Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Vai trò của biên tập viên với công tác cộng tác viên tác giả trong quá trình tổ chức bản thảo sách khoa học kĩ thuật ở nhà xuất bản giao thông vận tải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.62 KB, 39 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay đã và đang tác động tới mọi
mặt của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa... Giao thơng vận tải luôn
hiện hữu trên hầu khắp các hoạt động của đời sống con người. Đó khơng chỉ đơn
thuần là một lĩnh vực sản xuất vật chất đặc thù mà trước hết là một ngành kinh
tế kĩ thuật vô cùng rộng lớn và đa dạng. Giao thông vận tải vừa là xuất phát
điểm, vừa là sân chơi của hết thảy các công nghệ mới mà con người có thể
chiếm lĩnh, có thể làm ra. Đồng thời cịn là một mảng lớn ln thường trực và
sôi động của đời sống thực tiễn, nơi giao thoa của nhiều mối quan tâm, lợi ích…
Từ trên những bình diện đó cho ta nhận ra năng lực của cấp vĩ mơ trong tổ chức
và quản lí sự vận hành đối với các tiến trình kinh tế xã hội, cho ta cảm nhận
được những gì là văn hóa trong ứng xử và phong cách sống của một dân tộc, của
một cộng đồng…
Do đó có thể nói rằng nghành giao thơng vận tải có vị trí và vai trị quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, là huyết mạch của
nền kinh tế quốc dân. Ngày nay, Việt Nam có một hệ thống giao thông với đầy
đủ các phương thức vận tải. Sau nhiều năm đổi mới, giao thơng vận tải nước ta
có những bước phát triển đáng kể về mọi mặt, song cơ sở hạ tầng giao thông
cũng như các dịch vụ vận tải và trật tự an tồn giao thơng hiện nay vẫn trong
tình trạng yếu kém so với khu vực và thế giới.
Để khắc phục tình trạng trên, giao thơng vận tải phải phát triển đồng bộ cả
về cơ sở hạ tầng giao thông, vận tải và công nghiệp giao thông vận tải theo
hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và khu
vực. Điều đó địi hỏi Đảng, Nhà nước và Bộ giao thơng vận tải phải có hàng loạt
các giải pháp đồng bộ, trong đó giải pháp ứng dụng khoa học cơng nghệ mới là
một đòi hỏi cấp bách. Sách khoa học kĩ thuật, đặc biệt là sách khoa học kĩ thuật

1



chuyên ngành giao thông vận tải là một trong những phương tiện truyền thông
đắc lực nhất để phổ biến những tri thức đó.
Trong những năm qua, hoạt động xuất bản loại sách này của nhà xuất bản
Giao thông vận tải đã có những bước phát triển đáng kể, số lượng và chất lượng
sách liên tục tăng, nội dung và hình thức phong phú. Điều đó góp phần tuyên
truyền, phổ biến đường lối, chính sách phát triển của Đảng và ngành giao thông
vận tải, đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào hoạt động sản xuất giao thông vận
tải, đào tạo nguồn nhân lực cho ngành và xã hội, nâng cao dân trí, đảm bảo an
tồn giao thơng, đồng thời xây dựng nếp ứng xử văn hóa trong xã hội.
Như vậy, giao thơng vận tải có vai trị vơ cùng quan trọng trong đời sống
xã hội. Xuất bản sách khoa học kĩ thuật giao thơng vận tải có ý nghĩa to lớn
trong quá trình phát triển đất nước. Cho nên, xuất bản sách này là vấn đề có tính
thiết thực. Trong đó, biên tập viên có vai trị khơng nhỏ trong q trình giúp
đỡ tác giả hồn thiện bản thảo. Chính vì vậy mà em chọn đề tài: “Vai trị của
biên tập viên với công tác cộng tác viên tác giả trong quá trình tổ chức bản
thảo sách khoa học kĩ thuật ở nhà xuất bản Giao thông vận tải” làm tiểu
luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Tiểu luận tìm hiểu thực trạng vai trị của biên tập viên. Từ đó, đề xuất
những giải pháp để nâng cao vai trò của biên tập viên với cộng tác viên trong
quá trình tổ chức bản thảo sách khoa học kĩ thuật ở nhà xuất bản giao thơng vận
tải. Qua đó, độc giả hiểu sâu sắc hơn về hoạt động biên tập xuất bản sách của
các nhà xuất bản nói chung và nhà xuất bản sách giao thơng vận tải nói riêng.
Đồng thời, chúng ta có thêm kiến thức về khoa học kĩ thuật, trau dồi tri thức góp
phần xây dựng đất nước văn minh, giàu mạnh.
3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu sách khoa học kĩ thuật ở nhà xuất bản Giao thơng vận tải. Từ
đó đưa ra ý kiến của bản thân để góp phần đưa biên tập viên có mối quan hệ chặt
2



chẽ hơn với cộng tác viên. Đồng thời giúp biên tập viên nâng cao trình độ của
mình. Qua đó, nâng cao công tác biên tập xuất bản sách khoa học kĩ thuật của
nhà xuất bản Giao thông vận tải.
4. Phương pháp nghiên cứu
Em nghiên cứu bằng phương pháp lí luận biện chứng để đảm bảo tính
thực tiễn và tính khoa học của đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu, em đã sử dụng phương pháp đọc tài liệu, tổng
hợp, phân tích, so sánh, thống kê… để làm tiểu luận này.
5. Kết cấu đề tài
Chương I: Lý luận chung về công tác cộng tác viên tác giả trong quá trình
tổ chức bản thảo sách khoa học kĩ thuật ở nhà xuất bản Giao thơng vận tải.
Chương II: Thực trạng vai trị của biên tập viên trong quá trình tổ chức
bản thảo sách khoa học kĩ thuật ở nhà xuất bản Giao thông vận tải.
Chương III: Những giải pháp giúp biên tập viên thực hiện tốt vai trị cơng
tác cộng tác viên.

3


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC CỘNG TÁC VIÊN TÁC
GIẢ TRONG QUÁ TRÌNH TỔ CHỨC BẢN THẢO SÁCH KHOA HỌC
KĨ THUẬT Ở NHÀ XUẤT BẢN GIAO THÔNG VẬN TẢI
1. Một số khái niệm liên quan
1.1 Bản thảo sách
Theo “từ điển thuật ngữ xuất bản-in-phát hành sách”, bản thảo là “văn
bản được tác giả viết, soạn ra trong quá trình hình thành tác phẩm. Bản thảo
cũng là văn bản đang trong quá trình biên tập, sửa chữa và hồn thiện để cơng
bố”. Khái niệm này chủ yếu để chỉ bản thảo sách, hơn nữa chỉ là loại sách chứa

đựng chữ viết. Ở phạm vi rộng hơn, bản thảo cịn có thể là những bản vẽ nháp
các tác phẩm đồ họa, các tác phẩm nghệ thuật ở dạng ngơn ngữ khác nhau đang
trong q trình sáng tạo của tác giả, các băng đĩa gốc đang trong quá trình chế
tạo của các loại ấn phẩm nghe nhìn…
Bản thảo sách ở bất kì dạng nào đều chỉ các tác phẩm cịn đang trong q
trình sáng tạo, là kết quả của một q trình sáng tạo, song chưa hồn thiện cịn
có thể được bổ sung, sửa chữa. Bản thảo là sản phẩm lao động sáng tạo tinh thần
của các tác giả. Sản phẩm sáng tạo của tác giả đó nếu được lựa chọn để công bố,
truyền bá cho công chúng dưới hình thức xuất bản phẩm sẽ trở thành bản thảo
xuất bản. Vậy bản thảo xuất bản cũng là văn bản tác phẩm được đưa vào quá
trình xuất bản, đang trong quá trình sáng tạo của biên tập viên để trở thành bản
mẫu đưa in. Bản mẫu đưa in là bản thảo ở giai đoạn cuối của quy trình biên tập.
Nó đã qua các khâu gia công biên tập về nội dung, ngôn ngữ, kĩ thuật, mĩ thuật,
đã qua nhiều lần thẩm định và được phê duyệt của tổng biên tập.
Tóm lại, bản thảo trong công tác xuất bản là các dạng văn bản tác phẩm
được hình thành trong quá trình gia cơng, chỉnh lí của biên tập viên, sửa chữa,

