Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tieu luan các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.96 KB, 31 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Bảo vệ các quyền con người nhất là các quyền về dân sự là nhiệm vụ
hàng đầu và quan trọng trong việc xây dựng pháp luật, vì đây là những quyền cơ
bản nhất, có phạm vi rộng nhất, để từ đó có cơ sở thực hiện các quyền về chính
trị, kinh tế, tơn giáo khác… Các quyền dân sự của con người ngày càng được
mở rộng, nhất là trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát triển không ngừng
của nền kinh tế xã hội, các tranh chấp phát sinh ngày càng đa dạng, phức tạp. Do
đó, địi hỏi Tòa án phải giải quyết các vụ án dân sự kịp thời, nhanh chóng nhằm
ổn định các quan hệ xã hội và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức. Để đáp ứng mục tiêu này, trong những trường hợp cần thiết, Tịa
án có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết vụ
án dân sự. Mỗi biện pháp khẩn cấp tạm thời đều có những đặc điểm, mục đích
khác nhau và biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng có những đặc điểm riêng của nó
mà các biện pháp khác khơng có được, đó là tính khẩn cấp, tính tạm thời, tính
bảo đảm và tính cưỡng chế. Biện pháp khẩn cấp tạm thời là một trong những
giải pháp quan trọng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án, giúp
cho việc giải quyết vụ án được chính xác và hiệu quả, bảo đảm được khả năng
thi hành án, từ đó bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Chế định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được xây dựng tại
Chương thứ VIII Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung một số điều được Quốc
hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thơng qua ngày 29/3/2011, có
hiệu lực kể từ ngày 01/01/2012, bao gồm 28 điều luật (từ Điều 99 tới Điều 126).
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho Tòa án trong việc quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời để đáp ứng yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ
chứng cứ, đảm bảo cho việc xét xử và thi hành án.Trên cơ sở quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số
02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định tại
Chương VIII "Các biện pháp khẩn cấp tạm thời" của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng đã cho thấy các quy định về biện pháp khẩn cấp
tạm thời trong Bộ luật Tố tụng dân sự - bên cạnh những ưu việt - đã bộc lộ một
1




số hạn chế, chưa tương thích và bao quát hết được thực tiễn.Trước thực trạng đó,
gắn liền với cơng việc của bản thân tại đơn vị Tòa án nhân dân quận Tây Hồ thành phố Hà Nội, tôi thấy việc nghiên cứu đề tài "Các biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong tố tụng dân sự Việt Nam" là một yêu cầu cấp thiết và có ý nghĩa. Tuy
nhiên, đây là một mảng đề tài rộng nên tác giả bài viết chỉ tập trung vào nội
dung "Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong việc giải quyết vụ án dân sự
tại Tòa án cấp sơ thẩm".
Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay khi Đảng và Nhà nước ta đang chủ
trương đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp, theo hướng xây dựng Tòa án là
trung tâm trong hệ thống tư pháp, thì hoạt động áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời do Tòa án áp dụng càng được coi trọng. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài trên
của tác giả sẽ góp phần đáp ứng một trong các nhiệm vụ của công cuộc cải cách
tư pháp được đề ra trong Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính
trị, Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XI về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020: "Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự... bảo đảm tính đồng bộ,
dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người".

2


PHẦN NỘI DUNG
1. Tổng quan những vấn đề liên quan tới đề tài
1.1. Bối cảnh tiếp cận đề tài
Chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự là một chế
định quan trọng, xuất phát từ vai trị và ý nghĩa thực tiễn của nó, nên nhận được
sự quan tâm, đóng góp ý kiến của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu và những
người làm công tác thực tiễn...
Trong thời gian vừa qua, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập đến
các khía cạnh khác nhau, dưới các mức độ khác nhau về biện pháp khẩn cấp tạm

thời trong tố tụng dân sự Việt Nam. Có thể điểm qua một số cơng trình nghiên
cứu và các bài viết có liên quan đến biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng
dân sự Việt Nam như sau:
Tác giả Trần Anh Tuấn - giảng viên Trường đại học luật Hà Nội đã có
một số bài viết như: "Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật Tố tụng dân sự
và thực tiễn áp dụng", Tạp chí dân chủ và pháp luật số 12 (165) năm 2005; "Chế
định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam"; đề tài
khoa học năm 2010 "Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thủ tục giải quyết vụ
việc dân sự theo định hướng cải cách tư pháp". Ngồi ra, cịn có một số bài viết
có đóng góp về vấn đề này đăng trên các tạp chí Luật học, tạp chí Tịa án nhân
dân, tạp chí kiểm sát như: "Chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng
dân sự"; "Bàn về trách nhiệm do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không
đúng quy định tại Điều 101 Bộ luật Tố tụng dân sự "; "Một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện các quy định về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
Bộ luật tố tụng dân sự",...
Tuy nhiên, trong các cơng trình nghiên cứu nói trên, các tác giả chỉ tập
trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về biện pháp khẩn cấp tạm
thời nói chung trong tố tụng dân sự mà không nghiên cứu chuyên sâu về việc áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án dân sự tại Toà án
cấp sơ thẩm với tư cách là hoạt động chuyên biệt của Tòa án. Vì vậy, đề tài chỉ
nghiên cứu phần Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ
3


án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm bởi đề tài nghiên cứu có tính chất chun sâu,
rất cần giải quyết đối với ngành trong thời gian tới.
Để nghiên cứu đề tài đạt hiệu quả, tại phần hai của Tiểu luận tác giả sử
dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như phân tích, tổng
hợp, so sánh. Mỗi phương pháp nghiên cứu khác nhau có tác dụng hỗ trợ, bổ
sung lẫn nhau làm cho đề tài được nghiên cứu một cách đầy đủ, sâu sắc. Phương

pháp phân tích làm sáng tỏ các quy định định của pháp luật hiện hành về các vấn
đề nghiên cứu. Phương pháp tổng hợp giúp người nghiên cứu có cái nhìn tổng
qt, toàn diện về các vấn đề nghiên cứu. Phương pháp so sánh cũng được sử
dụng trong việc nghiên cứu đề tài để làm nổi bật các ưu điểm, hạn chế trong các
quy định pháp luật thuộc nội dung đề tài nghiên cứu. Khi phân tích các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tác giả
cũng đặt pháp luật trong mối quan hệ với điều kiện kinh tế, xã hội, với quá trình
cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Bên cạnh đó, người viết còn sưu tầm tài liệu từ các trang web, sách báo
chuyên ngành liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu. Từ đó đưa ra những kiến thức
tổng hợp hỗ trợ tích cực cho việc hồn thành tiểu luận, tìm ra những vướng mắc
trong lĩnh vực nghiên cứu và có những ý kiến đóng góp hồn thiện pháp luật
trong phạm vi nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu: tìm hiểu quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam về yêu cầu áp dụng và thực hiện biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
thực tế; những khó khăn thường gặp phải trong quá trình thực thi pháp luật. Trên
cơ sở đó đề xuất ý kiến hoàn thiện pháp luật.
Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án dân sự
tại Tòa án cấp sơ thẩm là vấn đề chứa đựng các nội dung khác nhau về cả lý luận
và thực tiễn. Tiểu luận chỉ tập trung nghiên cứu về các vấn đề lý luận trong việc
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án
cấp sơ thẩm. Những vấn đề khác như áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sau
khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm hoặc tại giai đoạn phúc thẩm không thuộc phạm
vi nghiên cứu của tiểu luận.
4


