Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tieu luan vấn đề phát triển kinh tế bền vững ở việt nam, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.1 KB, 21 trang )

VấN Đề PHáT TRIểN KINH Tế BềN VữNG ở
VIệT NAM, THựC TRạNG Và GIảI PHáP


MỤC LỤC
Trang

A.

MỞ ĐẦU

1

B.

NỘI DUNG

3

1.

Cơ sở lý luận của nội dung nghiên cứu

3

1.1.

Phát triển bền vững

3


1.1.1

Quan niệm về phát triển bền vững

3

Nội dung và tiêu chí của phát triển bền vững về kinh tế

3

Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương

5

.
1.1.2
.
1.2.

trình nghị sự 21 của Việt Nam)
2.

Thực trạng phát triển bền vững về kinh tế Việt Nam hiện nay

8

2.1.

Về tốc độ tăng trưởng


8

2.2.

Về năng lực cạnh tranh

8

2.3.

Về cơ cấu các thành phần kinh tế

9

2.4.

Về cơ cấu các thành phần kinh tế

10

3.

Giải pháp phát triển bền vững kinh tế ở Việt Nam

13

C

KẾT LUẬN


18

D

TÀI LIỆU THAM KHẢO

19


1

A. MỞ ĐẦU
Quan niệm phát triển bền vững xuất hiện từ những năm đầu thập kỷ
80 thế kỷ 20, được phổ biến rộng rãi vào năm 1987, với hàm ý tổng quát là sự
phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại nhưng không gây trở ngại
cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau. Đây là quá trình phải bảo
đảm có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển:
phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Trong hai thập kỷ qua, trên bình diện quốc tế, vấn đề phát triển bền
vững ngày càng được đặc biệt quan tâm, trở thành yêu cầu phát triển của tồn
cầu. Đã có khơng ít hội nghị thượng đỉnh thảo luận về chủ đề này và đưa ra
nhiều văn kiện, quyết sách quan trọng.
Ở nước ta, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã được nhận thức
rất sớm và thể hiện trong nhiều chủ trương, nghị quyết của Đảng. Ngay từ Đại
hội III năm 1960 và Đại hội IV năm 1976, Đảng ta đã đặt mục tiêu "tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội". Đại hội VII thông qua
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000, nhấn mạnh "Tăng trưởng
kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và cơng bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo
vệ mơi trường". Đại hội VIII nêu bài học "Tăng trưởng kinh tế gắn liền với
tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi

trường sinh thái". Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 thông qua
tại Đại hội IX khẳng định "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường". Đại hội X nêu bài học về phát triển nhanh và bền vững, trong đó
ngồi các nội dung phát triển kinh tế, xã hội, mơi trường cịn bổ sung u cầu
phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ và xác định mục tiêu tổng
quát của Kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 là "Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với
nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát triển con


2

người". Báo cáo chính trị tại đại hội XI đã khẳng định: Phát triển nhanh gắn
với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong chiến
lược phát triển kinh tế đến năm 2020. Nhằm triển khai thực hiện các quan
điểm chỉ đạo của Đại hội XI về phát triển bền vững, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Quyết định số 432/2012/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 phê duyệt Chiến
lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Đại hội XII tiếp tục
nêu mục tiêu nhiệm vụ tổng quát trong 5 năm tới là phát triển kinh tế nhanh
và bền vững.
Như vậy, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã sớm được Đảng
và Nhà nước ta đặt ra với nội dung ngày càng hoàn thiện và đã trở thành một
chủ trương nhất quán trong lãnh đạo, quản lý, điều hành tiến trình phát triển
của đất nước trong nhiều thập kỷ qua. Nhà nước ta cũng đã có những cam kết
mạnh mẽ về phát triển bền vững.
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế
nhất định. Tuy nhiên, xét dưới góc độ phát triển kinh tế bền vững thì còn bộc
lộ những hạn chế, yếu kém.
Để làm rõ hơn nữa nội dung phát triển bền vững về kinh tế và tình
hình phát triển kinh tế theo hướng phát triển bền vững ở Việt Nam, học viên

chọn nội dung: "Vấn đề phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam, thực trạng
và giải pháp" làm đề tài nghiên cứu cho bài tiểu luận của mình.


