Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tài liệu Tiểu luận "Nội dung công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.62 KB, 26 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài: “Nội dung công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước
ta hiện nay”
1
MỤC LỤC
A. PH N M UẦ ỞĐẦ 4
B. N I DUNGỘ 6
I. S C N THI T PH I TI N HÀNH CÔNG NGHI P HOÁ - HI N I Ự Ầ Ế Ả Ế Ệ Ệ ĐẠ
HOÁ 6
II. LÝ LU N CHUNG V CNH VÀ KHÁI QUÁT L CH S QUÁ TRÌNH Ậ Ề Ị Ử
CNH VI T NAM Ở Ệ 9
III. QUÁ TRÌNH CNH- H H N C TA HI N NAYĐ Ở ƯỚ Ệ 13
IV. Ý KI N CÁ NHÂNẾ 22
C. K T LU NẾ Ậ 23
DANH M C TÀI LI U THAM KH OỤ Ệ Ả 24
LỜI NÓI ĐẦU
Từ Đại hội Đảng VIII đến nay, Đảng ta luôn xác định công nghiệp hoá
là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ. Nhiệm vụ CNH - HĐH đã được
thực hiện ở nước ta trong những năm qua, nhất là thời kỳ đổi mới chúng ta đã
thu được nhiều thành tựu quan trọng tạo thế và lực cho thời kỳ phát triển tiếp
theo. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được chúng ta không tránh khỏi những
sai lầm. Để giải quyết những nhiệm vụ mới đặt ra cùng khắc phục những
thiếu xót khiếm khuyết, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu về kinh tế đưa đất nước ra
khỏi tình trạng đói nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, tăng cường tiềm lực
quốc phòng an ninh, củng cố vững chắc độc lập chủ quyền quốc gia thì không
có con đường nào khác con đường đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước.
Vấn đề CNH - HĐH là một vấn đề rất rộng, trong phạm vi bài viết này
em xin đề cập đến: Nội dung CNH - HĐH ở nước ta hiện nay. Tiểu luận này
hoàn thành theo yêu cầu của Bộ môn Kinh tế chính trị, trường Học viện Ngân
hàng. Nội dung của tiểu luận dựa trên tư tưởng của những bài viết về vấn đề
CNH - HĐH của các chuyên gia hoạt động trong các ngành kinh tế, do phạm


vi của vấn đề rộng lớn cùng hạn chế về mặt trình độ nhận thức của bản thân
2
nên nội dung tiểu luận này khó tránh khỏi những sơ sài, hạn chế và thiếu xót.
Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giảng viên bộ môn đã giúp đỡ
em hoàn thành tiểu luận này.
3
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra cuộc chạy đua phát triển kinh tế rất
sôi động, các nước nhanh chóng thực hiện các chính sách kinh tế nhằm đưa
kinh tế phát triển trong đó con người là vị trí trung tâm. Muốn vậy các nước
không còn con đường nào khác là phải thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại
hoá. Do vậy vấn đề công nghiệp hoá là vấn đề chung mang tính toàn cầu
khiến mọi người đều phải quan tâm nghiên cứu nó.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, phát triển kinh tế là quy luật khách
quan của tồn tại và phát triển xã hội loài người và bất cứ ở giai đoạn nào, ở
bất kỳ đất nước nào không loại trừ các nước giàu mạnh về kinh tế suy đến
cùng đều được bắt đầu và quyết định phát triển kinh tế nghĩa là phải bắt đầu
từ phương thức sản xuất. Vấn đề khách nhau giữa các nước chỉ là ở mục tiêu,
nội dung và cách thức phát triển, có sự khác nhau về tốc độ về hiệu quả và
trên thực tế chỉ một số ít nước công nghiệp hoá thành công.
Như ta đã biết mỗi phương thức sản xuất nhất định đều có cơ sở vật chất
kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một xã hội nhất định thường
được hiểu là toàn bộ vật chất của lực lượng sản xuất cùng với kết cấu của xã
hội đã đạt được trình độ xã hội tương ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một xã
hội tồn tại trong phạm vi các quan hệ sản xuất nhất định nên nó mang dấu ấn
và chịu sự tác động của các quan hệ sản xuất trong việc tổ chức quá trình
công nghệ trong cơ cấu xã hội. Vì vậy khái niệm cơ sở vật chất kỹ thuật gắn
bó chặt chẽ với các hình thức xã hội của nó. Đặc trưng cơ sở vật chất kỹ thuật
của phương thức trước thời công nghiệp tư bản còn thủ công lạc hậu. Còn cơ

sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại chỉ có thể là nền công
nghiệp hiện đại cân đối phù hợp dựa trên trình độ khoa học kỹ thuật công
nghệ ngày càng cao. Để có cơ sở vật chất và kỹ thuật như vậy các nước đang
phát triển cần phải tiến hành công nghiệp hoá.
4
Nước ta thuộc vào nhóm đang phát triển, là một trong những nước nghèo
nhất thế giới, nông nghiệp lạc hậu còn chưa thoát khỏi xã hội truyền thống để
sang "Xã hội văn mình công nghiệp". Do đó khách quan phải tiến hành công
nghiệp hoá - hiện đại hoá là nội dung, phương thức là con đường phát triển
nhanh có hiệu quả. Đối với nước ta quá trình công nghiệp hoá còn gắn chặt
với hiện đại hoá, nó làm cho xã hội chuyển từ xã hội truyền thống sang xã
hội hiện đại làm biến đổi căn bản bộ mặt của xã hội trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, chính trị
Hiện nay đất nước ta còn nghèo (thuộc nhóm thứ 3 thì việc công nghiệp
hoá - hiện đại hoá là con đường tất yếu. Từ Đại hội Đảng VI của Đảng xác
định đây là thời kỳ phát triển mới - Thời kỳ "Đẩy mạnh công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước" định hướng phát triển nhằm mục tiêu "Xây dựng nước
ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh
vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Để góp phần nghiên cứu về công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong khuôn
khổ bài viết này em xin đề cập đến "Nội dung công nghiệp hoá - hiện đại
hoá ở nước ta hiện nay.
5
B. NỘI DUNG
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TIẾN HÀNH CÔNG NGHIỆP HOÁ -
HIỆN ĐẠI HOÁ.
1. Công nghiệp hoá là xu hướng mang tính quy luật của các nước đi
từ nền sản xuất nhỏ đi lên một nền sản xuất lớn.