1.2. Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời
"Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp Tòa án quyết định áp dụng

trước khi thụ lý hoặc trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết
nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo tồn tài sản tranh chấp,
tránh gây thiệt hại khơng thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án"(1).
"Nội hàm của biện pháp khẩn cấp tạm thời được thể hiện ở tính khẩn cấp
của việc Tịa án ra ngày quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trước
hoặc trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án khi có yêu cầu
của đương sự hoặc do Tòa án quyết định nhằm bảo vệ kịp thời các quyền và lợi
ích hợp pháp cũng như nhu cầu cấp bách của đương sự. Mặt khác, do có xung
đột về lợi ích trong vụ án nên các bên đương sự thường tìm cách tẩu tán tài sản,
hủy hoại chứng cứ làm sai lệch nội dung vụ việc, điều đó khơng những gây khó
khăn cho đương sự phía bên kia thực hiện việc cung cấp chứng cứ chứng minh
cho u cầu của mình mà cịn gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động xét xử của
Tòa án. Và như vậy việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có ý nghĩa hết ức
to lớn trong q trình giải quyết vụ việc dân sự, nó khơng chỉ có ý nghĩa pháp lý
mà cịn có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay,
biện pháp khẩn cấp tạm thời ngày càng trở thành công cụ pháp lý vững chắc để
các đương sự bảo vệ quyền lợi của mình khi tham gia vào các quan hệ dân sự,
thương mại, lao động"(2).
1.3. Đặc điểm của biện pháp khẩn cấp tạm thời

Tính khẩn cấp:
Đây là điểm nổi bật của biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân
sự, tính khẩn cấp cũng thể hiện rất rõ qua tên gọi của biện pháp, biện pháp khẩn
cấp tạm thời chỉ được áp dụng trong trường hợp khẩn cấp. Có những vụ việc dân
sự Tịa án chỉ tiến hành những thủ tục thông thường: thụ lý vụ án, chuẩn bị xét
xử, xem xét nghiên cứu kỹ chứng cứ rồi ra bản án, quyết định giải quyết nội
dung vụ việc dân sự. Có những vụ việc dân sự nếu Tịa án áp dụng những trình
tự thủ tục giải quyết thơng thường như trên thì sẽ khơng bảo vệ được quyền và
1) Tưởng Duy Lượng (2009), Pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.

(
2) Học viện Tịa án (2015), Giáo trình Nghiệp vụ xét xử, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 136-137.
(

5


nghĩa vụ của đương sự, bởi vì quyền và lợi ích của đương sự đang bị đe dọa,
chúng cứ giải quyết vụ việc có nguy cơ bị hủy hoại, tài sản tranh chấp đang bị
tẩu tán…Trước tình thế đó, Tịa án cần có một giải pháp trước mắt để kịp thời
bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Những vụ việc như vậy gọi là những vụ
việc dân sự có tính khẩn cấp và cần phải được Tịa án áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời.
Cơ sở để biết được vụ việc có tính khẩn cấp chính là u cầu của người
có quyền lợi cần được bảo vệ khẩn cấp. Nếu Tịa án khơng can thiệp hoặc chậm
can thiệp thì khơng bảo vệ được quyền lợi của người u cầu hoặc có những
thiệt hại khơng thể khắc phục được: chứng cứ vụ án bị sai lệch làm cho quá trình
giải quyết vụ án gặp khó khăn, tài sản thi hành nghĩa vụ khơng cịn dù sau này
quyền lợi của họ có được bảo vệ thì cũng khơng cịn ý nghĩa vì người có nghĩa
vụ khơng cịn điều kiện để thi hành phán quyết của Tịa án. Tuy nhiên khơng
phải mọi trường hợp khi có yêu cầu khẩn cấp của chủ thể có quyền thì Tịa án
mới áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, với vai trò là một cơ quan tiến hành
tố tụng, Tịa án có quyền chủ động tiến hành mọi biện pháp phù hợp với quy
định của pháp luật để giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, hiệu quả.
Mặt khác, với khả năng kiểm sốt được tiến trình giải quyết vụ việc, Tịa án có
thể thấy được sự khẩn cấp trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Vì
thế, Tịa án có quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mặc dù đương sự
khơng có u cầu.
Tính khẩn cấp của biện pháp khẩn cấp tạm thời còn thể hiện qua việc
Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời một cách nhanh chóng

theo những thủ tục rất đơn giản, khơng địi hỏi phải xem xét kỹ lưỡng các tài
liệu chứng cứ. Nếu Tịa án khơng quyết định nhanh thì sẽ ảnh hưởng đến sức
khỏe, tính mạng của đương sự, chứng cứ bị hủy hoại, tài sản bị tẩu tán… Ngoài
ra, biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi được Tòa án quyết định áp dụng sẽ được
triển khai thi hành rất khẩn trương.
Tất cả những đặc tính trên xuất phát từ nhu cầu phải bảo vệ kịp thời
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Nếu Tòa án ra quyết định nhanh mà
chậm thi hành hoặc thủ tục rườm rà thì biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng không
6


cịn ý nghĩa về mặt thực tiễn. Do đó, việc ra quyết định áp dụng và thủ tục tiến
hành nhanh chóng có vai trị rất quan trong quyết định ý nghĩa của việc áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Tính tạm thời:
Tính tạm thời là một đặc tính rất riêng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Việc
Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ là cách xử trí tạm
thời của Tịa án do u cầu khẩn cấp của vụ việc.
Trong thời gian vụ việc đang được Tòa án xem xét và giải quyết, do nhu
cầu cấp thiết trước mắt của đương sự nên Tòa án phải ra quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời, nếu khơng sẽ dẫn đến những khó khăn lớn trong
quá trình giải quyết và thi hành bản án, phán quyết của Tịa án sau này. Khi vụ
việc khơng cịn trong tình trạng khẩn cấp, Tịa án có đủ thời gian xem xét kỹ
lưỡng vụ việc và ra bản án quyết định chính thức. Vì vậy, quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực ngay nhưng nó chỉ là quyết định tạm
thời với mục đích giải quyết những yêu cầu khẩn cấp của đương sự, không phải
là quyết định cuối cùng giải quyết vụ việc dân sự, nên nó khơng tồn tại vĩnh
viễn. Việc xử lý biện pháp khẩn cấp tạm thời phụ thuộc vào nội dung bản án,
quyết định giải quyết nội dung vụ việc dân sự. Hoặc khi lý do áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời khơng cịn nữa thì biện pháp khẩn cấp tạm thời bị hủy bỏ.

