Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tài liệu Ung thư thực quản ( Phần 1) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.19 KB, 8 trang )

Ung thư thực quản
( Phần 1)

Thực quản là bộ phận nào trong cơ thể chúng ta ?
Thực quản, đó là một phần của ống tiêu hoá, nối từ họng đến dạ dày. Thực quản
nằm dọc ở vùng cổ, giữa khí quản phía trước và cột sống phía sau. Ở người trưởng
thành, thực quản dài khoảng 25 cm (10 inche). Khi chúng ta nuốt, các cơ ở thành thực
quản co bóp để đẩy thức ăn xuống dạ dày. Các tuyến trên thành thực quản tiết ra chất
nhầy, nó có tác dụng giữ lòng thực quản luôn ẩm ướt và bôi trơn thành thực quản giúp
việc nuốt thức ăn dễ dàng hơn.
Cũng như tất cả các cơ quan khác trong cơ thể, thực quản được cấu tạo bởi
nhiều loại tế bào khác nhau. Các tế bào thông thường chỉ phân chia để tạo ra những tế
bào mới khi cần thiết. Chính điều này góp phần cho chúng ta có một cơ thể khỏe
mạnh.
Ung thư là gì ?
Ung thư là một nhóm gồm nhiều bệnh, trong đó đặc điểm chung là các tế bào
trở nên bất thường, phân chia quá mức, không kiểm soát được và không theo một trật
tự nào cả.
Khi tế bào phân chia nhiều như vậy, chúng tạo thành những khối u. U thì có thể
u lành tính, cũng có thể là u ác tính.
Những khối u lành, người ta không gọi là ung thư. Chúng không xâm lấn đến
những cơ quan khác, và rất ít khi đe doạ tính mạng người bệnh. Những khối u lành này
có thể cắt bỏ đi dễ dàng, và thường thì chúng không xuất hiện trở lại.
Khối u ác tính mới là ung thư. Nó có thể xâm lấn và huỷ hoại những cơ quan kế
cận. Các tế bào ung thư còn có thể theo dòng máu hay hệ thống bạch huyết đi đến
nhiều nơi trong cơ thể, từ đó tạo ra những khối u ác tính ở những cơ quan khác. Những
khối u thứ phát này được gọi là ung thư di căn.
Mỗi năm, tại Mỹ phát hiện trung bình khoảng 11 000 trường hợp ung thư thực
quản mới. Khối u có thể phát triển tại nhiều vị trí khác nhau của thực quản. Một khi
phát hiện được những hạch ở vùng lân cận thực quản thì rất nhiều khả năng tế bào ác
tính đã xâm lấn ra các cơ quan quanh thực quản. Trong nhiều trường hợp, khối u có


thể di căn đến khí quản, đến các mạch máu lớn ở ngực, đến bất kỳ cơ quan xung quanh
nào. Ung thư thực quản cũng có thể di căn đến phổi, đến gan, đến dạ dày và đến các cơ
quan khác.
Mặc dù khối u di chuyển đến những cơ quan khác, nhưng người ta vẫn coi đó là
cùng một bệnh, và gọi cùng tên với tên gọi của ung thư nguyên phát. Khi ung thư thực
quản lan đến những cơ quan khác, người ta gọi đó là ung thư thực quản di căn.
Những nguyên nhân nào gây ung thư thực quản ?
Ở một số vùng trên thế giới, ung thư thực quản là một bệnh tương đối phổ biến,
nhưng tại Mỹ, ung thư thực quản chỉ chiếm 1% tổng số các loại ung thư.
Nguyên nhân chính xác gây ung thư thực quản vẫn chia được biết đến. Các nhà
nghiên cứu vẫn đang tìm hiểu điều này. Một khi nguyên nhân chính xác gây ung thư
thực quản được tìm ra, chúng ta càng có nhiều cơ hội để phòng tránh căn bệnh nguy
hiểm này.
Những nghiên cứu thực hiện tại Mỹ cho thấy, ung thư thực quản thường gặp ở
những bệnh nhân trên 55 tuổi. Nam giới bị bệnh nhiều gấp đôi phụ nữ, người da đen bị
nhiều hơn người da trắng. Lý do tại sao cũng chưa được giải thích hợp lý.
Một điều chắc chắn là ung thư thực quản không phải là một bệnh lây truyền, vì
thế người này không thể mắc bệnh do lây từ người khác.
Bên cạnh đó, các nhà khoa học cũng tìm ra nhiều yếu tố nguy cơ, mà có thể làm
tăng tỉ lệ bị ung thư thực quản. Tại Mỹ, hút thuốc và uống rượu quá mức là những yếu
tố nguy cơ thường gặp nhất. Một người vừa uống nhiều rượu vừa nghiện thuốc là thì
nguy cơ tăng lên nhiều lần so với người chỉ hút thuốc hoặc chỉ uống rượu.
Nếu hạn chế uống rượu có thể làm giảm nguy cơ ung thư thực quản cũng như
nguy cơ ung thư các cơ quan khác như ung thư khoang miệng, ung thư vòm họng, ung
thư vòm hầu Còn nếu không hút thuốc, chúng ta có thể giảm nguy cơ bị ung thư thực
quản, phổi, khoang miệng, họng hầu, bàng quang và tuỵ. Hơn nữa, một người bị ung
thư vì hút thuốc cũng dễ bị ung thư thứ phát hơn người khác. Hầu hết các Bác sĩ đều
yêu cầu bệnh nhân ung thư thực quản ngưng hút thuốc để hạn chế việc phát triển một
ung thư thứ phát đồng thời giảm nhẹ các triệu chứng của ung thư thực quản, như ho
chẳng hạn.