4


hoàn chỉnh tác phẩm và các văn bản phụ trong các xuất bản phẩm trong các xuất
bản phẩm sẽ được xuất bản.
1.2 Sách khoa học kĩ thuật
“Sách – đó là lời di chúc tinh thần của thế hệ này cho thế hệ khác, là lời
khuyên của người già đang hấp hối cho thanh niên mới vào đời, là mệnh lệnh
của người lính đổi gác về nghỉ truyền cho người lính tới gác thay”
(A.I.Gecxen).
Sách khoa học kĩ thuật là một trong những loại hình sách thuộc đối tượng
của hoạt động xuất bản. Nội dung phản ánh nhận thức của loài người về giới tự
nhiên, xã hội và bản thân thông qua các khái niệm khoa học. Sách khoa học kĩ

thuật giao thơng vận tải đóng vai trị chủ đạo trong việc cung cấp những tri thức
về khoa học công nghệ, phương tiện, phương pháp nghiên cứu và ứng dụng
những thành tựu khoa học công nghệ vào lĩnh vực giao thông vận tải, tác động
tích cực vào việc vào việc quán triệt và thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước đã và đang ngày càng được thể hiện phong phú, góp phần
giải quyết tốt mối quan hệ sinh động giữa khoa học cơng nghệ, kinh tế và chính
trị trong lĩnh vực giao thông vận tải.
Sách khoa học kĩ thuật giao thông vận tải là một trong những phương tiện
cung cấp những căn cứ khoa học, những luận chứng kinh tế - kĩ thuật cho những
chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của các kế hoạch nhà nước cho ngành giao
thông vận tải.
Giao thông vận tải là một ngành kinh tế - kĩ thuật và dịch vụ vận tải quan
trọng của đất nước, là “mạch máu” của nền kinh tế quốc dân. Giao thông vận tải
là sự kết hợp hữu cơ của cơ sở hạ tầng giao thông, phương tiện giao thông và
dịch vụ vận tải, thuộc các chuyên ngành đường sắt, đường thủy nội địa, đường
biển và đường hàng khơng. Đây là một ngành địi hỏi phải có rất nhiều tri thức
khoa học, cơng nghệ cao mới có thể đảm bảo và duy trì được nhiệm vụ của
ngành như: sản xuất, bảo dưỡng và sửa chữa phương tiện giao thông, xây dựng
5


cơ sở hạ tầng giao thông, tổ chức thực hiện dịch vụ vận tải đảm bảo hiệu quả và
an toàn, đảm bảo trật tự an tồn giao thơng… Vì vậy, sách khoa học kĩ thuật
giao thơng vận tải phải có nội dung thuộc các chuyên ngành trên.
1.3 Cộng tác viên
Trong lĩnh vực xuất bản, cộng tác viên là những người khái niệm chỉ
những người có quan hệ cộng tác với nhà xuất bản để làm ra sách, tuyên truyền
và phát huy tác dụng của sách.
Có nhiều loại cộng tác viên trong quá trình tổ chức biên tập xuất bản.
Hoạt động biên tập xuất bản có bao nhiêu khâu thì có bấy nhiêu cộng tác viên.

Có cộng tác viên gợi ý, giới thiệu đề tài. Họ thường là cán bộ tư tưởng văn hóa
của cơ quan chủ quản nhà xuất bản, hoặc là cán bộ nghiên cứu, giảng dạy ở các
học viện, các trường đại học hoặc cán bộ lãnh đạo của các tổ chức chính trị xã
hội, các hội nghề nghiệp, họ cũng có thể chính là các tác giả đã nổi danh đã từng
hợp tác với nhà xuất bản.
Trong cơ chế thị trường, do tính chất xã hội hóa, mọi hoạt động xuất bản
được mở rộng, khái niệm cộng tác viên lại bao quát thêm những đối tượng khác:
cộng tác viên phát hành sách, cộng tác viên liên kết với nhà xuất bản để in sách,
các tác giả tự đầu tư liên kết làm sách với nhà xuất bản, các nhà sách tham gia
hoạt động liên kết với nhà xuất bản ở các khâu biên tập, in ấn và phát hành.
1.4 Cộng tác viên tác giả
Cộng tác viên tác giả là những người sáng tác, biên soạn, dịch giả… Họ là
đội ngũ tác giả tạo ra các sản phẩm văn hóa tinh thần, tạo ra nguồn bản thảo dồi
dào cho nhà xuất bản, là lực lượng chủ chốt biến kế hoạch của nhà xuất bản
thành hiện thực.
Đó thường là những chuyên gia học thuật am hiểu sâu sắc các chuyên
ngành tri thức mà lực lượng biên tập của nhà xuất bản còn thiếu và yếu. Họ cũng

6


có thể là những cây viết tài năng có thể truyền tải tri thức khoa học dễ dàng đến
mọi đối tượng mà nhà xuất bản cần phục vụ…
1.5 Vài nét về nhà xuất bản Giao thông vận tải
Nhà xuất bản Giao thơng vận tải thành lập ngày 7/7/1983, có cơ quan chủ
quản là Bộ Giao thơng vận tải. Đó là một trong số ít các nhà xuất bản chuyên
ngành thuộc khối các nhà xuất bản Trung ương, hoạt động theo mơ hình doanh
nghiệp cơng ích, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng.
Nhà xuất bản Giao thông vận tải là nhà xuất bản chuyên ngành giao thơng
vận tải, có chức năng biên soạn, xuất bản và phát hành các loại ấn phẩm, phục

vụ trong và ngoài ngành, góp phần định hình một nền tảng tri thức lâu bền cho
giao thông vận tải.
Nhà xuất bản Giao thông vận tải có nhiệm vụ và khả năng phát hành các
tài liệu và ấn phẩm sau:
 Hệ thống các văn bản pháp quy và công ước về giao thông vận tải.
 Hệ thống các tiêu chuẩn, các định mức phục vụ công cuộc đầu tư, sản xuất,
sử dụng và bảo trì các khối lượng cơ sở vật chất kĩ thuật là kết cấu hạ tầng, các
loại hình phương tiện và trang thiết bị chuyên dung trong giao thông vận tải.
 Hệ thống các quy trình, quy phạm điều khiển và vận hành các quá trình vận
tải đường bộ, đường sắt, đường sông, hàng không, hàng hải.
 Tủ sách giáo khoa đa ngành, phục vụ sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực
giao thông vận tải với các cấp học từ thấp đến cao.
 Tập hợp các cơng trình khoa học, các loại sách chuyên đề bao gồm cả các
đầu sách của nước ngoài được chuyển ngữ sang tiếng Việt.

7


2. Vai trị của biên tập viên trong cơng tác tổ chức bản thảo sách khoa học
kĩ thuật của nhà xuất bản Giao thơng vận tải
2.1 Vai trị của chung của biên tập viên
Biên tập bản thảo là hoạt động phức hợp nhất, và cũng có lẽ là hoạt động
địi hỏi trách nhiệm cao nhất của quá trình xuất bản! Một trong những nghịch lý
của công việc biên tập là vấn đề trách nhiệm. Về mặt luật pháp, biên tập viên
không chịu trách nhiệm về nội dung của sản phẩm in. Trách nhiệm ở đây, trước
hết thuộc về tác giả, và ở một mức độ nhỏ hơn, nhiều khi chỉ mang tính gián
tiếp, thuộc về nhà xuất bản. Tuy nhiên, chính sự khác biệt giữa một biên tập viên
trung bình và một biên tập viên giỏi là ở chỗ biên tập viên giỏi nhất định cần
phải có sự can thiệp về nội dung bản thảo và như thế, vẫn có trách nhiệm ở một
dạng nào đó khi tác phẩm được in.