Tính bảo đảm:
Tính bảo đảm của biện pháp khẩn cấp tạm thời được thể hiện thơng qua
mục đích của việc áp dụng, nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo
vệ chứng cứ, bảo toàn tài sản bảo đảm khả năng thi hành án sau này, do đó bảo
vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Tính cưỡng chế:
Tính cưỡng chế của biện pháp khẩn cấp tạm thời được thể hiện thơng qua
quyết định của Tịa án và hiệu lực của biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tòa án đại diện
cho cơ quan quyền lực nhà nước, có thẩm quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời. Quyết định này có hiệu lực ngay đối với tất cả các bên
đương sự, các cơ quan tiến hành tố tụng và các cá nhân, cơ quan khác có liên
quan. Nếu các bên đương sự, các cá nhân, cơ quan có liên quan khác khơng tự
giác thi hành thì sẽ bị cơ quan thi hành án cưỡng chế buộc thi hành quyết định.
7


Nếu không đồng thuận với quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời thì đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với
Chánh án Tịa án đã ra quyết định đó.
1.4. Đặc điểm của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải
quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm

Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là hoạt động áp dụng pháp luật, nó
có đầy đủ các đặc điểm của hoạt động áp dụng pháp luật nói chung như: mang
tính quyền lực nhà nước; do cơ quan nhà nước có thẩm quyền; mang tính cá
biệt, cụ thể; đòi hỏi sự sáng tạo. Tuy nhiên, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong việc giải quyết các vụ án dân sự sơ thẩm thì chỉ riêng Tịa án cấp sơ thẩm
là chủ thể duy nhất được nhà nước trao quyền thực hiện. Vì vậy, ngồi các đặc
điểm chung nêu trên, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cịn có những đặc
điểm riêng biệt dưới đây:

* Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chủ yếu được tiến hành trên
cơ sở quyền tự định đoạt của đương sự.
Có thể khẳng định rằng, các biện pháp khẩn cấp tạm thời thường do một
bên yêu cầu (thường là nguyên đơn), còn Tòa án rất hiếm khi ra quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (trừ một số trường hợp được pháp luật quy
định vì tính nhân đạo), nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo
toàn tài sản tranh chấp, hoặc chứng cứ. Đây là đặc điểm để phân biệt áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời với các hoạt động áp dụng pháp luật khác. Đặc
điểm này được hình thành dựa trên nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự,
việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong việc giải quyết các vụ án dân sự
được thực hiện dựa trên yêu cầu của đương là chủ yếu. Trường hợp đơn yêu cầu
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là có căn cứ và cần thiết, Tòa án ra quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và cũng trên cơ sở quyền tự định đoạt
của đương sự, Tòa án sẽ ra quyết định thay đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ biện pháp
khẩn cấp tạm thời nếu thấy biện pháp khẩn cấp tạm thời đang được áp dụng là
không phù hợp hoặc khơng cịn cần thiết.
* Chủ thể áp dụng là Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử sơ thẩm tiến hành
Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là hoạt động áp dụng pháp luật nên
phải tuân theo những trình tự, thủ tục luật định. Theo quy định của pháp luật
8


hiện hành, chỉ có Thẩm phán và Hội đồng xét xử sơ thẩm được quyền áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa
án cấp sơ thẩm. Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án là người am hiểu
pháp luật, có kinh nghiệm nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp
luật. Do đó, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án
dân sự do Thẩm phán tiến hành mới đảm bảo được tính đúng đắn và tuân thủ
đúng các quy trình của pháp luật tố tụng dân sự. Nếu vụ án đã được đưa ra xét
xử tại phiên tòa thì các vấn đề phát sinh tại phiên tịa, trong đó có việc quyết

định về biện pháp khẩn cấp tạm thời phải do Hội đồng xét xử sơ thẩm thực hiện.
* Mục đích của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là nhằm đáp
ứng nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ kịp thời quyền lợi của người có yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc người yếu thế
Biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong pháp luật phải có tính
đa dạng, bao gồm nhiều loại biện pháp khác nhau, mỗi biện pháp được áp dụng
nhằm một mục đích nhất định, có biện pháp nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách
của đương sự (buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng, buộc thực
hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại...), có biện pháp nhằm bảo
tồn tài sản (kê biên tài sản, cấm chuyển dịch quyền về tài sản..), có biện pháp
nhằm giải quyết vụ án và đảm bảo thi hành án dân sự (cấm hoặc buộc đương sự
thực hiện những hành vi nhất định...). Mặc dù mỗi biện pháp khẩn cấp tạm thời
khác nhau, được áp dụng tương ứng với mỗi vụ án có tính chất khác nhau, nhằm
mục đích khác nhau, nhưng cái đích cuối cùng của việc áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời mà người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và chủ thể
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hướng tới vẫn là nhằm đáp ứng nhu cầu
cấp bách của đương sự, bảo vệ kịp thời quyền lợi của người có yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc người yếu thế.
* Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nhanh chóng, kịp thời
và trong một số trường hợp cần phải tiến hành bí mật, bất ngờ
Với mục đích nhằm bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự trong vụ án dân sự (một bên đương sự trong vụ án dân sự - thường là nguyên
đơn), nếu các biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng không đảm bảo được
9


yếu tố nhanh chóng, kịp thời, thì tính mạng, sức khỏe, tài sản... của người yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ không được bảo đảm. Mặt khác,
việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ tác động trực tiếp đến quyền, lợi
ích của bên bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, trường hợp các thông tin về

việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bị rị rỉ ra ngồi, người bị u cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời biết được sẽ tìm cách đối phó như tẩu tán, hủy
hoại tài sản, rút tiền ra khỏi tài khoản... gây thiệt hại cho người yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời. Do đó, để việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời phát huy được hiệu quả thì ngồi việc đảm bảo yếu tố nhanh chóng, kịp thời
trong q trình áp dụng cịn phải bảo đảm yếu tố bí mật, bất ngờ và có hiệu quả.
* Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải tuân theo các điều kiện,
trình tự thủ tục do pháp luật quy định
Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tiến hành, việc áp dụng có tác động trực tiếp quyền, lợi ích của người bị
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nên pháp luật cần quy định Thẩm phán hay
Hội đồng xét xử phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện về trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định. Đó là các điều kiện pháp luật về nội dung, hình thức, chẳng hạn
các điều kiện về người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (đơn yêu
cầu, thời điểm yêu cầu, nội dung yêu cầu, tài liệu chứng cứ kèm theo đơn yêu
cầu, điều kiện về việc buộc thực hiện biện pháp bảo đảm...); các điều kiện về
trình tự, thủ tục ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thời hạn ra
quyết định, hình thức văn bản của Tịa án, thời hạn gửi quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời...v.v. Đây là những điều kiện bắt buộc mà Thẩm phán,
hoặc Hội đồng xét xử sơ thẩm phải tuân theo trong quá trình áp dụng.
* Việc áp dụng phải bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các đương sự
trong vụ án:
Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do con người tiến hành mà cụ
thể là do Thẩm phán Tòa án thực hiện, mà Thẩm phán cũng là những con người
bình thường, đơi khi cũng mắc phải những sai lầm, thiếu sót trong q trình thực
hiện cơng việc, nhiệm vụ. Do đó, Thẩm phán có thể ban hành các quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khơng đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích
10