3

B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận của nội dung nghiên cứu
1.1. Phát triển bền vững
1.1.1. Quan niệm về phát triển bền vững
Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn
đời sống xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững manh nha
trong cả quá trình sản xuất xã hội và bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm quan trọng
của bảo vệ mơi trường và tiếp đó là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết những
bất ổn trong xã hội. Chính vì thế, năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi
trường và Phát triển của Liên hợp quốc được tổ chức ở Ri-ô đơ Gia-nê-rô đề
ra Chương trình nghị sự tồn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền
vững được xác định là: "Một sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ
hiện tại mà không làm hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ
tương lai". Theo đó, ba trụ cột phát triển bền vững được xác định là: Thứ
nhất, bền vững về mặt kinh tế, hay phát triển kinh tế bền vững là phát triển
nhanh và an toàn, chất lượng; thứ hai, bền vững về mặt xã hội là công bằng
xã hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu chí
cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình
độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh;
thứ ba, bền vững về sinh thái môi trường là khai thác và sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng môi trường
sống... Cho tới nay, quan niệm về phát triển bền vững trên bình diện quốc tế
có được sự thống nhất chung và mục tiêu để thực hiện phát triển bền vững trở
thành mục tiêu thiên niên kỷ.

1.1.2. Nội dung và tiêu chí của phát triển bền vững về kinh tế
Phát triển bền vững về kinh tế là sự tiến bộ mọi mặt của nền kinh tế
bao gồm tăng trưởng kinh tế cao, ổn định trên cơ sở sử dụng có hiệu quả các


4

nguồn đồng thời với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội theo hướng
tiến bộ.
Tăng trưởng kinh tế cao và ổn định thể hiện ở các thước đo (tiêu chí)
đạt được bao nhiêu %/năm một cách hợp lý phù hợp với tiềm năng các nguồn
lực và tốc độ đó phải đạt được trong dài hạn (thường là 10 năm trở lên).
Cơ cấu kinh tế xã hội chuyển dịch theo xu hướng tiến bộ nhằm đạt
được mục tiêu tăng trưởng một cách ổn định, tạo năng lực cho nền kinh tế
chuyển dịch từ mô hình tăng trưởng theo chiều rộng sang mô hình tăng
trưởng theo chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng. Do vậy tiêu chí thể
hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế để đảm bảo phát triển bền vững là sự thay đổi
trình độ công nghệ của các ngành sản xuất phải ngày càng cao hơn trong điều
kiện tận dụng các lợi thế của một nước đi sau (biểu hiện cụ thể là tốc độ đổi
mới công nghệ %/năm của các ngành sản xuất của các doanh nghiệp trong
nền kinh tế phải ngày càng cao hơn). Với những tiến bộ về trình độ công nghệ
đạt được, hiệu quả sử dụng các nguồn lực được nâng lên, chất lượng tăng
trưởng kinh tế đạt ngày càng cao. Các tiêu chí thể hiện hiệu quả sử dụng các
nguồn lực là hệ số năng suất các nhân tố tổng hợp biểu hiện đóng góp của
nguồn lực khoa học cơng nghệ vào tăng trưởng kinh tế TFP (năng suất các
nhân tố tổng hợp) và VA (hệ số gia tăng tài nguyên) của các ngành sản xuất;
hệ gia tăng tư bản đầu ra ICOR của nguồn lực vốn; năng suất lao động.
Tăng trưởng cao và ổn định là điều kiện để tăng năng lực nội sinh của
nền kinh tế là tiền đề tạo ra khả năng tăng trưởng cao và ổn định trong giai
đoạn tiếp theo.

Năng lực nội sinh của nền kinh tế tăng thể hiện ở tích lũy vốn, chất
lượng nguồn lao động, trình độ công nghệ và cơ sở hạ tầng của nền kinh tế
được nâng cao. Bên cạnh đó, năng lực nội sinh của nền kinh tế được nâng
cao. Bên cạnh đó, năng lực nội sinh của nền kinh tế được nâng cao địi hỏi tỷ
lệ nợ nước ngồi của quốc gia và của chính phủ so với GDP ở giới hạn cho