Để có một xã hội như ngày nay không phải do tự nhiên mà có , nó do
quá trình tính luỹ về lượng ngay từ khi loài người xuất hiện thì sản xuất thô
sơ, đời sống không ổn định, cơ sở vật chất hầu như không có gì nhưng trải
qua sự nỗ lực của con người tác động vào giới tự nhiên, cải biến nó thông qua
lao động, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử giời đây con người đã tạo ra
được những thành công đáng kể. Thành tựu đạt được là do quy luật phát triển
do tự thân vận động của con người trong toàn xã hội. Ngày nay công cuộc xây
dựng các nước đã cố gắng rất nhiều trong cuộc cạnh tranh chay đua về kinh
tế. Thể hiện là các chính sách, đường lối về phát triển kinh tế ngày một toàn
diện hơn, về các mặt quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, nền văn hoá và con
người của xã hội đó. Công nghiệp hoá chính là con đường và bước đi tất yếu
để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất hiện đại.
Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại cũng là
một quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nước, tuy nhiên tuỳ từng nước
khác nhau, do điểm xuất phát tiến lên khác nhau, mục tiêu phát triển không
giống nhau nên cách thức tiến hành cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất
lớn, hiện đại không giống nhau. Đối với những nước có nền kinh tế kém phát
triển như nước ta hiện nay (nền sản xuất nhỏ, kỹ thuật thủ công là chủ yếu )
công nghiệp hoá là quá trình mang tính quy luật, tất yếu để tồn tại và phát
triển nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại.
Có tiến hành công nghiệp hoá chúng ta mới:
- Xây dựng được cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
6
- Mới tiến hành tái sản xuất mở rộng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, mới tích luỹ về lượng mới để xây dựng thành công nền sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
- Mới tăng cường phát triển lực lượng giai cấp công nhân.
- Mới củng cố quốc phòng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội.
- Mới góp phần xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc, xây dựng

con người mới ở Việt Nam.
Như vậy công nghiệp hoá là xu hướng mang tính quy luật cả các nước đi
từ một nền sản xuất nhỏ sang nền sản xuất lớn.
2. Tính tất yếu phải tiến hành đồng thời công nghiệp hoá - hiện đại
hoá của nước ta.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều nước dù thắng hay bại đều trở
thành nước kiệt quệ đã trở thanh một trong những nguyên nhân cho bước khởi
động của cuộc khoa học công nghệ hiện đại. Có thể chia cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật hiện đại thành hai giai đoạn.
- Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ những năm 40 đến giữa những năm 70.
Giai đoạn này sử dụng khoa học kỹ thuật để hiện đại hoá các công cụ sản
xuất, phát triển kinh tế theo hướng mở rộng và tăng thêm các yếu tố sản xuất.
Thực chất đây là giai đoạn bắt đầu phát triển của lực lượng sản xuất cả về con
người và công cụ sản xuất.
Bình quân tăng trưởng kinh tế hàng năm ở các nước kinh tế phát triển
là 5,6%. Tốc độ tăng trưởng này được giữ nguyên trong vòng 20 năm kể từ
năm 1950 đến 1970.
- Giai đoạn hai bắt đầu vào những năm 70 trở đi và cho đến nay vẫn
đang tiếp tục rất mạnh mẽ. Giai đoạn này là thực hiện cuộc cách mạng với qui
mô lớn và toàn diện trên lực lượng sản xuất trên cơ sở áp dụng các thành tựu
7
khoa học - kỹ thuật, đổi mới toàn bộ bộ máy sản xuất hiện hành trên cơ sở sử
dụng những phương tiện kỹ thuật về công nghệ mới khác hẳn về nguyên tắc
thay thế hàng loạt các thiết bị lạc hậu bằng các thiết bị hiện đại làm cho năng
suất và chất lượng sản phẩm lên cao.
Đây là giai đoạn biến đổi hẳn về chất của lực lượng sản xuất ở các
nước tư bản chủ nghĩa thì đây cũng là thời kỳ mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất lên cao tạo điều kiện cho sự ra đời của phương thức
sản xuất mới.
Quá trình diễn ra không đồng đều ở các nước do nhiều nguyên nhân dễ

dẫn đến sự chênh lệch về kinh tế.
Trên thế giới hình thành 3 nhóm nước đó là các cường quốc về kinh tế,
các nước phát triển và đang phát triển. Sự phân chia này cũng hình thành nên
các mâu thuẫn cơ bản của xã hội, vấn đề cơ bản của các nước đang phát triển
là đường lối đấu tranh hoà bình giải quyết mâu thuẫn thông qua làm cuộc
cách mạng về kinh tế.
Việt Nam là một nước có nền kinh tế nhỏ, lạc hậu về khoa học kỹ thuật,
lực lượng sản xuất còn non nớt chưa phù hợp với quan hệ sản xuất của xã hội
chủ nghĩa. Để có cơ sở kỹ thuật của nền sản xuất lớn, không còn con đường
nào khác là công nghiệp hoá, cơ khí hoá cân đối và hiện đại trên trình độ khoa
học kỹ thuật phát triển cao.
Muốn vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phát triển tuần tự và phát
triển nhẩy vọt, cùng một lúc thực hiện hai cuộc cách mạng đó là chuyển lao
động thô xơ sang lao động bằng máy móc và chuyển lao động máy móc sang
lao động tự động hoá có sự chỉ đạo của Nhà nước theo định hướng XHCN.
8
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CNH VÀ KHÁI QUÁT LỊCH SỬ QUÁ
TRÌNH CNH Ở VIỆT NAM
1. Những vấn đề lý luận chung về công nghiệp hoá - hiện đại hoá
(CNH-HĐH)
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một khái niệm mà được nhiều chuyên
gia kinh tế đề cập đến, nhiều nghiên cứu định nghĩa về vấn đề này. Lôgic và
lịch sử đều khẳng định rằng từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hiện đại, CNH là
bước đi tất yếu mà mỗi dân tộc sớm muộn đều phải trải qua. Trong thời đại
ngày nay công nghiệp hoá bao gồm cả hiện đại hóa làm xuất hiện cụm từ kép
"công nghiệp hoá, hiện đại hoá". Không nên chỉ hiểu CNH, HĐH theo nghĩa
hẹp, theo nghĩa nó là một quá trình hình thành cách thức sản xuất chỉ tiêu kỹ
thuật và công nghệ hiện đại riêng trong lĩnh vực tiểu công nghiệp mà nên hiểu
theo nghĩa rộng: quá trình đó diễn ra trong tất cả các ngành của nền kinh tế
quốc dân.