hợp pháp của các đương sự (gồm nguyên đơn, bị đơn, người thứ ba có liên
quan) trong vụ án. Vì vậy, pháp luật tố tụng dân sự không những phải có các quy
định để bảo vệ riêng quyền lợi của nguyên đơn mà còn phải thiết lập các quy
định khác nhằm ràng buộc, hạn chế Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
không đúng hoặc ngăn chặn sự lạm quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời từ phía người có quyền u cầu áp dụng như các quy định về việc buộc
thực hiện biện pháp bảo đảm, quy định về việc Tịa án khơng áp dụng vượt quá
yêu cầu của người có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quy
định về trách nhiệm do việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng,
khiếu nại, kiến nghị liên quan đến việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời...
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tất cả các đương sự trong vụ án dân sự.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Phân loại các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự
hiện hành
Kế thừa và phát triển các quy định của các văn bản pháp luật tố tụng dân
sự trước đây, Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định 12 biện pháp khẩn cấp tạm thời
tại Điều 102 mà tòa án được áp dụng. Đây là sự kế thừa các quy định tại Điều 41
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Điều 42 Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế, Điều 44 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động. Tuy vậy, cũng có một số biện pháp lần đầu tiên được bổ sung quy định
trong Bộ luật Tố tụng dân sự như các biện pháp về phong tỏa tài sản, tài khoản,
buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng sức
khỏe bị xâm phạm… Ngoài ra, khoản 2 Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự còn
thừa nhận cả những biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định.
Việc Bộ luật tố tụng dân sự quy định tương đối đầy đủ các biện pháp khẩn cấp
tạm thời đã góp phần khơng nhỏ vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
đương sự. Khơng chỉ quy định nhiều hơn về số lượng các biện pháp khẩn cấp
tạm thời nhằm bảo vệ quyền lợi cho đương sự, Bộ luật Tố tụng dân sự còn quy
định tương đối cụ thể về điều kiện áp dụng đối với từng biện pháp.
Để có thể xác định và xây dựng được một cách hợp lý các quy định về

điều kiện áp dụng, việc áp dụng có cần dựa trên yêu cầu của đương sự hay
11


không cũng như xác định đúng các điều kiện về biện pháp khẩn cấp tạm thời đã
được quy định để quyết định đúng các biện pháp khẩn cấp tạm thời phù hợp,
thỏa mãn các dữ kiện của tình huống khi áp dụng trên thực tế đòi hỏi cần phải
nắm vững bản chất và phân loại được các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Căn cứ
vào bản chất, mục đích áp dụng của các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể phân
loại các biện pháp khẩn cấp tạm thời thành các nhóm cơ bản sau đây:
* Các biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ
Thuộc nhóm này gồm các biện pháp khẩn cấp tạm thời như: Buộc thực
hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng; buộc thực hiện trước một phần nghĩa
vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm; buộc người sử
dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao
động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Nhìn chung ở các biện pháp
khẩn cấp tạm thời này đều có điểm giống nhau là người có nghĩa phải tạm ứng
trước một khoản tiền cho người có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời, để giải quyết nhu cầu cấp bách, trước mắt của họ.
Tính khẩn cấp của các biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc nhóm này thể
hiện ở chỗ là người có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đang
cần được bảo vệ ngay quyền và lợi ích hợp pháp, nếu khơng được nhận kịp thời
một khoản tiền nhất định, tính mạng, sức khỏe của người đó có thể bị nguy
hiểm, bị đe dọa. Vì tính nhân đạo của pháp luật và trách nhiệm của Nhà nước
với công dân, các biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc nhóm này thường được áp
dụng dưới hai hình thức là theo đơn yêu cầu của đương sự và trong một số
trường hợp cần thiết, Tòa án có quyền tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời ngay cả khi đương sự khơng có u cầu.
* Các biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng đối với tài sản đang
tranh chấp

Bao gồm các biện pháp như: Kê biên tài sản đang tranh chấp; cấm
chuyển dịch quyển về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện
trạng tài sản đang tranh chấp, cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm,
hàng hóa khác.
Đây là các biện pháp mà pháp luật tố tụng dân sự có quy định về điều
kiện áp dụng "chỉ được áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp", các tài sản
12


khác của người có nghĩa vụ tuy có khả năng bảo đảm thi hành án nhưng nếu
khơng có tranh chấp thì cũng khơng được áp dụng của biện pháp này. Các biện
pháp khẩn cấp tạm thời này có mục đích nhằm bảo tồn tài sản tranh chấp, ngăn
chặn, phịng ngừa người có nghĩa vụ tẩu tán hoặc hủy hoại tài sản, đảm bảo thi
hành án. Đối với nhóm các biện pháp khẩn cấp tạm thời này được áp dụng trên
cơ sở yêu cầu của đương sự.
* Các biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài khoản, tài sản
Bao gồm các biện pháp khẩn cấp tạm thời như: Phong tỏa tài khoản tại
ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi
giữ; phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời
này được áp dụng đối với người có nghĩa vụ có tài khoản mở tại ngân hàng, tổ
chức tín dụng, kho bạc nhà nước hoặc trong trường hợp người có nghĩa vụ có tài
sản nhưng vì muốn trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền đã
gửi tài sản cho người khác quản lý hộ, tránh sự phát hiện của người có quyền
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Thực chất các biện pháp phong tỏa tài sản, tài khoản nêu trên đều là
phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ, mục đích của việc áp dụng là nhằm cơ
lập khơng cho các tài sản của người có nghĩa vụ được đưa vào giao dịch, lưu
thơng, từ đó bảo toàn được tài sản, bảo đảm khả năng thi hành án. Các biện pháp
này thường không liên quan đến các chủ thể có quyền lợi là người yếu thế khơng
có khả năng tự bảo vệ mình nên thường được Tịa án áp dụng dựa trên yêu cầu

của đương sự.
* Các biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm hoặc buộc thực hiện những
hành vi nhất định
Thuộc nhóm này có thể kể đến các biện pháp khẩn cấp tạm thời như:
Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, ni dưỡng,
chăm sóc, giáo dục; tạm đình chỉ thi hành quyết định sa thải người lao động...
Thực chất các biện pháp khẩn cấp tạm thời nêu trên được áp dụng để tạo điều
kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án của Tòa án và bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác có liên quan trong vụ án đang được Tòa án giải quyết.
Các biện pháp này thường liên quan đến các chủ thể có quyền lợi là người yếu
13


thế khơng có khả năng tự bảo vệ mình nên Tịa án có thể tự mình áp dụng nếu
xét thấy cần thiết hoặc áp dụng dựa trên yêu cầu của đương sự.
* Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác do pháp luật quy định
Ngoài các biện pháp khẩn cấp tạm thời nêu trên, pháp luật có thể cho
phép Thẩm phán được phân cơng giải quyết vụ án có thể áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời khác chưa được liệt kê trong pháp luật nếu việc áp dụng các
biện pháp này là cần thiết để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự. Thực tiễn
giải quyết án dân sự rất phong phú, đa dạng, nên các quy định được dự liệu
trước về biện pháp khẩn cấp tạm thời nhiều khi khơng thể bao qt hết các tình
huống nảy sinh trong cuộc sống. Do vậy, cần phải có những quy định mở nhằm
trao thêm thẩm quyền cho Tòa án trong việc bảo vệ quyền lợi cho đương sự như
biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo toàn chứng cứ, niêm phong, bắt giữ tàu
bay, tàu biển v.v...
Tuy nhiên, không phải tất cả mọi vụ án dân sự đều được Tòa án áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời mà chỉ có những vụ án dân sự xuất hiện tình huống
thực sự khẩn cấp và việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vào việc giải
quyết vụ án đó là có căn cứ và cần thiết, khi đó Tịa án có thể xem xét quyết

