Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

TIỂU LUẬN VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1012.41 KB, 40 trang )

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỒN KẾT DÂN TỘC TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN
KẾT DÂN TỘC. ............................................................................................... 3
1. Cơ sở lý luận: ............................................................................................ 3
2. Cơ sở thực tiễn: ......................................................................................... 5
3. Phẩm chất và năng lực của Hồ Chí Minh................................................... 8
II. VAI TRỊ CỦA ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC TRONG SỰ NGHIỆP
CÁCH MẠNG. ................................................................................................. 9
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành
cơng của cách mạng ....................................................................................... 9
2. Đại đồn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân
tộc ................................................................................................................. 10
III. LỰC LƯỢNG ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC. ....................................... 11
1. Trước hết là đoàn kết giai cấp công nhân ................................................ 11
2. Cùng với giai cấp công nhân trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Hồ Chí
Minh đánh giá cao giai cấp nơng dân (cố bần, nông) là một lực lượng to lớn
của cách mạng .............................................................................................. 13
3. Tầng lớp tiểu tư sản trí thức ..................................................................... 14
4. Giai cấp tư sản dân tộc ............................................................................. 15
5. Giai cấp địa chủ, phong kiến .................................................................... 15
6. Đồng thời với đại đồn kết đân tộc, Hồ Chí Minh cịn chỉ rõ phải mở rộng
đồn kết quốc tế ............................................................................................ 17
IV. HÌNH THỨC TỔ CHỨC........................................................................ 22
1. Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là mặt trận dân tộc thống
nhất ............................................................................................................... 22


2. Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của mặt trận dân tộc
thống nhất ..................................................................................................... 24
V. VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY..................................................................................................... 29
1. Thực trạng khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay ........................................ 29
2. Mục tiêu, nội dung và biện pháp xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân
tộc ở Việt Nam hiện nay............................................................................... 31
3. Vấn đề dân tộc – điểm mới trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng ......... 35
VI. KẾT LUẬN .............................................................................................. 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 38


MỞ ĐẦU
Đoàn kết là truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam từ bao đời nay. Trong
mọi giai cấp, mọi hồn cảnh, mọi khó khăn thì đồn kết là vấn đề đặt lên hàng
đầu, người ta vẫn thường nói:” Đồn kết thì sống, chia rẽ thì chết” thực tế cuộc
sống không phải lúc nào cũng bằng phẳng mà trên đường đời ta ln gặp khó
khăn, trắc trở và một người có thể sẽ khơng vượt qua được mà cần sự giúp đỡ
của người xung quanh, vì thế đồn kết sẽ đưa con người đến thành cơng, giúp
xóa bỏ khoảng cách, xích lại gần nhau, biết thơng cảm cho nhau và tạo nên một
tập thẻ thống nhất vững mạnh. Phải chăng từ tình đồn kết ấy mà Việt Nam ta từ
một nước nhỏ bé, lạc hậu, yếu thế và bị đàn áp bởi các nước lớn mạnh, đã trải
qua hàng năm Bắc thuộc dám đứng lên đánh đổ kẻ thù, đặc biệt là quốc gia hùng
mạnh nhất Thế giới lúc bấy giờ: Phát xít Nhật, thực dân Phát, đế quốc Mĩ,… Khi
so về lực lượng, vũ khí hiện đại nhất thì Mĩ và Nhật là những nước đi đầu, còn
ta vẫn dùng vũ khí thơ sơ những vẫn chiến thắng được nhờ tính đồn kết, sự học
hỏi lãnh đạo tài ba của các vị anh hùng trải qua bao đời nay từ phong kiến đến
nay. Trong đó phải nói đến sự lãnh đạo tài tình của người cha anh hùng dân tộc
Hồ Chí Minh. Người đã ra đi tìm đường cứu nước ở các nước phương Tây, học
hỏi các kho tàng tư tưởng, lý luận cách mạng thế giới của thời đại. Và người đã

tìm một hướng đi, một nền tảng cho dân tộc đó là đi theo đường lối mới đó là từ
chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, con đường giải phóng duy nhất
mà Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra cho dân lao động và tất cả các dân
tộc bị áp bức trên toàn thế giới . Là một nhà khoa học, nhà tư tưởng, Hồ Chí
Minh đã vận dụng sự sáng tạo của mình , chủ nghĩa Mác - Lênin tạo thành một
hệ thống bao quát nhiều lĩnh vực như: tư tương triết học, tư tưởng kinh tế, tư
tưởng chính trị, tư tưởng quân sự, tư tưởng văn hóa, tư tưởng đạo đức,…, trong
mỗi lĩnh vực lại có thể tìm thấy những hệ thống nhỏ. Để từ đây làm cơ sở lý
luận, hệ thống các tư tưởng, chủ trương, chính sách kết hợp với tính đồn kết
dân tộc giải phóng dân nhân khỏi ách đàn áp của chủ nghĩa đế quốc. Và nó ln
được phát triển, giữ gìn đến ngày nay để thế hệ trẻ chúng ta là những học sinh
viên kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tích
1


cực, chủ động đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái bảo vệ chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh , đường lối vào giải quyết các vấn đề đặt ra
trong cuộc sống. Để biết đường lối ấy như thế nào , thì sau đây nhóm em sẽ
phân tích , tìm hiểu rõ hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đại hội đại biểu tồn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX (42001) đã tổng hợp những thành tựu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trong
những giai đoạn trước đó thành lý tưởng và lần đầu tiên đưa ra hai nội dung cơ
bản nhất về tư tưởng Hồ Chí Minh ở tầm đại hội ( định nghĩa tư tưởng Hồ Chí
Minh và xác định tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống bao gồm chín vấn đề cơ
bản), trong đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân, của khối đại
đoàn kết dân tộc là một trong những tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối
với q trình phát triển của dân tộc ta. Đại hội X (4-2006) Đảng Cộng sản Việt
Nam khẳng định “ đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự nghiệp phát triển đất nước
tiếp tục được tăng cường” và là một trong mười thành tựu phát triển kinh tế - xã
hội giai đoạn 2001-2005, góp phần làm nên thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử trong thực tiễn 20 năm (1986-2006) đổi mới ở Việt Nam. Tiếp tục nghiên cứu

và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc là việc làm
cấp thiết, có ý nghĩa lý luận sâu sắc và tính thực tiễn cao nhằm đáp ứng nhu cầu,
nhiệm vụ mới trong giai đoạn hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết tồn dân tộc là hệ thống những luận
điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục, tập hợp và tổ chức lực lượng cách
mạng nhằm phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh vì
độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đồn kết tồn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại là tư tưởng xây dựng, củng cố và mở rộng lực lượng cách mạng trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và xây
dựng xã hội mới.