Kinh nghiệm CNH ở nhiều nước trên thế giới cho thấy "cốt lõi" của
CNH trong thời đại ngày nay là sự đổi mới trang bị kỹ thuật (phần cứng: máy
móc thiết bị ) và công nghệ (phần mềm: phương pháp, quy tắc, quy trình,
phương thức, kinh nghiệm, kỹ năng ), chuyển từ kỹ thuật và công nghệ lạc
hậu năng suất thấp lên trình độ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến có năng suất và
hiệu quả kinh tế xã hội cao trong tất cả các lĩnh vực, các ngành của nền kinh
tế quốc dân.
Theo tư duy và quan điểm mới hiện nay có thể hiểu nội dung chủ yếu
của CNH ở các nước cũng như nước ta là: trang bị kỹ thuật công nghệ hiện
đại và theo đó xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý trong tất cả các ngành của
nền KTQD. Tóm lại có thể hiểu là: "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch
vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến
bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
9
Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc (1993) công nghiệp hoá là một quá
trình phát triển nền kinh tế. Trong quá trình này nguồn của cải quốc dân được
động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành trong nước với kỹ thuật
hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận luôn luôn thay
đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng hoá tiêu dùng có khả năng
đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới
sự tiến bộ kinh tế xã hội. Hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn
diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ
chỗ theo những quy trình công nghệ thủ công là chính sang chỗ sử dụng một
cách phổ biến những quy trình công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến
hiện đại dựa trên sự phát triển khoa học kỹ thuật tạo ra năng suất lao động
hiệu quả và trình độ văn minh kinh tế xã hội cao.
Trong văn kiện hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành trung ương khoá VII

có viết "Quá trình CNH-HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các
hoạt động kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động cùng công nghệ và phương tiện hiện đại tạo ra
năng suất lao động cao. Đối với nước ta đó là một quá trình thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp lạc hậu
thành một xã hội công nghiệp gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản
xuất tiến bộ. Ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ mới.
Như vậy CNH-HĐH không chỉ là một quá trình tất yếu khách quan đối với
nước ta mà chúng ta có sẵn những cơ sở lý luận vững chắc để áp dụng vào
thực tế nền kinh tế nước ta.
2. Khái quát lịch sử quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam trong thời gian qua
Có thể xem xét thực trạng CNH ở nước ta qua 2 khía cạnh trang bị kỹ
thuật, công nghệ và việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Trên thực tế công
cuộc CNH được tiến hành ở nước ta từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III
(1960).
Chủ trương CNH được tiến hành qua các kế hoạch dài hạn 5 năm song
do nhiều điều kiện khách quan gây khó khăn như nền kinh tế vốn nghèo nàn
lạc hậu chính sách cấm vận gây thù địch của Mỹ, trình độ dân trí, nguồn lao
động chưa cao v.v Thực trạng của quá trình CNH còn nhiều khó khăn.
10
Trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ kết cấu hạ tầng và việc ứng dụng
những thành tựu mới của khoa học và công nghệ vào sản xuất và dịch vụ còn
thấp kém, lạc hậu.
Qua mấy thập niên CNH, chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở vật
chất - kỹ thuật nhất định. Cho đến nay một số công trình lớn và trọng điểm
sau nhiều năm xây dựng và bắt đầu đưa vào hoạt động trong cả công nghiệp
lẫn nông nghiệp, giao thông vận tải, bưu điện v.v Tất nhiên so với trình độ
của thế giới vẫn ở trong tình trạng còn thấp kém và lạc hậu: Thành phần kinh
tế nhà nước được trang bị nhiều nhất, cao nhất có tổng số 27,8 nghìn tỷ đồng
tài sản cố định chỉ 26% giá trị thiết bị máy móc, phần lớn thiết bị thuộc hệ kỹ

thuật những năm 1950-1960 chịu ảnh hưởng lớn của hao mòn vô hình. Việc
tiếp cận thành tựu khoa học mới của nước ta còn chậm trình độ tự động hoá
các công cụ sản xuất còn thấp: Trung ương đạt tỷ lệ 3%, địa phương 1,7% về
mức độ tự động hoá công cụ. Kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội còn rất thấp
kém cả về trình độ kỹ thuật, công nghệ lẫn mạng lưới nhỏ hẹp. Sản phẩm làm
ra không có sức cạnh tranh, giá thành cao, mặt hàng không nhiều, chưa có khả
năng vươn ra thị trường quốc tế rộng lớn.
- Gây khó khăn cho quá trình đầu tư của nước ngoài vào nước ta, cản trở
nền kinh tế nước ta hội nhập kinh tế thế giới. Ngăn trở việc xây dựng thị
trường và sự hình thành chiến lược thị trường hướng ngoại.
- Khó tránh khỏi vòng luẩn quẩn kỹ thuật công nghệ và kết cấu hạ tầng
thấp kém, lạc hậu dẫn đến năng suất lao động thấp và thu nhập quốc dân tính
theo đầu người thấp, từ đó khả năng tích luỹ hầu như không có và kết quả là
không có vốn đầu tư.
Bên cạnh đó là sự chưa phù hợp của cơ cấu kinh tế được hình thành
trong thời gian qua mà việc điều chỉnh lại là không dễ dàng: Với xuất phát
điểm từ 1 quốc gia nông nghiệp lạc hậu. Sau nhiều kế hoạch phát triển kinh tế
lần lượt các mô hình cơ cấu kinh tế hình thành, sự tập trung vốn thông qua
nhiều hoạt động tích luỹ trong nước, vay vốn quốc tế, đã đưa nền kinh tế có tỷ
trọng công nghiệp tăng khá. Qua các thời kỳ kế hoạch 5 năm nền kinh tế có
sự tăng trưởng nhất định song chưa có sự phát triển kinh tế - xã hội đáng kể,
chưa có sự phát triển theo chiều sâu năng suất, chất lượng và hiệu quả. Nền
11
kinh tế nghiêng về xây dựng nền công nghiệp nặng, muốn hiện đại hoá nhanh
nhưng do nền kinh tế của ta còn nhỏ bé, phân tán và lạc hậu, nguồn vốn tích
luỹ không lớn trình độ khoa học công nghệ chưa cao không đủ điều kiện cần
thiết để xây dựng một nền đại công nghiệp. Điều này dẫn đến thực tế kinh tế
nước ta mất cân đối, sản xuất phát triển chậm, thu nhập quốc dân và năng suất
thấp, đời sống nhân dân vẫn chưa được cải thiện trong một thời gian.
Sớm nhận thức được những biểu hiện chưa phù hợp của các chính sách

