Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Bài giảng Văn hóa gia đình (Ngành Quản lý văn hóa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.26 KB, 34 trang )

1

UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG

BÀI GIẢNG
MƠN HỌC/ MƠ ĐUN: Văn hóa gia đình
NGÀNH/NGHỀ: Quản lý văn hóa
( Áp dụng cho Trình độ trung cấp.)

LƯU HÀNH NỘI BỘ
NĂM 2017


2

LỜI GIỚI THIỆU
Gia đình được xem như là một xã hội thu nhỏ, là tổ chức tế bào của xã hội,
là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Xã hội Việt Nam với nền văn minh lúa
nước từ lâu đã sống định cư và lấy gia đình làm đơn vị gốc. Trải bao biến thiên của
lịch sử cho đến tận ngày nay, trên con đường đổi mới và tiếp cận với văn hóa
Phương Tây, gia đình Việt Nam vẫn gắn chặt với làng, bản, khu phố và với nước.
Được như thế là vì chúng ta đã có một nền văn hóa gia đình ở Việt Nam.
Dù ở thời kỳ nào, gia đình bao giờ cũng có bốn chức năng cơ bản: chức
năng truyền chủng, chức năng kinh tế, chức năng thỏa mãn các nhu cầu tình
cảm và chức năng nuôi dưỡng, giáo dục, rèn luyện của mỗi thành viên trong
gia đình. Gia đình tức là nhà (gia) gắn liền với nước. Nhà tiếp thu di sản văn hóa
của nước, bảo vệ nước. Người Việt đi từ nhà đến nước. Hai tiếng nước và nhà bao
giờ cũng quyện lấy nhau trong nếp sống văn hóa gia đình của người Việt. Văn hóa
gia đình người Việt khơng phải là cái gì trừu tượng, chung chung mà được thể hiện
cụ thể, rõ ràng trong nếp sống, trong sinh hoạt, suy nghĩ, tình cảm của mỗi thành


viên trong gia đình. Đó là nền nếp của gia đình, gia tộc. Gia đình, gia tộc nào có
nền nếp tốt thường được dân gian gọi là có gia phong. Gia phong theo Từ điển
Tiếng việt của Đào Duy Anh là “thói nhà, tập quán giáo dục trong gia tộc”; theo
Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học là “nền nếp riêng của một gia đình
phong kiến, nếp nhà”. Như thế, gia phong là nếp nhà, là sự khẳng định những suy
nghĩ, cảm xúc, hành vi của một cộng đồng gia đình, gia tộc về văn hóa đã kéo dài
qua nhiều thế hệ, được mọi người trong gia đình cơng nhận, tn theo, thực hiện
một cách tự giác gần như tập quán để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của cộng
đồng gia đình, gia tộc ấy. Văn hóa gia đình, mà trước hết là gia phong, sẽ tạo cho
mọi thành viên của gia đình một bản lĩnh vững vàng khi hịa nhập với mọi biến
thiên của đời sống xã hội, nó sẽ là tấm lá chắn hữu hiệu ngăn chặn mọi sự thâm
nhập tiêu cực của xã hội vào gia đình, gia tộc để bảo tồn, phát huy và tôn vinh
những giá trị của một gia đình văn hóa truyền thống.
Khi nói về vai trị của gia đình, cụ Phan Bội Châu đã khẳng định: “Nước là
một cái nhà lớn, nhà là một cái nước nhỏ”; Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng phát
biểu: “Quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã
hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn, hạt nhân
của xã hội là gia đình”. Nhiêu thập kỷ qua cơ cấu xã hội có biến đổi nhưng tổ
chức của gia đình khơng biến đổi nhiều. Gia đình là tế bào của xã hội, do đó, văn
hóa gia đình đóng vai trị quan trọng trong vấn đề giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hóa truyền thống dân tộc. gia đình truyền thống Việt Nam xưa rất chú trọng xây
dựng gia đạo, gia phong và gia lễ, trong đó gia đạo là sức mạnh của gia đình. Gia
đạo là đạo đức của gia đình như đạo hiếu, đạo ông bà, đạo cha con, đạo vợ chồng,
đạo anh em. Đạo hiếu là hiếu nghĩa cùa con cháu đối với ông bà, cha mẹ. Gia lễ là
phép ứng xử của con người theo một nguyên tắc có tính tơn ti trật tự theo lễ tiết,
đặc biệt là việc thờ cúng ông bà tổ tiên, đáp ứng nhu cầu đời sống tâm linh. Ở thời
đại nào, văn hóa gia đình cũng là nền tảng cho văn hóa xã hội. Văn hóa gia đình
giàu tính nhân văn, nhân bản, đề cao giá trị đạo đức, xây dựng nếp sống văn hóa



3

trật tự, kỷ cương, hun đúc tâm hồn, bản lĩnh cho con người trong từng tế bào của
xã hội. Bởi vậy, gia đình tốt là đảm bảo cho dân giàu, nước mạnh, xã hội lành
mạnh và văn minh.
Không môi trường nào có ảnh hưởng đến hành vi của con người bằng gia
đình. Gia đình là mơi trường giáo dục đầu tiên, thiêng liêng đối với mọi người. tính
chất thiêng liêng trong quan hệ ruột thịt là nhân tố có sức cảm hóa và thơi thúc các
thành viên tự hấp thụ những giá trị gia đình một cách hiển nhiên. Với những đặc
điểm như vậy, gia đình rất cần có những quy tắc, chuẩn mực để hình thành bệ
phóng cho những nhân cách tốt đẹp. Giá trị gia đình có thể hình thành từ các sinh
hoạt thơng thường qua thói quen ứng xử, mối quan hệ giữa các thành viên trong
gia đình và trong các mối quan hệ xã hội khác...Chính những giá trị này có tác
dụng sâu sắc đến nhận thức, hành vi của mỗi thành viên. Cha mẹ là những người
đầu tiên có ảnh hưởng đến q trình hình thành niềm tin và hành vi đạo đức của
con trẻ. Tấm gương của cha mẹ trong việc lựa chọn các mục tiêu sống, tổ chức
cuộc sống hay trong quá trình ni dạy con trở thành những mẫu mực và hình
thành nên văn hóa gia đình. Trẻ em thường có khuynh hướng bắt chước các mẫu
ứng xử của ngời lớn mà người gần gũi nhất của con trẻ chính là cha mẹ, ông bà và
những người thân. Dưới mắt con trẻ, cha mẹ vừa là người bảo bọc, vừa là những vị
thần nhân ái, là nhà bác học thiên tài hay là nhà tiên tri độc đáo... Chính vì cảm
nhận ấy, hầu hết trẻ em trong gia đình đều xem cha mẹ là những người khó sai lầm
nhất và bao giờ cũng là những người tốt đẹp nhất. Tính gương mẫu của cha mẹ
được thể hiện ở lối sống, nếp sống và những thói quen hàng ngày, con trẻ sẽ theo
đó làm gương cho mình. Văn hóa gia đình cũng có thể được biểu hiện ở hình thức
quan hệ thứ bậc, giữa anh chị em với nhau, giữa cha mẹ và ông bà, giữa các thành
viên gia đình với mọi người xung quanh. Tính gia trưởng, sự bất bình đẳng giữa
vợ chồng, cha mẹ, con cái trong gia đình sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự trưởng
thành của trẻ em. Tuy nhiên, xu hướng quá đề cao dân chủ, đề cao giải phóng cá
nhân, tự do cá nhân lại chứa đựng những nguy cơ khiến gia đình dễ khủng hoảng,

con cái dễ trở thành người ngồi cuộc hoặc hình thành các thói quen phán xét gia
đình, dẫn đến sự bất lợi cho sự phát triển nhân cách ở trẻ.


4

MỤC LỤC
TRANG
1. Lời giới thiệu
02
2. Chương 1: Gia đình – một số kiến thức cơ bản về gia đình
05
3. Chương 2: Văn hóa gia đình truyền thống
14
4 Chương 3: Phong trào xây dựng gia đình văn hóa trong giai đoạn 26
hiện nay
5..Chương 4: Bạo lực gia đình – Tìm hiểu một số vấn đề cơ bản cue 30
luật phòng chống bạo lực gia đình


5

Chương 1: Gia đình – một số kiến thức cơ bản về gia đình
1.1. Một số khái niệm quản lý.
1.1.1. Gia đình
Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau bởi các
mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống,[1] quan hệ ni
dưỡng và/hoặc quan hệ giáo dục. Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua một
quá trình phát triển lâu dài. Thực tế, gia đình có những ảnh hưởng và những tác
động mạnh mẽ đến xã hội.

Ngay từ thời nguyên thủy cho tới hiện nay, không phụ thuộc vào cách kiếm
sống, gia đình ln tồn tại và là nơi để đáp ứng những nhu cầu cơ bản cho các
thành viên trong gia đình. Song để đưa ra được một cách xác định phù hợp với
khái niệm gia đình, một số nhà nghiên cứu xã hội học đã đưa ra sự so sánh giữa gia
đình lồi người với cuộc sống lứa đơi của động vật, gia đình lồi người ln ln
bị ràng buộc theo các điều kiện văn hóa xã hội của đời sống gia đình ở con người.
Gia đình ở lồi người ln bị ràng buộc bởi các quy định, các chuẩn mực giá trị, sự
kiểm tra và sự tác động của xã hội; vì thế theo các nhà xã hội học, thuật ngữ gia
đình chỉ nên dùng để nói về gia đình lồi người.
Thực tế, gia đình là một khái niệm phức hợp bao gồm các yếu tố sinh học, tâm
lý, văn hóa, kinh tế,... khiến cho nó khơng giống với bất kỳ một nhóm xã hội nào.
Từ mỗi một góc độ nghiên cứu hay mỗi một khoa học khi xem xét về gia đình đều
có thể đưa ra một khái niệm gia đình cụ thể, phù hợp với nội dung nghiên cứu phù
hợp và chỉ có như vậy mới có cách tiếp cận phù hợp đến với gia đình.
Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội. Vì vậy, có thể
xem xét gia đình như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như một thiết chế xã hội mà
có vai trị đặc biệt quan trọng trong q trình xã hội hóa con người. Gia đình là
một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn
bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con ni,
bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng
những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã
hội về tái sản xuất con người.[2]
1.1.2. Hộ
Hộ gia đình hay cịn gọi đơn giản là hộ là một đơn vị xã hội bao gồm một
hay một nhóm người ở chung và ăn chung (nhân khẩu). Đối với những hộ có từ 2
người trở lên, các thành viên trong hộ có thể có hay khơng có quỹ thu chi chung
hoặc thu nhập chung. Hộ gia đình khơng đồng nhất với khái niệm gia đình, những
người trong hộ gia đình có thể có hoặc khơng có quan hệ huyết thống, nuôi
dưỡng hoặc hôn nhân hoặc cả hai.
Hộ gia đình được phân loại như sau:

Hộ một người (01 nhân khẩu) Là hộ chi có một người đang thực tế thường
trú tại địa bàn.