5

phép (an tồn) và có xu hướng giảm. Tiêu chí này bảo đảm cho sự ổn định
kinh tế vĩ mô và tránh để lại gánh nợ nước ngoài cho thế hệ mai sau.
1.2. Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương
trình nghị sự 21 của Việt Nam)
Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước như Nghị quyết
của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra và thực hiện cam kết quốc tế,
ngày 17 tháng 8 năm 2004, Chính phủ Việt Nam ban hành "Định hướng chiến
lược phát triển bền vững ở Việt Nam" (Chương trình nghị sự 21 của Việt
Nam). Trải qua các Đại hội X (2006) và Đại hội XI (2011) của Đảng, tư tưởng
phát triển bền vững đã trở thành chính sách xuyên suốt của Việt Nam trong
phát triển đất nước.
Mục tiêu tổng quát của định hướng chiến lược phát triển bền vững ở
Việt Nam là "đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn
hóa, sự bình đẳng của các cơng dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa
giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa
được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường".
Trong định hướng chiến lược, mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế
là đạt được sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được
yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh được sự suy thoái hoặc đình
trệ trong tương lai, tránh để lại gánh nặng nợ nần cho các thế hệ mai sau. Mục
tiêu phát triển bền vững về xã hội là đạt kết quả cao trong việc thực hiện tiến

bộ và công bằng xã hội, bảo đảm chế độ dinh dưỡng và chất lượng chăm sóc
sức khỏe nhân dân ngày càng được nâng cao, mọi người đều có cơ hội học
hành và có việc làm, giảm tình trạng đói nghèo và hạn chế khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp và nhóm xã hội, giảm các tệ nạn xã hội, nâng cao mức
độ công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành viên và giữa các thế hệ
trong một xã hội. Mục tiêu của phát triển bền vững về môi trường là khai thác
hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa,


6

ngăn chặn, xử lý và kiểm sốt có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi
trường sống; khắc phục suy thối và cải thiện chất lượng mơi trường.
Định hướng chiến lược về phát triển bền vững ở Việt Nam nêu lên
những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt, đề ra những chủ trương,
chính sách, cơng cụ pháp luật và những lĩnh vực hoạt động ưu tiên cần được
thực hiện để phát triển bền vững trong thế kỷ 21. Trên cơ sở hệ thống kế
hoạch hóa hiện hành, Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam
tập trung vào 19 hoạt động ưu tiên cần được chọn lựa và triển khai thực hiện,
bao gồm: 5 hoạt động trong lĩnh vực kinh tế (duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh
và bền vững, thay đổi mô hình sản xuất và tiêu dùng theo hướng thân thiện
với môi trường, thực hiện q trình "cơng nghiệp hóa sạch, phát triển nông
nghiệp và nông thôn bền vững); 5 hoạt động trong lĩnh vực xã hội và 9 hoạt
động trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường.
Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam là một chiến
lược khung, bao gồm những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các Bộ,
ngành, địa phương, các tổ chức và cá nhân có liên quan triển khai thực hiện
và phối hợp hành động nhằm bảo đảm phát triển bền vững đất nước trong thế
kỷ 21. Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam là căn cứ để
xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển của các ngành, địa
phương, nhằm kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa phát triển kinh tế, thực

hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, bảo đảm sự phát triển
bền vững đất nước. Trong quá trình triển khai, thực hiện, Định hướng chiến
lược phát triển bền vững ở Việt Nam thường xuyên được xem xét để bổ sung
và điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển
Ở Việt Nam, chủ đề phát triển bền vững cũng đã được chú ý nhiều
trong giới nghiên cứu cũng như những nhà hoạch định đường lối, chính sách.
Quan niệm về phát triển bền vững thường được tiếp cận theo hai khía cạnh:
Một là, phát triển bền vững là phát triển trong mối quan hệ duy trì những giá


7

trị môi trường sống, coi giá trị môi trường sinh thái là một trong những yếu tố
cấu thành những giá trị cao nhất cần đạt tới của sự phát triển. Hai là, phát
triển bền vững là sự phát triển dài hạn, cho hôm nay và cho mai sau; phát
triển hôm nay không làm ảnh hưởng tới mai sau.
Trong mục 4, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường, phát triển bền vững
được định nghĩa: "Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu
của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó
của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng
kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường". Đây là định nghĩa có
tính tổng qt, nêu bật những yêu cầu và mục tiêu trọng yếu nhất của phát
triển bền vững, phù hợp với điều kiện và tình hình ở Việt Nam... Từ nội hàm
khái niệm phát triển bền vững, rõ ràng là, để đạt được mục tiêu phát triển
bền vững cần giải quyết hàng loạt các vấn đề thuộc ba lĩnh vực là kinh tế, xã
hội và môi trường.
Thứ nhất, bền vững kinh tế. Mỗi nền kinh tế được coi là bền vững cần
đạt được những yêu cầu sau:
- Có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát
triển có thu nhập cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có

thu nhập thấp càng phải tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển
trong điều kiện hiện nay cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có
thể xem có biểu hiện phát triển bền vững về kinh tế.
- Trường hợp có tăng trưởng GDP cao nhưng mức GDP bình quân đầu
người thấp thì vẫn coi là chưa đạt yêu cầu phát triển bền vững.
- Cơ cấu GDP cũng là vấn đề cần xem xét. Chỉ khi tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp thì tăng trưởng mới có thể
đạt được bền vững.
- Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, không chấp
nhận tăng trưởng bằng mọi giá.