2


I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN
KẾT DÂN TỘC.
Sau nhiều khảo cứu, tranh luận và tổng hợp ý kiến, các nhà khoa học khẳng
định tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết tộc có nguồn gốc và được xây dựng
từ nhiều yếu tố được kết tinh lại; trong đó việc kế thừa và phát triển biện chứng
chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đồn kết của dân tộc; tinh hoa văn hóa nhân
loại và đặc biệt là quan điểm về đồn kết vơ sản của chủ nghĩa Mác-Lênin được
vận dụng, phát triển cho phù hợp với tình hình, điều kiện cụ thể của nước ta
trong từng giai đoạn cách mạng là những yếu tố quan trọng nhất.
1. Cơ sở lý luận:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc là sự kế thừa và phát triển
truyền thơng đồn kết của dân tộc Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam nảy
sinh trong quá trình dựng nước và giữ nước, huyền thoại Bà Âu Cơ sinh trăm
trứng, đến tình làng, nghĩa xóm cùng hưởng vui buồn, cùng chịu đói no, cùng

chia lạnh, tắt lửa tối đèn có nhau; từ Hội nghị Diên Hồng quân cùng bàn bạc
việc quân cho đến trên dưới một lòng, tướng uống chung chén rượu hịa nước
sơng. Tinh thần ấy, tình cảm ấy theo thời gian trở thành lẽ sống của mỗi con
người Việt Nam, chúng làm cho vận mệnh của mỗi cá nhân gắn chặt với vận
mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn và phát triển của dân tộc, chúng là cơ sở
3


của ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân tộc của con
người Việt Nam; chúng cũng trở thành giá trị tinh thần thúc đẩy sự phát triển
của cộng đồng và của mỗi cá nhân trong quá trình dựng nước và giữ nước, làm
nên truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc. Dù lúc thăng lúc trầm nhưng
chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam bao giờ
cũng là tinh hoa đã được hun đức và thử nghiệm qua hàng ngàn năm lịch sử
chinh phục thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ Quốc của ông cha ta
“ Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ
xưa đến nay mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nối kết
thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Chính chủ nghĩa yêu
nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam đã thơi thúc Hồ Chí Minh
ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911, khi mới vừa tròn 21 tuổi.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc là sự kế thừa và phát triển
biện chứng những giá trị nhân văn của văn hóa nhân loại Đơng-Tây.
Cùng với chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc cịn là sự tiếp thu có chọn lọc những
những giá trị nhân văn của văn hóa nhân loại như tư tưởng đại đồng, nhân ái của
Nho giáo; tư tưởng lục hòa của Phật giáo và tự do, bình đẳng, bác ái của văn hóa
phương Tây. Đó là những tinh hoa văn hóa nhân loại được Hồ Chí Minh kế thừa
biện chứng trong quá trình xây dựng chiến lược đại đồn kết dân tộc của mình.

4


- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc là sự kế thừa và phát triển
các quan điểm về đồn kết quốc tế vơ sản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đặc biệt là
quan niệm coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; quần chúng nhân dân
vừa là người làm nên lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử do chính mình làm ra
v.v; nhất là khẩu hiệu chiến lược về đồn kết cách mạng “Vơ sản tất cả các
nước, liên hiệp lại” nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản(1848) và được
V.I.Lênin phát triển cho phù hợp với thời đại của mình thành “Vơ sản tồn thế
giới và các dân tộc bị áp bức liên hiệp lại”.
Chỉ ra sự cần thiết của khối liên minh, như vậy, V.I.Lênin cho rằng, nếu
khơng có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân dân lao động và đội ngũ tiên
phong của nó là giai cấp vơ sản thì cách mạng khơng thể thực hiện được. Ơng
cịn viết, giai cấp vơ sản cịn cần sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân lao động khi
giai cấp vô sản đã giành được chính quyền và ngay cả khi đang nắm chính
quyền; bởi trong mỗi thời kỳ cách mạng sự tham gia của quần chúng vào thực
hiện các mục tiê, nhiệm vụ cách mạng thể hiện trong các hình thức khác nhau.
Có thể nói vai trị của nhân dân trong lịch sử và vị trí của đồn kết trong cách
mạng vô sản là một trong những cơ sở lý luận quan trọng để Hồ Chí Minh phát
triển thành tư tưởng của mình về đại đồn kết dân tộc trong các điều kiện cụ thể,
ở từng giai đoạn cụ thể của cách mạng Việt Nam.
2. Cơ sở thực tiễn:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc được hình thành trên cơ sở
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn lịch sử dân tộc và gần mười năm tìm tịi, khảo
nghiệm thực thực tiễn ở nước ngoài cũng như yêu cầu khách quan cấp thiết của
cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX.
- Thực tiễn cách mạng Việt Nam
Là người am hiểu lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước và xây dựng đất
nước, Hồ Chí Minh đã nhận thức được trong lịch sử phong kiến Việt Nam đã

ghi lại những tấm gương đồn kết của ơng cha ta như “ Vua tơi đồng lịng, anh
em hịa thuận, cả nước góp sức”; “khoan thư sức dân để là kế bền gốc là thượng
sách giữ nước v.v.. Về nguyên nhân thành công trong sự nghiệp phục nước của
5


vua Lê Thái Tổ ( Lê Lợi, 1428-1527), Hồ Chí Minh viết “Vì dân hắng hái kết
đồn. Nên khơi phục chóng Giang san Lạc Hồng”; về Vua Quang Trung Nguyễn
Huệ (1753-1792) “Ơng đã đặt chí cả mưu cao. Dân ta lại cùng biết cùng nhau
một lịng” v.v.. Hồ Chí Minh đã tiếp nhận chúng như những bài học lớn chó sự
hình thành tư tưởng của mình về đại đồn kết dân tộc. Năm 1954, khi đến thăm
và nói chuyện với bộ đội tại Đền Giếng trước khi về tiếp quân thủ đơ Hà Nội,
Hồ Chí Minh nói “Các Vua Hùng đã có cơng dựng nước, Bác cháu ta phải cùng
nhau giữ lấy nước” để ghi nhớ công lao gây dựng và bảo về đất nước của ông
cha mà phần lớn là nhờ vào sức mạnh đoàn kết dân tộc và biết sử dụng người
tài.
Năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) mở đầu
thời kỳ cai trị và áp bức của chúng đối với dân tộc ta trong suốt gần 90 năm trời
rong rã (1858-1945). Nhưng cũng chính trong khoảng thời gian đó, chủ nghĩa
u nước là đoàn kết dân tộc, tuy lúc thăng, lúc trầm nhưng lúc nào cũng sơi nổi
thành một làn sóng to lớn, mạnh mẽ lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn thông
qua cá xu hướng khác nhau để cứu nước. Xu hướng phong kiến (phong trào Cần
Vương, khởi nghĩa Yên Thế v.v); xu hướng tư sản (phong trào Đông Du, Duy
Tân, khởi nghĩa Yên Bái v.v). Tuy vậy, tất cả các xu hướng đó đều thất bại trước
kẻ thù mới của dân tộc là chủ nghĩa tư bản Pháp đang bước sang thời kỳ đế quốc
chủ nghĩa. Khâm phục lòng yêu nước của các bậc tiền bối như Phan Đình
Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu v.v, nhưng Hồ Chí
Minh khơng hồn tồn tán thành cách làm cách mạng của cụ nào, vì cụ thì yêu
cầu người Pháp thực hiện chính sách cải lương, cụ thì hy vọng vào sự giúp đỡ
của phát xít Nhật đánh đuổi thực dân Pháp, cụ thì trực tiếp chống Pháp nhưng