6

Hộ hạt nhân: Là loại hộ chỉ bao gồm một gia đình hạt nhân đơn (gia đình chỉ có 01
thế hệ) và được phân tổ thành: Gia đình có một cặp vợ chồng có con đẻ hoặc
khơng có con đẻ hay bố đẻ cùng với con đẻ, mẹ đẻ cùng với con đẻ.
Hộ mở rộng: Là hộ bao gồm gia đình hạt nhân đơn và những người có quan
hệ gia đình với gia đình hạt nhân. Ví dụ: một người cha đẻ cùng với con đẻ và
những người thân khác, hoặc một cặp vợ chồng với người thân khác;
Hộ hỗn hợp: Là trường hợp đặc biệt của loại Hộ mở rộng.
1.1.3. Văn hóa gia đình
Văn hóa là một trong những khái niệm được sử dụng rộng rãi nhất trong xã
hội học. Tuy nhiên khái niệm văn hóa trong xã hội học khác với cách hiểu văn hóa
trong tư duy thơng thường. Trong giao tiếp hàng ngày người ta có xu hướng coi
“văn hóa” là thuộc về phạm trù những cái đúng, cái tốt, cái đẹp hoặc văn hóa đồng
nghĩa với những cái gì đó cao siêu như nghệ thuật, văn học, âm nhạc, hội họa…
“Văn hóa gia đình là những thực hành hàng ngày của các thành viên trong gia đình
nhằm củng cố và phát triển các mối quan hệ tình cảm, đạo đức tạo nên một gia
đình bền vững”.Trong khuôn khổ của một tham luận, chúng tôi chỉ dừng lại ở một
số thực hành đó của văn hóa gia đình, đó là những thực hành trong việc ni
dưỡng, giáo dục con cái. Đó là việc ni dạy con cái để chúng có kỹ năng sống,
làm các cơng việc trong gia đình (nữ cơng gia chánh) và chuẩn bị cho chúng bước
ra ngoài xã hội, dạy dỗ việc ứng xử với cha mẹ, anh chị em trong gia đình, bà con
trong dịng họ và ứng xử ngồi xã hội, mối quan hệ của con cái đối với họ hàng hai
bên và cộng đồng làng xóm xung quanh… Với những thực hành văn hóa này tại
mỗi gia đình sẽ tạo ra những con người có nhân cách, có tình cảm, sự nhường nhịn,
lễ phép, kính trên nhường dưới, có lịng bao dung và tình yêu con người … Như

trên đã viết, gia đình là nơi đầu tiên của mỗi con người khi sinh ra, nó được ni
dưỡng từ khi thai nghén đến lúc trưởng thành bước ra cuộc đời. Do đó mọi sự dạy
dỗ ở đây thật sự là nền tảng, là bệ đỡ, là cơ sở để con người có thể vững vàng bước
ra cuộc sống. Bởi vậy nói gia đình là hạt nhân của xã hội, là tế bào của xã hội và
hạt nhân ấy, tế bào ấy có mạnh khỏe, có lành mạnh thì xã hội mới lành mạnh.Điều
này càng khẳng định văn hóa gia đình là một giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam.
Trong những thành tố của văn hóa gia đình thì những thực hành hàng ngày
trong việc dạy dỗ con cái theo chúng tơi là hết sức quan trọng của văn hóa gia đình
mà lâu nay có phần nào chưa được chú ý một cách đầy đủ, do đó dẫn đến những hệ
quả mà đến nay chúng ta phải gánh chịu.
Thật vậy, những năm gần đây, báo chí và các phương tiện thơng tin đại
chúng liên tục đưa tin các vụ việc liên quan đến sự xuống cấp về đạo đức xã hội
như chuyện học trị đánh cơ giáo, bạo lực học đường, sát thủ máu lạnh là thanh
niên mới lớn, thậm chí còn ở tuổi vị thành niên, con cái đối xử tệ bạc với cha mẹ,
anh em đánh nhau, vợ chồng bất hòa gây án mạng v.v và v.v… Chỉ lấy ví dụ gần
đây nhất vụ án giết cả gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh đúng trong dịp tết
Nguyên Đán Mậu Tuất đã thấy mức độ nghiêm trọng của nó. Chuyện anh em đánh
nhau vì tranh giành của cải, con cái đuổi bố mẹ ra khỏi nhà, đối xử tàn tệ với bố
mẹ hay nhiều hiện tượng sa sút đạo đức thấy phổ biến trong xã hội đã được nhiều
người nói đến như một sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Người ta đổ cho vấn đề


7

kinh tế thị trường, tồn cầu hóa và ảnh hưởng của văn hóa phương Tây với những
phim ảnh bạo lực từ nước ngoài… Điều mà từ những năm 30 của thế kỷ trước học
giả Đào Duy Anh đã nói đến: “Cái bi kịch hiện thời của dân tộc ta là sự xung đột
của những giá trị cổ truyền của văn hóa cũ ấy với những điều mới lạ của văn hóa
Tây phương. Cuộc xung đột sẽ giải quyết thế nào, đó là một vấn đề quan hệ đến
cuộc sinh tử tồn vong của dân tộc vậy.”(Đào Duy Anh, 2000). Trước đây, chính

trong hồn cảnh đó văn hóa Việt Nam lại trỗi dậy và chống lại những ảnh hưởng
của văn hóa Tây phương để chúng ta có được hai cuộc kháng chiến thần thánh
chống Pháp và chống Mỹ. Còn ngày nay, hình như chúng ta đang lúng túng trước
vấn đề này. Để tìm hiểu ngọn nguồn của tất cả các hiện tượng đó khơng phải là dễ
và có thể làm trong ngày một ngày hai.Tuy nhiên, phải thừa nhận là kết quả của
ngày hơm nay có ngun nhân được tích tụ trong một thời gian dài từ sau Cách
mạng thành công và từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháo đến nay. Có thể
khái quát ở một số điểm như sau:
Thứ nhất, công cuộc kháng chiến chống Pháp thần kỳ của người Việt từ nô
lệ vươn lên đánh đuổi một đế quốc lớn mạnh hơn chúng ta rất nhiều lần về mọi mặt
nên cả dân tộc đã phải gồng mình lên để dành chiến thắng. Thời gian ấy, do nhiều
lý do, nên điều kiện cho việc củng cố văn hóa trong đó có văn hóa gia đình khơng
được quan tâm đến. Từ tiêu thổ kháng chiến với việc đình chùa, đền miếu và các di
tích văn hóa bị phá hủy, các cuộc chỉnh huấn, chỉnh quân trong quân đội, cải cách
ruộng đất, phong trào chống phong kiến đã có ảnh hưởng khơng nhỏ đến các giá trị
văn hóa nói chung, các thực hành của văn hóa gia đình nói riêng .
Thứ hai, sau khi miền Bắc giải phóng đất nước đi vào việc xây dựng hịa
bình trong tình trạng cịn nửa nước đang có chiến tranh nên phải tập trung sức lực
để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cả nước luôn ở trong tư thế thời
chiến nên mọi chuyện gia đình, riêng tư đều được gác lại và mọi chuyện thuộc gia
đình, thuộc đời sống cá nhân con người đều hướng tới một mục đích “Tất cả cho
tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Mọi chuyện gia đình, cá nhân là chuyện
nhỏ trước cuộc kháng chiến vĩ đại của đất nước. Đương nhiên, trong môi trường
mỗi gia đình, những thực hành văn hóa vẫn diễn ra nhưng trong bối cảnh chung
của cả nước thì cái chung vẫn là cái được đặt lên hàng đầu.
Thứ ba, trong thời gian sau hịa bình năm 1954 hướng theo nền văn hóa mới
xã hội chủ nghĩa từ Liên Xơ, vấn đề cá nhân, gia đình lại càng bị hạn chế bởi vai
trò tập thể được đề cao, hợp tác xã, sản xuất lớn, xóa bỏ tư hữu, đề cao cơng hữu,
tiến tới sản xuất lớn. Đặc biệt là cuộc cách mạng văn hóa tiếp tục được đẩy mạnh
với việc chống mê tín dị đoan, hạn chế tơn giáo, là những tác động to lớn vào tư

tưởng của cả người lãnh đạo đến người dân bình thường.
Thứ tư, bên cạnh những vấn đề về hệ tư tưởng, về tâm linh kể trên thì sự xáo
trộn xã hội trong hai cuộc kháng chiến cùng với việc ảnh hưởng của giáo điều, máy
móc như dân chủ, bình đẳng thái quá tạo nên những thách thức với truyền thống
tơn ty trật tự trong gia đình, dịng họ, tơn sư trọng đạo trong nhà trường.
Thứ năm, cũng là tiếp thu văn hóa mới một cách máy móc, mà việc đề cao quần
chúng một cách thái quá, coi trọng văn hóa quần chúng theo kiểu tập thể, đồng loạt
như nhau nên đã có sự gị ép tính đa dạng, sáng tạo cá nhân vào những khuôn mẫu


8

làm mất đi khơng ít các giá trị văn hóa dân gian của các dân tộc bằng cách áp đặt
khuôn mẫu của văn hóa phương tây vào nó. Chẳng hạn như ý kiến của nhà nghiên
cứu âm nhạc dân gian Tơ Ngọc Thanh nói về việc các nhà sưu tầm người Kinh khi
lên miền núi sưu tầm âm nhạc dân gian các dân tộc đều hướng đến việc dùng
khuông nhạc bảy nốt phương Tây để ghi chép nhạc dân gian của đồng bào nên tất
cả đề phải gì theo khng nhạc đó. Vai trị cá nhân, nghệ nhân bi lu mờ, chìm
xuống trước cái tập thể, quần chúng.
Thứ sáu, sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước một mặt, đã có lúc
quá lạc quan mà bất chấp những quy luật phát triển. Cộng với việc ngay sau chiến
thắng đất nước lại bước vào các cuộc chiến tranh biên giới kéo dài, cấm vận của
phương Tây nên khi kinh tế thị trường ào ạt vào nước ta thì cả kinh tế và văn hóa
đều rơi vào tình trạng chơng chênh. Hơn thế, do mong muốn phát triển nhanh
chóng để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, tụt hậu nên chúng ta đã phát triển
kinh tế bằng mọi giá, để đến nay khi kinh tế tạm có thể gọi là ổn định thì một loạt
những vấn đề văn hóa mới bắt đầu nảy sinh như ta thấy.
Tất cả những điều kể trên có thể nói là một sự tác động âm ỉ, lâu dài đến văn
hóa gia đình của người Việt Nam trong suốt giai đoạn lịch sử vừa qua, và chính nó
là những tác nhân khơng nhỏ đến sự xuống cấp của văn hóa tồn xã hội Việt nam

nói chung.
1.1.4. Gia đình văn hóa
Được đề ra bởi Chính phủ đã nhiều năm, Gia đình văn hóa được xem như
một chỉ tiêu đề ra tại chính các tổ dân cư, phường, xã để thúc đẩy việc hình thành
lối sống văn minh, đạo đức ngay tại cấp địa phương nhỏ lẻ và cao hơn nữa là hình
thành các thơn văn hóa, tổ dân phố văn hóa,….Với những gia đình đạt các chỉ tiêu
được đưa ra để xem xét thì sẽ được chứng nhận là gia đình văn hóa và có bằng
khen trao về từng nhà.
Có thể nói gia đình hạt nhân là những tế bào nhỏ bé để hình thành nên một xã hội,
một cộng đồng lớn. Gia đình có vai trị quan trọng và quyết định trực tiếp đến việc
xây dựng và ảnh hưởng không nhỏ đến từng cá nhân. Gia đình là nơi ni dưỡng
và giáo dục mỗi con người sống có ý thức, có đạo đức và có cống hiến cho xã hội.
Gia đình văn hóa được đề ra để mỗi thành viên trong gia đình có sự cố gắng, nỗ
lực trong mọi hoạt động, thay đổi trong tư duy và nhận thức để sống tốt hơn và có
ích hơn. Từ đó xã hội mới ổn định và phát triển được.
Xã hội nào cũng được tạo nên từ tập hợp nhiều gia đình mà trong đó là các cá
nhân. Xây dựng gia đình văn hóa với nếp sống lành mạnh sẽ tạo ra những con
người chuẩn mực, tạo ra một xã hội tốt đẹp hơn. Ngoài ra xây dựng gia đình văn
hóa cũng là việc làm giúp phát triển truyền thống tốt đẹp của gia đình, gìn giữ bản
sắc của các làng xóm.
Gia đình văn hóa đã trở nên quen thuộc với mỗi cá nhân hiện nay. Tuy nhiên hi
vọng thơng qua bài viết này các bạn sẽ có thêm nhiều hơn nữa những hiểu biết gia
đình văn hóa là gì, hiểu rõ hơn các tiêu chí để phấn đấu thúc đẩy sự phát triển của
xã hội.
1.1.5. Các mỗi quan hệ của gia đình
Kn gia đình:


9


Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một
thiết chề văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở
của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục …
giữa các thành viên.
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một hình ảnh “xã hội thu nhỏ”, cơ
bản nhất của xã hội.
Gia đình hình thành từ rất sớm và trải qua một quá trình phát triển lâu dài.
Lịch sử nhân loại có những hình thức hơn nhân: tạp hơn, đối ngẫu, một vợ một
chồng thì cũng có các hình thức gia đình: tập thể, cặp đơi, cá thể và cũng có các
loại gia đình: một thế hệ, hai thế hệ và nhiều thế hệ.
Mối quan hệ giữa gia đình và xã hội:
1. Sự tác động của gia đình đối với sự phát triển của xã hội:
a. Gia đình là tế bào của xã hội:
Gia đình có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, là nhân tố tồn tại
và phát triển của xã hội, là nhân tố cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Gia đình
như một tế bào tự nhiên, là đơn vị nhỏ nhất để tạo nên xã hội. Khơng có gia đình
để tái tạo ra con người thì xã hội khơng tồn tại và phát triển được. Chính vì vật,
muốn xã hội tốt thì phải xây dựng gia đình tốt.
Tuy nhiên mức độ tác động của gia đình đối với xã hội cịn phụ thuộc vào
bản chất của từng chế độ xã hội. Trong các chế xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư
liệu sx, sự bất bình đẳng trong quan hệ gia đình, quan hệ xã hội đã hạn chế rất lớn
đến sự tác động của gia đình đối với xã hội.
b. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội
Mỗi cá nhân chỉ có thể sinh ra trong gia đình. Khơng thể có con người sinh ra từ
bên ngồi gia đình. Gia đình là mơi trường đầu tiên có ảnh hưởng rất quan trọng
đến sự hình thành và phát triển tính cách của mỗi cá nhân. Và cũng chính trong gia
đình, mỗi cá nhân sẽ học được cách cư xử với người xung quanh và xã hội.
c. Gia đình là tở ấm mang lại các giá trị hạnh phúc
Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống của
mỗi thành viên, mỗi cơng dân của xã hội. Chỉ trong gia đình, mới thể hiện mối

quan hệ tình cảm thiêng liêng giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái.
Gia đình là nơi ni dưỡng, chăm sóc những cơng dân tốt cho xã hội. Sự hạnh
phúc gia đình là tiền đề để hình thành nên nhân cách tốt cho những công dân của
xã hội. Vì vậy muốn xây dunwjg xã hội thì phải chú trọng xây dựng gia đình. Hồ
chủ tịch nói: “Gia đình tốt thì xã hội tốt, nhiều gia đình tốt cộng lại thì làm cho xã
hội tốt hơn”
Xây dựng gia đình là một trách nhiệm, một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể các
mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Thế nhưng, các cá nhân không chỉ sống trong quan hệ gia đình mà cịn có những
quan hệ xã hội. Mỗi cá nhân khơng chỉ là thành viên của gia đình mà cịn là thành
viên của xã hội. Khơng thể có con người bên ngồi xã hội. Gia đình đóng vai trò
quan trọng để đáp ứng nhu cầu về quan hệ xã hội của mỗ cá nhân.
Ngược lại, bất cứ xã hội nào cũng thơng qua gia đình để tác động đến mỗi cá nhân.
Mặt khác, nhiều hiện tượng của xã hội cũng thơng qua gia đình mà có ảnh hưởng


10

tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối
sống.
2. Trình độ phát triển của xã hội quy định hình thức tở chức, quy mơ và kết
cấu của gia đình:
Quan điểm duy vật lịch sử đã chỉ ra rằng, gia đình là những hình thức phản ánh đặc
thù của trình độ phát triển king tế. Trong tiến trình lịch sử nhân loại, các phương
thức sản xuất lần lượt thay thế nhau, dẫn đến sự biến đổi về hình thức tổ chức, quy
mơ và kết cấu gia đình. Từ gia đình tập thể – với hình thức quần hơn, huyết thơng;
gia đình cặp đơi với hình thức hơn nhân đối ngẫu; đến gia đình cá thể với hình thức
hơn nhân một vợ một chồng. Từ gd một vợ một chồng bất bình đẳng sang gia đình
một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Tất cả những bước tiến trong gia đình đều
phụ thuộc vào những bước tiến trong sản xuất, trong trình độ phát triển kinh tế,

chính trị, văn hóa, xã hội của mỗi thời đại lịch sử.
Đặc điểm, đạo đức, lối sống trong gia đình cũng bị chi phối bởi những quan hệ xã
hội. Vì vây, trong mỗi chế độ xã hội khác nhau, có quan điểm khác nhau về tiêu
chuẩn đạo đức, lối sống …
3. Tính độc lập tương đối của gia đình:
Mặc dù, gia đình và xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau, nhưng gia đình
vẫn có tính độc lập tương đối của nó. Bởi vì gia đình và quan hệ gia đình cịn bị chi
phối bởi các yếu tố khác như tôn giáo, truyền thống, pháp luật … vì vậy, mặc dù
xã hội có nhưng thay đổi nhưng một số gd vẫn lưu giữ những truyền thống của gia
đình.
1.2. Cấu trúc.
1.2.1. Khái niệm
1.2.2. Các hình thái cấu trúc gia đình
Có nhiều cơ sở để phân loại gia đình thành các loại khác nhau.
Xét về quy mơ, gia đình có thể phân loại thành:

Gia đình hai thế hệ (hay gia đình hạt nhân): là gia đình bao gồm cha mẹ và
con.

Gia đình ba thế hệ (hay gia đình truyền thống): là gia đình bao gồm ơng bà,
cha mẹ và con còn được gọi là tam đại đồng đường.[2]

Gia đình bốn thế hệ trở lên: là gia đình nhiều hơn ba thế hệ. Gia đình bốn
thế hệ cịn gọi là tứ đại đồng đường.
Dưới khía cạnh xã hội học và về quy mô các thế hệ trong gia đình, cũng có
thể phân chia gia đình thành hai loại:

Gia đình lớn (gia đình ba thế hệ hoặc gia đình mở rộng) thường được coi là
gia đình truyền thống liên quan tới dạng gia đình trong q khứ. Đó là một
nhóm người ruột thịt của một vài thế hệ sống chung với nhau dưới một mái

nhà, thường từ ba thệ hệ trở lên, tất nhiên trong phạm vi của nó cịn có cả
những người ruột thịt từ tuyến phụ. Dạng cổ điển của gia đình lớn là gia đình
trưởng lớn, có đặc tính tổ chức chặt chẽ. Nó liên kết ít nhất là vài gia đình nhỏ
và những người lẻ loi. Các thành viên trong gia đình được xếp đặt trật tự theo ý
muốn của người lãnh đạo gia đình mà thường là người đàn ơng cao tuổi nhất
trong gia đình. Ngày nay, gia đình lớn thường gồm cặp vợ chồng, con cái của


11

họ và bố mẹ của họ nữa. Trong gia đình này, quyền hành không ở trong tay của
người lớn tuổi nhất.

Gia đình nhỏ (gia đình hai thế hệ hoặc gia đình hạt nhân) là nhóm người thể
hiện mối quan hệ của chồng và vợ với các con, hay cũng là mối quan hệ của
một người vợ hoặc một người chồng với các con. Do vậy, cũng có thể có gia
đình nhỏ đầy đủ và gia đình nhỏ khơng đầy đủ. Gia đình nhỏ đầy đủ là loại gia
đình chứa trong nó đầy đủ các mối quan hệ (chồng, vợ, các con); ngược lại, gia
đình nhỏ khơng đầy đủ là loại gia đình trong nó khơng đầy đủ các mối quan hệ
đó, nghĩa là trong đó chỉ tồn tại quan hệ của chỉ người vợ với người chồng hoặc
chỉ của người cha hoặc người mẹ với các con. Gia đình nhỏ là dạng gia đình
đặc biệt quan trọng trong đời sống gia đình. Nó là kiểu gia đình của tương lai
và ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại và cơng nghiệp phát triển.
Kế hoạch hóa gia đình
Ở các nước đang phát triển, vì tỉ lệ sinh cao làm dân số tăng cao, chính phủ
thực hiện các chính sách để người dân giảm số con trong gia đình. Ở Trung
Quốc, chính sách một con làm giảm đáng kể tốc độ tăng dân số của nước này.
Ở Việt Nam, chính quyền khuyến khích mỗi gia đình chỉ nên có một đến hai con.
Trong khi đó, ở nhiều nước phát triển như nhiều nước Âu châu và Hàn Quốc, Nhật
Bản, chính phủ có biện pháp khuyến khích gia đình có thêm con nhằm tránh giảm

dân số. Mặc dù đã có những chính sách nhất định về Kế hoạch hóa sinh con, nhưng
nhiều hộ gia đình vẫn có tâm lý khác nhau:
- Một mặt do gia đình có điều kiện, sinh cho vui cửa vui nhà
- Mặt khác do sinh con 1 bề & muốn có người nối dõi
1.3. Các chức năng của gia đình
Gia đình có 2 chức năng cơ bản sau:
1. Tạo ra một thế hệ mới bao gồm cả việc sinh đẻ và giáo dục đào tạo: Chức
năng sinh sản: tạo ra con người mới về mặt sinh học (cha kết hôn với mẹ để cùng
sinh ra con cái). Đây là chức năng quan trọng nhất của gia đình, bởi nó tạo ra nịi
giống tương lai cho đất nước, đảm bảo cho lồi người khơng bị tuyệt chủng và đất
nước khơng bị suy vong do lão hóa dân số.
o
Chức năng giáo dục của gia đình: cha mẹ, ơng bà giáo dục con cháu
mình, qua đó góp phần duy trì truyền thống văn hóa, đạo đức của xã hội.
2. Ni dưỡng, chăm sóc các thành viên trong gia đình: gia đình thoả mãn
những nhu cầu tâm - sinh lý, tình cảm của các thành viên.
Sự hình thành gia đình là căn bản trong tiến trình tiến hóa xã hội. Chế độ mẫu hệ
được nhận thức từ trong chế độ công xã thị tộc và là bước phát triển khi con người
bước ra khỏi cuộc sống quần hôn, mối liên hệ trai gái chưa quan niệm được là vợ
chồng, và con cái chỉ biết có mẹ.[19] Ý niệm gia đình được sáng rõ hơn khi con
người ý thức được mối tương quan vợ chồng, con cái. Trong xã hội mà gia đình
chưa địi hỏi phải tích lũy nhiều tài sản, cuộc mưu sinh chủ yếu cấy cầy và gặt hái.
Đây là công việc thường xun người phụ nữ đóng vai trị chủ động bên cạnh sinh
sản và chăm sóc ni dưỡng con cái. Gia đình Trung Hoa theo chế độ phụ hệ từ
thời nhà Hán (hai ngàn năm trước Tây lịch) và truyền sang Việt Nam từ thời Bắc
thuộc lần thứ hai, khoảng 1000 năm trước Tây lịch.[20] Dĩ nhiên đây không phải là