8

Thứ hai, bền vững về xã hội. Tính bền vững về phát triển xã hội ở mỗi
quốc gia được đánh giá bằng các tiêu chí, như HDI, hệ số bình đẳng thu nhập,
các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa. Ngồi ra, bền
vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hịa; có sự bình đẳng giữa các
giai tầng trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo khơng cao
q và có xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng miền không lớn.
Thứ ba, bền vững về môi trường. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển nơng nghiệp, du lịch; q trình đơ thị hóa, xây dựng nơng thơn
mới,... đều tác động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi
trường, điều kiện tự nhiên. Bền vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố
tự nhiên đó, chất lượng mơi trường sống của con người phải được bảo đảm.
Đó là bảo đảm sự trong sạch về khơng khí, nước, đất, khơng gian địa lý, cảnh
quan. Chất lượng của các yếu tố trên luôn cần được coi trọng và thường
xuyên được đánh giá kiểm định theo những tiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc tế.
2. Thực trạng phát triển bền vững về kinh tế Việt Nam hiện nay
2.1. Về tốc độ tăng trưởng

Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua tương đối cao
nhưng thiếu bền vững, điều này được thể hiện ở tốc độ tăng trưởng qua từng
năm và từng thời kỳ. Giai đoạn 2001-2005, tăng trưởng bình quân đạt
7,5%/năm; giai đoạn 2006 -2010 giảm xuống còn 7,0%/năm; năm 2011 đạt
6,24%, năm 2012 đạt 5,25%, năm 2013 đạt 5,42%, năm 2014 đạt trên 5,98%
và năm 2015 tăng trưởng đạt 6,68%; tăng trưởng bình quân 2011-2015 đạt
5,9%/năm. Số liệu này cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có
xu hướng giảm. Nhìn chung, các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế có mức
tăng, song cũng chưa thực sự bền vững.
2.2. Về năng lực cạnh tranh
Kinh tế tăng trưởng cao trong một thời gian dài nên quy mô của nền
kinh tế tăng lên rõ rệt, điều này đã làm cho vị thế kinh tế của Việt Nam trên


9

trường quốc tế được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh quốc
gia còn thấp và chậm được cải thiện. Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp
(Global Competitiveness Index) của nước ta liên tục giảm. Cụ thể, thứ hạng
của Việt Nam như sau: hạng 61 năm 2004-2005; hạng 64 năm 2006-2007;
hạng 68 năm 2007-2008; hạng 70 năm 2008-2009 và hạng 75 năm 20092010. Không những tụt hạng theo thời gian, tức là năng lực cạnh tranh tổng
thể của Việt Nam chậm được cải thiện so với các quốc gia khác trên thế giới,
mà chúng ta còn chậm tiến bộ so với chính bản thân chúng ta.
2.3. Về cơ cấu các thành phần kinh tế
Cơ cấu các thành phần kinh tế của Việt Nam có sự thay đổi tích cực.
Các thành phần kinh tế đã chuyển dịch theo hướng từ độc tôn khu vực kinh tế
nhà nước, đến nay đã có đầy đủ các thành phần kinh tế hoạt động cạnh tranh
lành mạnh, hỗ trợ và tạo động lực cho nhau để phát triển. Các thành phần
kinh tế đã phát huy tiềm năng, thế mạnh để phát triển. Khu vực kinh tế ngoài
nhà nước ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (riêng khu vực kinh tế tư

nhân chiếm trên 30% GDP năm 2013); khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngồi ngày càng đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng, chiếm
khoảng trên 20% GDP, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam trong những năm vừa qua.
Khu vực kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới và chiếm tỷ
trọng ngày càng nhỏ dần trong GDP: chiếm 40,28% GDP vào năm 1995, năm
2000 chiếm 38,52% GDP, năm 2005 là 38,40% và năm 2010 là 33,74% và chi
phối nhiều ngành kinh tế then chốt, tập trung vào những lĩnh vực quan trọng
của nền kinh tế.
Sự phát triển tích cực của các thành phần kinh tế thời gian qua đã góp
phần tạo nhiều cơng ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần ổn định
tình hình kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên, sự yếu kém về trình độ công
nghệ, quy mô sản xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu, khả năng tích tụ vốn và huy