Cố nhiên, biên tập viên không bao giờ được thực hiện những thay đổi,
những bổ sung về nội dung và những chỉnh sửa nếu không được sự biết đến của
tác giả. Nhưng, một biên tập viên, nếu muốn quan tâm đến những vấn đề nội
dung, địi hỏi phải có sự hiểu biết trong lĩnh vực mà tác giả đả động tới, cho dù
có thể khơng ở mức như tác giả. Có điều, một biên tập viên giỏi khơng chỉ suy
nghĩ được trong bản thảo, mà còn phải suy nghĩ được trong tác phẩm in, nghĩa là
sau khi đọc bản thảo, trái với đa số các tác giả, biên tập viên phải có được hình
dung về tác phẩm in hồn chỉnh.
Biên tập viên có vai trị mơi giới giữa tác giả và độc giả, bởi lẽ đồng thời
họ phải suy nghĩ được bằng cái đầu của tác giả và độc giả, nghĩa là, họ cần phải
hiểu tác giả thực chất muốn nói gì, mặt khác, cần giúp đỡ người đọc hiểu được
điều mà tác giả muốn nói. Trên tư cách người đầu tiên đọc bản thảo, biên tập
viên truyền tải cho tác giả những nguyện vọng của các độc giả trong tương lai,
vì thế, quan hệ mật thiết giữa tác giả và biên tập viên trong q trình xuất bản là
khơng thể thiếu được.
Với cộng tác viên, biên tập viên làm vai trò trung gian giữa người làm
sách và người viết sách. Vai trò ấy khiến việc sửa bài cho người bên ngồi đơi
8


khi khó khăn và phức tạp hơn. Đã có khơng ít các bậc học giả, các chuyên viên
mà tên tuổi đã trở thành "thương hiệu" khi thấy bài viết của mình bị sửa đơi chút
đã vội phê phán nhà xuất bản một cách nặng nề rằng: “đẻ đứa con ra khơng ai
muốn con mình bị cắt chân, cắt tay”. Thật ra người biên tập không độc ác như
vậy, anh ta chỉ cắt những mẩu thịt thừa và vài dị tật của cơ thể ấy mà thôi.
Thế nhưng điều này không phải lúc nào cũng được các tác giả đồng tình.
Chẳng hạn khơng ít cộng tác viên là chun viên lỗi lạc, nội dung các bài viết
của họ nhiều khi được chuyển tải bằng những ngơn ngữ có tính bác học, phù
hợp với phong cách nghiên cứu. Nhưng khổ nỗi, cuốn sách có yêu cầu là làm
sao để hầu hết độc giả của mình nắm bắt được những kiến thức uyên thâm ấy

bằng một thứ ngôn ngữ đời thường dễ hiểu. Cho nên tìm được một chuyên viên,
một học giả, một nhà văn viết sách giỏi là điều rất quý đối với một cuốn sách.
Nếu khơng được như vậy, thì cơng việc của người biên tập sẽ rất nặng nề để
tranh thủ được sự vừa lịng cả hai phía người viết và người đọc.
Thực tế cho thấy để cuốn sách hoàn chỉnh hơn thì cơng việc biên tập nên
khởi đầu từ chính tác giả. Người viết, nếu được trau dồi kĩ năng sẽ biết những
nguyên tắc căn bản về sửa bài để tránh bớt những sơ sót, cũng như để hồn thiện
cách sử dụng từ ngữ và lối hành văn. Bài viết của những nhà văn thận trọng sau
khi qua tay người biên tập giỏi có khả năng sẽ tăng thêm hiệu ứng, cuốn sách tạo
thêm được uy tín với độc giả.
Cần chú trọng năng lực tổ chức bản thảo – tác giả, chủ động đầu tư cho
những bản thảo có chất lượng cao gắn với nhu cầu của xã hội và thị trường, tạo
phương thức quảng bá sách nhằm khẳng định, tôn vinh những giá trị tinh thần
cao quý trong sách phục vụ bạn đọc. Mối quan hệ giữa tác giả và người biên tập
là mối quan hệ tin cậy, nặng tình đồng chí, tình bạn bè với mục đích chung làm
cho bản thảo hay hơn, tốt hơn. Mỗi người viết có một văn phong, một cách viết,
lối tư duy diễn giải khác nhau, tạo nên sự hấp dẫn của sách. Do vậy, biên tập
viên chỉ sửa những chỗ viết khơng chính xác, cách dung văn lủng củng hoặc
mắc lỗi về từ ngữ, chính tả, đặt dấu chấm… Khơng nên gò các bài viết theo văn
9


phong của người biên tập viên. Nếu như vậy sẽ làm cho các bản thảo đơn điệu,
giống nhau vì cùng một cách viết.
Người cán bộ biên tập khi xem xét hoạt động của họ trong quá trình tổ
chức sản xuất ra các xuất bản phẩm, thì họ là người trực tiếp tham gia vào quá
trình tạo ra sản phẩm. Điều này đòi hỏi biên tập viên phải nắm chắc quy trình
cơng nghệ xuất bản, am hiểu tất cả các khâu trong q trình sản xuất, khả năng
xử lí mọi ách tắc trong quá trình sản xuất ra xuất bản phầm. Đây là yêu cầu rất
cao nhưng cũng rất cần thiết đối với cán bộ biên tập hiện nay, đòi hỏi họ phải có

năng lực tổng hợp.
2.2 Vai trị của biên tập viên nhà xuất bản Giao thông vận tải
Biên tập viên chính là linh hồn của nhà xuất bản. Vì vậy, họ có vai trị vơ
cùng quan trọng đối với nhà xuất bản nói chung và cộng tác viên nói riêng. Biên
tập viên phải là người nhanh nhạy và khôn khéo xử lí cơng việc trong tất cả các
vấn đề xảy ra với nhà xuất bản. Có vậy thì nhà xuất bản mới phát triển một cách
bền vững.
Sách khoa học kĩ thuật là công thức mở đường để xây dựng ngành giao
thông vận tải. Xuất bản sách này là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây là đề tài
khó, địi hỏi tác giả phải là người có năng lực thật sự thì mới có thể cung cấp cho
người đọc những thơng tin chính xác về khoa học cơng nghệ. Chính vì thế,
khơng những cộng tác viên phải là những nhân tài mà biên tập viên cũng phải là
những người thật sự giỏi. Điều này là một yếu tố quan trọng để thu hút, lôi cuốn,
đem bạn đọc đến gần với sách khoa học kĩ thuật hơn. Đồng thời, đưa ngành
khoa học kĩ thuật, đặc biệt là ngành giao thông vận tải đến một bước phát triển
tiến bộ hơn.
Biên tập viên nhà xuất bản Giao thông vận tải phải chủ động trong việc tổ
chức bản thảo như chủ động tìm chọn đề tài hay, đảm bảo sự cân đối đề tài, đảm
bảo tính linh hoạt của đề tài trong q trình cộng tác viên viết bản thảo, chủ
động gặp gỡ trao đổi những thắc mắc trong bản thảo mà biên tập viên cần sửa để
10


cộng tác viên rút kinh nghiệm đồng thời phải coi nâng cao trình độ mọi mặt một
cách thường xuyên là một nhu cầu sống trong q trình làm cơng tác biên tập để
không bị tụt hậu so với sự phát triển của xã hội.
Biên tập viên phải có lập trường tư tưởng vững vàng, nhận thức rõ vai trò
của sách khoa học kĩ thuật trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Biên tập viên phải thường xuyên nâng cao trình độ lí luận, nắm vững các