12


tiến trình tự nhiên mà là do bởi áp lực chính trị và xã hội của Trung Hoa áp đặt.
Ngay trong áp lực nầy, xã hội Việt Nam cũng không hồn tồn nhắm mắt đưa
chân. Các gia đình Việt Nam vẫn dành cho người mẹ, người vợ một lòng trân trọng
đáng kể. Nói chung, gia đình trên phương diện xã hội bao gồm một số các chức
năng căn bản. Theo giáo sư Phạm Hồng Lam, đó là:
o - Chức năng truyền sinh: gia đình là định chế duy nhất trong đó sự liên hệ
tình dục được xã hội chấp nhận để lưu truyền sự sống, tiếp nối dòng tộc.
o - Chức năng giáo dục: gia đình là mơi trường chính yếu và đầu đời trong
việc giáo dục con cái và giúp chúng học tập các vai trò sau nầy.
o - Chức năng phân phối lao động và chăm lo kinh tế: phân công lao động
để nuôi sống mọi thành viên, chăm sóc cuộc sống vật chất.
o - Chức năng tơn giáo: đặc biệt trong các xã hội theo tôn giáo truyền thống,
thờ ơng bà tở tiên, gia đình là nơi tồn trữ và truyền bá niềm tin và việc thờ
tự.”[21] Ngồi ra người ta cịn đề cập tới chức năng điều hịa tình cảm và giải
trí của gia đình. Các chức năng cổ điển của định chế gia đình là phổ quát và
quyết định trong xã hội cổ xưa lấy nông nghiệp làm căn bản.
Theo Lê Ý Thu trong tác phẩm Cuộc Sống Gia Đình được biên soạn theo tác
phẩm Familyhood của nhà xuất bản Simons Shuster, 1992, thì ẩn chứa sau những
ngôn từ khô khan biểu hiện các chức năng gia đình, người ta nhận ra được ý nghĩa
gắn kết, chăm lo và dậy dỗ. Những ý nghĩa sau đây ln đi liền với tình cảm và giá
trị của gia đình ở mọi thời đại và mọi nơi.
o - Sự gắn kết: đòi buộc vợ chồng yêu thương, chung lưng đấu cật để mang
lại phúc lợi lâu dài cho mọi thành viên.
o - Sự chăm lo: diễn đạt qua những từ ngữ chia sẻ, nuôi dưỡng, quan tâm mà
ai cũng thừa nhận và thường hiểu chỉ có trong gia đình.
o - Sự dạy dỗ những giá trị: là chức năng gắn bó mật thiết với đời sống gia
đình, vì gia đình là nơi duy nhất hầu hết các giá trị cơ bản được thấm nhuần
và truyền đạt.”[22]
1.3.1. Chức năng sinh sản
1.3.2. Chức năng kinh tế

1.3.3. Chức năng giáo dục
1.4. Vai trị của gia đình
Những năm qua, trong các văn kiện của Đảng đều đề cập đến việc xây dựng
gia đình thời đại mới, khẳng định vai trị của gia đình đối với sự phát triển của đất
nước. Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh
phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội”. Hội nghị lần thứ 8 Trung ương khóa
XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “...Tạo lập mơi trường sống an tồn, thân thiện,
phát triển tồn diện cho thanh, thiếu niên, trẻ em. Quan tâm chăm sóc và phát huy
vai trị người cao tuổi. Chú trọng cơng tác gia đình, thực hiện bình đẳng giới và
giảm mất cân bằng giới tính trẻ sơ sinh...”. Điều đó cho thấy trong giai đoạn hiện
nay gia đình có vị trí, vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội.
GIA ĐÌNH KHƠNG CHỈ LÀ MỘT TẾ BÀO CỦA XÃ HỘI
Gia đình khơng chỉ là “tế bào” tự nhiên mà cịn là một đơn vị kinh tế của xã
hội. Gia đình có vai trị đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân


13

lực chất lượng cao phục vụ đất nước. Gia đình có vai trị quyết định đối với sự hình
thành và phát triển của xã hội. Những chuẩn mực giá trị tốt đẹp của gia đình được
tiếp nhận, phát triển góp phần xây dựng, tô thắm, làm rạng rỡ thêm bản sắc văn
hóa dân tộc. Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: Gia đình là mơi trường quan trọng,
trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách, góp phần chăm lo xây dựng
con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm cơng dân,
có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc
tế chân chính.
Con người Việt Nam chỉ có thể được trang bị những phẩm chất tốt đẹp nếu
có một mơi trường xã hội tốt. Mơi trường đó trước hết là từ mỗi gia đình, mỗi tế
bào của xã hội. Gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội về sản phẩm của gia đình
mình, có trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp cho xã hội những

cơng dân hữu ích. Cùng với nhà trường, gia đình tham gia tích cực nhiệm vụ “dạy
người, dạy chữ”, tạo ra lực lượng lao động tương lai chất lượng cao. Gia đình
chính là “đơn vị xã hội” đầu tiên cung cấp lực lượng lao động cho xã hội. Từ
những người lao động chân tay giản đơn đến lao động trí óc... đều được sinh ra,
ni dưỡng và chịu sự giáo dục của gia đình.
Gia đình khơng chỉ giữ vai trò nền tảng, tế bào của xã hội mà cịn là mơi
trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách con trẻ. Gia
đình là nơi giữ gìn, vun đắp, phát huy những giá trị truyền thống quý báu của con
người Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã hình thành trong quá trình lịch sử dựng
nước, giữ nước. Đó là lịng u nước, u quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn
nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù, sáng tạo trong lao động, bất khuất
kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách...
Gia đình cũng là nơi tiếp thu, giữ gìn và lưu truyền các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc. Thơng qua các câu chuyện cổ tích, ca dao, tục ngữ, cha mẹ, ông
bà là những người thầy đầu tiên dạy dỗ, nuôi dưỡng tâm hồn, phát triển tư duy và
từng bước giáo dục hình thành nhân cách cho mỗi con người. Qua lao động, qua
việc xử lý các mối quan hệ hằng ngày, gia đình đã truyền thụ cho con trẻ những nét
đẹp của truyền thống gia đình, dịng họ, truyền thống văn hóa dân tộc. Từ đó mỗi
cá nhân hình thành và bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lịng tự hào dân tộc, tình cộng
đồng, lịng nhân ái, tinh thần tự lực, tự cường, anh hùng trong chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc, bảo vệ hịa bình, chăm chỉ cần cù trong lao động sản xuất... Gia đình cũng
giữ vai trò đặc biệt quan trọng tới số lượng, chất lượng dân số và cơ cấu dân cư của
quốc gia.
NỀN TẢNG TỪ NHỮNG “VIÊN GẠCH” ĐẦU TIÊN
Trong mỗi gia đình, vai trị của cha mẹ có vị trí tối quan trọng. Theo truyền
thống Việt Nam, đàn ông thường là chủ của gia đình. Người cha là trụ cột, là biểu
hiện của nhân cách văn hóa cao đẹp nhất để con cái học tập và noi theo. Còn người
mẹ là chỗ dựa, là hạt nhân tâm lý chủ đạo, nguồn lửa sưởi ấm u thương trong gia
đình, nguồn tình cảm vơ tận cho các con. Vì thế, gia đình là cái nơi văn hóa đầu
tiên hình thành nhân cách cho trẻ em.

Xã hội chuyển động ngày một nhanh hơn, các “tế bào” của xã hội chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của thế giới bên ngoài, đặc biệt là từ thế giới internet, chịu tác


14

động bởi nền kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường nên văn hóa gia đình đang có
biểu hiện xuống cấp vì những tác động xấu của đời sống xã hội. Mặt trái của nền
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã kích thích nhu cầu ham muốn vật chất, ít
chú trọng đời sống tình cảm tinh thần, tình trạng xung đột gia đình dẫn đến đổ vỡ
và ly hôn ngày càng gia tăng, làm cho gia đình khơng được bền vững. Vì thế, để
tạo dựng nền tảng vững chắc cho thế hệ tương lai, phải bắt đầu giáo dục con trẻ
trong gia đình - trước khi những mầm non ấy đặt chân tới trường và tiếp xúc với
mơi trường xã hội. Đó được xem là những viên gạch đầu tiên để xây dựng nên
nhân cách của một con người, một thế hệ.
Và trong giai đoạn hiện nay, để “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc”, cần sự chung tay góp sức của tồn xã hội, là trách nhiệm
của mỗi gia đình, mỗi con người cụ thể.
Chương 2: Văn hóa gia đình truyền thống

Mục tiêu:
- Trình bày lịch sử gia đình Việt Nam
- Trình bày và phân tích các yếu tố chi phối văn hóa gia đình truyền thống
Việt Nam.
- Trình bày một số biểu hiện cụ thể của văn hóa gia đình truyền thống Việt
Nam.
- Nêu các giải pháp và nhiệm vụ cơ bản của quản lý Nhà nước về văn hóa.
Nội dung:
2.1. Lịch sử gia đình Việt Nam
Lịch sử gia đình Việt Nam gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển

của đất nước qua từng thời kỳ. Tìm hiểu về gia đình Việt nam phải đặt nó bên
cạnh sự hình thành tồn tại và phát triển của cơ cấu tổ chức làng Việt cổ
truyền với nhiều bộ phận dân cư khác nhau.
Từ thế kỷ XV trở đi, cùng với việc xác lập xã hội phong kiến sùng thượng
Nho giáo, gia đình Việt Nam đã ổn định, có nề nếp, có truyền thống dựa trên
những nguyên lý tu thân, tề gia đưa gia đình vào khn phép được coi như chân lý
ngàn đời. Ở xã hội phong kiến, nước ta có ba loại gia đình: gia đình bình dân, gia
đình kẻ sĩ và gia đình quý tộc.
Gia đình bình dân là loại gia đình chiếm đại đa số của dân nông nghiệp, thủ
công và các ngành nghề, các tầng lớp khác nhau. Những gia đình này đều được
xem là tuân theo phép tắc của đạo Nho. Gia đình bình dân là gia đình hịa thuận
(thuận vợ thuận chồng tát biển Đơng cũng cạn), là gia đình lao động, có sự phân
cơng nhịp nhàng (chồng cầy, vợ cấy con trâu đi bừa), là gia đình khơng tán thành
chế độ đa thê (đói no một vợ một chồng, một niêu cơm tấm dẫu lịng ăn chơi). Gia
đình bình dân cũng là gia đình biết nhường nhịn nhau (chồng giận thì vợ bớt lời),
gia đình khơng phân trai gái nặng nhẹ (trai mà chi, gái mà chi, sinh ra có nghĩa, có
nghì là hơn).
Gia đình kẻ sĩ là loại gia đình gắn chặt với văn hóa Nho giáo một cách nghiêm túc
hơn và có truyền thống dân tộc rất cao. Đặc biệt kẻ sĩ chân chính có ảnh hưởng rất