kinh tế Đảng và Nhà nước đã đưa ra những chủ trương mới nhằm khắc phục
khiếm khuyết, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH của đất nước. Đại hội
toàn quốc lần thứ VI của Đảng đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử
quá trình CNH ở nước ta. Đại hội cũng là đại hội của thời kỳ đổi mới của đất
nước. Đại hội nhận định đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là
một thời kỳ lâu dài và gian khổ trải qua nhiều chặng đường và chúng ta hiện
đang ở chặng đường đầu tiên với nhiệm vụ đề ra là: "ổn định mọi mặt tình
hình kinh tế - xã hội tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy
mạnh CNH trong chặng đường tiếp theo". Trong 5 năm trước mắt (1986-
1990) cần tập trung sức người sức của thực hiện bằng được những mục tiêu
của 3 chương trình kinh tế: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu. Nội dung của chương trình kinh tế là sự cụ thể hoá nội dung chính
của CNH-HĐH trong chặng đường đầu tiên. Bước đầu ta đã đạt được thành
tựu mới: xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Phát triển quan điểm kinh tế của
đại hội VI, Hội nghị ban chấp hành Trung ương đã khẳng định phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược lâu dài trong thời
kỳ quá độ lên CNXH. Trong chính sách này chúng ta đã chuyển từ công tác
kế hoạch pháp lệnh sang kế hoạch hoá định hướng là chủ yếu. Trong thời gian
này đường lối mới của Đảng đề ra từ Đại hội VI đã thu được những thành quả
bước đầu rất quan trọng. Trước tiên trong kinh tế - xã hội đời sống nhân dân
được cải thiện dần dần, ổn định sản lượng lương thực tăng nhanh đáp ứng nhu
cầu trong nước hàng hoá đa dạng thị trường mở rộng, các cơ sở sản xuất gắn
liền với nhu cầu thị trường. Phần bao cấp của nhà nước về vốn, giá, tiền lương
giảm đáng kể, lạm phát được kiểm chế một bước. Các cơ sở kinh tế có điều
kiện hạch toán kinh doanh, mọi mặt của đời sống được nâng lên.
12
Trên cơ sở phát huy những thành quả đạt được đại hội lần thứ VII (1991)
của Đảng đã kế thừa, phát huy và đề ra chủ trương mới khắc phục những khó
khăn hạn chế thúc đẩy, phát huy những ưu điểm đã đạt được, bổ sung phát

triển đường lối đổi mới đề ra trong đại hội 6. Phương hướng mục tiêu của đại
hội 7 "đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát" ổn định phát triển nâng cao hiệu
quả sản xuất, từng bước cải thiện đời sống nhân dân bước đầu tích luỹ nội bộ
nền kinh tế. Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng cũng đã đề ra những mục
tiêu và giải pháp cơ bản cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước trong đó đặc biệt nhấn mạnh quan điểm "lấy việc phát huy nguồn nhân
lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Trong
những năm qua Đảng và Nhà nước đã làm được nhiều việc để thực hiện chiến
lược con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Một số văn bản
pháp luật quan trọng có liên quan đến con người và các chính sách xã hội đã
được ban hành và đang đi vào cuộc sống.
Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực đất nước có bước phát triển đáng
kể. Tuy nhiên phát triển nguồn nhân lực lúc này được xem là một chiến lược
cơ bản để đưa nước ta đạt tới mục tiêu một nước công nghiệp. Với sự nỗ lực
của toàn Đảng, toàn dân ta đến nay nền kinh tế nước ta đã chấm dứt được thời
kỳ khủng hoảng và bước vào thời kỳ mới phát triển toàn diện.
III. QUÁ TRÌNH CNH- HĐH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Những quan điểm chỉ đạo của Đảng trong quá trình CNH-HĐH
Nghị quyết hội nghị lần thứ VII ban chấp hành Trung ương Đảng đã cụ
thể hoá thành phần quan điểm chỉ đạo quá trình CNH-HĐH đất nước như sau:
CNH-HĐH phải theo định hướng XHCN, định hướng XHCN của quá trình
này được xác định bởi 4 nhân tố sau:
- Mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài CNH-HĐH là lợi ích vật chất và
tinh thần của nhân dân gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã
hội.
Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại cho một xã hội
trong đó nhân dân làm chủ.
13
Phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc doanh
là chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác dần trở thành nền tảng.

CNH-HĐH được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc điều hành và quản lý quá trình đó
là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Quan điểm thứ 2: Giữ vững độc lập tự chủ đi đối với mở rộng hợp tác
quốc tế đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ với nước ngoài kết hợp kinh tế
với quốc phòng an ninh, xây dựng nền kinh tế hướng mạnh sản xuất đồng thời
thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước có hiệu quả.
Quan điểm thứ 3: CNH-HĐH là sự nghiệp của toàn dân của mọi thành
phần kinh tế, nhà nước là chủ toạ được vận hành theo thị trường có sự quản lý
của nhà nước, mặt khác đây là một vấn đề mới so với quan niệm CNH trước
đây - cho rằng CNH chỉ là sự nghiệp của nhà nước, của các tổ chức quốc
doanh. Ngày nay chúng ta cho rằng đó là sự nghiệp của toàn dân, của mọi
thành phần kinh tế. Nếu toàn xã hội không nhất trí quan tâm, không đề cao
tinh thần tự chủ, tự cường ra sức làm việc có hiệu quả thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, tham ô, nếu mọi thành phần không coi đó là sự nghiệp của
chính mình thì CNH-HĐH không thể thành công được.
Quan điểm thứ 4: Công nghiệp CNH- HĐH phải lồng việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố căn bản cho sự phát triển nhanh và bền vững,
muốn vậy trong mọi chủ trương, chính sách phải nhằm giải phóng mọi tiềm
năng của con người, phải thường xuyên quan tâm bồi dưỡng trí lực, thể lực,
có chính sách sử dụng nhân tài, tăng trưởng kinh tế phải gắn với cải thiện đời
sống nhân dân, phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội bảo vệ môi trường.
* Mục tiêu xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp cơ sở vật chất
kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh
vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Mục tiêu này
cho thấy sự nghiệp đó là một cuộc cách mạng toàn diện sâu sắc trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó trước hết là vì con người, do con người.
14