chủ trương, đường lối, các nhiệm vụ cấp bách trong sự nghiệp phát triển khoa
học và công nghệ, các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội nói chung. Trong thực
tế, có người cho rằng chỉ có biên tập viên sách khoa học xã hội và nhân văn mới
cần chú ý đến tiêu chuẩn trên. Thực tiễn hoạt động xuất bản trong thời gian vừa
qua đã cho thấy phần lớn các sách “có vấn đề” lại rơi vào sách khoa học kĩ
thuật: in không đầy đủ bản đồ quốc gia, dùng những tên địa lý có thể gây hiểu
nhầm về chủ quyền lãnh thổ, có những cách diễn đạt đụng chạm đến vấn đề
quốc tế do lịch sử để lại… Vì vậy, việc thường xun nâng cao trình độ lí luận,
giữ vững lập trường cách mạng, cảnh giác trước mọi biểu hiện sai trái… luôn là
nhiệm vụ của biên tập viên sách khoa học kĩ thuật.
Biên tập viên sách khoa học kĩ thuật cần có đủ trình độ chun mơn để
biên tập được một số loại sách khoa học kĩ thuật có quan hệ gần gũi với nhau
như: tốn - lý, hóa - sinh, địa lí - địa chất, cơ học - cơ khí, điện - điện tử…
Khơng có trình độ chun mơn đủ sâu rộng, biên tập viên không thể làm việc
được với tác giả, không thể biên tập được bản thảo. Hiện nay có hai cách đào tạo
biên tập viên sách khoa học kĩ thuật: lấy người có trình độ chun mơn cử nhân
trở lên về nhà xuất bản, sau đó học tiếp cử nhân biên tập xuất bản, hoặc lấy cử
nhân biên tập xuất bản về cơng tác, sau đó đào tạo về chun mơn. Dù theo cách
nào thì sau ba đến năm năm biên tập viên cũng cần trang bị cho mình cả hai lĩnh
vực chun mơn và nghiệp vụ trên.
Giao lưu với tác giả không chỉ là giao lưu trí tuệ mà cịn là giao lưu tình
cảm. Bởi lẽ, tác giả nhận đặt hàng bản thảo, nhận cộng tác với nhà xuất bản
11


khơng chỉ vì đề tài phù hợp mà cịn là vì thái độ làm việc, tác phong cơng tác và
năng lực thu hút của biên tập viên. Do đó biên tập viên và tác giả càng quen thân
với nhau, thông hiểu nhau, có nhiều tiếng nói chung thì cơng tác tổ chức cộng
tác viên càng thuận lợi. Biên tập viên muốn vận động, tổ chức được tác giả phải
chân thành tìm hiểu, làm quen với tác giả.

Khi nhận bản thảo đặt hàng, có thể tác giả vẫn chưa bước vào trạng thái
sáng tác, ý kiến tư vấn của biên tập viên có thể kích thích ham muốn sáng tác,
tạo nên những cảm hứng cần thiết cho sự sáng tạo. Khi đã bắt tay sáng tác, tác
giả thường say viết, đôi khi rơi vào tình trạng “người trong cuộc khơng tỉnh”,
lúc này, vai trò tham mưu hướng dẫn của biên tập viên càng không thể coi nhẹ.
Do đã từng trải và đứng tuổi nên họ có tâm lí say mê với nghề nghiệp,
nhiệt tình với cơng việc viết sách. Tuy nhiên, cũng phải chú ý đến một số đặc
điểm của họ như tính tự khẳng định, tự ái nghề nghiệp, tính biệt lập về trường
phái… Tác giả thường là những người không chuyên viết nên hay bị chi phối
bởi phong cách hội thoại, thường có xu hướng “tham”, đưa tất cả tư liệu đã tích
lũy về đề tài vào sách, thích dung thêm tư liệu, thuật ngữ nước ngoài.
Những đặc điểm trên quy định tác phong làm việc của biên tập viên với
tác giả. Biên tập viên phải tỏ ra khiêm tốn, thực sự cầu thị, khéo léo trong ứng
xử và kiên trì giữ vững nguyên tắc, đảm bảo chất lượng và thời hạn viết bản
thảo. Cần có các thao tác làm việc cụ thể như: định hướng nội dung, lập đề
cương tỉ mỉ về chương mục, độ dài, minh họa, thời hạn, phong cách viết, các
quy tắc chính tả. Với tác giả mới phải tổ chức viết thử một số trang để góp ý,
thống nhất về phong cách, quy cách bản thảo. Cần thống nhất với tác giả về thể
loại, phạm vi bạn đọc, đặc điểm khác biệt của đề tài.
Với tác giả sách khoa học kĩ thuật, cần có tiêu chuẩn rất cao. Trước hết,
về mặt chuyên môn, họ phải là chuyên gia giỏi, am hiểu “bách khoa” về nhiều
ngành khoa học. Vì chỉ khi có tri thức sâu và rộng, họ mới có khả năng phổ
thơng hóa được tri thức. Mặt khác, các tác giả này phải có khả năng viết hấp

12


dẫn, lôi cuốn để chuyển tải những tri thức khoa học nhiều khi rất trừu tượng tới
người đọc rộng rãi.
Để động viên, thu hút các cộng tác viên hợp tác với mình, biên tập viên

phải chủ động tạo ra được mối quan hệ tin cậy, chu đáo, tận tình. Việc thanh
toán thù lao, nhuận bút cho họ phải kịp thời, đúng mức, trân trọng. Có thể nâng
cấp lên thành chỗ thân quen, quan tâm đến họ lúc khó khăn…
Khơng chỉ vậy, biên tập viên vừa phải là người bạn tâm giao, vừa là người
phục vụ tận tụy, chân thành. Họ phải làm mọi việc có thể để bồi dưỡng, giúp đỡ
tác giả sáng tạo bản thảo. Người biên tập có thể giúp đỡ tác giả trên các phương
diện sau:
 Mở tọa đàm trưng cầu ý kiến về bản đề cương, bản thảo viết thử, để đóng
góp ý trở lại cho tác giả.
 Kịp thời thông tin cho tác giả những quan điểm, đường lối chính sách mới
của Đảng và Nhà nước có liên quan đến đề tài cuốn sách.
 Cung cấp kịp thời những thơng tin, tư liệu cịn thiếu do tác giả đề xuất,
hoặc biên tập viên mới sưu tầm được.
 Cung cấp cho tác giả những tin tức mới về đối tượng bạn đọc, những thị
hiếu đặc biệt của họ giúp tác giả có phương án thể hiện bản thảo có hiệu quả
nhất.
 Cung cấp cho tác giả những cuốn sách mẫu đã xuất bản được đánh giá
cao, những kinh nghiệm viết đã được đúc kết để tác giả tham khảo.
Quá trình viết bản thảo là giai đoạn căng thẳng, đầy khó khăn, song cũng
vơ cùng cao đẹp, kì diệu, đầy cảm hứng đối với người viết. Sự quan tâm, giúp
đỡ về vật chất chân thành, đúng lúc cho tác giả lúc này là cần thiết và có ý
nghĩa. Nó có thể là nguồn động viên, khích lệ tác giả vượt qua khó khăn, giành
thành cơng trong sáng tạo, giúp cho quan hệ giữa tác giả và nhà xuất bản thêm
gắn bó, bền vững.
Bồi dưỡng, giúp đỡ cộng tác viên là cơng việc thường xun của tồn nhà
xuất bản, trong đó biên tập viên, lãnh đạo nhà xuất bản phải là những người đạo
13


