ 19, men này mỏng, màu vàng
ngà, bóng thích hợp với các trang trí nổi tỉ mỉ; men ngọc được dùng kết hợp với
men trắng ngà và nâu tạo ra một đòng Tam thái rất riêng của Bát Tràng ở thế kỉ 16–
17 và men rạn là dòng men chỉ xuất hiện tại Bát Tràng từ cuối thế kỉ 16 và phát
triển liên tục qua các thế kỉ 17–19.


Men lam
Đây là loại men sớm nhất được sử dụng tại Bát Tràng từ thế kỉ 14. Men lam là men
gốm được cộng thêm với gốc màu là ơxít cơban. Thợ Bát Tràng sử dụng men lam
đồng thời với kĩ thuật dùng bút lông làm công cụ vẽ trên đồ gốm. Men lam không
để để trần như men nâu mà bao giờ cũng được phủ lớp men màu trắng bóng, có độ
thuỷ tinh hố cao sau khi nung. Men lam có sắc độ từ xanh chì đến xanh sẫm. Bên
cạnh điểm tương đồng với các loại bình gốm hoa lam sản xuất ở lò Chu Đậu (Hải
Dương), gốm hoa lam Bát Tràng ngay ở thời kì đầu đã có những nét riêng về dáng
và về hoạ tiết trang trí. Những bát, âu, lọ, chân đèn gốm hoa lam của Bát Tràng thế
kỉ 14–15 có nét chung dễ nhận là lối vẽ phóng bút, dù là vẽ phong cảnh, hoa dây lá
hay vẽ rồng.
Gốm hoa lam Bát Tràng thế kỉ 16, có sắc xanh đen. Men lam dùng để vẽ mây kết
hợp với trang trí hình rồng nổi để mộc, vẽ cánh sen, các băng đường diềm các cặp
chân đèn ngoài ra men lam dùng vẽ vào các hình trang trí nổi rồng, hoa dây và
cánh sen của chân đèn và lư hương.
Thế kỉ 17 là một thời kì men lam kém phát triển tại Bát Tràng. Trên một số các
chân đèn, lư hương, hũ, tượng gốm Bát Tràng (thế kỉ 17) hiện cịn, lớp men vẽ
trang trí màu nâu ở những chỗ men phủ màu trắng ngà rạn bị bong tróc, chỗ cịn
men phủ, màu nâu có sắc xanh chì, đặc biệt là chân đèn và lư hương, các hình vẽ
men lam kém chau chuốt và tình trạng khá phổ biến men lam chảy nhoè, không
nhận ra các họa tiết. Trong khi đó khắc chạm nổi, để mộc rất tỉ mỉ, đạt tới đỉnh cao.

Cuối thế kỉ 18, trong đỉnh cao về men rạn, Bát Tràng xuất hiện lối kết hợp trang trí
nổi với vẽ lam như trên chân đèn, men lam được khôi phục trở lại trên đồ gốm Bát
Tràng.