cịn nặng cốt cách phong kiến. Hồ Chí Minh cảm nhận được những hạn chế
trong những chủ trương tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước đó và những
hạn chế của họ trong việc nắm bắt nhưng đòi hỏi khách quan của lịch sử dân tộc
trong giai đoạn này. Đây cũng chính là lý do, là điểm xuất phát của Hồ Chí
Minh quyết tâm ra nước ngồi tìm đường cứu nước để trở về cùng nhân dân ta
cứu nước theo con đường khác.
6


- Thực tiễn cách mạng thế giới
Gần mười năm trời
đằng đẵng (1911-1920). Hồ
Chí Minh thâm nhập và tìm
hiểu phong trào cách mạng
của giai cấp bị áp bức ở giai
cấp tư bản và các dân tộc bị
áp bức ở thuộc địa. Các
điểm nổi bật trong thời gian
này là Hồ Chí Minh gia nhập Đảng Xã hội Pháp (1917), bước chuyển đầu tiên
trở thành chiến sỹ cộng sản và rút ra được kết luận muốn được giải phóng, các
dân tộc chỉ có trơng cậy vào chính
bản thân mình, việc tiếp cận với Sơ
thảo lần thứ nhất những Luân cương
về dân tộc và thuộc địa của V .I.Lênin
(1920) đã xác định được kể thù của
nhân dân lao động là chủ nghĩa đế
quốc, bạn đồng minh của nhân dân
lao động là nhân dân lao động ở các
nước chính quốc và thuộc địa. Đại hội
Tua (1920) đánh dấu bước ngoặt quan

trọng trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của Hồ Chí Minh từ chủ nghĩa
yêu nước đến chủ nghĩa Mác Lênin,
từ người yêu nước thành người cộng sản. Từ đây, Hồ Chí Minh đã bước đầu
khẳng định sự nghiệp giả phóng dân tộc Việt Nam năm trong sự nghiệp giải
phóng nhân loại; xác định được phương hướng và chủ trương thực hiện chiến
lược đại đoàn kết dân tộc tạo sức mạnh để giải phóng dân tộc; đồng thời cũng
từng bước tiếp cân chân lý của thời đại là giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.
7


3. Phẩm chất và năng lực của Hồ Chí Minh
Sinh ra và lớn lên trong gia đình nhà Nho yêu nước trên dải đất Nghệ Tĩnh
có lịng u nước và truyền thống đấu tranh bất khuất, kiên cường nên ngay từ
thuở thiếu thời Hồ Chí Minh đã tiếp thu được những tinh hoa của vùng đất địa
linh nhân kiệt đó. Có thể khẳng định truyền thống anh dũng của quê hương và
tinh hoa văn hóa của xứ sở đã có những ảnh hưởng lớn đến việc hình thành nhân
cách, tâm hồn Hồ Chí Minh. Những đó đã đi cùng Hồ Chí Minh trong suốt cuộc
đời đấu tranh và hoạt động cách mạng, trở thành nguồn lực ni dưỡng trí tuệ,
tâm hồn và bản lĩnh phi thường của vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
Chủ nghĩa nhân văn và đạo đức trong sáng là một trong những cơ sở đặc
biệt quan trọng để hình thành chiến lược đại đồn kết của Hồ Chí Minh. Tư
tưởng, tinh thần thuộc lĩnh vực ý thức xã hội và gắn liền với chủ thể sở hữu
chúng; vì vậy, ngồi tính khách quan, tư tương, tinh thần cịn mang tính chủ
quan, chúng phụ thuộc vào các yếu tố nhân cách, phẩm chất v.v của chủ thể
sáng tạo ra chúng. Hồ Chí Minh đã hội đủ phẩm chất và năng lực để kết hợp hài
hòa chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc với tinh hoa văn hóa
Đơng- Tây, đặc biệt là với chủ nghĩa Mác-Lênin và với thực tiễn đấu tranh giải
phóng giai cấp, giải phóng con người, nhất là ở các nước thuộc địa, làm cơ sở

cho chiến lược đại đoàn kết dân tộc của mình và yếu tố vơ cùng quan trọng
trong việc chuyển hóa chiến lược đó thành chủ nghĩa nhân văn và đạo đức trong
sáng của chính Hồ Chí Minh.
Mục tiêu và lý tưởng của Hồ Chí Minh là độc lập cho đất nước và tự do,
hạnh phúc cho nhân dân. Bởi, Người là mẫu mực về đạo đức cách mạng, tác
phong bình dị, chân tình tạo sức cảm hóa lớn đối với mọi người nên tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đồn kết dân tộc thể hiện niềm tin mãnh liệt vào con người, vào
nhân dân mang tính vị tha và lịng bác ái. Nhờ vậy, Hồ Chí Minh đã khơi dậy
trong nhân dân ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước.

8


II. VAI TRỊ CỦA ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC TRONG SỰ NGHIỆP
CÁCH MẠNG.
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành
cơng của cách mạng
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong thời đại mới, để đánh bại các thế lực đế
quốc thực dân nhầm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người, nếu chỉ có tinh thần yêu nước thì chưa đủ; cách mạng muốn thành cơng
và thành cơng đến nơi, phải tập hợp được tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp,
xây dựng được khối đại đồn kết dân tộc bền vững. Chính vì vậy, trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất
quán và lâu dài, xun st tiến trình cách mạng.
Để quy tụ được mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết toàn dân, cần phải có
chính sách và phương pháp phù hợp ới từng đối tượng. Trong từng thời kỳ, từng
giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau, chính sách
và phương pháp tập hợp có thể và cần thiết phải điều chỉnh cho phù hợp với
từng đối tượng khác nhau, song đại đoàn kết dân tộc phải ln ln được nhận
thức là vấn đề sống cịn, quyết định thành bại của cách mạng.