diễn chính. Có một số hình thức bồi dưỡng, giúp đỡ cộng tác viên mà nhà xuất

bản và biên tập viên thường xuyên tiến hành là:
 Tổ chức hội nghị cộng tác viên theo định kì hàng năm và hội nghị cộng
tác viên chuyên đề theo yêu cầu từng loại sách, bộ sách. Qua các hội nghị này,
biên tập viên giúp tác giả nắm vững thêm phương hướng, nội dung, yêu cầu xuất
bản sách trong mỗi thời kì của nhà xuất bản. Đồng thời, qua đó củng cố, tăng
cường quan hệ thân tình, gắn bó giữa tác giả với biên tập viên, nhà xuất bản,
nâng cao nhiệt tình làm sách của tác giả.
 Tổ chức hội nghị bạn đọc, gặp gỡ giao lưu giữa tác giả với bạn đọc để tác
giả có thêm thơng tin về nhu cầu, thị hiếu bạn đọc ở một thời điểm cụ thể, về
một mảng sách, bộ sách nào đó mà cộng tác viên đang thực hiện.
 Cá nhân biên tập viên trực tiếp gặp gỡ, trao đổi với cộng tác viên tác giả,
đọc và góp ý cho họ trong q trình sáng tác, biên soạn.
Biên tập viên cần phải hiểu biết thực tiễn, vốn sống, có khả năng lịch lãm
trong quan hệ, giao tiếp, trung thực và tận tụy với công việc. Biên tập viên sách
khoa học kĩ thuật nên có hiểu biết về ngoại ngữ để có thể tham khảo được các tài
liệu nước ngoài, biên tập được sách dịch về khoa học kĩ thuật. Trong thời đại của
cách mạng khoa học và cơng nghệ, của trí tuệ, của tin học, biên tập cũng cần
trang bị cho mình khả năng sử dụng thành thạo máy vi tính trong biên tập và
trình bày sách, khai thác tối đa các phần mềm, mạng Internet để thu thập, xử lý
thơng tin, phát hành sách trên mạng…
Đó là những yếu tố để biên tập viên không những nâng cao trình độ và
hồn thiện bản thân, mà cịn để mối quan hệ giữa người với người trở nên tốt
đẹp hơn, xã hội trở nên văn minh, lịch sự hơn. Từ đó mà nhà xuất bản Giao
thơng vận tải trở nên gần gũi thân thiết với bạn đọc hơn, đồng thời phát triển
một cách lành mạnh và toàn diện hơn.

14


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA BIÊN TẬP VIÊN TRONG

QUÁ TRÌNH TỔ CHỨC BẢN THẢO SÁCH KHOA HỌC KĨ THUẬT Ở
NHÀ XUẤT BẢN GIAO THÔNG VẬN TẢI
1. Thực trạng vai trò của biên tập viên trong những khâu tổ chức bản thảo
sách khoa học kĩ thuật của nhà xuất bản Giao thông vận tải
1.1 Công tác kế hoạch đề tài
Công tác kế hoạch đề tài là khâu mở đường của hoạt động biên tập xuất
bản. Để biên tập viên thực hiện tốt vai trị của mình thì trước hết nhà xuất bản
phải có một cơng tác kế hoạch đề tài rõ ràng, cụ thể. Đối với sách khoa học kĩ
thuật việc xây dựng kế hoạch đề tài phải xây dựng trên cơ sở chức năng nhiệm
vụ, quyền hạn được giao của nhà xuất bản. Ngoài ra, nhà xuất bản và biên tập
viên còn phải căn cứ vào chủ chương, đường lối phát triển về giao thông vận tải
của Đảng, Nhà nước, Bộ Giao thông vận tải, nhà xuất bản và nhu cầu thực tế của
bạn đọc để xây dựng. Mặt khác, kế hoạch đề tài muốn thực thi, nhà xuất bản
phải có đội ngũ biên tập viên có trình độ về chính trị, chun mơn giao thơng
vận tải, nghiệp vụ xuất bản, và đặc biệt, phải có kinh nghiệm trong hoạt động
xuất bản.
Trên cơ sở chiến lược phát triển chiến lược giao thông vận tải được
Đảng và Nhà nước xác định trong từng giai đoạn thì sách khoa học kĩ thuật
chuyên ngành giao thông vận tải phải tập trung hướng vào các đề tài cụ thể sau:


Những đề tài phục vụ cho việc chuyển giao, lựa chọn đổi mới công nghệ

nhằm tiếp thu những thành tựu công nghệ mới để đẩy mạnh sự phát triển của
ngành và đất nước.


Những đề tài cung cấp luận cứ khoa học cho việc quyết định các chính

sách quản lí kinh tế xã hội, xây dựng quy hoạch, chiến lược, kế hoạch phát triển,

phát huy, khai thác các nguồn lực, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ngành.

15




Những đề tài phục vụ cho việc xây dựng và phát triển cơng nghệ cao, tin

học, tự động hóa, điện tử, cơ khí chính xác, cơng nghệ vật liệu mới, phương thức
vận tải tiên tiến… Chú trọng những đề tài đẩy mạnh nghiên cứu.
Hàng năm, các biên tập viên tập hợp kế hoạch đề tài, dự kiến xuất bản
năm tới cho trưởng Ban biên tập trình Giám đốc, Tổng biên tập để xây dựng kế
hoạch đề tài cho nhà xuất bản. Kế hoạch đề tài xuất bản này do giám đốc kí,
trình lãnh đạo Bộ Giao thơng vận tải duyệt và đăng kí với Cục xuất bản để được
chấp nhận. Các đề tài bổ sung hàng tháng, quý và đột xuất cũng thực hiện như
đăng kí kế hoạch xuất bản hàng năm trên. Nước ta đã bước sang thời kì đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, sách khoa học kĩ thuật ngày càng
có vai trị đi trước mở đường, tạo mặt bằng tri thức cho sự nghiệp lớn lao đó.
Chính vì vậy mà khi xây dựng kế hoạch đề tài, các biên tập viên nhà xuất bản đã
cố gắng xem xét về tính cấp thiết, tính thời sự và phù hợp với thực tiễn giao
thông vận tải, tính định hướng phát triển khoa học kĩ thuật, kinh tế - xã hội của
đất nước. Đồng thời, biên tập viên phải chú ý đến tính hợp lí trong xuất bản, khả
năng tiêu thụ và lợi ích của đề tài.
Đây chính là nét riêng có ở nhà xuất bản Giao thông vận tải trong khâu
xây dựng kế hoạch đề tài. Nó hồn tồn phù hợp với xu thế làm sách của thế
giới hiện đại trong thời kì bùng nổ thơng tin như hiện nay. Ngoài ra, với phong
cách xây dựng kế hoạch đề tài như vậy, nhà xuất bản Giao thông vận tải đem
đến cho hoạt động xuất bản nước nhà một hơi thở mới, mang trong mình sắc thái
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.

1.2 Cơng tác cộng tác viên
Sau khi đề tài được Bộ Giao thông - vận tải và Cục Xuất bản, Bộ Thông
tin và Truyền thông chấp nhận, biên tập viên nhà xuất bản tiến hành bước tiếp
theo là tổ chức bản thảo. Đây là hoạt động thường xuyên của biên tập viên dựa
vào kế hoạch đề tài để làm việc với tác giả, là một công tác quan trọng của hoạt
động biên tập xuất bản. Công tác này của nhà xuất bản bao gồm các công việc:
16