Thế kỉ 19, men lam được vẽ trang trí trên lư, choé, bình, lọ, bát hương, nậm rượn
phủ men rạn trắng ngà hoặc đỉnh gốm, bình gốm men nhiều màu. Nét biểu hiện đặc
trưng của men lam gốm Bát Tràng là sắc màu và lối vẽ, nhìn chung có sắc trầm.
Dùng men lam vẽ phong cảnh sơn thủy, nhà cửa, lâu đài, nhân vật khá thành cơng
trên bình. Men lam có sắc tươi dùng tơ vẽ trang trí nồi trên đỉnh có thể là một trong
số những tiêu bản gốm hoa lam đẹp nhất của gốm Bát Tràng ở cuối thế kỉ 19.
Trong xu hướng ảnh hưởng kiểu dáng, đề tài và cạnh tranh thị trường với gốm sứ
Trung Quốc, đồ gốm Bát Tràng ở thế kỉ 19 cịn có nhiều trường hợp dùng nhiều
màu men. Men lam cùng với men trắng vẽ các đề tài mã liễu, tiêu tượng, tùng lộc
trên lư gốm men nâu, men lam vẽ cành liễu, khóm lan, bụi cỏ, men lam cùng với
men nâu sắc sẫm và nhạt tạo nên chiếc đỉnh gốm men nhiều màu đồ sộ. Đó cũng là
bằng chứng sinh động về bàn tay tài khéo của nhiều đời thợ gốm Bát Tràng được
kế thừa và không ngừng tiến triển.
Men nâu
Một trong số các loại men sử dụng đầu tiên ở Bát Tràng là men nâu, sắc độ màu
của men phụ thuộc nhiều vào xương gốm (xương gốm Bát tràng dày và thường có
màu nâu xám). Trên các đồ gốm có niên đại thế kỉ 14 đầu thế kỉ 15, men nâu được
dùng tơ lên các đồ án trang trí kết hợp với men nền màu trắng ngà bao gồm chân
đèn, thạp, chậu, âu, đĩa...Men nâu có sắc độ đỏ nâu hay gọi là màu bã trầu
(chocolate), men này khơng bóng, trên bề mặt men thường có vết sần. Men nâu
cịn được dùng phủ toàn bộ rồi cạo bỏ phần men tạo thành đồ án hoa văn mộc. Thế
kỉ 14, thợ gốm Bát Tràng đã biết hạn chế sự ảnh hưởng màu men nâu do mộc bằng
cách vẽ men nâu trên lớp men trắng ngà để chuyển men nâu đỏ sang vàng nâu.



Trong các loại hình của nhóm đồ gốm men nhiều mâu thế kỉ 16–17, men nâu được
dùng xen lẫn với men ngọc, men ngà, tạo ra các sắc độ khác nhau. Men nâu giữ vị
trí các đường chỉ chia băng, tơ lên hoa sen hoặc các hình rồng, đối với lư hương
chữ nhật men nâu tô lên phần chân đế...
Các đồ gốm thế kỉ 18 tiếp tục sử dụng men nâu nhiều theo cách thức cổ truyền,
một số nghệ nhân tìm tịi phát huy thêm để làm phong phú màu men này, đặc biệt
trên cặp tượng hổ chế tạo khoảng năm 1740, men nâu dưới lớp men rạn tạo nên bộ
da hổ có màu sắc đa dạng hơn.
Thế kỉ 19, men nâu dùng làm nền cho các trang trí men trắng và xanh. Thế kỉ 19 là
thời điểm đánh dấu men nâu đã chuyển sắc thành một loại men bóng (thường gọi là
men da lươn), sử dụng rộng rãi ở Bát Tràng cho tới tận ngày nay.
Men trắng (ngà)
Đây là loại men trắng, nhiều trường hợp ngả màu vàng ngà, bóng khi nhiệt độ nung
đạt độ cao nhưng cũng nhiều trường hợp có màu trắng xám, trắng sữa, đục. Cùng
với kiểu dáng và trang trí, men trắng ngà cũng tạo nên một nét riêng biệt của đồ
gốm Bát Tràng. Men trắng ngà đã thấy sử dụng phủ lên trang trí men lam hay men
nâu, nhưng trong rất nhiều đồ gốm Bát Tràng chỉ thấy dùng men trắng ngà.
Gốm Bát Tràng thế kỉ 17 đạt đỉnh cao trong kĩ thuật trang trí nổi với hầu hết các
thủ pháp kĩ thuật chạm trổ, dán ghép. Men trắng ngà được sử dụng trên các lư
hương để phủ trên các rìa, ước và đường viền ngồi phần trang trí nổi, rất ít khi
phủ lên hình trang trí. Vì men trắng mỏng, xương gốm được lọc luyện kĩ và độ
nung cao nên có chất lượng tốt, một số sản phẩm men trắng ngà phủ lên trang trí
nổi dày vẫn có vết rạn men.