10

động vốn thấp, trình độ và kỹ năng quản lý yếu nên năng lực cạnh tranh của
các thành phần kinh tế không cao, dẫn đến năng lực cạnh tranh của Việt Nam
rất thấp.
2.4. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia thường đi liền với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ngành kinh tế. Trong những
năm qua, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát huy lợi thế so sánh ngành và vùng lãnh thổ. Gắn khai thác, phân
phối, sử dụng các nguồn lực và quá trình sản xuất với thị trường. Xu hướng
chung là công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ tăng nhanh và nền
kinh tế từng bước được hiện đại hóa.
Trong điều kiện điểm xuất phát thấp về kinh tế - xã hội, kỹ thuật, vốn
đầu tư phát triển ít ỏi và bắt đầu từ cơ sở kinh tế tự túc, tự cấp là chính, đạt

được sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế như trên là một thành cơng lớn,
giúp Việt Nam nhanh chóng thốt khỏi tình trạng nước kém phát triển. Tuy
vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn diễn ra chậm, chưa đáp ứng được yêu
cầu. Tỷ trọng nông - lâm - thủy sản còn chiếm tới 22,02%. Về cơ bản vẫn là
cơ cấu kinh tế của một nước nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ kém phát
triển, đặc biệt là ngành dịch vụ trong suốt hơn 10 năm qua hầu như không
thay đổi. Nếu phân tích sâu hơn về sự chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ từng
ngành kinh tế thì có thể thấy rằng, chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng
những mặt hàng, những lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, có khả năng cạnh
tranh cao, có hàm lượng chất xám cao... còn diễn ra rất chậm.
Chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sử dụng các nguồn lực thấp, chậm
được cải thiện và ngày càng có xu hướng giảm sút
Hiệu quả sử dụng vốn thể hiện qua hệ số gia tăng tư bản dầu ra ICOR
của nền kinh tế ngày càng cao, đặc biệt là ICOR của các doanh nghiệp nhà
nước: Giai đoạn 1996 - 2000 bình quân là 4,7; giai đoạn 2001 - 2005 là 5,2;


11

giai đoạn 2006 - 2010 là 6,2 (khu vực nhà nước 9,2 lần); năm 2010 là 6,2;
năm 2011 là 6,2 và năm 2012 là 6,7. Đóng góp của yếu tố lao động đã nhỏ
nhưng lại có xu hướng giảm là bất hợp lý đối với một nước có tiềm năng về
số lượng lao động và giá rẻ. Đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng
kinh tế giai đoạn 1990 - 2000 là 22%, giai đoạn 2001 - 2010 giảm xuống
19%. Điều này phản ánh những bất cập sau: chưa tận dụng hết lực lượng lao
động vào hoạt động kinh tế; chất lượng lao động thấp, năng suất lao động xã
hội khơng cao.
Đóng góp của nguồn lực khoa học và công nghệ vào tăng trưởng GDP
qua hệ số năng suất tổng hợp hiệu quả các nhân tố (TFP) nhỏ và có xu hướng
giảm sút: giai đoạn 1990 - 2000 là 44%, giảm xuống còn 26% giai đoạn 2001 2010. Điều này phản ánh tính chất lạc hậu về cơng nghệ kỹ thuật và hiệu quả

của tăng trưởng ngày càng thấp. Đóng góp của TFP vào tăng trưởng thấp là
do: hàm lượng công nghệ trong giá trị sản phẩm thấp; trình độ công nghệ của
các ngành kinh tế thấp; hoạt động chuyển giao công nghệ kém hiệu quả và
công tác nghiên cứu và triển khai (R&D) trong nước còn nhiều hạn chế.
Hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước không cao; cơ cấu
kinh tế chậm chuyển dịch theo hướng hợp lý và hiệu quả
Đáng chú ý là khu vực quốc doanh chiếm một lượng vốn rất lớn, song
đầu tư rất kém hiệu quả, thể hiện ở các chỉ số ICOR, tỷ suất lợi nhuận trên
vốn đầu tư, tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh, vấn đề giải quyết việc
làm... điều này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động mà còn làm hạn
chế sự năng động của nền kinh tế.
Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP hiện còn chiếm trên 22%, tỷ trọng
của dịch vụ chỉ chiếm chưa đầy 39% và hầu như không thay đổi trong 10 năm
gần đây; tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng chiếm từ 42% - 43% GDP.
Trình độ công nghệ của các ngành công nghiệp lạc hậu và chậm đổi; chuyển
dịch cơ cấu kinh tế chưa tối ưu và đồng đều, chưa phát huy lợi thế trong từng