15

sâu sắc đến vợ con và cả anh em họ hàng. Kẻ sĩ biết lựa chọn trong văn hóa của
Nho của phật những gì thích hợp với gia đình và rất có ý thức về cái nịi, cái nếp
tức là rất chú trọng tới gia phong, gia lễ. Họ quan tâm đến lịch sử gia đình, lịch sử
gia tộc và có khi là những gia tộc lớn (có những cn sgia phả đại tông được soạn
rất công phu). Đặc điểm nổi bật của các gia đình kẻ sĩ là cơng phu đọc sách và ý
thức với vận mệnh dân tộc. Nhưng vì chú ý đọc sách nên họ khơng quan tâm đến
lao động sản xuất, trong gia đình hồn tồn trông cậy vào sự tần tảo của người vợ:

Một quan là sáu trăm đồng, chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi và Quanh năm
buôn bán ở non sông, nuôi đủ năm con với một chồng. Người phụ nữ trong các gia
đình kẻ sĩ cũng chấp nhận vai trị này, khơng phàn nàn, khơng tị nạnh mà cịn lấy
làm vinh hạnh.
Gia đình q tộc là gia đình hồng tộc (các vua chúa) các nhà quan to, tước
lộc lớn. Những gia đình loại này tất nhiên có nề nếp, có phong cách của tầng lớp
quý tộc trong xã hội phong kiến. Các gia đình q tộc thường khơng bền vững, có
nhiều gia đình suy thối, tha hóa, thậm chí cịn để lại điều tiếng trong lịch sử. Các
ơng vua, ơng hồng, bà hồng thời Lê, thời Nguyễn sau này thường khơng giữ
được tư cách.
Nhìn chung, chế độ phong kiến Việt Nam đã củng cố cho chế độ gia đình đi vào
nền nếp một cách đắc lực. Vua chúa và triều đình cịn biết sử dụng luật pháp để
bảo vệ gia đình. Vua Lê Thánh Tông ban đến 24 điều giáo huấn. Các luật ở triều
Lê, luật Hồng Đức, luật Gia Long… có nhiều điều khoản đảm bảo quyền lợi, vị trí
của cha mẹ, đề ra những quy phạm cho con cháu phải tuân theo.
Từ cuối thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, gia đình Việt nam
có rất nhiều biến đổi. Trước hết là sự thăng trầm của ba hình thái gia đình trên. Bên
cạnh đó, tình hình xã hội Việt Nam lúc này lại xuất hiện những kiểu gia đình mới:
gia đình cơng chức có chồng con ra làm việc cho chính quyền thực dân, những gia
đình tiểu tư sản, gia đình tư sản ở các thành thị. Những gia đình này rải rác có ít
nhiều chịu ảnh hưởng của giáo dục Nho giáo, của nề nếp phong kiến hoặc của văn
hóa truyền thống bản địa nhưng đã có thay đổi nhiều, tiếp nhận những yếu tố ngoại
lai.
Từ Cách mạng tháng Tám trở đi, đất nước tiến hành hai cuộc kháng chiến. Với tình
hình xã hội, tình hình kinh tế biến chuyển, diện mạo gia đình tự nó cũng có nhiều
biến đổi quan trọng. Các kiểu gia đình kẻ sĩ, gia đình nơng dân, gia đình q tộc
được thay thế bằng hình thái gia đình khác. Vấn đề nam nữ bình quyền được hiến
pháp chấp nhận, các đồn thê rphuj nữ hoạt động mạnh, đã đến lúc người phụ nữ
khơng cịn bị bó buộc trong phạm vi gia đình như trước. Thời kỳ này, trong xã hội
có hai loại gia đình: gia đình xã viên và gia đình cơng nhân, viên chức.

Gia đình xã viên tập trung nhiều ở vùng nôn thôn với đặc điểm: làm ăn tất bật, đời
sống không khá hơn đời sống của trung nông ngày xưa. Gia đình cơng nhân, viên
chức tập trung chủ yếu ở thành phố, thị xã, thị trấn có đời sống sinh hoạt thiếu
thốn, khó khăn.
2.1.1. Thế kỷ 15 Thời đại phong kiến
2.1.2. Thế kỷ 19 cùng với sự xuất hiện của thực dân, bn bán
2.1.3. Sau hồ bình lập lại cùng với cải cách ruộng đất, công thương nghiệp


16

tây

2.1.4. Gia đình truyền thống là gia đình trước khi tiếp nhận văn hóa phương

2.2. Những yếu tố chi phối văn hóa gia đình truyền thống Việt Nam
Gia đình Việt Nam cuối thập kỷ thứ nhất, đầu thập kỷ thứ hai của thế
kỷ XXI đã và đang vận hành và chịu tác động đa chiều bởi nhiều yếu tố khách
quan và chủ quan; đã và đạng tạo nên những vấn đề rất cần được quan tâm
trong cái nhìn phát triển bền vững. Dù trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội, văn
hóa…nào đi chăng nữa thì Gia đình vẫn là mơi trường quan trọng để hình
thành, ni dưỡng và giáo dục nhân cách con người - chủ thể văn hóa, đồng
thời gia đình cũng là một trong những nền tảng quan trọng để góp phần xây
dựng thành cơng một xã hội phát triển bền vững.
Gia đình tiếp cận trong tham luận này được quan sát từ góc độ Thiết chế xã
hội và Tế bào văn hóa của xã hội trong sự vận động và chịu tác động của những
yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội…mới với một vài chia sẻ để cùng suy ngẫm. Tuy
nhiên đây là vấn đề lớn cần sự chung tay của nhiều người, trong những khoàng
thời gian cần thiết.
1. Những tác động đến cấu trúc gia đình Việt Nam truyền thống

Cấu trúc gia đình truyền thống trong bối cảnh kinh tế thị trường, đô thị hóa,
cơng nghiệp hóa đã và đang chịu nhiều tác động về cấu trúc trên các phương diện
cơ bản sau:
a) Sự suy giảm ngày càng gia tăng của gia đình nhiều thế hệ
Đây là hiện tương không mới nhưng trong bối cảnh hiện nay, xu hướng của
các cặp vợ chồng trẻ là muốn sống độc lập ở khu vực nông thôn và thành thị;
không chỉ ở đồng bằng mà cả vùng miền núi, vùng dân tộc thiểu số.
Ở khu vực nông thôn, khi kinh tế công nghiệp, nhà máy thu hút nhiều lao
động, việc làm, đồng lương so với lao động nơng nghiệp cao hơn thì nhiều lao
động trẻ khơng tha thiết với đồng ruộng…muốn ở riêng để tự lập về cuộc sống gia
đình. Chỉ một bộ phận khơng lớn do hồn cảnh khó khăn vẫn ở chung với bố mẹ
và nhờ cậy trơng nom con cái cịn nhỏ và chăm sóc ruộng vườn…
Ở đơ thị, mặc dù cịn khơng ít khó khăn về nhà ở nhưng những cặp vợ chồng
trẻ, nhất là có thu nhập tương đối cao, dù là con một những vẫn không muốn ở
cùng bố mẹ đẻ. Vấn đề ở đây khơng phải vì lý do kinh tế, mà là sự nhận thức của
các chủ nhân các gia đình trẻ về văn hóa, giá trị và ý nghĩa của gia đình…
Cả hai trường hợp trên diễn ra cho thấy sự ảnh hưởng tác động hữu hình và
vơ hình của các yếu tố chủ quan và khách quan đến cấu trúc gia đình. Tình hình đó
cho thấy khơng chỉ biến đổi về mơ hình gia đình mà cịn là những mối quan hệ,
ứng xử giữa các thành viên trong gia đình. So với gia đình truyền thống số thời
gian giữa các thành viên dành cho nhau ngày một ít đi, sự giao tiếp giữa bố mẹ con cái, ông bà - cháu chắt và các thành viên trực hệ khác ngày càng ít dần. sự chia
sẻ thơng tin trong đới sống làm ăn, tâm lý, tình cảm, giao tiếp khơng cịn như
trước…Điều đó là một trong những ngun nhân cơ bản từ bên trong tạo nên sự
“rạn nứt”, sự yếu kém ngày một gia tăng trong cấu trúc gia đình, thậm chỉ cả gia
đình hạt nhân của các cặp vợ chồng trẻ.
b) Xu hướng thiếu bền chặt trong cấu trú, thiết chế gia đình ngày một gia tăng


17


Trong xã hội truyền thống mơ hình “ngũ đại, tứ đại đồng đường” vùng
người Kinh và nhiều thế hệ làm chung, sống chung vùng đồng bào dân tộc thiểu là
không hiếm gặp. Điều kiện vật chất không được như hiện nay, nhưng mơ hình đó
cho thấy những giá trị cao về nhân văn, về văn hóa ứng xử, trách nhiệm giữa các
thành viên có cùng quan hệ dịng máu và quan hệ hơn nhân. Ngày nay nhìn lại
chúng ta thấy cái nổi trội là giá trị sống, giá trị nhân văn… của gia đình vượt lên
trên những khó khăn về điều kiện kinh tế, vật chất.
Trong xã hội hiện đại, kinh tế gia đình có thể nói khá cao so với trước nhưng
sự thiếu bền chặt trong cấu trúc gia đình ngày một gia tăng. Tỷ lệ ly hơn của các
cặp vợ chồng trẻ có điều kiện kinh tế (lương cao, nhà chung cư, đi làm bằng xe
hơi, có người giúp việc, trông nom con cái…) . Sự mâu thuẫn giữa tăng trưởng
kinh tế tỷ lệ nghịch với sự phát triển về văn hóa và các giá trị đao đức xã hội trong
đó có gia đình là một thực tại.
c) Sự chuyển đối vị thể của các thành viên trong ga đình
Trong cấu trúc gia đình Việt Nam hiện nay vị thế của các thành viên có sự
chuyển đổi so với trước. Đó là vị thế của người Vợ hoặc Chồng, Bố mẹ và Con
cái…Tuy từng gia đình cụ thể mà mà vị thể các thành viên diễn ra khác nhau, khác
xa so với xã hội truyền thống với vị thế gần như tuyệt đối của nam giới. Ai là
người làm chủ có vị thế chi phối các hoạt động gia đình ? Ai là người ra quyết định
triển khai các cơng việc và chi tiêu tài chính trong gia đình ?...Đâylà những vấn đề
cụ thể nhưng có ý nghĩa đối với sự phát triển gia đình và sự phát triển bền vững
của địa phương, quốc gia.
d) Sự phân hóa mơ hình gia đình
Xã hội xuất hiện những “loại gia đình mới” nhưng chưa được nghiên cứu,
tổng kết, đánh giá, đó là phân loại mức sống gia đình. Trong bối cảnh kinh tế thị
trường xuất hiện những “gia đình đại gia” làm ăn chân chính và những “gia đình
đại gia” làm ăn bất chính; những “gia đình quan chức” có mức sống cao với những
“đồng tiền sạch” và “gia đinh quan chức” có điều kiện vật chất “sung túc bất
thường” với những “đồng tiền khơng sạch”; xuất hiện khơng ít gia đình nghèo, cận
nghèo và gia đình mức sống trung bình.