định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Mặc dù mỗi biện pháp khẩn cấp tạm thời khác nhau, được áp dụng tương
ứng với mỗi vụ án có tính chất khác nhau, nhằm mục đích khác nhau; tùy từng
lĩnh vực tranh chấp mà chúng ta yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
cho phù hợp, có những biện pháp chỉ áp dụng trong lĩnh vực dân sự như giao
người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục; có những biện pháp chỉ áp dụng trong lĩnh vực lao động như biện
pháp tạm đình chỉ thi hành quyết định sa thải người lao động…và mỗi biện pháp
khẩn cấp tạm thời có một ý nghĩa nhất định. Vì vậy, tùy từng trường hợp cụ thể,
người có quyền yêu cầu có quyền lựa chọn biện pháp khẩn cấp tạm thời thích
hợp nhất để u cầu Tịa án ra quyết định, phát huy tốt hiệu quả của biện pháp
khi áp dụng vào thực tế vụ việc, và hướng tới cái đích cuối cùng của việc áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời và chủ thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hướng tới vẫn là
14


nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ kịp thời quyền lợi của
người có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc người yếu thế.
2.2. Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải
quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm
* Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời góp phần kết thúc vụ án một
cách nhanh chóng
Trong các tranh chấp dân sự, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, các đương sự có quyền lựa chọn phương thức và cách thức thực hiện khác
nhau, có thể họ tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp.
Trường hợp mâu thuẫn phát sinh gay gắt, các bên không thể thương lượng được,
đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện đề nghị Tịa án giải quyết. Thơng thường
các vụ việc tranh chấp được Tịa án giải quyết thơng qua con đường khởi kiện,
Tòa án cũng như các đương sự phải tuân theo điều kiện về trình tự, thủ tục rất

chặt chẽ (thủ tục thụ lý, hòa giải, xét xử...). Do đó, đến khi tranh chấp được giải
quyết dứt điểm cũng phải mất một khoảng thời gian khá dài. Trong khi đó, có
những tình huống khẩn cấp địi hỏi Tịa án phải quyết định ngay các biện pháp
cần thiết nếu không tính mạng, sức khỏe, tài sản của người có quyền, lợi ích hợp
pháp bị xâm phạm khơng được bảo đảm. Do vậy, trong trường hợp khẩn cấp,
pháp luật quy định cho phép đương sự đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện, có
quyền u cầu Tịa án áp dụng ngay biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong nhiều
trường hợp việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc người có nghĩa vụ
phải tự nguyện thi hành nghĩa vụ của mình hoặc thỏa thuận với bên nguyên đơn
về giải quyết vụ án, do vậy thời hạn tố tụng được rút ngắn, quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự được bảo vệ kịp thời.
* Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời góp phần giải quyết nhu cầu cấp
bách của đương sự
Các tranh chấp dân sự rất phong phú, đa dạng, một trong số các tranh
chấp đó địi hỏi Tịa án phải xem xét, giải quyết ngay mà không thể giải quyết
theo một trình tự, thủ tục thơng thường, nếu khơng quyền, lợi ích hợp pháp của
một trong các bên đương sự sẽ khơng được bảo đảm. Đó là các tranh chấp về
vấn đề cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tạm ứng tiền công, tiền
15


lương. Trong trường hợp này, các biện pháp khẩn cấp tạm thời như: buộc thực
hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng, buộc thực hiện trước một phần nghĩa
vụ bồi thường thiệt hại, buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền
công, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp...được áp dụng có ý nghĩa hết
sức quan trọng trong việc giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự.
* Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời góp phần bảo tồn tài sản, đảm
bảo khả năng thi hành án dân sự
Có thể khẳng định rằng, phần lớn các tranh chấp dân sự có liên quan đến
tài sản, có thể tranh chấp trực tiếp một tài sản cụ thể hoặc thông qua một vụ việc

tranh chấp mà các vấn đề về tài sản được các đương sự yêu cầu Tịa án giải
quyết. Do đó, các biện pháp khẩn cấp tạm thời khẩn cấp tạm thời như kê biên tài
sản, cấm chuyển dịch quyền về tài sản đang tranh chấp, cấm thay đổi hiện trạng
tài sản đang tranh chấp, phong tỏa tài sản, tài khoản... các biện pháp này được áp
dụng đối với người có nghĩa vụ nhằm ngăn chặn những người này tẩu tán, hủy
hoại tài sản...qua đó, có tác dụng bảo tồn tài sản, bảo đảm thi hành án.
* Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc
giải quyết vụ án
Đối với các tranh chấp dân sự, thời hạn thụ lý, giải quyết theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành phải mất từ hai tháng đến bốn tháng.
Ngồi ra, tùy theo tính chất, mức độ phức tạp của mỗi vụ án dân sự mà thời hạn
đưa vụ án ra xét xử có thể được gia hạn thêm từ một tháng đến hai tháng. Tuy
nhiên với việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã đem lại hiệu quả tức thì,
quyền lợi của đương sự được bảo vệ ngay khi vụ án chưa được Tòa án giải quyết
bằng bản án, các hành vi tiêu cực của đương sự đối lập được ngăn chặn kịp thời.
Chẳng hạn, có những vụ án, bị đơn có hành vi hủy hoại chứng cứ, mua chuộc,
đe dọa người làm chứng đã được Tòa án ngăn chặn kịp thời, tạo điều kiện cho
Tòa án giải quyết vụ án được đúng đắn, chính xác. Thông qua việc áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời như kê biên tài sản, cấm chuyển dịch quyền về tài
sản, cấm thay đổi hiện trạng tài sản, phong tỏa tài sản, tài khoản...đã bảo toàn
được tài sản, bảo đảm thi hành án,làm cho hiệu lực của các quyết định, bản án
của Tòa án càng được nâng cao.
16


2.3. Chủ thể có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
"Theo quy định tại Điều 99 Bộ luật Tố tụng dân sự, chủ thể có quyền yêu
cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bao gồm đương sự, người đại
diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của
người khác"(1). Nghị quyết 02/2005/NQ-HĐTP của Tòa án nhân dân tối cao ngày