Trong bối cảnh hiện nay công nghiệp hoá- hiện đại hoá được coi là xu
hướng phát triển chung của cả nước đang phát triển. Đối với nước ta chưa
thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu thì công nghiệp hoá - hiện đại hoá là
"nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt từ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" là
con đường tất yếu để đưa ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu thì trước tiên phải
chăm lo phát triển kinh tế, song sẽ là sai lầm nếu không quan tâm giải quyết
tốt những vấn đề xã hội, không tạo ra cân đối hài hoà giữa kinh tế và xã hội.
Cho đến nay Việt Nam sau 10 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa quan trọng, tại Đại hội Đảng VIII Đảng ta đã khẳng định
"nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội nhưng một số mặt còn chưa
vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn
bị tiền cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho phép nước ta chuyển
sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
2. Nội dung chính của CNH-HĐH ở nước ta
CNH về logic cũng như về lịch sử là quá trình tất yếu mà mỗi dân tộc
đều phải trải qua. CNH là một quá trình bao gồm cả thời kỳ chuẩn bị những
tiền đề kinh tế vật chất mà thiếu nó thì không thể nào bước vào thời kỳ đẩy
mạnh và hoàn thành về cơ bản sự nghiệp CNH.
a) Lương thực và thực phẩm - tiền đề cho CNH lôgic và lịch sử đều
khẳng định nông nghiệp là cơ sở quan trọng nhất cho công nghiệp hóa, do vậy
việc xác định công nghiệp hóa trong mỗi thời kỳ không thể không tính đến
vai trò cơ sở cuả nông nghiệp, mà trước hết là vấn đề lương thực và thực
phẩm. Đảng ta vẫn luôn khẳng định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, là khâu
đột phá. Nhờ vậy cho đến nay nông nghiệp và nông thôn nước ta đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Thắng lợi nổi bật nhất là đã giải quyết về cơ bản
nhu cầu lương thực và thực phẩm cho xã hội và hàng năm đã có thừa gạo để
xuất khẩu với khối lượng không nhỏ. Đã có nhiều tiến bộ trong việc cung cấp
nguyên liệu cho công nghiệp hoá ở nước ta.
b) Một số cơ sở vật chất kỹ thuật bước đầu phát huy tác dụng. Sau nhiều
năm tập trung xây dựng đất nước, chúng ta đã có một cơ sở vật chất kỹ thuật

nhất định, một số công trình lớn và quan trọng đã được đưa vào sử dụng như
15
nhà máy thuỷ điện Sông Đà, nhà máy thuỷ điện Trị An, nhà máy xi măng
Hoàng Thạch, nhà máy xi măng Bỉm Sơn, nhà máy giấy Bãi Bằng
Trong nông nghiệp cả nước đã có 654 hồ đập vừa và lớn, hàng vạn hồ
chứa nước, hàng ngàn cống tưới tiêu, hơn 2000 trạm bơm Tất cả những cơ
sở vật chất đó, nếu được điều chỉnh và sử dụng có hiệu quả, rõ ràng sẽ là tiền
đề đáng kể cho sự phát triển nông nghiệp và công nghiệp.
c) Sự đổi mới tư duy kinh tế của đảng đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển
khi chuyển sang cơ chế kinh tế mới cũng là lúc chúng ta không còn được Liên
Xô viện trợ, điều này lúc đầu quả thật có gây cho ta nhiều khó khăn song nhờ
có sự đổi mới tư duy nhất là đổi mới tư duy kinh tế của Đảng, nền kinh tế
nước ta dần dần đi vào ổn định và ngày càng khởi sắc. Sự giúp đỡ quốc tế đối
với nước ta ngày càng mở rộng. Như vậy tiền đề bên ngoài cần cho việc đẩy
mạnh CNH phải chăng cũng đã có? Tất nhiên mọi việc đang còn ở phía trước,
khó khăn còn nhiều, tất cả phụ thuộc vào sự ổn định và đổi mới hệ thống
chính trị, đổi mới các điều kiện bên trong, để đủ sức sử dụng có hiệu quả điều
kiện quốc tế đồng thời giữ được định hướng đã chọn.
d) Thực tiễn nước ta có những vấn đề nổi cộm mà muốn giải quyết
không thể không đẩy mạnh công nghiệp hoá
Mặc dù có bước phát triển nhất định nông nghiệp và nông thôn nước ta
cho đến nay vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất - kỹ
thuật còn nhiều mặt yếu kém, công nghệ còn lạc hậu, năng suất lao động và
năng suất cây trồng vật nuôi còn thấp. Nông nghiệp chưa thoát khỏi độc canh
lúa. Còn giống và cây giống chưa đổi mới kịp nhu cầu của thị trường. Sản
phẩm làm ra khó bán trở thành nỗi lo của nông dân. Đời sống nhân dân và bộ
mặt nông thôn tuy có thay đổi nhưng chưa nhiều, năng suất lao động, vật
nuôi, cây trồng và ngành nghề tăng chậm, thu nhập và sức mua của nông thôn
còn hạn hẹp, nông nghiệp chưa trở thành thị trường rộng lớn cho sự phát triển
công nghiệp trong bối cảnh đó không thể dừng lại ở sự đổi mới cơ chế kinh

tế, mà phải thông qua CNH để biến đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta.
Hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất kinh doanh và dịch vụ xã hội,
mấy năm gần đây tuy có tiến bộ nhất định song về trình độ còn rất thấp kém
so với các nước trong khu vực, thực trạng này đã và đang cản trở việc hình
16
thành và phát triển kinh tế thị trường trong nước, cản trở việc mở rộng đầu tư
kinh doanh của nước ngoài. Có thể nói, đã đến lúc không thể giữ mãi tình
trạng này, cần thông qua CNH để giải toả nó, cónhư vậy chúng ta mới có thể
phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường. Thúc đẩy nhanh chóng sự nghiệp CNH
bảo đảm hoàn thành về cơ bản sự cơ bản đó trong vài thập kỷ tới ở nước ta.
Trong lĩnh vực công nghiệp, trình độ công nghệ còn lạc hậu, công nghệ
truyền thống chậm được đổi mới, công nghệ mới hầu như chưa có hoặc chỉ
mới bắt đầu trong điều kiện đó, sản phẩm sản xuất ra khó đứng vững ngay
trên thương trường quốc tế. Nền kinh tế vì vậy cũng khó hội nhập với nền
kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới, lối ra chỉ có thể là ở chỗ đổi
mới công nghệ thông qua chuyển dịch cơ cấu công nghệ, cơ cấu ngành theo
hướng CNH-HĐH.
Nước ta khá thuận lợi so với một số nước về tài nguyên thiên nhiên, khí
hậu và vị trí địa lý nhưng cho đến nay tiềm năng đó mới được khai thác ở
mức thấp để tiềm năng này được khai thác thoả đáng không thể không đẩy
mạnh CNH.
Cuối cùng để thực hiện mục tiêu "dân giàu nước mạnh xã hội công bằng
văn minh" theo định hướng đã chọn đưa nước ta nhanh chóng vượt qua
"nghèo nàn kém phát triển" trở thành một nước phát triển, cũng không thể
không đẩy mạnh và hoàn thành về cơ bản sự nghiệp CNH.
Tất cả những dấu hiệu vừa nêu cho ta thấy đã đến lúc chúngta phải
chuyển trọng tâm sang đẩy mạnh công nghiệp hoá. Có như vậy mới tiếp tục
giữ vững và phát huy được những thành tựu làm cho mục tiêu và các quan
điểm đổi mới của đảng ta về kinh tế, chính trị và xã hội nhanh chóng trở
thành hiện thực ở nước ta.