Bên trong của các loại mơ hình gia đình trên là hệ thống của sự mâu thuẫn
giữa sự giàu có và những giá trị văn hóa, giá trị sống, giá trị nhân văn. Khơng có
nghĩa nhà giàu, “đại gia” là thuộc loai gia đình được xếp loại “có văn hóa” ở cơ sở
và ngược lại. Bên trong các loại mô hình gia đình trên, nhất là những”đại gia bất
chính” về kinh doanh và về quan chức vừa biều lộ, vừa ẩn tàng những mầm họa
của dẫn đến sự hủy hoại của các giá trị sống, giá trị văn hóa gia đình và giá trị xã
hội .
2. Những tác động đến Văn hóa gia đình Việt Nam
2.2.1. Những điều kiện tự nhiên
Trong đề dẫn Hội thảo quốc tế về “Gia đình Việt Nam trong q trình cơng
nghiêp hóa, hiện đại hóa và hội nhập từ cách tiếp cận so sánh” (2013), GS.TS.
Nguyễn Xuân Thắng đã đề cập đến một số vấn đề nghiên cứu đặt ra:


18

(1) Liệu có phải những gì đang diễn ra đối với gia đình ở các nước phát triển
sẽ là hình ảnh tương lai của gia đình Việt Nam nhìn từ góc độ lý thuyết hiện đại
hóa về gia đình ?
(2) Biến đổi gia đình Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại có những đặc
thù gì so với các nước ?
(3) Liệu q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế có làm
mất đi những giá trị bản sắc của gia đình Việt Nam ?
(4) Đâu là những giái pháp hiệu quả nhằm xây dựng gia đình Việt Nam no
ấm, tiến bộ và hạnh phúc trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế ?...1
Tơi đồng tình với những cách đặt vấn đề về cái nhìn giá trị truyền thống của
văn hóa gia đình Việt Nam và biến đổi, cái nhìn so sánh để chúng ta ý thức sâu sắc
về Văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay. Những vấn đề trên là cần thiết khi nghiên
cứu gia đình Việt Nam, đó cũng là cách quan sát văn hóa gia đình trong sự tác

động đa chiều, hữu hình và vơ hình đến các giá trị văn hóa của nó.
Văn hóa gia đình là văn hóa của tế bào xã hội hay xã hội vi mơ. Tiếp cận
văn hóa gia đình có nhiều góc nhìn khác nhau. Ở đây chúng ta quan sát tên một vài
khía cạnh chịu tác động như sau:
2.2.2. Điều kiện kinh tế
a) Tác động của tình hình kinh tế-xã hội, tồn cầu hóa đến hệ giá trị văn
hóa gia đình
Đây là sự tác động tồn diện do điều kiện kinh tế-xã hội mới, hiện đại, lối
sống mới du nhập từ bên ngồi vào văn hóa gia đình, làm biến đổi nhận thưc, nếp
sống, hành vi trong các mối quan hệ, trong hoạt động giao tiếp, ứng xử giữa các
thành viên trong gia đình, giữa các gia đình, gia đình và dòng họ.
Các yếu tố kinh tế - xã hội trong xu thế tồn cầu hóa, bùng nổ của cơng nghệ
thông tin và truyền thông…đang từng ngày từng giới tá động đến lối sống gia đình,
quan hệ ứng xử giữa các thế hệ, các thành viên trong gia đình…với những xu
hướng tích cực song đáng báo động hơn là những xu hướng tiêu cực với những hệ
lụy khó lường, làm bào mịn đi các giá thị văn hóa gia đình. Thuần phong mỹ tục
được hình thành hàng ngàn năm.
2.2.3. Điều kiện chính trị - xã hội
b) Tác động tồn cầu hóa về kinh tế, văn hóa đến quan niệm giá trị, đạo đức
gia đình
Đây là vấn đề có nhiều hệ lụy đến thuần phong, mỹ tục giá trị văn hóa gia
đình truyền thống Việt Nam dược tạo dựng trong quá trình lịch sử, văn hiến hàng
ngàn năm. Nhiều giá trị gia đình “lệch chuẩn” trong hệ giá trị truyền thống như:
“Trọng xỉ” (trọng lão), “Uống nước nhớ nguồn”, “Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy”,
“Anh em như thủ túc” (anh em như tay chân), “chị ngã em nâng”…Ngày nay có đủ
các điều kiện kinh tế, vật chất để thực hiện các ngun tắc ứng xử nhân văn đó,
nhưng vì luồng gió dộc “vô cảm” nên không dễ thực hiện, dễ được chứng kiến.
c) Sự biến đổi của các giá trị ứng xử văn hóa trong gia đình trong sự tác
động của kinh tế thị trường, lối sống cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa



19

Trong bối cảnh trên, mối quan hệ giữa các thành viên, các thế hệ trong gia
đình ngày một lỏng lẻo, thiếu gắn kết. Quan hệ giữa Bố mẹ - Con cái, Ông bà Con cháu, Anh (chị) - Em; Vợ - Chồng…khơng cịn đằm thắm mặn nồng như
trong xã hội nông nghiệp, văn minh làng xã trước đây. Các thành viên trong gia
đình ít có thời gian dành cho nhau hơn, nếu có thì lối ứng xử giao tiếp cũng cịn
vấn đề phải bàn luận.
Lối sống thiếu trách nhiệm, ít tình thương của các thành viên gia đình với
nhau khơng phai khó tìm. Lối sống vơ cảm ngồi xã hội cũng đã len lỏi vào khơng
ít gia đình. Một bộ phận con người trong gia đình có thiên hướng ích kỷ trong lối
sống, nếp sống; thiếu quan tâm đến bố mẹ, ông bà, anh chị em, người thân…họ lo
kiếm tiền, mua sắm cho bản thân, đi du lịch…mà không cần biết người thân xung
quanh mình đang sống như thế nào, cần cái gì, mong muốn cái gì.
Tóm lại, gia đình, văn hóa gia đình hiện nay đã và đang chịu tác động của
nhiều yếu tố khách quan và chủ quan theo hai xu hướng tích cực và tiêu cực. Trong
sự nghiệp xây dựng gia đình văn hóa mới và quản lý nhà nước về cơng tác gia
đình, có thể xem đây là vấn đề chính diện để tiệm cận tìm ra các nội dung, giải
pháp sát hợp với tình hình thực tiễn nhằm mang lại nhừng hiệu quả, góp phần vào
sự phát triển bền vững trong xây dựng văn hóa gia đình và văn hóa Việt Nam trịn
bối cảnh tình hình hiện nay.
Trong giai đoạn vừa qua cũng như sắp tới, vấn đề cơng tác gia đình trên bình
diện “quản lý” cũng như “chiến lược phát triển” đã được Đảng, Nhà nước quan
tâm tạo các cơ sở pháp lý, định hướng nội dung hoạt động. Song câu hỏi đặt ra là:
Vì sao hiệu quả, sự lan tỏa các giá trị văn hóa gia đình mang bản sắc Việt Nam
trong bối cảnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tồn cầu hóa chưa đạt các mục tiêu,
nhiệm vụ đề ra. Trên bình diện khoa học, lý luận và thực tiễn có thể nhận thấy đây
là vấn đề cần được sự quan tâm, đầu tư có tính dài hơi mang tính quốc gia về
nguồn lực đi đôi với vấn đề nhận thức vị thế vai trị của cơng tác gia đình trong
mối quan hệ với phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, văn hóa, hợp tác tồn cầu hóa

hiện nay.
Nói các yếu tố tác động đến gia đình và văn hóa gia đình thực chất là nói
đến mối quan hệ sự biến đổi và đi tím giải pháp hữu hiệu cho phát triển gia đình
Việt Nam giàu bản sắc trong bối cảnh kinh tế thị trường, tồn cầu hóa, cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa hiện nay./.
a. Đặc điểm chung
b. Làng là cơ sở của quốc gia
c. Mối quan hệ giữa làng và nước
2.2.4. Điều kiện văn hóa tư tưởng
a. Văn hóa bản địa Đơng Nam Á
b. Văn hóa Phật giáo
c. Tiếp nhận văn hóa Nho giáo
d. Tiếp nhận văn hóa Kito giáo (Thiên chúa giáo)
2.3. Một số biểu hiện của văn hóa gia đình truyền thống Việt Nam.
2.3.1. Văn hóa ứng xử của gia đình với mơi trường tự nhiên


20

Con người sống trong quan hệ chặt chẽ với tự nhiên – cách thức ứng xử với
môi trường tự nhiên là thành tố quan trọng thứ ba của mỗi hệ thống văn hóa.
Trong việc ứng xử với mơi trường tự nhiên có thể xảy ra hai khả năng: những gì có
lợi cho mình thì con người hết sức tranh thủ tận dụng, cịn những gì có hại thì phải
ra sức ứng phó. Việc ăn uống là thuộc lĩnh vực tận dụng mơi trường tự nhiên. Cịn
mặc, ở và đi lại thuộc lĩnh vực ứng phó: mắc và ở là để ứng phó với thời tiết, khí
hậu; đi lại là ứng phó với khoảng cách.
Ranh giới giữa tận dụng và ứng phó khơng phải lúc nào cũng rạch rịi. Để
ứng phó với thời tiết, khí hậu, con người đã tận dụng các chất liệu do tự nhiên cung
cấp để làm vải mặc, để dựng nhà, tận dụng vị trí tự nhiên để đặt ngơi nhà sao cho
có lợi nhất. Để ứng phó với khoảng cách, con người đã tận dụng tối đa địa hình địa

vật để chọn cho mình phương tiện giao không thuận tiện nhất – ở Việt Nam là giao
thông đường thủy.
Như vậy, phần này sẽ nghiên cứu 3 vấn đề sau:
1. Tận dụng môi trường tự nhiên: Ăn.
2. Ứng phó với mơi trường tự nhiên: Mặc.
3. Ứng phó với môi trường tự nhiên: Ở và đi lại.
2.3.2. Văn hóa ứng xử của gia đình với mơi trường xã hội
hực tế khẳng định, con người chỉ có thể được trang bị những phẩm chất tốt
đẹp nếu có một mơi trường xã hội tốt. Mơi trường đó trước hết là từ mỗi gia
đình, mỗi tế bào của xã hội.
Ðảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm xây dựng gia
đình trong thời đại mới, khẳng định vai trị của gia đình đối với sự phát triển đất
nước. Theo đó, cấp ủy, chính quyền, đồn thể các địa phương cả nước đã ban hành
nhiều giải pháp, phát động các phong trào thi đua nhằm tăng cường xây dựng đời
sống văn hóa khu dân cư, tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình.
Gần đây, TP Hà Nội triển khai thí điểm Bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình tại năm
xã, phường của thành phố. Theo đó, tại xã Phú Cường (huyện Ba Vì), nơi mang
đặc trưng văn hóa nơng thơn, các hộ gia đình đăng ký thực hiện theo từng tiêu chí:
Ứng xử vợ chồng; ứng xử cha mẹ với con, ông bà với cháu; ứng xử con với cha
mẹ, cháu với ông bà; ứng xử của anh, chị, em…
Thực hiện các tiêu chí nêu trên, ông bà và các con cháu càng cảm thấy trách
nhiệm hơn trong ứng xử giữa các thành viên trong gia đình. Ơng bà mẫu mực, con
cháu lễ phép, trên kính dưới nhường, cùng biết chia sẻ, thấu hiểu. Qua hơn nửa
năm triển khai thí điểm, mới đây, thành phố Hà Nội đã tiến hành nhân rộng việc
thực hiện Bộ tiêu chí ứng xử nêu trên đến nhiều địa bàn dân cư. Gắn liền với đó,
ngành văn hóa tăng cường tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục đạo đức,
lối sống trong gia đình; phịng, chống bạo lực gia đình.
Truyền thống văn hóa, đạo đức gia đình Việt Nam đang chịu nhiều tác động
của cuộc sống hiện đại. Gia đình có vị trí, vai trị rất quan trọng trong đời sống xã
hội. Hiện nay, đạo đức, lối sống ở một số địa bàn, bộ phận dân cư có mặt xuống

cấp; mơi trường văn hóa có những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với
thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có chiều hướng gia
tăng…