12

ngành, từng vùng, từng sản phẩm; vẫn còn nhiều ngành tăng trưởng dựa vào
khai thác tài nguyên.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật cịn nhiều yếu kém; mơi trường và
tài nguyên thiên nhiên đang bị suy thoái nhanh chóng dưới áp lực tăng
trưởng nhanh
Phát triển đơ thị, đặc biệt là phát triển nơng thơn cịn thiếu quy hoạch
và tự phát, hoặc có quy hoạch nhưng quản lý kém. Kết cấu hạ tầng kinh tế và
xã hội còn lạc hậu, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Môi trường
thành thị và nhiều vùng nông thôn ngày càng bị ô nhiễm do chất thải sinh
hoạt, chăn nuôi và nơng dược... Những điều đó dẫn đến năng lực cạnh tranh

quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam và năng lực cạnh
tranh của sản phẩm đều hết sức thấp kém.
Các vấn đề môi trường như ô nhiễm mơi trường, suy giảm đa dạng
sinh học, khai thác khống sản và quản lý chất thải rắn đang ngày càng
nghiêm trọng.
Kinh tế vĩ mơ thiếu vững chắc và có những dấu hiệu bất ổn; thể chế
kinh tế thị trường chưa đồng bộ, chất lượng nguồn nhân lực thấp
Nợ công gia tăng, chiếm tỷ lệ lớn trong GDP. Hiện nợ công của Việt
Nam chiếm trên 60% GDP. Thâm hụt ngân sách với tỷ lệ khá cao. Bội chi ngân
sách hàng năm từ khoảng từ 3% - 6% GDP. Nguồn lực vốn cho tăng trưởng
vẫn dựa quá nhiều vào nguồn lực bên ngồi, trong đó, vốn vay ODA chiếm tỷ
trọng cao, gây nên gánh nặng nợ quốc gia ngày càng tăng và đe dọa sự ổn định
tài chính trong tương lai. Hệ thống ngân hàng thương mại đang tiềm ẩn nhiều
rủi ro, nợ xấu chưa được xử lý đang đe dọa đến an ninh tài chính quốc gia.
Thể chế kinh tế thị trường chưa đồng bộ, chất lượng nguồn nhân lực thấp,
cùng với kết cấu hạ tầng thấp kém là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển.
Do đó, cần phải có sự thay đổi mạnh mẽ cả về tư duy, nhận thức, mục
tiêu phát triển bền vững và các giải pháp phải ngày càng mạnh mẽ hơn, triệt
để hơn, hệ thống hơn


13

3. Giải pháp phát triển bền vững kinh tế ở Việt Nam
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã xác định "Phát
triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu
xuyên suốt trong chiến lược", với các nội dung chủ yếu là: phải phát triển bền
vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi
chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng

phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải
kết hợp hài hịa với thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội; nâng cao không
ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải
luôn đi cùng với bảo vệ và cải thiện môi trường.
Để thực hiện quan điểm phát triển bền vững kinh tế và những nội
dung trên cần tập trung vào những giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng kết hợp hiệu
quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển theo chiều sâu.
Tăng cường năng lực về khoa học công nghệ trong phát triển kinh tế,
nhất là phát triển mạnh mẽ công tác nghiên cứu và triển khai (R&D) trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tập trung vào phát triển các ngành, các sản
phẩm có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, tăng cường đầu tư xây
dựng hạ tầng kỹ thuật hiện đại. Nghiên cứu và triển khai áp dụng mạnh mẽ
mô hình tăng trưởng xanh. Đây là mô hình mà các quốc gia phát triển đã và
đang áp dụng.
Hai là, sử dụng tốt các nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
bền vững.
Giải phóng nguồn nhân lực, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực và tạo
động lực mới để nguồn nhân lực phát huy tiềm năng, thế mạnh trong phát
triển kinh tế. Nhà nước cần có các quy hoạch sử dụng và phát triển nguồn tài
nguyên thiên nhiên của quốc gia một cách tối ưu nhất, sử dụng hiệu quả