e) Đẩy mạnh công nghiệp hoá theo mô hình công nghệ và cơ cấu kinh tế
đã xác định cần quán triệt các quan điểm kết hợp hài hoà mục tiêu "dần giàu
nước mạnh xã hội công bằng văn minh" với hiệu quả kinh tế - xã hội, đẩy
mạnh công nghiệp hoá gắn với quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị
trường. Công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá và lợi thế của nước phát triển
sau về công nghiệp, đổi mới cơ chế kinh tế gắn với đổi mới xây dựng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH và HĐH.
17
Để quán triệt các quan điểm trên cần tính đến vấn đề sau:
* Nâng cao dân trí: đào tạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học kĩ thuật, công
nhân lành nghề và cán bộ quản lý có kiến thức về khoa học kĩ thuật và kinh tế
thị trường hiện đại. Như kinh nghiệm các nước có nền kinh tế phát triển và
các nước công nghiệp mới (NIC) cho thấy điều kiện cách mạng khoa học - kĩ
thuật hiện nay, không thể đẩy mạnh CNH nếu không thực hiện chiến lược
phát triển đồng bộ cả tư liệu sản xuất hiện đại và con người hiện đại. Nói con
người hiện đại theo tư duy ngày nay là nói con người có trí thức về khoa học
kĩ thuật công nghệ và kinh tế thị trường hiện đại. Song trí thức đó không thể
tự nhiên mà có. Nó chỉ xuất hiện ở nơi nào có trình độ cao, sự nghiệp khoa
học kĩ thuật và giáo dục đào tạo thực sự là "quốc sách hàng đầu".
Ở nước ta hiện nay, trong số 30 triệu người có sức lao động, chỉ có 12%
đã qua đào tạo. Còn trong nông dân lao động chưa qua đào tạo (dù chỉ là dự
các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn ngày) chiếm tới 90%. Đã vậy số người
được đào tạo trước đây thường chịu ảnh hưởng của điều kiện chiến tranh và
cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp kéo dài. Vì vậy để thích nghi
với nhịp độ phát triển nhanh của khoa học kĩ thuật công nghệ và độ nhạy của
kinh tế thị trường, trong chiến lược phát triển đồng bộ nói trên cần lưu tâm.
Thực hiện có hiệu quả việc đào tạo mới, đào tạo lại và bồi dưỡng thường
xuyên kiến thức mới cho người lao động.
Thực hiện xã hội hoá giáo dục - đào tạo, thời kỳ đầu khi dân chưa giàu
và tiền lương còn thấp thì việc nâng tỷ trọng chỉ là giáo dục đào tạo trong cơ

cấu chi ngân sách là rất cần thiết.
Nhà nước có chính sách khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để
các nhà khoa học, các công nhân kĩ thuật và các nhà quản lý cống hiến hết sức
mình cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá.
* Tạo nguồn vốn: Thực hiện tái sản xuất mở rộng vốn trong tất cả các
thành phần kinh tế, một điều kiện không thể thiếu được để đẩy mạnh CNH ở
nước ta. Cái khó và đang nổi cộm hiện nay là thiếu vốn và nhất là thiếu người
biết sử dụng vốn có hiệu quả, lối ra của vấn đề này.
18
Ngoài việc thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu nhiều thành phần kinh
tế nhà nước cần có chính thuế và lãi suất ưu đãi để khuyến khích các thành
phần kinh tế dành vốn cho việc mua và ứng dụng thành tựu khoa học kĩ thuật,
công nghệ và phương pháp quản lý hiện đại.
Chỉ có thể tái sản xuất mở rộng vốn khi tuân thủ 2 nguyên tắc bồi hoàn
và sinh lợi. Cũng chỉ có thể thực hiện hai nguyên tắc đó mới có khả năng tạo
được nhiều vốn. Muốn vậy chúng ta không thể không có các nhà quản lý tài
ba và đức độ, không thể không nâng cao trình độ quản lý. Thực hiện hợp
đồng thông qua đấu thầu không thể không có cơ chế rõ ràng về quyền lợi và
nghĩa vụ qua các hợp đồng ký kết.
* Bác Hồ thường gắn sản xuất với tiết kiệm "sản xuất mà không tiết
kiệm thì khác gì gió vào nhà trống". Ngày nay Đảng ta coi "tiết kiệm là quốc
sách". Đồng chí Đỗ Mười - Tổng Bí thư Đảng còn nói "tiết kiệm để đầu tư" rõ
ràng có thể thực hiện tích luỹ qua nhiều con đường, trong đó có 2 con đường
chủ yếu: gia tăng sản xuất và thực hành tiết kiệm, không tham ô, lãng phí. Ở
nước ta, tăng trưởng kinh tế chưa nhiều, đã vậy tệ lãng phí, tham nhũng và
buôn lậu làm thất thoát vốn của các doanh nghiệp và nguồn thu của nhà nước
lại đang là "quốc nạn" chỉ cần giảm một nửa số vốn thất thoát do các tệ nạn
nói trên, chúng ta sẽ có một lượng vốn không nhỏ cho CNH đất nước.
* Phân phối và sử dụng đúng mức đúng chỗ lại có hiệu quả cao sức
người sức của trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá. Ngoài đầu tư cho