Chính sách mặt trận của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra là để thực
hiện đoàn kết dân tộc. Nhờ tư tưởng nhất quán và chính sách mặt trận đúng đắn,
Đang ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành cơng khối đại đồn kết dân
tộc, đưa cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi to lớn. Hồ Chí Minh
viết: Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng
8 thàng công, lập nên nước Viết Nam Dân chủ Cộng hịa.
Đồn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi,
lập lại hịa bình ở Đơng Dương, hồn tồn giải phóng miền Bắc.
Đồn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành được
thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Từ thực tiễn như vậy, Hồ Chí Minh đã khái qt thành nhiều luận điểm có
tính chân lý về vai trị của khối đại đồn kết:
9


Đồn kết làm ra sức mạnh. Hồ Chí Minh rất nhiều lần nhấn mạnh luận
điểm này. Người viết: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đồn kết chặt chẽ,
thì chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi
và làm trọn nhiệm vụ nhân dân giao phó”; “Đồn kết là một lực lượng vơ địch
của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”; “Đoàn kết là sức
mạnh, là then chốt của thành cơng”…
“Bây giờ cịn một điểm rất quan trọng, cũng là điểm mẹ. Điểm này mà
thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đồn kết”.
“ Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết,
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng!”…
2. Đại đồn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân
tộc
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, u nước – nhân nghĩa- đồn kết là sức
mạnh, là mạch nguồn của mọi sự thắng lợi. Do đó, đại đồn kết dân tộc phải

được xác định là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt
trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách tới hoạt động
thực tiễn của Đảng. Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt
Nam ngày 03-3-1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể
dận tộc: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm 8 chữ là: ĐOÀN
KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”. Để thực hiện mục tiêu này, Người
thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng nghe quần chúng; vận động, tổ chức và
giáo dục quần chúng, coi sức mạnh của cách mạng là ở nơi quần chúng; phải
thấm nhuần lời dạy “dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng
xong”.
Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là
nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng. Nhấn mạnh vấn đề này là
nhấn mạnh đến vai trò thực lực của cách mạng. Bởi vì, cách mạng muốn thành
cơng nếu chỉ có đường lối thì chưa đủ, mà trên cơ sở của đường lối đúng, Đảng
phải cụ thể hóa bằng những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù
hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho
10


cách mạng. Thực lực đó chính là khối đại đồn kết dân tộc. Năm 1963, khi nói
chuyện với cán bộ tuyên truyền và huấn luyện miền núi về cách mạng xã hội
chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước cách mạng Tháng Tám và trong kháng
chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là là cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy
việc: Một là đoàn kết. Hai là là cách mạng hay kháng chiến để đòi đọc lập. Chỉ
đơn giản thế thơi. Bây giờ mục đích của tun truyền huấn luyện là: Một là đoàn
kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”.
Hồ Chí Minh cịn chỉ ra rằng, đại đồn kết dân tộc không phải chỉ là mục
tiêu của Đảng, mà còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì, cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng. Từ trong phong trào đấu tranh để tự giải phóng và
xây dựng xã hội mới tốt đẹp, quần chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết và sự hợp

tác. Đảng Cộng sản phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng,
chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành
những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đồn kết, tạo
thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho đan tộc, tự do cho
Nhân dân và hạnh phúc cho con người.
III. LỰC LƯỢNG ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC.
1. Trước hết là đoàn kết giai cấp công nhân
Vào năm 1929 , giai cấp
công nhân Việt Nam đã có 22
vạn người chiếm 1,2 % dân số.
Tuy số lượng ít, nhưng giai cấp
cơng nhân sống tập chung tại
các hầm mỏ, đồn điền và các
nhà máy của tư bản đế quốc.
Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của tư bản thực dân,
nằm trong các mạch máu kinh tế quan trọng của chúng, giai cấp cơng nhân tuy
cịn trẻ, trình độ văn hóa kĩ thuật cịn thấp nhưng có đầy đủ tính chất của giai cấp
vô sản hiện đại, đại biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ nhất, triệt để cách mạng
và có ý thức tổ chức kỉ luật. Do vị trí kinh tế, chính trị và lịch sử, giai cấp cơng
11


nhân Việt Nam trở thành người đại diện cho sự tiến hóa của xã hội nước ta, là
người duy nhất có khả năng đưa nhân dân lao động nước ta lên làm chủ vận
mệnh của mình.
Sinh trưởng trong một nước thuộc địa nửa phong kiến, giai cấp công nhân
Việt Nam chịu ba tầng áp bức, bóc lột nặng nề của đế quốc phong kiếm và tư
bản trong nước từ người nơng dân lao động bị bần cùng hóa mà ra nên về nhiều
mặt, giai cấp cơng nhân cịn quan hệ với giai cấp công dân, cơ sở thuận lợi để
thiết lập liên minh công nông một cách tự nhiên.

Hơn nữa giai cấp công nhân Việt Nam bước lên vũ đài chính trị sai khi
Cách mạng tháng Mười Nga đã thắng lợi, Quốc tế cộng sản đã thành lập, phong
trào cộng sản, cơng nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc đang ở trong
thời kì phát triển sơi nổi.
Trong thực tế, giai cấp công nhân Việt Nam đã tham gia phong trào đấu
tranh dân chủ từ khi mới ra đời nên có quan hệ gắn bó với các phong trào yêu
nước.
Tuy vậy, trước khi hội Việt Nam Thanh niên cạch mạng được thành lập các
lãnh tụ phong trào yêu nước chưa chú ý giai cấp công nhân , chưa thấy vai trị
lịch sử và vị trí lãnh đạo và cách mạng của nó. Hồ chí Minh là người đầu tiên
phát hiện vai trị lịch sử của giai cấp cơng nhân Việt Nam. Người truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin về nước, kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước dẫn đến việc ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Hồ Chí Minh khẳng định “phải đồn
kết giai cấp công nhân Việt Nam để giai cấp công nhân đủ sức lãnh đạo cách
mạng Việt Nam”. Người viết : “Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản giai
cấp , phải thu phục được cho giai cấp mình , phải làm cho giai cấp mình lãnh
đạo được dân chúng”.