lựa chọn tác giả, thống nhất và xác định ý đồ nội dung xuất bản, xây dựng đề
cương sáng tác, đánh giá thị trường bạn đọc, kí hợp đồng tác giả, tạo môi trường
cho tác giả sáng tác cho đến khi bản thảo đạt yêu cầu.
 Nguồn bản thảo:
Bản thảo là nguồn nguyên liệu đầu vào quan trọng nhất, quyết định nhất
cho quá trình sản xuất và trao đổi xuất bản phẩm. Nó là mối quan tâm hàng đầu
của mỗi nhà xuất bản, do đó, bất kì nhà xuất bản nào cũng chú trọng đến việc
tìm kiếm và tổ chức bản thảo. Hai nguồn bản thảo chính của nhà xuất bản Giao
thơng vận tải đó là:
Bản thảo do biên tập viên đặt hàng: Đây là bản thảo được tác giả viết
theo kế hoạch đề tài của nhà xuất bản. Ban biên tập chủ động lựa chọn tác giả
thích hợp đã đưa ra yêu cầu sáng tác từ trước nên chất lượng bản thảo và thời
gian nộp bản thảo tương đối đảm bảo. Biên tập viên chủ yếu đặt hàng với cá
nhân, có lúc cũng đặt hàng với một tập thể như: Cục, Vụ, Viện, Khoa… Nếu đặt
hàng với tập thể, biên tập viên phải xác định người chịu trách nhiệm chính và
danh sách các tác giả thực hiện.
Bản thảo do cộng tác viên đưa đến: Đối với bản thảo loại này ở nhà xuất
bản, chủ yếu là bản thảo liên doanh, liên kết xuất bản, đó là các loại sách giáo
trình, giáo khoa, sách tham khảo của các trường trong và ngoài ngành, các dự án
đề tài nghiên cứu khoa học của cá nhân, tổ chức muốn được công bố, các văn
bản pháp luật của nhà nước, Bộ Giao thông vận tải cần được phổ biến và tuyên

truyền… Đối với loại bản thảo này, biên tập viên không cần phải xây dựng đề
cương, chọn tác giả mà sau khi xem xát nội dung, nếu thấy phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ thì đưa ngay vào kế hoạch xuất bản của nhà xuất bản.
Tổ chức bản thảo sách là công việc thể hiện tầm nhìn, năng lực hoạt động
thực tiễn, uy tín của cán bộ biên tập nói riêng và của nhà xuất bản nói chung.
Việc tổ chức xây dựng, bản thảo sách tại nhà xuất bản Giao thông vận tải được
thực hiện thông qua các bước chuẩn bị cụ thể như sau:

17


Biên tập viên nghiên cứu, yêu cầu biên soạn bản thảo sách khoa học kĩ
thuật, cụ thể là phải làm rõ ý đồ ra sách, yêu cầu biên soạn về nội dung, kết cấu
của bản thảo, đối tượng phục vụ, chọn tác giả thích hợp (trình độ, kinh
nghiệm…).
Biên tập viên đề ra phương án tổ chức bản thảo như: Đặt tên sách, ý đồ
biên soạn, đối tượng độc giả, nội dung trọng tâm, yêu cầu biên soạn, tiến độ biên
soạn, các tác giả… Tuy nhiên, không phải bất cứ bản thảo sách khoa học kĩ thuật
giao thông vận tải nào cũng phải chuẩn bị như trên, có bản thảo đơn giản hơn,
hoặc có bản thảo phức tạp hơn, phải dựa vào tình hình cụ thể của đề tài để quyết
định các bước thực hiện.
 Công tác cộng tác viên:
Công tác cộng tác viên là quan trọng nhất trong việc tổ chức bản thảo, vì
để tổ chức được các bản thảo sách khoa học kĩ thuật giao thông vận tải chuyên
ngành có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu độc giả quan tâm thì phải tìm
được tác giả thích hợp. Nhìn chung, cơng tác này trong những năm qua ở nhà
xuất bản cần rút ra mấy điểm đáng chú ý sau:
 Tác giả phải có trình độ cả về chun môn khoa học, khả năng ngôn ngữ
cũng như kinh nghiệm và năng lực biên soạn đề tài cần xuất bản.
 Tác giả phải nghiêm túc và ý thức được trách nhiệm về nội dung trước xã

hội và uy tín khoa học của cá nhân trong sáng tác, biên soạn, có năng lực và thời
gian đủ để viết.
 Tác giả phải có chun mơn sâu về nội dung của đề tài và kiến thức rộng,
có uy tín trong lĩnh vực giao thông vận tải và giữa các bộ môn khoa học thường
có sự đan xen, liên quan nhau, tác động và phụ thuộc nhau cùng một đề tài.
 Nếu là đề tài dịch, địi hỏi tác giả phải có trình độ ngoại ngữ cao, kinh
nghiệm dịch phong phú, phải có kiến thức sâu về thuật ngữ chuyên ngành ngoại
ngữ thì mới có thể diễn đạt được chuẩn xác nội dung của tác phẩm nguyên tác.
Việc lựa chọn tác giả biên soạn sách sách khoa học kĩ thuật chuyên ngành
giao thông vận tải khơng chỉ nhìn vào chức danh, địa vị, uy tín của họ… mà cịn
18


phải xuất phát từ ý đồ ra sách, bề dày xuất bản của tác giả và đối tượng độc giả
cùng các yêu cầu khác để xác định được tác giả thích hợp.
Đội ngũ tác giả của sách khoa học kĩ thuật chuyên ngành giao thông vận
tải hầu hết là các nhà khoa học, các chuyên gia phần lớn có học hàm, học vị cao,
có uy tín khoa học. Họ có thể là cá nhân hay tập thể (Viện nghiên cứu, tổ bộ
môn…) chủ yếu ở các trường Đại học, Viện nghiên cứu, Cục, Vụ…trong và
ngồi ngành giao thơng vận tải. Đội ngũ cộng tác viên này của nhà xuất bản có
phẩm chất chính trị, có lập trường tư tưởng vững vàng, có trình độ chun mơn
về lĩnh vực khoa học công nghệ giao thông vận tải.
Nhà xuất bản đã thu hút đội ngũ cộng tác viên qua nhiều hình thức: trên
cơ sở chức năng, nhiệm vụ, uy tín và vị thế của nhà xuất bản; qua các hội thảo,
hội nghị tổng kết, hội nghị khách hàng hoặc con đường quen biết các nhân…
Nhà xuất bản, cụ thể là ban giám đốc, các biên tập viên ln có ý thức tổ chức
và bám sát cộng tác viên để kịp thời cung cấp thơng tin về quan điểm, đường lối,
chính sách mới của Đảng và Nhà nước về khoa học kĩ thuật, tình hình phát triển
của khoa học, cơng nghệ trong lĩnh vực giao thông vận tải, về độc giả…
 Xây dựng đề cương, kí hợp đồng tác giả và theo dõi, động viên tác giả

hoàn thiện bản thảo.
Để động viên thu hút tác giả hợp tác với mình, các biên tập viên nhà xuất
bản giao thông vận tải đã xem xét từng đối tượng tác giả, tìm hiểu tâm lí của họ
để tạo ra mối quan hệ tin cậy giữa nhà xuất bản với tác giả. Quan hệ này được
thiết lập bằng hợp đồng tác giả, trong đó quy định quyền và nghĩa vụ của các
bên tham gia hợp đồng. Trong hợp đồng nhất thiết phải có đề cương viết sách,
biên tập viên là người chuẩn bị và theo dõi đề cương bản thảo.
Đề cương viết sách có thể do tác giả lập, được biên tập viên nhất trí, hoặc
biên tập viên cùng tham gia bàn bạc với tác giả, hoặc biên tập viên nhờ chuyên
gia lập và thẩm định đề cương của tác giả. Đề cương có thể chi tiết hoặc khái
quát tùy theo mức độ quan trọng của đề tài.