14

nguồn lực vốn. Cải thiện môi trường kinh doanh và mơi trường đầu tư nhằm
khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh.Tạo
môi trường, thể chế sản xuất - kinh doanh đồng bộ, lành mạnh để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Đổi mới cơ chế, tổ chức bộ máy và phương thức hoạt
động của Nhà nước. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng thơng

thống, cơng khai, minh bạch để thúc đẩy đầu tư, tăng trưởng kinh tế. Kiên
quyết xử lý nghiêm tình trạng các địa phương, ngành dựng lên những rào cản
(giấy phép con) trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Ba là, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng.
Trong nền kinh tế thị trường, công bằng về cơ hội cho mọi chủ thể
trong nền kinh tế là điều kiện hết sức quan trọng. Cơ chế, mô hình và cách
thức can thiệp của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại phải theo
hướng tôn trọng các quy luật khách quan của thị trường, tức là phải tạo ra một
môi trường để các chủ thể trong nền kinh tế cạnh tranh với nhau một cách
bình đẳng, phải lấy thị trường làm căn cứ để phân bổ nguồn lực vốn có hiệu
quả, hạn chế tới mức thấp nhất sự can thiệp hành chính của Nhà nước vào nền
kinh tế. Đảm bảo cho mọi chủ thể trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh cơng
bằng và bình đẳng, có cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cận nguồn lực vốn.
Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu tăng trưởng
kinh tế nhanh, bền vững cần tập trung vào các biện pháp: Xây dựng chiến
lược và quy hoạch phát triển nguồn nhân lực phù hợp chuyển đổi mô hình
tăng trưởng, chú trọng nguồn nhân lực đối với các ngành kinh tế mũi nhọn.
Đổi mới hệ thống giáo dục - đào tạo, đổi mới nội dung giáo dục - đào tạo theo
yêu cầu của thị trường lao động, nâng cấp trang thiết bị dạy học, học nghề,
tiêu chuẩn hóa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, bồi dưỡng kỹ năng với
những tiêu chí chất lượng phù hợp, đào tạo người lao động có khả năng thích
ứng tốt với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.


15

Năm là, phát triển kết cấu hạ tầng.
Đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu
hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại. Nâng cao chất lượng quy

hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đảm bảo hiệu quả tổng hợp
và tính hệ thống, nhất là mạng lưới giao thông, điện, nước, thủy lợi, giáo dục,
y tế, hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin.
Tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng các công trình lớn, quan trọng,
thiết yếu, nhất là tại các khu vực có tiềm năng phát triển và giải quyết các ách
tắc, quá tải. Bảo đảm kết nối thông suốt giữa các trung tâm kinh tế lớn, các
đầu mối giao thông cửa ngõ, các tuyến có nhu cầu vận tải lớn. Quan tâm đầu
tư kết cấu hạ tầng giao thông tại các vùng khó khăn. Ưu tiên đầu tư các dự án
hạ tầng đáp ứng u cầu ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Hoàn thiện khung khổ pháp luật để tăng cường thu hút các nguồn lực
xã hội cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, khuyến khích đầu tư theo mô
hình công - tư kết hợp (PPP), đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài vào lĩnh
vực này.
Tăng cường quản lý, bảo đảm tiến độ, hiệu quả và chất lượng công trình,
thực hiện triệt để các biện pháp tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng.
Sáu là, đổi mới và hồn thiện hệ thống chính sách kinh tế, bảo vệ môi
trường và đảm bảo công bằng xã hội.
Việc đổi mới hệ thống chính sách kinh tế, bảo vệ mơi trường và chính
sách xã hội phải được tiến hành đồng thời và kết hợp theo hướng mỗi chính
sách kinh tế phải gắn với mục tiêu phát triển bền vững, cơng bằng xã hội và
mỗi chính sách phát triển bền vững, chính sách xã hội phải dựa trên những cơ
sở tiền đề vật chất của quá trình tăng trưởng kinh tế và đặc biệt nó phải tạo
được động lực cho tăng trưởng kinh tế, thực hiện được mục tiêu phát triển bền
vững. Tránh tình trạng chính sách tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, xung đột
với mục tiêu phát triển bền vững.