12


2. Cùng với giai cấp công nhân trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Hồ Chí
Minh đánh giá cao giai cấp nông dân (cố bần, nông) là một lực lượng to lớn
của cách mạng
Giai cấp nông dân chiếm hơn 90% số dân. Họ bị đế quốc phong kiếm và
tư bản áp bức, bóc lột nặng nề. Họ bị đế quốc chiếm đất, mua rẻ, bán đắt, sưu
cao thuế nặng, lại thêm địa tô cao và cho vay nặng lãi nặng làm cho nơng dân
ngày càng bị phá sản . Tình cảnh người nơng dân Việt Nam như Hồ Chí Minh
diễn tả : “Là người An - Nam họ bị áp bức; là người nông nhân họ bị người ta

ăn cắp , cướp bóc, tước đoạt, làm phá sản” . Do đó, nơng dân lao động (bao
gồm cố, bần nơng và trung nông) là những tầng lớp hăng hái cách mạng ở nông
thôn.
Khác với nông nhân nhiều nước, giai cấp nông dân Việt Nam chưa đi theo
giai cấp tư sản và không chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa cải lương tư sản. Khi Hồ
Chí Minh truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước, khơi dậy lòng yêu nước của
nhân dân và thành lập Đảng để lãnh đạo cách mạng thì nơng dân tích cực đi theo
giai cấp cơng nhân, đứng lên đoàn kết với nhau mà làm cách mạng.
Giai cấp nơng dân có tính dân tộc dân chủ dồi dào và là lực lượng to lớn to
lớn nhất của cách mạng Việt Nam. Cùng với giai cấp công nhân, họ là lượng lực
chủ yếu của cách mạng .
Trong cuốn Đường Cách Mệnh, Hồ Chí Minh đánh giá cơng nơng là người
chủ cách mệnh “1) Là vì cơng nơng bị áp bức nặng hơn . 2) Là vì cơng nơng là
đơng nhất nên sức mạnh hơn hết ; 3) Là vì cơng nơng là tay khơng, chân rỗ ,
nếu thua thì chỉ mất một kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan
góc . Vì cớ ấy nên công là gốc cách mệnh”.
Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Hồ Chí Minh xếp giai cấp nơng dân
đứng sau giai cấp nông dân người chủ trương Đảng thu phục cho được bộ phận
dân cày, phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh trả bọn
địa chủ và phong kiến. “Đảng giải phóng cơng nhân và nơng dân thốt khỏi ách
tư bản”. “Khơng bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và
nông dân cho một giai cấp nào khác”. “Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ
13


thuyền và dân cày (công hộ, hợp tác xã) khỏi dưới quyền lực và ảnh hưởng của
bọn tư bản quốc gia”.
3. Tầng lớp tiểu tư sản trí thức
Gồm nhiều tầng lớp khác nhau họ là những thợ thủ công, tiểu thương, tiểu
chủ cho những viên chức, trí thức, học sinh. Địa vị kinh tế của học bấp bênh,

luôn bị đe dọa phá sản, thất nghiệp, lại bị đế quốc, phong kiến, tư bản khinh rẽ
nên họ hăng hái cách mạng.
Tầng lớp tri thức sinh viên học sinh là những người vốn được đào tạo dưới
chế độ phong kiến đế quốc. Nhưng, do truyền thống yêu nước tri phối họ khát
khao độc lập tự do, dân chủ, phú cường. Song họ cũng bị phân hóa. Số đơng vẫn
giữ vững khí tiết của cha, ơng, dù ở hồn cảnh nào cũng khơng ngi lịng cứu
nước. Từ khi Hồ Chí Minh truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng cứu
nước mới về nước, số đơng lực lượng tiểu tư sản, trí thức đã từng bước theo con
đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày càng đơng. Họ
đóng vai trò truyền bá những tư tưởng mới và là ngòi phá của các cuộc đấu
tranh.
Khi đánh giá lực lượng này , trong Đường cách mệnh Hồ Chí Minh đã viết:
“Học trị, nhà bn nhỏ điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cứu
khổ bằng công nông ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cho cách mạng công nơng mà
thơi”.
Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh xếp lực lượng tiểu tư
sản, tri thức xếp hàng thứ ba, sau công nông. Người chủ trương Đảng Phải hết
sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức trung nông thanh niên, Tân Việt, Nguyễn An
Ninh,… để kéo họ vào phe tư sản giai cấp.
Trong thực tế, từ thời kì Hồ Chí Minh chuẩn bị thành lập Đảng, lớp lớp tiểu
tư sản, trí thức (trung nơng, giáo viên, học sinh) đã hưởng ứng và tham gia tổ
chức Việt Nam Thanh niên cách mạng Hội do Người sáng lập. Có thể nói tầng
lớp tiểu tư sản trí thức Việt Nam đóng một vai trị hết sức quan trọng trong việc
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930.
14


4. Giai cấp tư sản dân tộc
Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời sau giai cấp cơng dân. Nó xuất hiện từ
trong thời gian chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918). Vừa ra đời nó đã

bị tư bản Pháp chèn ép, làm phân hóa thành hai bộ phận. Một bộ phận nhỏ tham
gia vào các cơ quan kinh tế chính trị của thực dân Pháp. Số này trở thành lớp tư
sản mại bản, có quan hệ chặt chẽ với thực dân Pháp.
Một bộ phận khác tuy có mâu thuẫn nhất định với tư bản Pháp và triều đình
phong kiến, nhưng thế lực kinh tế yếu ớt, què quặt, lệ thuộc, khuynh hướng
chính trị thì cải lương. Do vậy, tuy có tinh thần yêu nước chống đế quốc, phong
kiến nhưng họ lại khơng có khả năng lãnh đạo cách mạng.
Ngoài mong muốn làm giàu cho con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, lệ
thuộc vào Pháp, học chưa đề xướng ra một chủ trương cứu nước tiến bộ nào cả.
Tuy vậy con, cháu họ được học hành, hiểu biết, và đã có tham gia các phong
trào yêu nước và cả phong trào có xu hướng xã hội chủ nghĩa.
5. Giai cấp địa chủ, phong kiến
Đây là giai cấp đã từng giữ vai trò tiến bộ nhất định trong lịch sử. Từ khi
triều đình nhà Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp, bản thân giai cấp này cũng bị
phân hóa mảnh liệt. Một bộ phận nhỏ cam tâm làm tay sai, hợp tác với chủ nghĩ
thực dân để duy trì quyền lợi của mình. Một bộ phận khơng nhỏ tiếp tục truyền
thống yêu nước như Hàm Nghi Thánh Thái, Duy Tân, Phan Đình Phùng, Hồng
Hoa Thám… đề xướng và lãnh đạo phong trào Cần Vương chống đế quốc xâm
lược, mong muốn khôi phục lại triều đại phong kiến; một số trở thành lãnh tụ
của phong trào quần chúng nông dân vừa đấu tranh chống thực dân Pháp, vừa
chống triều đình bán nước như Trương Công Định, thủ khoa Huân… một bộ
phận nhỏ, chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa.
Đánh giá về điểm đặc thù giai cấp tư sản dân tộc và tầng lớp địa chủ vừa và
nhỏ Việt Nam, trong báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ (1924) Hồ Chí
Minh viết: “Nếu nơng dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng chẳng có vốn
liếng gì hơn”; “Nếu nơng dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần thiết, thì đời sống
của địa chủ cũng chẳng có gì xa hoa. Nếu thợ thuyền khơng biết mình bị bóc lột
15