21

Thiết nghĩ, cấp ủy, chính quyền mỗi địa phương, trước hết từ cơ sở, địa bàn dân cư
cần có sự quan tâm, giải pháp nhằm định hình những chuẩn mực ứng xử văn minh,
tạo nền nếp để gia đình ln bền vững, êm ấm. Cần có sự quyết tâm, nỗ lực hơn
nhằm tạo sự bền vững, hạnh phúc gia đình; góp phần tơn vinh, lan tỏa các chuẩn
mực đạo đức, văn hóa gia đình.
Cần thấy rằng, gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội về sản phẩm của gia đình
mình, có trách nhiệm ni dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp cho xã hội những
cơng dân hữu ích.
Ðể góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, cần sự chung tay góp sức của cộng đồng xã hội, trước hết là trách nhiệm của
mỗi gia đình; vai trị định hướng, dẫn dắt của cấp ủy, chính quyền địa phương
trong việc tạo mơi trường, điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ,
trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ cơng dân của mỗi người với bản thân, gia đình, cộng
đồng, xã hội và đất nước.
2.3.3. Văn hóa tâm linh trong gia đình truyền thống
Nếu như khái niệm văn hóa đã nhận được tới gần 400 cách giải thích
khác nhau thì khái niệm Văn hóa tâm linh cũng đã nhận được rất nhiều cách định
danh không nhất quán do nội hàm vấn đề và tính phức tạp của nó. Thậm chí, do
tính lịch sử, tính thời đại chi phối, những vấn đề về tâm linh còn chịu nhiều thăng
trầm hơn. Và, phải đến những năm cuối của thế kỷ XX, thuật ngữ tâm linh và văn
hóa tâm linh mới được cơng khai thừa nhận ở Việt Nam như một sự tồn tại tất yếu.
Nó trở thành một yếu tố cấu thành và làm hoàn thiện con người. Một con người
với sự phát triển đầy đủ được nhìn nhận trên các phương diện: con người sinh học,

con người xã hội, con người tâm lý và con người tâm linh. Một trong bốn phương
diện ấy không ổn định, tất yếu sẽ dẫn đến sự bất ổn của con người. Mỗi sự bất ổn
của con người đều hàm chứa khả năng ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của
xã hội. Do vậy, một xã hội nhân văn là xã hội luôn tạo cơ hội và điều kiện để con
người có thể được phát triển đầy đủ nhất trên cả bốn phương diện này.
Xét duy danh khái niệm thì Tâm linh được cấu thành bởi hai từ : Tâm và
Linh mang nghĩa để chỉ những điều thiêng liêng, linh thiêng trong tâm thức của
mỗi con người. Nó hàm chứa cả những điều mang tính hiện thực, được chứng
minh trong hiện thực nhưng ảnh xạ của nó trong tâm thức mỗi người lại khơng cịn
hồn tồn ngun nghĩa như nó vốn có. Tuy nhiên, phần lớn nội hàm khái niệm
của nó lại hàm chứa những điều mà con người còn chưa biết hết, chưa giải thích,
cắt nghĩa đầy đủ được về nó. Vì thế, ở một góc độ nhất định, tâm linh là lĩnh vực
khác với khoa học. Khoa học mang xu hướng giải thiêng, ln tìm cách giải thích
bản chất những hiện tượng thiêng để trả hiện tượng đó về với bản chất hiện thực
của nó. Tâm linh lại thể hiện một hướng đi ngược lại, theo đó, các hiện tượng chưa
biết và đã biết đều có xu hướng được thiêng hóa, linh hóa*. Mâu thuẫn giữa khả
năng hữu hạn của con người với mong muốn vơ hạn là giải thích được mọi hiện
tượng xung quanh chính là cơ sở quan trọng để các hiện tượng tâm linh và nhu cầu
cân bằng tâm linh hình thành trong xã hội truyền thống và sẽ tồn tại trong xã hội
hiện đại.


22

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của mình, khoa học đã và đang mở
rộng phạm vi nghiên cứu sang các vấn đề tâm linh, giải thích các hiện tượng tâm
linh. Khái niệm Khoa học Tâm linh đã bắt đầu tạo được những ảnh hưởng nhất
định. Khoa học muốn giải thích cơ sở của các hiện tượng tâm linh và cũng đã có
những giải thích được xã hội chấp nhận. Song, sự giải thích, cho dù mang cơ sở
khoa học rất cao cũng không thể phủ nhận được những hiện tượng tâm linh và

cũng khơng hồn tồn hướng đến mục đích đó. Khoa học chỉ hỗ trợ và tường minh
thêm các hiện tượng mà trước đó con người hồn tồn khơng hiểu về nó và rất dễ
có xu hướng hành động cực đoan khi tiếp nhận nó. Khoa học, trong mọi nỗ lực của
mình chắc chắn khơng thể giải thích hết, khám phá hết và minh bạch hóa tồn bộ
các hiện tượng trong niềm tin tâm linh của con người.
Trong khi đó, thực tế cuộc sống khơng thể phủ nhận được một sự lan tỏa của
các hiện tượng vốn được xem là hiện tượng tâm linh sang những vấn đề của khoa
học. Những lời tiên tri đã được chứng minh bằng thực tế mà khoa học chỉ có thể
thừa nhận là cần phải nghiên cứu thêm; những khoảnh khắc xuất thần trong nghiên
cứu hay phát minh sáng tạo mà chính những nhà phát minh ấy cũng không thể lý
giải nổi. Nhiều nhà khoa học, nhiều nghệ sĩ sáng tạo cũng xem sự xuất thần đến
với mình như một biểu hiện của sự trợ giúp, của sự may mắn được tạo ra từ những
lực lượng mà mình khơng giải thích nổi.
Ở một góc độ khác, tâm linh được nhìn nhận như một tổng thể các hiện
tượng có khả năng gắn kết q khứ, hiện tại và tương lai. Những gì có thể gắn kết
ba phạm trù này đều được xem là hiện tượng tâm linh. Những hiện tượng về thế
giới người đã mất, về tổ tiên, về truyền thống, về thần linh,về cội nguồn thủy tổ
của dân tộc, của dòng họ (thuộc quá khứ) ; những hiện tượng tiên tri, dự báo, chỉ
dẫn, cầu mong, vận hạn (thuộc tương lai) ; những khả năng đặc biệt của con người,
những tác động bí ẩn của thiên tai và thảm họa (trong thế giới thực tại)... đều được
xem là hiện tượng tâm linh. Văn hóa tâm linh là sự biểu hiện bằng hành vi ứng xử
trước những vấn đề đa dạng, phức tạp và có nội hàm rất rộng như vậy.
Hiểu về tâm linh theo nghĩa đó, rất dễ có thể thấy, tâm linh tuy ảnh hưởng
tới mọi lĩnh vực của đời sống nhưng rõ nhất và gần gũi nhất chính là tới tơn giáo
tín ngưỡng.
Cho dù có rất nhiều quan niệm khác nhau về tơn giáo - tín ngưỡng nhưng xét
về bản chất, tơn giáo tín ngưỡng là một hình thức thể hiện niềm tin vào cõi thiêng
liêng của con người, của một cộng đồng người nào đó ở trình độ phát triển xã hội
cụ thể. Nó được hình thành trên cơ sở đại đa số người trong hoàn cảnh phức tạp,
nan giải: hoặc lo sợ, hoặc hoài nghi, hoặc hưng phấn, thông qua cảm thụ sức mạnh

của thần thánh mà dần dần ý thức được thần thánh phản ứng hay phản tác dụng...
họ tin tưởng chắc chắn loại sức mạnh này có thể đổi mới cuộc sống của chính
mình. Vì vậy, nó gần nghĩa nhất với các hiện tượng tâm linh. Vẫn trên quan điểm
duy danh định nghĩa thì tâm linh (niềm tin vào những điều linh thiêng) và tín
ngưỡng (tín = tin, ngưỡng = ngưỡng mộ, tin tưởng, sùng kính) vốn rất gần nhau.
Yếu tố niềm tin này khi được quy phạm hóa, hệ thống hóa sẽ hình thành các tơn
giáo. Do vậy, văn hóa tâm linh có sơ sở hình thành giống như cơ sở hình thành tơn
giáo tín ngưỡng. Nó được thừa nhận và chứng minh là một hình thái ý thức xã hội,


23

có cơ sở xã hội và lịch sử để hình thành, nó mang bản chất xã hội, giá trị thực tế và
mang khả năng cân bằng nhu cầu tinh thần của con người.
Với bản chất đó, văn hóa tâm linh trong truyền thống đã thực sự mang
những vai trị khơng thể phủ nhận bởi những giá trị tích cực của nó. Chưa nói đến
những tơn giáo lớn có ảnh hưởng bao trùm trên tồn thế giới, chỉ những hiện tượng
tín ngưỡng có ảnh hưởng trong phạm vi một khu vực cũng đã được chứng minh về
ý nghĩa tốt đẹp của nó đối với sự phát triển của xã hội và nhân cách mỗi cá nhân.
Một trong những hình thức tín ngưỡng của người Việt có ảnh hưởng mạnh trong
đời sống tâm linh chính là việc thờ cúng tổ tiên.
Thờ cúng tổ tiên là nghi thức tâm linh thể hiện quan niệm của con người
về thế giới, theo đó, có một thế giới khác sau khi con người chấm dứt tồn tại thể
xác. Thế giới đó có mối quan hệ gắn kết với thế giới hiện thực trong quan hệ hai
chiều: con người ở thế giới hiện thực thể hiện tình cảm với người đã khuất và
những người đã khuất có ảnh hưởng nhất định đến thế giới hiện tại. Một trong
những ảnh hưởng có thể kiểm chứng ngay của những người đã khuất đến thế giới
hiện tại là góp phần điều chỉnh, giáo dục con người thông qua hành vi thờ tự. Thờ
cúng tổ tiên là nghi thức mang hiệu quả đặc biệt trong việc giáo dục chữ Hiếu, chữ
Nhân, chữ Lễ, chữ Tâm là những phẩm chất cần thiết nhất để con người có thể