19


Khi đã thơng qua đề cương và kí hợp đồng, tác giả bắt đầu viết bản thảo.
Trong giai đoạn này, biên tập viên nhà xuất bản chủ động theo dõi và ln động
viên tác giả, hồn chỉnh bản thảo theo đúng nội dung đề cương và thời gian hợp
đồng. Để giúp tác giả trong quá trình viết, biên tập viên thường hay trao đổi với
tác giả về những vấn đề liên quan đến đề tài như tài liệu tham khảo, văn phong,
thị hiếu bạn đọc…
Có thể nói trong những năm qua, nhờ sự quan tâm, động viên, khuyến
khích của lãnh đạo nhà xuất bản mà biên tập viên nhà xuất bản Giao thơng vận
tải đã có những mối quan hệ tốt với tác giả. Do đó, hiện nay nhà xuất bản đã có
một đội ngũ cộng tác viên khá đa dạng, phong phú, có trình độ, có năng lực viết
thuộc các lĩnh vực thuộc ngành giao thông vận tải. Nhờ đó mỗi năm nhà xuất
bản cho ra đời được hàng trăm đầu sách chun ngành, góp phần nâng cao dân
trí và phổ biến sâu rộng, tiến bộ khoa học kĩ thuật, góp phần đào tạo nguồn nhân
lực cho ngành giao thơng vận tải nói riêng và cho đất nước nói chung.
1.3 Công tác biên tập sách

Công việc của biên tập viên với bản thảo là một quá trình phức tạp và sáng
tạo như M.Gorki đã nhận xét: “Đó là một lĩnh vực hoạt động khơng phải lúc
nào cũng có hiệu quả nhưng rất quan trọng và khó khăn, nó địi hỏi tình yêu
nghề nghiệp và kiến thức lớn”. Biên tập viên không chỉ quan tâm đến bản thảo ở
giai đoạn hồn thành mà suốt trong q trình sáng tác, họ luôn theo dõi, giúp đỡ
từng bước đi của tác giả. Công việc biên tập bất cứ loại sách nào đều phải theo
quy trình biên tập nghiêm túc. Đối với sách khoa học kĩ thuật cũng vậy, biên tập
viên sau khi tiếp nhận bản thảo, thì đánh giá bản thảo, xử lí, sửa chữa và hồn
thiện bản thảo.
Biên tập viên tiếp nhận bản thảo sách khoa học kĩ thuật của nhà xuất bản
giao thông vận tải phải kiểm tra bản thảo đầy đủ về số chương, mục, hình vẽ,
biểu bảng, phụ lục… theo như đề cương hoặc như biên bản thẩm định bản thảo.

20


Sau đó, biên tập viên đọc qua (đọc thơ) để nắm bắt các thơng tin, nội dung
chính của bản thảo. Trong giai đoạn này cần tìm hiểu tồn bộ các chi tiết của bản
thảo và phong cách viết của tác giả, xác định các chi tiết của bản thảo nhằm nắm
được ưu, khuyết điểm của bản thảo. Để đánh giá bản thảo, biên tập viên sách
khoa học kĩ thuật của nhà xuất bản giao thông vận tải phải tiến hành phân tích
tác phẩm trên tất cả các phương diện: tính khoa học, tính phù hợp với thực tiễn
bạn đọc, các trích dẫn, logic văn bản, ngơn ngữ… Sau đó viết nhận xét bản thảo,
đề ra phương án biên tập, trình trưởng ban biên tập, thống nhất với tác giả về
cách chỉnh lí và sửa chữa.
Biên tập viên đọc kĩ (đọc tinh) để chỉnh lí, sửa chữa bản thảo. Đây là giai
đoạn địi hỏi biên tập viên phải có trình độ kiến thức nhất định và thể hiện bản
lĩnh biên tập. Đối với sách khoa học kĩ thuật, nội dung bản thảo phải đảm bảo
tính khoa học chính xác, tính hệ thống tri thức và tính phù hợp với điều kiện
thực tiễn của hoạt động giao thông vận tải nước ta. Về hình thức, bản thảo phải

có văn phong phù hợp với phong cách sách khoa học kĩ thuật, sự lập luận phải
trong sáng và logic cao, việc trình bày phải rõ ràng, dễ hiểu…
Trong sách khoa học kĩ thuật, có nhiều dạng chữ viết tắt, như các đơn vị
đo lường, các khái niệm… Đối với trường hợp này thì biên tập viên luôn chú ý
trước khi dùng dạng tắt phải có quy ước từ đầu sử dụng và khơng được thay đổi
trong cả cuốn sách. Các công thức, số liệu, biểu bảng, hình vẽ phải được trình
bày theo tiêu chuẩn ngành và nhà nước.
Tiếp theo, biên tập viên hoàn thiện bản thảo. Giai đoạn này, biên tập viên
phải thống nhất với tác giả về tên sách để hấp dẫn bạn đọc đồng thời sát với nội
dung. Ngoài ra, để cuốn sách thu hút độc giả thì lời tựa, lời giới thiệu mở đầu
phải lôi cuốn, hấp dẫn. Do vậy mà biên tập viên càng phải ý thức cao trách
nhiệm của mình. Sau đó, biên tập viên lập các bản chỉ dẫn cho phần hỗ trợ khoa
học, lập mục lục, thống nhất một số quy định (trang trách nhiệm, số bản in,
thống kê tài liệu tham khảo…).

21


Cuối cùng, biên tập viên sửa chữa hoàn chỉnh bản thảo để nộp cho trưởng
ban biên tập xem xét lần cuối rồi trình giám đốc, tổng biên tập duyệt và đưa vào
kế hoạch sản xuất.
2. Một số thành tựu
Trong những năm qua, nhà xuất bản đã xây dựng được một đội ngũ cộng
tác viên gồm các chuyên gia, các nhà khoa học trong và ngoài ngành. Đặc biệt,
là sự giúp đỡ và hợp tác thường xuyên của các trường: Giao thông vận tải, Mỏ Địa chất, Đại học Hàng Hải…Công tác biên tập được sự chỉ đạo chặt chẽ hơn,
góp phần nâng cao chất lượng nội dung các ấn phẩm. Từ đó, các ấn phẩm cung
cấp tri thức, phương tiện, phương pháp nghiên cứu và ứng dụng những rhành
tựu khoa học công nghệ kĩ thuật nhằm đưa ngành giao thông vận tải ở nước ta
đạt đến trình độ tiên tiến trên thế giới.
Trải qua chặng đường 29 năm, nhà xuất bản Giao thơng vận tải về cơ bản

đã hồn thành tốt những nhiệm vụ được Bộ và Nhà nước giao. Để tồn tại và phát
triển, nhà xuất bản đã nhanh chóng thay đổi cách thức quản lí, đặt ra các chỉ tiêu
về kinh tế, đời sống, áp dụng các chế độ thưởng phạt, lấy yếu tố động viên vật
chất và tinh thần để kích thích sự nhiệt tình sáng tạo, năng lực chuyên môn của
cán bộ công nhân viên. Nhờ đó trong những năm qua số đầu sách của nhà xuất
bản liên tục tăng. Trong đó, 75-80% là sách kinh tế kĩ thuật giao thông vận tải
như công nghệ tiên tiến thiết kế và xây dựng cầu đường, chế tạo, sửa chữa ô tô,
đầu máy xe toa, tàu thủy… tổ chức vận tải, quy hoạch giao thông đô thị, sách tin
học. Trong tổng số sách đã xuất bản những năm qua có một số sách đã được bạn
đọc đón nhận và đánh giá cao như: “Thiết kế đường sắt”; “Tiêu chuẩn kĩ thuật
cơng trình giao thơng”; “Cầu bê tơng cốt thép”; “Sức bền vật liệu”; “Công
nghệ hàn kim loại”; “Bộ tiêu chuẩn cơng trình giao thơng”; “Thiết kế thủy lực
cho dự án cầu đường”; “Kĩ thuật hàn điện cắt và uốn kim loại”; “Định giá xây
dựng cơng trình giao thơng”; “Thi công kiến trúc cao tầng”…

22


Trên thực tế, số lượng sách khoa học kĩ thuật được xuất bản ở nước ta
hàng năm do nhà xuất bản Giao thông vận tải xuất bản chiếm trên 50%, gồm
nhiều loại sách thuộc các lĩnh vực giao thông vận tải đường bộ, đường sắt,
đường sông, đường biển và đường hàng không. Số sách xuất bản sáu tháng đầu
năm 2012 là 31 cuốn (đạt 7% so với dự tính, do nhà xuất bản đăng kí kế hoạch
xuất bản là 447 cuốn).
Những năm gần đây, nhờ có biện pháp hợp lí nhằm động viên và phát huy
yếu tố nội lực, năng động và mạnh dạn mở rộng môi trường, nhà xuất bản Giao
thông vận tải đã thu được những thành tựu quan trọng trên nhiều mặt. Hàng
nghìn đầu sách được xuất bản với nội dung lành mạnh, có kiến thức văn hóa,
khoa học kĩ thuật sâu sắc, phục vụ kịp thời nhu cầu của bạn đọc trong và ngồi
ngành.