bao nhiêu thì chủ lại khơng hề biết cơng cụ để bóc lột của họ là máy móc; người
thì chẳng có cơng đồn, kẻ thì chẳng có tờ rớt. Người thì nhẫn nhục chịu số
phận của mình, kẻ thì vừa hải trong sự tham lam của mình. Sự xung đột về
quyền lợi của họ cũng được giảm thiểu”. Theo Hồ Chí Minh thời bấy giờ
“khơng có tỷ phú người An-Nam”.
“An- Nam chưa bao giờ có tăng lữ và thuế 10%. Hồng đế trị vì nhưng
chẳng lo cai trị gì. Tất nhiên là đã có quan lại rồi. Nhưng có thể so sánh họ với
Chúa phong kiến không? Không. Trước hết quan lại đực tuyển lựa theo con
đường dân chủ: con đường thi cử, mở rộng cho mọi người và mọi người có thể
chuẩn bị thi mà chẳng tốn kém gì”. Theo Hồ Chí Minh dân tộc Việt Nam rất yêu
nước và đoàn kết mà chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó
đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó đã dạy cho những người culi
biết phản đối, nó làm cho người “ nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp dịch
và thuế muối cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thức đẫy các nhà buôn AnNam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó thúc giục thanh niên
bãi khóa, làm cho những nhà cách mạnh trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy
Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917. Người đề nghị , quốc tế cộng sản cần phát
động chủ nghĩa dân tộc bản xứ vì “người ta sẽ khơng thể làm gì được cho người
An-Nam nếu khơng dựa trên các động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội
của họ” và vì khi cách mạng thắng thì” nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến
thành chủ nghĩa quốc tế”.
Phát hiện được những đặc thù đó của xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
khai thác lòng yêu nước dù rất hạn chế ở trong các tầng lớp trên và những người
có của trong xã hội Việt Nam dang tay đoàn kết họ để tập trung mũi nhọn
chống thực dân Pháp.
Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, người chỉ rõ: “phú nông, trung tiểu
địa chủ và tư bản An-Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít
lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (
Đảng lập hiến…) thì phải đánh đổi”.
16



Trong khi liên lạc với các giai cấp phải rất cẩn thận, khơng khi nào nhượng
một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con đường thỏa hiệp”.
6. Đồng thời với đại đồn kết đân tộc, Hồ Chí Minh cịn chỉ rõ phải mở
rộng đồn kết quốc tế
“Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiểu nước An-Nam độc lập, phải đồng
tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế
giới, nhất là vơ sản giai cấp Pháp”.
Để đồn kết dân tộc, bản thân tên Đảng cũng sao cho có sức hiệu triệu rộng
rãi các giai cấp cách mạng, các tầng lớp và cá nhân yêu nước, làm sống lại một
dân tộc một nước An-Nam, một nước có chung một dân tộc, chung một dòng
máu, chung một phong tục, chung một lịch sử, chung một truyền thống, chung
một tiếng nói đã bị “chia năm sẻ bảy” nên người đã đặt tên Đảng là Đảng Cộng
sản Việt Nam chứ không lấy tên Đảng Cộng sản Đông Dương như gợi ý của
quốc tế Cộng sản.
Như vậy, ngay từ khi Đảng ra đời một mặt trận phản đế đã được hình thành
do sự đồn kết các lực lượng yêu nước bao gồm các giai cấp cơng dân, nơng
dân, tiểu tư sản trí thức, giai cấp tư sản dân tộc và các cá nhân yêu nước thuộc
tầng lớp địa chủ vừa và nhỏ dựa trên nền tảng liên minh công nông và tầng lớp
tiểu tư sản do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị phản ánh sự phát
triển khách quan của xã hội Việt Nam.
Sự xuất hiện Đảng Cộng sản Việt Nam trên vũ đài chính trị đánh dấu sự
Chấm dứt sự khủng hoảng đường lối của cách mạng Việt Nam; mở đầu thời kỳ
mới, thời kỳ giai cấp công nhân và Đảng tiên phong của nó đứng ở vị trí lãnh
đạo đất nước tập hợp mọi phong trào, mọi giai cấp cách mạng mọi tầng lớp và
cá nhân yêu nước dưới ngọn cờ của mình, quyết định nội dung phương hướng
phát triển của xã hội Việt Nam.
Đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng được Hồ Chí Minh
thể hiện trong Cương lĩnh đầu tiên đúng đắn, sáng tạo, phản ánh đúng yêu cầu

và nguyện vọng của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp tiểu tư sản
17


trí thức, giai cấp tư sản dân tộc và tồn dân Việt Nam, phù hợp với quy luật phát
triển của Việt Nam và thời đại đã quy tụ, đoàn kết toàn dân đấu tranh cho mộc
tiêu độc lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Các văn kiện đầu tiên của Đảng do Hồ Chí Minh khởi thảo và được hội
nghị hợp nhất thông qua thực hiện sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác
Lênin. Đề cương về phong trào cách mạng các nước thuộc địa và nửa thuộc địa
của Đại hội lần thứ VI Quốc tế Cộng Sản. Trong sự vận dụng sáng tạo đó của
Hồ Chí Minh có những vấn đề thuộc về lý luận, chiến lược, sách lược cách
mạng vô sản ở nước thuộc địa mà Lênin cũng như Quốc tế cộng sản có đề cập
nhưng chưa đi sâu. Hơn nữa từ Đại hội lần thứ VI (9-1928) Quốc tế cộng sản
đang tiến hành “bôn sê vích hóa” các đảng cộng sản. Ban Quốc tế cộng sản chỉ
đạo các đảng phái “chống ấu trĩ tả khuynh, trong cơ hội hữu khuynh, bè phải,
phân tán lực lượng và các xu hướng hoạt động, bi quan trong phong trào cộng
sản và trong phong trào cộng sản và các Đảng cộng sản”. Do đó, đường lối
cách mạng đúng đắn sáng tạo do lãnh tụ Hồ Chí Minh vạch ra bị coi là không
tuân thủ các nguyên tắc Quốc tế cộng sản, nhất là việc đánh giá, sắp xếp các lực
lượng yêu nước vào trong lực lượng cách mạng Việt Nam. Ví dụ: Nhiệm vụ
cách mạng Đơng Dương Quốc tế quy định: “Cách mạng Đông Dương phải là
và sẽ là một cuộc cách mạng ruộng đất và phản đế và chính giai cấp cơng nhân
và giai cấp nơng dân là những động lực chủ yếu”. “Chỉ có đồng thời đấu tranh
giành ruộng đất và giải phóng dân tộc mới có thể làm cho đơng đảo quần chúng
trở nên cấp tiến, đẩy mạnh ý chí chiến đấu của họ và đưa họ đến thắng lợi”.
Quốc tế cộng sản nhận thấy cần phải “tịch thu không bồi thường ruộng đất cho
địa chủ”. Ban chấp hành Quốc tế cộng sản chỉ đạo giai cấp vô sản phải khai thác
tư tưởng chống đối của Phú Nông bất kỳ nơi nào, lúc nào tư tưởng đó bộc lộ;
nhưng khơng bao giờ được liên minh với họ.