27.4.2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về
biện pháp khẩn cấp tạm thời nêu rõ những chủ thể này bao gồm đương sự; người
đại diện hợp pháp của đương sự; cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em; Hội liên
hiệp phụ nữ khởi kiện về vụ án hơn nhân và gia đình trong trường hợp do Luật
hơn nhân và gia đình quy định; cơng đồn cấp trên của cơng đồn cơ sở khởi
kiện về vụ án lao động trong trường hợp bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tập thể
người lao động do Bộ luật lao động và các văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan quy định. Việc mở rộng hơn các chủ thể có quyền u cầu Tịa án áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ góp phần bảo vệ kịp thời, đầy đủ hơn các quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Tòa án chỉ xem xét để ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời nếu các chủ thể có quyền như nêu trên đề đạt u cầu đó với Tịa án. Tịa án
chỉ tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong 5 trường
hợp được quy định cụ thể tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đây cũng là điểm
mới của Bộ luật Tố tụng dân sự, bởi theo các văn bản pháp luật tố tụng dân sự
trước đây, Tịa án chủ động, tự mình áp dụng tất cả các biện pháp mà pháp luật có
quy định. Chính quy định này của pháp lệnh đã làm hạn chế quyền yêu cầu của
đương sự, hạn chế sự nỗ lực của họ trong việc bảo vệ quyền lợi của mình.
Cũng theo quy định tại Điều 99 Bộ luật Tố tụng dân sự, thì biện pháp
khẩn cấp tạm thời được Tịa án áp dụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án dân
sự, có nghĩa là Tịa án có quyền ra quyết định áp dụng vào bất cứ thời điểm nào
trước và trong khi xét xử. Quy định này đã tạo ra sự năng động, kịp thời trong
việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự. Thời điểm trước khi Bộ luật Tố
tụng dân sự 2004 có hiệu lực pháp luật, thì pháp luật tố tụng trước đây chỉ cho
phép áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời vào thời điểm trước khi xét xử.
1) Trần Phương Thảo (2011), "Chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời", Đặc san về Bộ luật Tố tụng
dân sự.
(

17



2.4. Về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Bộ luật Tố tụng dân sự quy định người đưa ra yêu cầu Tòa án áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời phải có đơn thể hiện được các nội dung theo luật
định, gửi đến Tịa án có thẩm quyền. Đồng thời với việc nộp đơn thì họ phải đưa
ra được các chứng cứ chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời. Chính quy định này đã hạn chế tình trạng đưa ra u cầu khơng có
căn cứ từ phía những người có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời, đồng thời cũng giúp Tịa án có cơ sở rõ ràng để nhanh chóng ra được quyết
định về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận đơn, nếu người yêu cầu không
phải thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi người đó thực hiện biện
pháp bảo đảm, thì Thẩm phán phải ra quyết định có chấp nhận đơn yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hay không. Trường hợp đương sự đưua ra yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên tịa thì Hội đồng xét xử xem
xét để ra quyết định ngày sau khi người đưa ra yêu cầu thực hiện xong biện pháp
bảo đảm.
Bộ luật Tố tụng dân sự cũng quy định rõ trường hợp ra quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu
quả nghiêm trọng có thể xảy ra; trường hợp phong tỏa tài sản tại ngân hàng, tổ
chức tín dụng khác,…
Khi người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không
đúng, gây ra thiệt hại cho người bị áp dụng hoặc người thứ ba thì theo quy định
của pháp luật họ phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại. Quy
định này buộc người có quyền u cầu phải suy nghĩ chín chắn trước khi đưa ra
yêu cầu và buộc họ phải có trách nhiệm với hành vi của mình.
Tịa án phải bồi thường trong trường hợp tự mình áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời, hay Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện
pháp khẩn cấp tạm thời của người yêu cầu và gây ra thiệt hại cho người bị áp dụng

hoặc cho người thứ ba. Đây là quy định mới, tiến bộ, vừa có tác dụng nâng cao
trách nhiệm của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng
thời lại bảo đảm quyền lợi cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
18


Người có quyền u cầu tịa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
cũng có quyền u cầu tịa thay đổi biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu thấy biện
pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng không còn phù hợp (Điều 121 Bộ luật
Tố tụng dân sự). Tịa án có quyền hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
những trường hợp người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đề nghị
hủy bỏ; người phải thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nộp
tài sản hoặc có người khác thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ với
bên có yêu cầu; nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa vụ chấm dứt theo quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự (Điều 122 Bộ luật Tố tụng dân sự). Trước đây do các
văn bản pháp luật tố tụng dân sự chưa quy định việc thay đổi, hủy bỏ biện pháp
khẩn cấp tạm thời nên trong thực tiễn áp dụng đã có những trường hợp tịa án áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sai, không phù hợp, làm ảnh hưởng không
nhỏ đến quyền lợi của bên đương sự bị áp dụng nhưng vẫn không thay đổi, hủy
bỏ được biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.
2.5. Những hạn chế trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
tại Tịa án cấp sơ thẩm và hướng hồn thiện
Nếu chúng ta cứ nhìn vào quy định của pháp luật, những suy nghĩ phiến
diện từ câu chữ của luật thì cách nhìn nhận đó khơng khách quan, khơng phản
ánh đúng sự thật và xa rời thực tế. Muốn đánh giá một Bộ luật, một Điều luật
chúng ta phải xem xét trên cả hai phương diện về mặt lý luận và hiệu quả mang
lại từ việc áp dụng Bộ luật, điều luật đó vào thực tiễn.
Các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật Tố tụng dân
sự là một bước tiến mới phản ánh một nền tố tụng dân chủ, đáp ứng được yêu
cầu của thực tiễn trong q trình giải quyết tranh chấp dân sự của Tịa án, đó là

tính nhanh chóng và bảo đảm an tồn pháp lý cho các bên đương sự trong việc
bảo vệ quyền lợi của họ. Bên cạnh những ưu việt trên, thực tiễn áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong Bộ luật này đã bộc lộ một số hạn
chế, chưa thích hợp và chưa phát huy tốt hiệu quả khi thực hiện. Do đó cần phải
được nghiên cứu và hoàn thiện thêm.
Thứ nhất, trong một số vụ án tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa
hay hợp đồng vay tài sản, nguyên đơn đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn
19