Tính đến nay, không ấn phẩm nào của nhà xuất bản vi phạm những quy
định cấm tại điều 10 Luật xuất bản. Nhà xuất bản Giao thông vận tải đã được
Cục xuất bản đánh giá là một trong số ít những nhà xuất bản được xếp trong
“khu vực an tồn”, tức là khơng sai phạm trong lĩnh vực chính trị, văn hóa tư
tưởng, gây ảnh hưởng xấu tới chế độ, uy tín của lãnh tụ, tiết lộ bí mật của Đảng,
Nhà nước và ngành Giao thông vận tải…
Sách do nhà xuất bản Giao thông vận tải xuất bản cơ bản đáp ứng kịp thời
yêu cầu của ngành và xã hội về nội dung, chất lượng và thời điểm. Đến nay đã
đảm bảo bình quân 4,5-5 bản/năm cho một cán bộ công nhân viên chức ngành
giao thông vận tải.
Riêng năm 2009: số lượng sách xuất bản là 380 đầu sách (bao gồm cả
sách liên kết, sách tự xuất bản và phát hành) tăng 15% so với năm 2008, một số
sách lần đầu tham gia thị trường đạt hiệu quả. Một số sách được xuất bản như :
“Vật liệu xây dựng mới”(Phạm Duy Hữu, Đào Văn Đông); “Hướng dẫn xây
dựng cầu đường giao thông nông thôn và miền núi”(Bộ Giao thông vận tải);
“Tổ chức thi công đường ô tô”(Nguyễn Quang Chiêu, Dương Học Hài); “Cầu
thép”(Lê Đình Tâm); “Sức bền vật liệu”(Vũ Đình Lai, Nguyễn Xuân Lựu, Bùi
23


Đình Nghi); “Cơng tác trắc địa trong giám sát thi cơng xây dựng cơng
trình”(Phạm Văn Chun); “Cơng trình đường sắt”(Lê Hải Hà); “Máy tàu
thủy”(Đỗ Đức Lựu); “Lý thuyết đàn hồi”(Nguyễn Xuân Lựu)…
Năm 2010, nhà xuất bản đã cho ra đời một số cuốn: “Tổng luận
cầu”(Nguyễn Minh Nghĩa); “Tiêu chuẩn kĩ thuật thi công và nghiệm thu mặt
đường”(Bộ Giao thông vận tải); “Cầu bê tơng cốt thép”(Nguyễn Viết Trung,
Hồng Hà, Nguyễn Ngọc Long); “Xây dựng mặt đường ô tô”(Nguyễn Quang
Chiêu, Phan Huy Khang); “Thiết kế thủy lực cho cơng trình giao thơng”(Trần
Đình Nghiên); “Sử dụng và sửa chữa màn hình”(Nguyễn Văn Khoa); “Thiết bị
đẩy tàu thủy”(Lê Hồng Bang, Nguyễn Tiến Lai); “Sửa chữa điện công

nghiệp”(Bùi Văn Yên); “Vẽ kĩ thuật”(Hồ Sĩ Cửu); “Luật giao thông đường
bộ”(Hồ Sĩ Cửu)…
Đến năm 2011, những cuốn sách sau đã được xuất bản: “Tuyến đường sắt
cao tốc”(Phạm Văn Ký); “Kĩ thuật đại cương”(Lê Bá Sơn); “Chi tiết
máy”(Trương Tất Đích); “Biên tập cơ sở thiết kế máy và chi tiết máy”(Đào
Ngọc Biên); “Nhận biết về giao thông vận tải”(Lã Ngọc Khuê); “Thăm dò địa
chấn”(Mai Thanh Tân); “Quy hoạch phát triển giao thông vận tải đường Bộ
Việt Nam”(Bộ Giao thông vận tải); “Quy phạm phân cấp và giám sát kĩ thuật
đường ống mềm”(Bộ Giao thông vận tải); “Bài tập cơ sở thiết kế máy và chi tiết
máy”(Đào Ngọc Biên)…
Và năm 2012. nhà xuất bản cho ra đời thêm một số cuốn: “Thiết kế cống
và cầu nhỏ trên đường ô tô”(Nguyễn Quan Chiêu, Trần Tuấn Hiệp); “Quy
chuẩn kĩ thuật quốc gia về báo hiệu đường thủy nội địa Việt Nam”(Bộ Giao
thông vận tải); “Luật hàng hải dành cho sinh viên ngành máy tàu biển”(Lê Văn
Điếm)”; “Công ước quốc tế về an tồn cơng-ten-nơ”(Tổ chức hàng hải quốc tế);
“Cẩm nang thi hành điều lệ Đảng”(Đảng ủy Bộ Giao thông vận tải); “Cuộc đời
sau tay lái”(Trần Kiệm Hạ)…
Ngoài ra, nhà xuất bản còn liên kết xuất bản trên 200 tên lịch các loại với
số lượng trên 1 triệu bản in, gần 35 vạn lịch blog, 30 triệu trang văn hóa phẩm
24


(catalog, tranh, áp phích, tờ gấp… phục vụ tuyên truyền, quảng cáo, tiếp thị,
phục vụ ngành và xã hội).
Cơ cấu các loại sách: Trong tổng số sách xuất bản trong năm của nhà xuất
bản thì khoảng 75-80% sách khoa học kĩ thuật và lịch sử truyền thống của
ngành, 20-25% các loại sách khác phục vụ nhu cầu đọc của thị trường. Đặc biệt
là tủ sách “An tồn giao thơng” đã xây dựng được thương hiệu mạnh, có uy tín
với bạn đọc.
Nhìn một cách khái qt có thể khẳng định rằng sách khoa học kĩ thuật do

nhà xuất bản Giao thông vận tải xuất bản trong những năm gần đây rất phong
phú và đa dạng, có nội dung phù hợp, hình thức thể hiện hấp dẫn. Các mảng
sách đã đi vào vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách mà thực tiễn giao thông vận tải
đặt ra.
3. Hạn chế
Trong mấy năm trở lại đây, số lượng đầu sách hằng năm của nhà xuất bản
giao thông vận tải ngày một tăng. Điều này chứng tỏ đội ngũ cộng tác viên của
nhà xuất bản ngày càng đông đảo. Nhưng thế chủ động trong các vấn đề mời
cộng tác viên viết theo yêu cầu đề cương của nhà xuất bản chưa cao. Số đầu
sách do nhà xuất bản tổ chức cho cộng tác viên viết cịn ít, chủ yếu sách là do
tác giả tự đem bản thảo đến hoặc nhà xuất bản tự khai thác làm sách cho các đơn
vị đặt hàng trên cơ sở bản thảo có sẵn.
Sách của nhà xuất bản chưa phản ánh hết xu hướng phát triển và nhu cầu
đa dạng của độc giả, tính khoa học chưa cao. Cịn có những kế hoạch được xây
dựng trên cơ sở bản thảo có sẵn của tác giả, hướng đề tài, lựa chọn đề tài hầu
như đều do cộng tác viên đặt ra.
Tính chun mơn hóa của biên tập viên chưa cao. Các ấn phẩm của nhà
xuất bản chưa hòa nhập nhiều vào thị trường xuất bản phẩm nên chưa được phổ
biến rộng rãi đến công chúng bạn đọc trong xã hội. Kế hoạch đề tài hàng năm
của nhà xuất bản chưa thể hiện đúng được tính định hướng, chưa đóng vai trò là
25


×