giáo dục và đào tạo cần tập trung đầu tư cho các lĩnh vực sau.
Trên cơ sở bảo đảm kết cấu hạ tầng đi trước một bước so với sản xuất
trực tiếp, ưu tiên xây dựng các ngành giao thông vận tải, điện, nước, thuỷ lợi
và thông tin bưu điện theo hướng ngày một hiện đại.
Hướng toàn bộ tiềm năng của các thành phần kinh tế vào việc thực hiện
nhiệm vụ công nghiệp hoá nông nghiệp. Đối với sản phẩm nông, lâm và ngư
nghiệp, hình thành và phát triển dịch vụ hệ thống đầu vào và đầu ra, nhất là
đầu ra. Thông qua công nghiệp chế biến, bảo quản và xuất khẩu, bằng cách đó
chúng ta sẽ làm cho nông nghiệp tự cấp tự túc trở thành nông nghiệp hàng
hoá và nông thôn trở thành thị trường rộng lớn tiêu thụ hàng hoá của công
nghiệp.
19
Đặc biệt chú ý một số ngành công nghiệp tư liệu sản xuất và công nghiệp
khai thác có thế mạnh (như dầu khí, than, một số kim loại quý hiếm ) có thể
và cần phải đi thẳng vào một số ngành công nghệ mới mũi nhọn (điện tử, vi
điện tử ) để có thể sớm đuổi kịp và hội nhập với các nước trong khu vực và
trên thế giới.
g) Công nghiệp hoá có nhiều con đường, có con đường cổ điển của
những nước tư bản phát triển như Anh, Pháp trải qua từ thế kỷ XIX đến đầu
thế kỷ XX. Thường đó là những nước có nền khoa học công nghệ tiên tiến do
đó những bước tiến CNH-HĐH thường gắn liền với những sáng chế phát
minh của chính nó hoặc của thời đại. Vì vậy quá trình CNH thường kéo dài
hàng trăm năm theo đà của sự phát triển khoa học kĩ thuật. Ngày nay các
nước đi sau tình hình đã đổi khác để giải quyết một vấn đề trong CNh có rất
nhiều giải pháp hay công nghệ đã sẵn sàng đem sử dụng. Vấn đề ở đây là phải
nắm bắt kịp thời những công nghệ hiện đại nhất phù hợp với hoàn cảnh của
đất nước. Do đó CNH gắn với HĐH là một khả năng, một nhu cầu của các
nước đi sau. Tuy nhiên để thực hiện CNH- HĐH đất nước cần phải nhận thức
đánh giá vấn đề sau một cách đúng đắn cụ thể.
Cùng với việc tiếp cận công nghệ hiện đại cần phải chú ý đẩy mạnh của

công nghệ thông thường truyền thống không chỉ áp dụng các công nghệ tiên
tiến mà còn phải biết tận dụng và hiện đại hoá công nghệ truyền thống. Đối
với khu vực công nghệ truyền thống và cơ khí thông thường còn về mặt đầu
tư của nhà nước để phát triển tiềm lực khoa học và định hướng cho các hoạt
động nghiên cứu triển khai chủ yếu là phải tập trung vào các lĩnh vực công
nghệ cao như điện tử, tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới, cơ khí chính
xác và tự động hoá Để tạo điều kiện cần thiết cho việc đi thẳng, đi nhanh
vào lĩnh vực công nghệ cao, không tự hạn chế trong các điều kiện tiền đề hiện
có, công nghệ cao có nhiệm vụ.
Hình thành một lĩnh vực công nghệ mới trên cơ sở các công nghệ cao
nhằm làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH.
Thâm nhập vào công nghệ truyền thống và cơ khí thông thường để hiện
đại hoá và nâng cao hiệu quả công nghệ đó.
20
Trong những năm trước mắt nhiệm vụ thứ 2 là rất quan trọng và cấp
bách bởi vì trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa với bên ngoài.
Những cơ sở sản xuất áp dụng công nghệ truyền thống và công nghệ cơ khí.
Thông thường không nâng được năng suất và chất lượng sản phẩm
không đảm bảo được khả năng cạnh tranh ngay cả trong trường hợp có sự bảo
hộ của nhà nước. Những cơ sở đó không thể đứng vững, phải thu hẹp hoặc
đóng cửa, sự thật đã diễn ra tại một số nơi trong thời gian qua.
Về mặt quản lý kinh tế - xã hội nếu không áp dụng rộng rãi các thành tựu
của điện tử và tin học thì không thể nâng cao được trình độ quản lý lên ngang
tầm thời đại, một đòi hỏi cấp bách hiện nay của giao lưu kinh tế, hiện nay một
chính sách rất được quan tâm là "đòn đấm công nghệ cao" từ sau thế chiến
thứ 2 dựa vào chính sách này mà Nhật Bản tiếp theo là Cộng hoà Triều Tiên
và Đì Loan đã nhanh chóng đuổi kịp các nước đi trước vượt lên trong nhiều
ngành công nghệ cao và đã tạo ra những kì tích kinh tế đáng kinh ngạc.
Những biểu hiện của nền kinh tế đã được HĐH được quy định bởi mức
sống cao do cách mạng công nghệ, trình độ chuyên môn cao trong sản xuất và

năng suất lao động cao. HĐH kinh tế còn được biểu hiện ở sự gia tăng của
vốn với những quy mô tích luỹ và đầu tư hiện đại, sự tham gia rộng rãi vào thị
trường trên cơ sở một kết cấu hạ tầng hiện đại về giao thông vận tải và thông
tin liên lạc. HĐH nền kinh tế cũng không tách rời một bộ máy hành chính
quản lý hữu hiệu, một học vấn càng nâng cao của người lao động, một sự phổ
cập rộng rãi các trí thức khoa học và đổi mới công nghệ.
Bên cạnh HĐH nền kinh tế còn là quá trình HĐH xã hội và chính trị, đây
là quá trình hoàn thiện cơ cấu xã hội, chuyên môn hoá các chức năng của cơ
chế xã hội. Thực hiện cuộc cách mạng trí thức thông qua việc phát triển các
phương tiện thông tin, tăng chi phí cho giáo dục, đảm bảo sự ổn định chính trị
tập trung quyền lực thực hiện vào nhà nước để tiến hành cải cách và đổi mới
một cách triệt để.
3. Những điều kiện thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện
CNH-HĐH ở nước ta
a) Thuận lợi: Nước ta tiến hành CNH- HĐH trong một tình hình chính
trị xã hội ổn định, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ
21
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã hình thành và bức đầu có sự
phát triển nguồn lực - vật chất được tăng cường, mức sống của nhân dân dần
được ổn định, sản lượng lương thực thực phẩm đã tăng đáng kể, nền kinh tế
bắt đầu tích luỹ, vốn đầu tư toàn xã hội năm 1990 chiếm 15,8% GDP, đến
năm 1995 lên 27,4% GDP, sự nghiệp giáo dục của đất nước có nhiều tiến bộ
cải tiến, trình độ dân trí được tăng lên, sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước có
thêm kinh nghiệm, tự do quan hệ với bên ngoài, sau khi Mỹ đã bãi bỏ lệnh
cấm vận với nước ta lại nằm trong một khu vực đang phát triển mạnh lôi kéo
sự đầu tư của khắp thế giới. Nguồn nhan công của nước ta dồi dào, phong
phú, nhân dân ta có nhiều học hỏi kinh nghiệm và tiếp thu công nghệ tiên tiến.
b) Những khó khăn thách thức: Nền kinh tế nước ta được xếp vào hạng
chậm phát triển, lạm phát còn chưa được hạn chế, nguồn vốn hạn chế mà lại
phải đương đầu với cuộc cạnh tranh quyền lực về kinh tế và thương mại, tình