Thế kỉ 18, men trắng ngà còn thấy sử dụng trên một số loại hình khác nhau cùng
trang trí nổi để mộc. Những lư hương trịn được đắp nổi hình rồng và mặt nguyệt,
phần còn lại phủ men trắng ngà.
Vào thế kỉ 19, gốm Bát Tràng chưa mất hẳn kiểu trang trí nổi để mộc, men ngà cịn
thấy sử dụng trên các loại bình, lọ, lư hương, tượng trịn. Bình gốm có nắp có các

hình rồng mây và lục bảo trang trí nổi để mộc, phần cịn lại phủ men trắng ngà.
Trên các loại bình, lư hương quai tùng, lư hương chữ Thọ; cặp tượng đầu khỉ thân
rắn, tượng rồng trang trí kiến trúc, tượng ba đầu, tượng Phật Bà Quan Âm ngồi trên
toà sen đều thấy sử dụng men ngà, xám.
Men ngọc
Thế kỉ 14–19 men ngọc được dùng khá nổi trội cùng với men trắng ngà và nâu.
Men ngọc, men ngà và nâu tạo ra loại Tam thái riêng của gốm Bát Tràng thế kỉ 16–
17.
Men ngọc còn dùng vẽ mây, tơ lên nhiều góc mảng diềm, đế và các cột dọc của
long đình. Men ngọc, sắc nhạt, trên chân đèn, đế nghê.. Men ngọc sắc sẫm cịn
thấy tơ trên một số mảng trang trí nổi, hình nghê của lư trịn và trên diềm trang trí
nổi chân trước tượng nghê.
Men ngọc, dù ở các sắc độ khác nhau nhưng sự xuất hiện của nó mang ý nghĩa rất
lớn vì chỉ thấy trên đồ gốm Bát Tràng thế kỉ 16 – 17 và có thể xem đây là một dữ
kiện đoán định niên đại khá chắc chắn cho các đồ gốm Bát Tràng trên nhiều loại
hình khác nhau.

Men rạn


Đây là một loại men độc đáo tạo ra do sự chênh lệch về độ co giữa xương gốm và
men. Cho đến nay các tài liệu gốm men cổ ở Việt Nam xác nhận mang men rạn chỉ
được sản xuất tại lò gốm Bát Tràng từ khoảng cuối thế kỉ 16 và kéo dài tới đầu thế
kỉ 20.
Men rạn có sắc ngà xám các vết rạn chạy dọc và ngang chia ra nhiều hình tam giác,
tứ giác. Những cặp hiện vật men rạn này rêu có trang trí nổi, ngồi men rạn ra
khơng cịn loại men nào khác, đó là những tiêu bản men rạn chuẩn mực của Bát
Tràng vào thế kỉ 17.
Thế kỉ 18 Bát Tràng còn sản xuất nhiều đồ gốm men rạn có ghi niên đại. Men rạn
cịn được sù dụng trên các loại hình: chân nến trúc hố long; ấm có nắp, đài thờ các

nắp, cặp tượng nghê.
Thế kỉ 19, các đồ gốm dòng men rạn còn tiếp tục phát triển, bên cạnh việc sử dụng
kết hợp men rạn với trang trí vẽ lam. Trên các đồ gốm, thợ Bát Tràng cịn đắp nổi,
khắc chìm hoặc khơng trang trí, men rạn có màu trắng xám.
Gốm Bát Tràng nhiều trường hợp có minh văn, thể hiện bằng khắc chìm hay viết
bằng men lam dưới men trắng. Một số minh văn cho biết rõ năm sản xuất, họ tên
quê quán tác giả chế tạo cùng họ tên, có khi là cả chức tước của người đặt hàng.
Và còn rất nhiều sản phẩm có ghi minh văn, những sản phẩm này một số đang
được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, một số tại các bảo tàng nước ngoài,
một số hiện được sở hữu bởi các nhà sưu tầm đồ cổ, một số lưu lạc trong dân gian
và một số cịn chìm sâu trong lịng đất.

6/ Thuận lợi, khó khăn và hướng phát triển của nghề gốm.
Trước xu hướng tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta vừa gia nhập tổ


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×