được xem là hồn thiện trong nhân cách.
Gia đình truyền thống của người Việt được hình thành trên cơ sở phương
thức sản xuất nơng nghiệp. Trên nền cảnh của sự hạn chế về khoa học kỹ thuật,
phương thức sản xuất này phụ thuộc rất nhiều vào yếu yếu tố thời tiết, khí hậu, mơi
trường.... những yếu tố mà con người không thể chủ động điều chỉnh theo ý muốn.
Sự ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên đến sản xuất nông nghiệp lớn đến mức
người ta tin tưởng rằng, dường như, việc đạt được năng suất cao trong một vụ sản
xuất là một điều may mắn, nằm ngoài sự cố gắng của con người. Những may mắn
ấy đến được nhờ hàng loạt những yếu tố hỗ trợ, trong đó có việc con người đã ứng
xử với thần linh, tổ tiên như thế nào để có thể được nhận sự giúp đỡ. Với lối tư duy
hết sức thực dụng của mình, người nơng dân thờ cúng tổ tiên có cơ sở sâu xa từ
những địi hỏi của nền tảng kinh tế, với hy vọng thần linh, tổ tiên sẽ giúp con
người gặp nhiều may mắn hơn.
Gia đình người Việt được vận hành theo chế độ phụ quyền, việc thờ cúng tổ
tiên còn mang đậm yếu tố gắn kết cộng đồng huyết thống, đề cao vai trò và ảnh
hưởng của người cha. Đây là cơ sở tâm linh và xã hội quan trọng của việc phụng
thờ Vua Tổ của người Việt. Theo chiều cạnh ngược lại, việc phụng thờ Vua Tổ vừa
mang ý nghĩa gắn kết cộng đồng dân tộc, vừa củng cố vững chắc hơn tính kỷ
cương trong gia đình phụ quyền. Mục đích chung của thờ cúng tổ tiên trong gia
đình và Vua Tổ của một Đại gia đình đều là để thể hiện sự biết ơn công lao tổ tiên,
cầu mong cho linh hồn tổ tiên được siêu thoát và mong được tổ tiên phù hộ cho
con cháu gặp nhiều điều tốt lành, may mắn trong cuộc sống.
Khi tạo được đường dây liên hệ linh thiêng này, việc thờ cúng tổ tiên đã trở
thành một hình thức giáo dục mà thơng qua đó, con người tự giác thực hiện theo
những nội dung giáo dục mà gia đình muốn đạt tới.


24

Như vậy, xét trong một minh họa cụ thể là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thì

cũng đã có thể thấy, các hiện tượng thuộc lĩnh vực văn hóa tâm linh đã có những
cơ sở lịch sử, văn hóa, tâm lý, xã hội để hình thành. Những ảnh hưởng tích cực của
nó đến cuộc sống của con người là khơng thể phủ nhận, nó được khẳng định như
một trong những giá trị vĩnh hằng để nhận diện và đánh giá mức độ hoàn thiện của
con người. Trong bối cảnh một nền tảng xã hội nông nghiệp, khi thông tin và trình
độ nhận thức của con người cịn hạn chế, các hiện tượng tâm linh chi phối mạnh
đời sống của con người là một tất yếu.
Khoa học đã có nhiều giải thích về cuộc sống của con người sau khi chết.
Nhận thức của con người về cái chết và thế giới ngồi con người cũng đã có nhiều
cơ sở để được xem xét một cách toàn diện hơn. Tuy nhiên, sự giải thích của khoa
học khơng hướng tới việc phủ nhận niềm tin của con người vào sự linh ứng trong
sự trợ giúp của tổ tiên. Nhận thức của con người dù có được nâng cao, cái chết và
thế giới bên kia dù đã được tường minh hơn thì việc thờ cúng tổ tiên vẫn mang giá
trị đặc biệt.
Giải thích thực tiễn này, tác giả P. Poupard đã viết: « Một số người đã từng
cho rằng, thời hiện đại tiến triển kèm theo sự lụi tàn của tình cảm tơn giáo. Không
phải như vậy, thời hiện tại giải mê vỡ mộng, do khoảng cách gia tăng giữa vô hạn
ham muốn của con người với hữu hạn tồn tại của chính nó, giữa vô tận khát thèm
hạnh phúc với gánh nặng tai hoạ tất yếu, giữa ý chí tham sống với tin chắc sẽ chết,
đang tự tìm kiếm những lý do, lý lẽ mới để hy vọng »[i]
Do vậy, sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng vẫn mang ý nghĩa cân bằng nhu cầu
tâm linh, một nhu cầu không hề giảm của con người trong xã hội hiện đại. Đối
diện với quá nhiều gánh nặng và sự may rủi, con người hiện đại tìm thấy ở tơn
giáo, tín ngưỡng một điểm tựa an tồn. Ở đó, con người cảm thấy n tâm vì được
che chở. Cũng khơng thể phủ nhận rằng, chính niềm tin tơn giáo, tín ngưỡng sẽ
góp phần điều tiết những bất ổn trong xã hội, bởi khi có đức tin, loại trừ sự cực
đoan, hành vi của con người sẽ trở nên có mức độ hơn. Họ sợ một sự trừng phạt sẽ
đến.
Tuy nhiên, chính những tác động mạnh mẽ của các sinh hoạt tơn giáo tín
ngưỡng nói riêng, các hiện tượng tâm linh nói chung đến đời sống mà chúng ta

đang phải chứng kiến những biểu hiện thái quá trong sinh hoạt văn hóa tâm linh
của con người đương đại. Nếu như trong truyền thống, do quan niệm con người khi
chết sẽ biến thành ma, phải có người thờ cúng, mới trở thành ma lành, phù hộ cho
con cháu; nếu khơng thì sẽ biến thành dữ, đi lang thang đây đó nên việc thờ cúng
tổ tiên mang ý nghĩa quy tụ các con về ngành trưởng để cùng nhau thờ cúng bố mẹ.
Sự quy tụ này mang ý nghĩa giáo dục khi nó gắn kết con cái với nhau giống như
khi bố mẹ còn sống. Ý nghĩa thiêng liêng này đang bị hiểu lệch, dẫn tới việc ở
nhiều nơi, con cái xem việc tự cúng giỗ cha mẹ mới là phù hợp vì con nào càng
chu tất về lễ thì cha mẹ càng vui lịng và phù hộ nhiều hơn, lại tránh được mâu
thuẫn anh em trong quan điểm cúng giỗ. Khi khơng cịn chuẩn chung, mỗi nhà xem
việc cũng giỗ ông bà cha mẹ như một dịp sinh hoạt tâm linh của riêng mình, nhiều
thái quá trong biểu hiện đến mức trở thành bất thường, gây bức xúc trong gia đình,
gia tộc và cả trên phương diện xã hội đã xuất hiện.


25

Cũng vậy với những hiện tượng kỳ lạ trong khả năng của con người và sự
tác động của tự nhiên. Những năng lực tiềm ẩn trong con người cũng như sức ảnh
hưởng khủng khiếp của các hiện tượng tự nhiên mà khoa học chưa khám phá được
hết sẽ tồn tại như một tất yếu. Điều này, một mặt điều chỉnh hành vi con người
nhưng mặt khác cũng lại tạo ra vấn đề còn nhiều tồn nghi. Gây nhiều tranh cãi nhất
hiện nay trong lĩnh vực này vẫn là vấn đề áp vong tìm mộ. Thực tế cho thấy, hiệu
quả của hoạt động này là có thật, nó chứng tỏ những tiềm năng đặc biệt trong
những con người đặc biệt. Cho dù khoa học đã và đang kiếm tìm những minh giải
thỏa đáng nhất nhưng cũng vẫn phải có những nhượng bộ nhất định. Nó nhanh
chóng được lan tỏa trong xã hội vì chạm được tới một nhu cầu rất đỗi mãnh liệt
của những người còn sống muốn tri ân người đã mất. Tuy nhiên, sự nở rộ đến mức
ở một số nơi, việc này đã trở thành một hoạt động dịch vụ, kinh doanh để kiếm tìm
lợi nhuận, thậm chí gây ra những hệ lụy cho người bị áp vong về thể chất và tinh

thần đang khiến dư luận đặt ra nhiều dấu hỏi. Những biến tướng và sự lạm dụng
nhu cầu cân bằng tâm linh của con người đang là điểm đen trong sinh hoạt văn hóa
tâm linh nói riêng, sinh hoạt xã hội nói chung.
Kinh tế thị trường, với một thực tế không thể phủ nhận được là luôn hàm
chứa những khả năng thay đổi cuộc sống con người một cách nhanh chóng. Có
những người có thể giầu lên rất nhanh nhưng cũng có người trong thời gian ngắn
trở thành bần hàn. Kinh tế học gọi đó là hiện tượng đi thuận hay đi ngược so với
quy luật kinh tế, nắm bắt kịp hay không kịp với nhu cầu của thị trường...Cho dù
vậy thì đại đa số người dân vẫn tin rằng: có một sức mạnh huyền bí khác có thể can
thiệp vào quy trình này, điều tiết đồng tiền trong kinh doanh của họ. Cở sở niềm
tin này trong xã hội hiện đại càng cộng hưởng với những cơ sở tâm lý khác để đẩy
cao nhu cầu thỏa mãn đời sống tâm linh. Các sinh hoạt tâm linh ngày càng có xu
hướng phát triển. Mặt tích cực là không thể phủ nhận nhưng những tác động tiêu
cực của nó đang ngày càng khiến khơng ít người hồi nghi về giá trị của hình thức
sinh hoạt văn hóa nhạy cảm này. Vấn đề vẫn nằm ở nhận thức của con người.Văn
hóa cá nhân là khái niệm dường như chưa được xã hội chú ý nhiều lắm do những
vấn đề của lịch sử nhưng rõ ràng là đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc điều
tiết hành vi ứng xử của mỗi người, đặc biệt là trong bối cảnh thơng tin tồn cầu
rộng mở như hiện nay.
Văn hóa tâm linh là một hình thái ý thức xã hội, nó hình thành trên cơ sở
những điều kiện kinh tế, tâm lý, lịch sử, văn hóa nhất định, nó trực tiếp chi phối
hành vi ứng xử của mỗi cá nhân, thơng qua quan niệm tiếp nhận của mỗi cá nhân,
nó mang dấu ấn cá nhân khá rõ nét nhưng lại là hiện tượng có khả năng lan tỏa
trong cộng đồng rất nhanh chóng. Để sinh hoạt tâm linh thực sự giúp con người
phát triển toàn diện, rất cần những định hướng, sao cho bản thân mỗi người có thể
chủ động hành vi và có thể kịp thời dừng lại trước những giới hạn nhất định. Điều
này tuy rất khó đối với các nhà khoa học cũng như các nhà quản lý nhưng là yêu
cầu bắt buộc phải làm để các sinh hoạt tâm linh thực sự chỉ mang đến những tác
động tích cực, giúp con người cảm thấy an tồn và cân bằng hơn./.



×