hình quốc phòng và an ninh còn phức tạp, công tác giáo dục và đào tạo,
nghiên cứu và triển khai chưa theo yêu cầu. Đội ngũ cán bộ còn yếu, bố trí sử
dụng chưa hợp lý. Bộ máy của Đảng và Nhà nước và các đoàn thể còn cồng
kềnh, kém hiệu lực, tình trạng tham nhũng, quanliêu lãng phí nghiêm trọng.
IV. Ý KIẾN CÁ NHÂN
+ Để công nghiệp hoá - Hiện đại hoá thành công: Không thể thiếu các
hạt nhân của nó, muốn phát huy được vai trò của nó ta phải phát triển nó.
+ Phát triển nguồn nhân lực: Để triển khai những ý tưởng về công
nghiệp hoá - hiện đại hoá trước mắt cũng như lâu dài phải tính đến yếu tố
hàng đầu của nguồn nhân lực. Ở đây vấn đề là giáo dục là cái nền của chất
lượng nhân lực, không phải nhân lực chung chung mà ở đây nhân lực của một
nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Ngoài việc bồi dưỡng, đào tạo và phát triển nhân lực còn đòi hỏi phải
chú ý đến chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng. Phát huy sức mạnh của năm
thành phần kinh tế.Muốn vậy phải kiểm soát giảm những yếu tố tự phát trong
cơ chế mới và đảm bảo nó phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Về thị trường và vốn: Thị trường cũng là một nhân tố quan trọng, là
nơi mà công nghiệp hoá có thể thành công, là môi trường cạnh tranh tạo sự
22
phát triển về kinh tế nó là nơi giải quyết các mâu thuẫn tồn tại bên trong nền
kinh tế. Do vậy chúng ta cần chú ý đến cả thị trường trong nước và ngoài
nước để tạo ra động lực.
Bên cạnh các nhân tố làm nên công nghiệp hoá còn rất nhiều các yếu tố
liên quan đến chính sách của Nhà nước, tài nguyên, môi trường tự nhiên
+ Thực tiễn đã chứng minh công nghiệp hoá là động lực trực tiếp để
phát triển kinh tế.
Việt Nam là một nước có điểm xuất phát về kinh tế thấp chịu hậu quả
của chiến tranh, kinh tế phát triển muộn. Muốn phát triển nhanh nền kinh tế,
muốn rút ngắn khoảng cách lạc hậu cần phát huy các điểm sau:
Phải sử dụng lợi thế nước phát triển muộn về công nghiệp. Chúng ta có

được những kinh nghiệm quý báu về thành công lẫn thát bại của các nước đi
trước. Thừa kế những kinh nghiệm đó, Đảng ta đã khẳng định "tăng trưởng
kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc
dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái". Thừa kế các công nghệ tiên tiến của
trong và ngoài nước thông qua chuyển giao công nghệ làm chủ trương để tăng
trưởng công nghiệp, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho lực lượng xã hội. Tránh
chiến tranh tạo khung cảnh hoà bình để làm kinh tế, vấn đề này bao hàm cả về
ổn định chính trị. Xác định được và đúng mô hình phát triển công nghệ và
kinh tế thị trường.
+ Khi tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá chúng ta phải chú ý
đến mục tiêu của nó suy cho cùng thì mục tiêu đó phải là tiến bộ xã hội, tạo
tiền đề kinh tế, vật chất cho sự giải phóng con người, giải phóng sự tha hoá
con người, làm cho con người thực sự là con người và một "xã hội văn minh"
có điều kiện hình thành và phát triển và hoàn thiện, và chú ý đến quy luật phát
triển khách quan của xã hội.
C. KẾT LUẬN
Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam là một tất yếu lịch
sử. Nó nhằm tới những mục tiêu rất cụ thể và mang tính cách mạng. Nó thay
đổi mới hàng loạt vấn đề cả về lý luận và thực tiễn, cả về kinh tế và chính trị -
23
xã hội. Nó bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong hoàn cảnh điều kiện mới.
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá là nhằm mục tiêu biến đổi
nước ta thành nước công nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh
tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với sự phát triển sản xuất, nguồn
lực con người được phát huy, mức sống vật chất tinh thần được nâng cao,
quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và
văn minh.
Như vậy công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình lâu dài để tạo ra sự
chuyển đổi cơ bản toàn bộ bộ mặt nước ta về kinh tế chính trị - quốc phòng-

an ninh. Quá trình công nghiệp hoá hiện nay mới chỉ là bước đầu những thành
tựu khiêm tốn mà nền kinh tế Việt Nam đạt được rất đáng kích lệ.
Việc Đảng và Nhà nước chọn con đường tiến hành công nghiệp hoá -
hiện đại hoá là hết sức đúng đắn. Bằng sự thông minh, sáng tạo cần cù con
người Việt Nam chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng trong một tương lai không
xa Việt Nam sẽ cất cánh trở thành con rồng châu Á và chúng ta hoàn thành
công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước Việt Nam sánh vai với
các nước bạn bè trong cộng đồng quốc tế trên con đường phát triển.
Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình đối với cô
giáo phụ trách bộ môn. Cô đã hướng dẫn và định hướng cho em đề cập đề tài
một cách khoa học và nghiêm túc.
Công nghiệp hóa - hiện đại hoá là một đề tài hết sức rộng lớn, vì vậy
trong bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em rất
mong được sự góp ý của cô và các bạn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo trình kinh tế nông nghiệp
- Sách về thực trạng CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
"NXB Thống kê Hà Nội - 1998"
- CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn.
24
"NXB chính trị quốc gia"
- Tạp chí cộng sản số ra tháng 1/1999
- Tạp chí phát triển kinh tế số 95, tháng 9/1999, số tháng 2/2001.
- Những vấn đề kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, NXB giáo dục
1996.
25

×