Đối với giai cấp tư sản dân tộc Nghị quyết quốc tế cộng sản về cách mạng
Đông Dương viết: Giai cấp tư sản bản xứ nói chung là yếu ớt, gắn liền với sở
hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ; mặt khác họ chịu ảnh hưởng của giai cấp tư
18


sản Trung Quốc, cùng lập trường phản cách mạng của giai cấp đó. Đối với phú
nơng, Quốc tế cộng sản chủ trương “không bao giờ được liên minh với họ”.
Đối với tầng lớp tiểu tư sản, tri thức, quốc tế cộng sản chỉ rõ: “Không nên
cường điệu khuynh hướng cách mạng của giai cấp tiểu tư sản thành thị, lại
không nên xem những phần tử ít cách mạng nhất, tầng lớp tiểu thương như là
động lực của cách mạng”.
Theo đánh giá của Quốc tế Cộng sản về các văn kiện Hội nghị hợp nhất mà
Hồng Thế Công phản ánh trong tập Phong trào cộng sản Đơng Dương thì
“Cương lĩnh của Hội nghị hợp nhất là trái với học thuyết Mác Lênin, với đường
lối chính trị của Quốc tế Cộng sản. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và các đại biểu
hội nghị hợp nhất cịn mang nặng tàn tích của chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa
vô xanh”.
Theo chỉ thị và thư Quốc tế cộng sản gửi Đảng Cộng sản Đông Dương Hội
nghị toàn thể Ban Chấp Hành Trung ương Đảng tháng 10 năm 1930 đã phê bình
những điều sai lầm và quyết định của Hội nghị hợp nhất:
a) Sai lầm về việc tổ chức Đảng:
“Hội nghị hợp nhất lại không lấy một nền chính trị cộng sản và những kế
hoạch làm việc Cộng sản làm căn bản mà chọn lấy những phần tử chơn chánh
cộng sản của các đoàn thể tự xưng là cộng sản (“Thanh niên”, “Đông Dương
Cộng sản”, “Cộng sản liên đoàn”, “An Nam Cộng Sản”…). Hội nghị hợp nhất
chỉ lo cho việc hiệp các đoàn thể ấy lại làm một mà ít chú ý đến những bài trừ
những tư tưởng và hành động biệt phái của các đảng phái trước kia”…
b) Sai lầm về chính trị:
- Vấn đề thổ địa:

Khơng rõ ràng và có chỗ khơng đúng, như chia địa chủ làm đại, trung, tiểu
địa chủ; đối với đại địa chủ thì tịch lý ruộng đất, và đối với tiểu, trung địa chủ
thì chủ trương “lợi dụng họ, ít ra cũng làm cho họ đứng trung lập” như thế là
sai lầm và nguy hiểm.
- Vấn đề tư bổn:
19


Trong sách lược nói phải lợi dụng bọn tư bổn mà chưa rõ mặt phản cách
mạng… “nói rằng ít ra cũng phải làm cho chúng nó trung lập, tức là như biểu
Đảng đừng chủ trương công nhân đấu tranh với tư bổn bổn xứ”. Những điểm
sai lầm về sách lược đó tỏ ra rằng chỉ lo đến vấn đề phản đế mà quên mất lợi ích
giai cấp đấu tranh, ấy là một sự rất nguy hiểm.
c) Sai lầm về tên Đảng:
Gọi là “Việt Nam Cộng Sản Đảng thì khơng bao gồm được Cao Miên và
Lào, mà để vô sản giai cấp 2 xứ ấy ra ngoài phạm vi Đảng là khơng đúng”. Từ
những phê phán đó Hội nghị Trung ương tháng 10 năm 1930 quyết định:
- Thủ tiêu Chánh cương, sách lược và điều lệ cũ của Đảng, lấy kinh
nghiệm vừa qua mà thực hành công việc cho đúng như án nghị quyết và thơ, chỉ
thị của Quốc tế Cộng sản.
- Bỏ tên “Việt Nam Cộng Sản Đảng” mà lấy tên “Đông Dương Cộng Sản
Đảng”.
- Đem án nghị quyết của Quốc tế, chính sách và kế hoạch của Đảng mà
thảo luận cho khắp trong Đảng, lấy đó làm căn bản mà chỉnh đốn nội bộ, làm
cho Đảng bơn sê vích hóa.
Mặc dù bị phê phán, nhưng giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong đường
lối cách mạng do người vạch ra nói chung, tư tưởng đại đồn kết dân tộc nói
riêng đã được tồn Đảng và quần chúng nhân dân tiếp thu, thực hiện, dấy lên
một phong trào dân tộc dân chủ rộng rãi mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh
(1930-1931).