cấp tạm thời phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ (bị đơn). Tuy nhiên, các tài
sản của bị đơn đang được thế chấp tại Ngân hàng như quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu thiết bị máy móc, nhà xưởng...phía nguyên đơn cho rằng tổng giá trị các
tài sản của bị đơn đang được thế chấp tại Ngân hàng cao hơn rất nhiều so với số
tiền mà bị đơn đã vay Ngân hàng nên nguyên đơn yêu cầu Tòa án phong tỏa các
tài sản này để bảo đảm cho việc thi hành án khoản tiền mà bị đơn đang còn nợ
nguyên đơn. Căn cứ vào yêu cầu và chứng cứ nguyên đơn cung cấp, Tòa án đã
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời "Phong tỏa tài sản của người có
nghĩa vụ" được quy định tại Điều 114 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, nội
dung quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này lại thể hiện "Phong
tỏa giá trị còn lại của các tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của bị đơn". Như
vậy, thực chất của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp
này là "Phong tỏa giá trị còn lại của tài sản của người có nghĩa vụ" chứ khơng
phải là "Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ". Có quan điểm cho rằng, việc
Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời "phong tỏa giá trị còn lại của tài
sản của người có nghĩa vụ" như nêu trên là trái pháp luật vì Bộ luật tố tụng dân
sự và Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP khơng quy định có biện pháp khẩn cấp
tạm thời này. Mặt khác, các tài sản bị phong tỏa đang được bị đơn thế chấp tại
Ngân hàng nhưng trong Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Tòa
án quyết định "Người bị phong tỏa không được tiếp tục dùng các tài sản bị

phong tỏa trên để bảo đảm cho nghĩa vụ nào khác kể từ ngày ban hành quyết
định này, không được quyền thỏa thuận với bất kỳ cá nhân, tổ chức nào (mà
khơng có sự đồng ý của nguyên đơn) để chuyển dịch quyền về tài sản cho đến
khi vụ án được giải quyết và thi hành án xong". Phán quyết này trong quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không phù hợp với các quy định của Bộ
luật dân sự năm 2005 về cầm cố, thế chấp tài sản. Xâm hại đến quyền và lợi ích
của Ngân hàng - là bên nhận thế chấp tài sản - được quy định tại Điều 351, 355
của Bộ luật dân sự năm 2005. Bởi lẽ, nội dung của quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời nêu trên đã hạn chế quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của
Ngân hàng. Bên nhận thế chấp tài sản - Ngân hàng - và bên đã thế chấp tài sản
sẽ không xử lý tài sản thế chấp theo phương thức do các bên đã thỏa thuận trước
20


đó như quy định tại Điều 336, 355 của Bộ luật dân sự năm 2005 và các quy định
tại Nghị định 163/2006/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số
11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ. Như vậy, trong trường hợp
này, quyền và lợi ích của phía Ngân hàng đã bị xâm hại bởi quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời như đã nêu trên nhưng Ngân hàng lại khơng được
Tịa án đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan nên không phải là đương sự trong vụ án. Do vậy, Ngân hàng khơng có
quyền khiếu nại quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này để bảo vệ
quyền lợi chính đáng của mình theo như quy định tại Điều 124 Bộ luật Tố tụng
dân sự. Bên cạnh đó, trong quyết định của bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên giữ
nguyên quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo đảm thi hành án,
nhưng như đã phân tích ở trên, Ngân hàng khơng phải là đương sự trong vụ án
nên khơng có quyền kháng cáo bản án này mặc dù có đủ căn cứ để xác định bản
án này đã xâm hại đến quyền lợi của Ngân hàng khi tuyên tiếp tục giữ nguyên
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Trường hợp Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời với nội dung

"Phong tỏa giá trị còn lại của các tài sản của người có nghĩa vụ" trong khi các tài
sản này đang được cầm cố hoặc thế chấp cho bên thứ ba như đã nêu ở trên, đang
được Tòa án áp dụng trên thực tiễn, gây nhiều bức xúc, khiếu nại cần có hướng
dẫn cụ thể để giải quyết vấn đề này.
Thứ hai, về việc xử lý quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
sau khi đã được Tịa án áp dụng.
Trong q trình giải quyết vụ án dân sự, Tòa án đã quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của nguyên đơn để bảo đảm thi hành
án. Quyết định này được ban hành độc lập theo mẫu như hướng dẫn tại Nghị
quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng Thẩm phán. Tuy nhiên,
việc xử lý quyết định này sau khi đã được Tòa án quyết định áp dụng trên thực tế
đang có nhiều cách hiểu và cách áp dụng pháp luật khác nhau tùy vào nhận thức và
áp dụng pháp luật của mỗi Thẩm phán. Có trường hợp khi ra bản án, Tòa án tuyên
tiếp tục giữ nguyên quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay trong
bản án sơ thẩm nhưng lại quyết định trả lại số tiền bảo đảm cho đương sự; có
21


trường hợp Tòa án tuyên trong bản án sơ thẩm quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời hết hiệu lực khi bản án có hiệu lực pháp luật đồng thời trả lại số
tiền bảo đảm cho đương sự khi bản án có hiệu lực pháp luật; có trường hợp Tòa
án tuyên trong bản án sơ thẩm quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
hết hiệu lực khi bên có nghĩa vụ thực hiện xong nghĩa vụ đối với bên có quyền
và quyết định trả lại tiền bảo đảm cho đương sự khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Các trường hợp Tòa án ra ngay quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được quy định cụ thể tại Điều 122 Bộ luật Tố
tụng dân sự và quyết định này là một quyết định độc lập được ban hành theo
mẫu quy định tại Nghị quyết số 02/2005/NQQ-HĐTP. Bộ luật tố tụng dân sự và
Nghị quyết số 02/2005/NQQ-HĐTP khơng có quy định nào về việc khi áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời Tòa án được quyết định ngay trong

bản án sơ thẩm. Do vậy, trong những trường hợp Tòa án quyết định áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trong bản án sơ thẩm như chúng
tơi đã viện dẫn trên có được xem là vi phạm thủ tục tố tụng hay không? Trường
hợp nếu chấp nhận được thì đương sự có quyền kháng cáo hay khơng?
Thực tiễn có nhiều bản án sơ thẩm tuyên giữ nguyên quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong phần quyết định của bản án sơ thẩm. Có
nhiều quan điểm cho rằng nếu đã giữ ngun thì khơng cần phải tun là tiếp tục
giữ ngun quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong bản án vì như
vậy là thừa. Cũng có quan điểm cho rằng, khi đã tuyên tiếp tục giữ nguyên hoặc
hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong phần quyết định
của bản án sơ thẩm nếu đương sự kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm thì đương
nhiên quyết định áp dụng hay hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời bị kháng cáo
theo thủ tục phúc thẩm vì nó là một phần của bản án sơ thẩm nên Tòa án cấp phúc
thẩm sẽ xem xét giải quyết, mặc dù theo quy định tại Điều 123 và Điều 124 Bộ
luật Tố tụng dân sự quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp
tạm thời có hiệu lực thi hành ngay và đương sự chỉ có quyền khiếu nại, Viện
kiểm sát chỉ có quyền kiến nghị đối với quyết định này.
Chính vì sự không thống nhất trong áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp
khẩn cấp tạm thời như đã nêu trên dẫn đến nhiều vụ án đương sự chỉ kháng cáo
22


bản án với lý do không đồng ý với quyết định giữ nguyên hay hủy bỏ quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc không đồng ý với việc Tòa án tiếp tục
giữ nguyên quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhưng lại ghi trong
bản án trả lại cho đương sự tiền bảo đảm; gây nhiều khó khăn cho Tịa án, Viện
kiểm sát cấp phúc thẩm trong việc giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm vì luật khơng
quy định cho phép đương sự được kháng cáo hoặc Viện kiểm sát được kháng
nghị đối với quyết định áp dụng,thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Thứ ba, theo quy định của pháp luật, Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp

tạm thời theo u cầu của đương sự hoặc Tịa án tự mình áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong các trường hợp quy định tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng
dân sự. Trường hợp việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
có vi phạm, sai sót thì Tịa án cho rằng do đương sự u cầu nên đương sự sẽ
chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật nếu có thiệt hại xảy ra.
Thực tiễn cho thấy, có trường hợp nguyên đơn khởi kiện đã cung cấp các giấy
tờ, tài liệu, chứng cứ không đủ hoặc khơng có căn cứ để u cầu Tịa án buộc bị
đơn phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Đồng thời với việc khởi kiện, nguyên đơn
đã yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định
tại Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự, ví dụ như Phong tỏa tài sản hoặc Phong tỏa
tài khoản của bị đơn; nhằm mục đích không phải để bảo đảm cho việc thi hành
án, mà nhằm mục đích khác như: gây khó khăn cho phía bị đơn trong hoạt động
kinh doanh hoặc các hoạt động khác hoặc để làm giảm uy tín, gây dư luận xấu
cho các hoạt động của phía bị đơn v.v... Những trường hợp này, trên thực tế mặc
dù nhiều Thẩm phán nhận thấy rõ yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
của đương sự là khơng có căn cứ hoặc có mục đích khác nhưng vẫn áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của đương sự vì cho rằng họ đã thực
hiện biện pháp bảo đảm và nếu có thiệt hại thì họ phải chịu trách nhiệm bồi
thường theo quy định của pháp luật. Từ đó, vơ hình chung, đã tạo điều kiện cho
một bên đương sự lợi dụng sự chưa cụ thể, chưa rõ ràng của pháp luật về áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để xâm hại đến quyền và lợi ích chính đáng
của các bên đương sự khác trái pháp luật.
Bên cạnh đó, đối với những trường hợp này, qua cơng tác kiểm sát hoặc
qua khiếu nại của đương sự, Viện kiểm sát xét thấy có vi phạm nhưng chỉ có
23


quyền kiến nghị đối với Tòa án về việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp
khẩn cấp tạm thời, mà khơng có cơ chế và quyền năng đủ mạnh để kịp thời ngăn
chặn trước khi thiệt hại có thể xảy ra.

Mặt khác, trên thực tế cũng có trường hợp khi đương sự đưa ra yêu cầu
Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhưng Tòa án lại không ra quyết
định hoặc chậm ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, có thể sẽ
gây thiệt hại khơng nhỏ cho đương sự. Vì vậy để xác định đầy đủ hơn trách
nhiệm của Tòa án, cần bổ sung vào khoản 2 Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự
thêm căn cứ đó là Tịa án phải bồi thường thiệt hại cho người đưa ra yêu cầu nếu
Tòa án có lỗi trong việc khơng ra hoặc chậm ra quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời gây thiệt hại cho người bị áp dụng hoặc người thứ ba.
Thứ tư, về khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá mà Tịa
án ấn định người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp.
Điều 120 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định khoản tiền, kim khí quý, đá
quý hoặc giấy tờ có giá phải tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa
vụ phải thực hiện. Tại tiểu mục 8.1, mục 8 Nghị quyết số 02/2005/NQQ-HĐTP
hướng dẫn "nghĩa vụ tài sản" là nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại thực tế có thể
xảy ra cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba
do việc yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng gây ra. Tuy
nhiên, mức thiệt hại trên thực tế có thể xảy ra lại khơng được Nghị quyết số
02/2005/NQQ-HĐTP hướng dẫn cách xác định. Thực tế, Tịa án u cầu đương
sự tự mình dự tính thiệt hại này nhưng đương sự cũng khơng có căn cứ và cơ sở
pháp lý cũng như thực tiễn để dự tính thiệt hại này mà chỉ ước lượng một số tiền
có tính chất tượng trưng rất nhỏ so với giá trị tài sản mà Tòa án áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời. Do vậy, để bảo đảm quyền lợi cho các bên đương sự,
cần quy định cụ thể và rõ hơn về khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ
có giá mà người u cầu Tịa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp,
tránh việc tùy tiện trong việc dự tính thiệt hại thực tế có thể xảy ra khi áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Khi đương sự đưa ra yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo
quy định tại các Điều 108, 109 và 110 Bộ luật Tố tụng dân sự thì họ chỉ được
24



Tịa án chấp nhận u cầu này khi có căn cứ cho thấy người đang nắm giữ tài
sản này có hành vi tẩu tán, chuyển dịch quyền tài sản hoặc làm thay đổi hiện
trạng tài sản. Tuy nhiên trên thực tế có thể các hành vi tẩu tán tài sản, chuyển
dịch quyền tài sản hoặc thay đổi hiện trạng tài sản đã xảy ra khi Tòa án ra quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Nên chăng cần thay đổi cụm từ "…
nếu có căn cứ cho thấy người đang nắm giữ về tài sản có hành vi…" bằng cụm
từ "…nếu có căn cứ cho thấy cần ngăn chặn người đang nắm giữ tài sản có hành
vi...", để hạn chế nhược điểm trên của điều luật?
Thứ năm, theo quy định tại khoản 3 Điều 117 Bộ luật Tố tụng dân sự thì:
"Đối với trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại
khoản 2 Điều 99 của Bộ luật này thì sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng với
đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo, Chánh án Tòa án chỉ định ngay một Thẩm
phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận
được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời; nếu khơng chấp nhận u cầu, thì Thẩm phán phải thơng báo
bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết". Như vậy, trong thời hạn
48 giờ để Thẩm phán xem xét quyết định có áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời hay khơng, có lẽ là q dài. Đặc biệt là đối với các yêu cầu về việc áp dụng
các biện pháp khẩn cấp như: Kê biên tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện
trạng tài sản đang tranh chấp; cấm mua bán, tặng cho, trao đổi tài sản; phong tỏa
tài khoản. Sự chậm trễ trong việc ra quyết định áp dụng các biện pháp tạo điều
kiện cho đương sự bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ cần trong một
thời gian rất ngắn để rút tiền hoặc tẩu tán tài sản, lẩn tránh nghĩa vụ thi hành án,
đồng nghĩa với việc bản án chỉ có hiệu lực trên giấy, mà khơng có hiệu lực trong
thực tế, vì bị đơn dân sự khơng cịn tài sản để thi hành án.
Mặt khác, khoản 3 Điều 117 Bộ luật Tố tụng dân sự không quy định rõ
ràng là trong trường hợp thực sự khẩn cấp Tòa án có thể áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời vào các ngày lễ hoặc ngày nghỉ hay không? Như vậy, về mặt
chủ quan hay khách quan, thì đương sự vẫn có điều kiện về mặt thời gian để tẩu

tán tài sản, vì theo luật cơng chứng và theo quy định của một số tổ chức tín
dụng, khơng nhất thiết phải ngừng hoạt động vào những ngày nghỉ lễ.
25


×