16

Theo đó, hệ thống chính sách kinh tế phải đổi mới theo hướng tạo mọi

điều kiện huy động các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu
quả sản xuất, kinh doanh, tăng thu nhập cho người lao động. Đổi mới chính
sách xã hội theo hướng đảm bảo công bằng xã hội, tạo điều kiện tốt hơn để
người dân tiếp cận các dịch vụ thiết yếu, các nguồn lực, khuyến khích làm
việc tăng thu nhập. Chính sách kinh tế và chính sách xã hội phải thực sự là
kênh để điều tiết thu nhập giữa các ngành, giữa các doanh nghiệp, vùng, miền
và giữa các bộ phận dân cư. Chính sách mơi trường phải thực sự làm tăng
trưởng kinh tế và thực hiện tốt mục tiêu phát triển bền vững về môi trường.
Bẩy là, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong đó giải pháp cơ bản, lâu dài về chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế cần được triển khai ở các nội dung chủ yếu sau:
- Xây dựng các cơ chế, chính sách quản lý các hoạt động kinh tế,
trong đó chủ động thực hiện theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
- Để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, cần lấy việc du nhập tri
thức, công nghệ, kỹ thuật, thiết bị, phương thức kinh doanh hiện đại của thế
giới làm căn cứ trực tiếp của việc lựa chọn đối tác để có hướng ưu tiên tiếp
cận; sớm xây dựng các giải pháp tăng cường xuất khẩu để nhập khẩu tri thức
và công nghệ - kỹ thuật nhằm tăng nhanh tốc độ hiện đại hóa nền kinh tế
hướng tới đuổi kịp các nước trung bình và tiến tới là các nước tiên tiến trong
khu vực và trên thế giới.
- Xác định rõ chiến lược thị trường (đối tác) và dành sự nỗ lực cho
việc giành và giữ thị phần ở các thị trường đó. Hướng thị trường ưu tiên là
những thị trường hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam gắn với các trung tâm kinh
tế và khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới, như Mỹ, Nhật Bản và EU,
Trung Quốc, Hàn Quốc, Trung Đơng...
Tám là, bảo đảm quốc phịng, an ninh đủ mạnh để bảo vệ đất nước,
duy trì ổn định chính trị để phát triển kinh tế.


17


Tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp. Hợp tác
và đấu tranh đan xen phức tạp; mâu thuẫn và xung đột ln có thể xảy ra. Các
thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá hòng lật đổ chế độ, phá thế ổn định
phát triển của đất nước... Do đó chúng ta cần xây dựng quân đội đủ mạnh để
bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Đồng thời, cần bảo đảm và duy
trì trật tự trị an xã hội nhằm giữ vững ổn định chính trị, tạo thế và lực để phát
triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh.
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, cũng như thực tiễn Việt
Nam đã chứng minh rằng, khả năng phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế
của một quốc gia, kể cả những nền kinh tế vốn rất nghèo tài nguyên thiên
nhiên là hồn tồn có thể. Việt Nam đang trong giai đoạn có khả năng phát
triển nhanh và bền vững, do hội được các điều kiện thuận lợi khách quan và
chủ quan, trong nước cũng như quốc tế. Để thực hiện thành công Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020: "Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại", chúng ta cần phát huy
sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và hệ thống chính trị, tận dụng thời cơ,
vượt qua thách thức, triển khai đồng bộ nhiều nhóm giải pháp, trong đó có
những giải pháp như đã đề xuất trên đây.


18

C. KẾT LUẬN
Thực hiện có hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững
đòi hỏi phải tạo được sự chuyển biến có tính cách mạng, thấu suốt về nhận
thức, đổi mới mạnh mẽ về tư duy, quán triệt trong mọi chính sách, quy hoạch,
kế hoạch, dự án và chương trình hành động; tổ chức thực hiện quyết liệt ở tất
cả các ngành, các cấp với sự đồng thuận tham gia của cả hệ thống chính trị,
của cộng đồng doanh nghiệp và mọi người dân trong cả nước.

Chúng ta tin tưởng vững chắc rằng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng, phát huy sức mạnh của khối đại đồn kết tồn dân tộc với sự điều hành
có hiệu quả của Nhà nước, sự phấn đấu nỗ lực của toàn dân, toàn quân, nhất
định đất nước ta sẽ bước vào một thời kỳ mới phát triển nhanh và bền vững.


19

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ (1992), Báo cáo quốc gia tại hội nghị cấp cao của Liên hợp
quốc về phát triển bền vững (RIO+20).
2. Chính phủ (2004), Quyết định số 153/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền
vững ở Việt Nam (chương trình nghị sự 21 của Việt Nam), Hà Nội.
3. Chính phủ (2012), Quyết định số 432/2012/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2020, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Cao cấp lý
luận chính trị, khối kiến thức thứ tư, Tập 14 "Các chuyên đề bổ trợ", Nxb lý
luận chính trị, Hà Nội.



×