Một thực tế nữa chứng minh cho giá trị chỉ đạo thực tiễn của Những văn
kiện đầu tiên do Người khởi thảo là chỉ 18 ngày sau Hội nghị tháng 10 năm
1930, căn cứ vào diễn biến tình hình cao trào 30 – 31, Thường vụ Trung ương
đã ra Chỉ thị về vấn đề thành lập Hội Phản Đế Đồng Minh (ngày 18 tháng 11
năm 1930) trong đó có sự nhất trí với Chính cương, sách lược vắn tắt về đoàn
kết toàn dân trong Mặt trận phản đế.
Bản chỉ thị nêu rõ: “Giai cấp công nhân không đồng minh với giai cấp
nông dân là lực lượng thiết yếu của cách mạng thì khơng đánh đổ được Đế
20


Quốc Pháp và tụi phong kiến phản cách mạng trong nước”. Mặt khác nữa là
giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà
khơng tổ chức được tồn dân lại thành một lực lượng thật rộng thật kín thì cuộc
cách mạng cũng khó thành cơng.
Từ trước, các đồng chí chưa thấy rõ vấn đề ấy, mà nay cũng vẫn mập mờ,
nên tổ chức cách mạng đơn thuần cơng nơng…; do đó, thiếu một tổ chức thật
quảng đại quần chúng để hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc (họ
ở tầng lớp trên hay ở vào tầng lớp giữa cũng vậy) và cho tới kể những người địa
chủ có đầu óc ốn ghét đế quốc Pháp, để kịp vận động toàn dân nhất về hoạt
động này hai mặt khác mà chống khủng bố trắng và ủng hộ cách mạng của cơng
nơng. Bản chỉ thị cịn vạch rõ nhận thức non kém của Đảng lúc đó là “chưa đóng
vai trị lãnh đạo các đảng, phái cách mạng quốc gia trong cuộc cách mạng chống
đế quốc Pháp… Do đó, chúng ta đã tách rời dân tộc cách mạng vừa giai cấp
cách mạng làm hai đường, mà chưa nhận định đúng là dân tộc cách mạng vẫn là
một nhiệm vụ trong giai cấp cách mạng, sự chuyển biến lối này hai lối khác, đó
là do hồn cảnh từng nơi, từng lúc, chứ không phải hai đường sai trái với nhau.
Như vậy trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng , do Hồ Chí Minh khởi thảo
Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ trong Mặt trận dân tộc thống nhất,
đã phân tích đúng đắn đặc điểm của từng thành phần, giai cấp và sắp xếp đúng

vị trí của từng giai cấp trong lực lượng cách mạng. Đảng đã chia địa chủ thành 3
loại: loại địa chủ lớn 100 mẫu trở lên, loại địa chủ trung bình và nhỏ, và tỏ rõ
thái độ chính trị đối với mỗi loại để tranh thủ trung lập những người cần trung
lập nhằm cô lập cao độ kẻ thù. Chiến lược ấy của Đảng nhằm triệt để lợi dụng
mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, làm suy yếu chúng để đánh đổ chúng.
Nhờ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đúng đắn, sáng tạo và được thực hiện
tiễn minh chứng, và nhờ sự trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo của Người sau khi được
Quốc tế cộng sản cử về lãnh đạo cách mạng Đông Dương (30-9-1938), Đường
lối do người và ra được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện để đưa cách
mạng đến thắng lợi sau này.
21


Tổng kết 70 năm hoạt động của Đảng và 15 năm thắng lợi của đất nước, cụ
thể hóa đường lối phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 7 (khóa VI) Ban chấp hành Trung ương viết: “Đại đoàn kết toàn dân tộc
trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức được dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của Cách mạng
Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết
định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh thể hiện trong các văn kiện
đầu tiên do người soạn thảo là một mẫu mực về chiến lược, chỉ đạo chiến lược
và sách lược cách mạng Việt Nam. Nó đã tạo điều kiện cần và đủ cho giai cấp
cơng nhân Việt Nam tuy cịn trẻ và số lượng ít mà đã lãnh đạo được toàn dân,
đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi rực rỡ. Tư tưởng Hồ Chí Minh trong đó
có tư tưởng đại đồn kết dân tộc mãi mãi là động lực, là sức mạnh của dân tộc ta
mãi mãi là niềm tự hào của Đảng và của dân tộc Việt Nam.
IV. HÌNH THỨC TỔ CHỨC
1. Hình thức tổ chức của khối đại đồn kết dân tộc là mặt trận dân tộc
thống nhất

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc khơng thể chỉ dừng ở lại
ở quan niệm, ở những lời kêu gọi, những lời hiệu triệu mà phải trở thành một
chiến lược cách mạng, phải trở thành khẩu hiệu hành động của tồn Đảng, tồn
dân tộc. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất có tổ
chức. Tổ chức đó chính là mặt trận dân tộc thống nhất.
Toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh vơ địch trong đấu
tranh bảo vệ và xây dựng Tổ quốc khi được tập hợp, tổ chức lại thành một khối
vững chắc, được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung và hoạt động theo một
đường lối chính trị đúng đắn. Nếu khơng được như vậy thì quần chúng nhân dân
dù có đơng tới hàng triệu, hàng trăm triệu con người cũng chỉ là một số đông
không có sức mạnh. Thất bại của các phong trào yêu nước và giải phóng dân tộc
ở Việt Nam trước khi Đảng ta ra đời đã chứng minh rất rõ điều này.
22


Về một phương diện nào đó, có thể khẳng định rằng, q trình tìm đường
cứu nước của Hồ Chí Minh cũng là q trình tìm kiếm mơ hình và cách thức tổ
chức quần chúng nhân dân, nhằm tạo sức mạnh cho quần chúng trong cuộc đấu
tranh để tự giải phóng mình và giải phóng xã hội. Chính vì vậy, ngay sau khi tìm
thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đưa quần chúng nhân dân
vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấ, từng ngành nghề, từng
giới, từng lứa tuổi, từng tôn giáo, phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng. Đó
có thể là các hội ái hữu hay tương trợ, công hội hay nơng hội, đồn thanh niên
hay hội phụ nữ, đội thiếu nhiên nhi đồng hay hội phụ lão, hội Phật giáo cứu
quốc, Công giáo yêu nước hay những nghiệp đồn.... Trong đó, bao trùm nhất là
mặt trận dân tộc thống nhất.
Mặt trận dân tộc thống nhất à nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước,
nơi tập hợp mọi con dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà còn bao gồm cả
những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào nếu
tấm lòng hướng về quê hương, đất nước, về Tổ quốc Việt Nam, đều được coi là

thành viên của mặt trận.
Tùy theo từng thời kỳ, căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng, cương
lĩnh và điều lệ của mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những nét khác nhau,
tên gọi của mặt trận dân tộc thống nhất theo đó, cũng có thể khác nhau: Hội
phản đế đồng minh (1930), Mặt trận Dân chủ (1936),Mặt trận nhân dân phản
đế(1939), Mặt trận Việt Minh(1941), Mặt trận Liên Việt (1946), Mặt trận dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
(1955,1976). Song thực chất chỉ là một, đó là tổ chức chính trị-xã hội rộng lớn
của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân
tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân u nước ở trong và ngồi nước,
phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, tự do và
hạnh phúc của Nhân dân.

23


×