Một khi niêm mạc thực quản bị kích thích thường xuyên và kéo dài cũng làm
tăng nguy cơ bị ung thư. Vùng niêm mạc ở đoạn cuối thực quản thường bị viêm kéo
dài khi người bệnh bị chứng trào ngược dạ dày thực quản, làm dịch từ dạ dày trào lên
thực quản gây tổn thương niêm mạc thực quản. Khi các tế bào vùng tổn thương
chuyển đổi dần dần thành những tế bào tương tự tế bào niêm mạc dạ dày, các Bác sĩ
gọi đây là tình trạng thực quản Barrett. Trong một vài trường hợp, thực quản Barrett
có thể dẫn đến ung thư thực quản.
Còn nhiều dạng tổn thương khác của niêm mạc thực quản mà cũng là nguy cơ
chuyển thành ung thư thực quản. Ví dụ một người đã từng uống một thứ thuốc tẩy rửa
hoặc uống dung dịch hoá học gây bỏng thực quản thì sẽ có nguy cơ ung thư thực quản
cao hơn bình thường vì các loại chất hoá học trên gây tổn thương nhu mô thực quản
nặng nề.
Dinh dưỡng kém cũng là một yếu tố nguy cơ của ung thư thực quản. Các nhà
khoa học không biết chính xác chế độ ăn như thế nào thì ảnh hưởng đến nguy cơ mắc
bệnh này, nhưng chắc chắn một điều là một chế độ ăn cân bằng với nhiều loại rau quả
giúp giảm nguy cơ mắc bệnh.
Thông thường, một bệnh nhân bị ung thư thực quản thường không tìm thấy yếu
tố nguy cơ rõ ràng. Trong hầu hết các trường hợp, bệnh sinh ra là do nhiều yếu tố cùng
tác động lên.
Nếu bạn nghĩ rằng mình thuộc nhóm nguy cơ cao của bệnh, bạn nên gặp gỡ và
trò chuyện với Bác sĩ của mình để được tư vấn. Các Bác sĩ sẽ giúp bạn làm giảm nguy
cơ mắc bệnh xuống đồng thời sẽ lên một kế hoạch để theo dõi kỹ lưỡng.
Triệu chứng của ung thư thực quản là gì ?
Những khối u còn rất nhỏ ở thực quản thường không gây ra triệu chứng nào.
Khi khối u lớn lên, thì triệu chứng thường gặp nhất là khó nuốt tăng dần. Người bệnh
sẽ cảm thấy nghẹn ở cổ hoặc cảm giác nóng rát khi nuốt thức ăn. Đôi khi lại có cảm
giác cục thức ăn bị kẹt ở ngay phía sau xương ức. Triệu chứng khó nuốt cứ tăng dần.
Ban đầu là khó chịu khi ăn các thức ăn cứng và dai như thịt, bánh mì, rau sống, các
thức ăn dạng hạt Khi khối u lớn hơn, lòng thực quản càng ngày càng hẹp thì những
thức ăn khác thậm chí là thức ăn dạng lỏng cũng làm bệnh nhân nuốt khó khăn. Ngoài

ra còn có một số triệu chứng khác như khó tiêu, nóng rát trước ngực, nôn ói, nghẹn
thức ăn. Vì những nguyên nhân này mà bệnh nhân ngày càng sụt cân và gầy mòn.
Đôi khi người bệnh còn có triệu chứng ho khan và thở khò khè, cảm giác đau
rát sau ức hay đau vùng cổ.
Các triệu chứng trên không chỉ gặp trong ung thư thực quản mà còn gặp trong
nhiều bệnh khác, thế nên một khi bạn ghi nhận thấy mình có những triệu chứng đó thì
nên đến gặp một Bác sĩ chuyên khoa tiêu hoá để được tham vấn.
Bằng cách nào chúng ta chẩn đoán được ung thư thực quản ?
Để tìm nguyên nhân gây nên các triệu chứng kể trên, Bác sĩ sẽ hỏi người bệnh
về quá trình diễn tiến của các triệu chứng (gọi là bệnh sử) đồng thời tìm hiểu về tiền
căn bệnh tật của bản thân người bệnh và gia đình người thân của anh ta. Bên cạnh đó,
để có được những thông tin khái quát về bệnh, có thể Bác sĩ sẽ chỉ định một số xét
nghiệm cho bệnh nhân của mình, chẳng hạn như chụp X-quang thực quản.
Chụp thực quản đồ là một xét nghiệm cần thiết. Bạn được uống một dung dịch
cản quang, thường là Barium, sau đó người ta sẽ chụp một loạt nhiều hình X-quang
của thực quản. Vì Barium là thuốc cản quang, nó bao lên bề mặt niêm mạc thực quản,
nên việc chụp lại quá trình thuốc di chuyển trong lòng thực quản sẽ cho biết hình dạng
và những thay đổi trong lòng thực quản. Người Bác sĩ còn có thể dùng một màn hình
huỳnh quang theo dõi trực tiếp sự di chuyển của barium trong lòng thực quản xuống
đến dạ dày.
Hầu hết các bệnh nhân cũng được thực hiện một xét nghiệm là nội soi thực
quản. Trước khi thực hiện việc nội soi, bệnh nhân sẽ được xịt thuốc gây tê vào họng,
sau đó Bác sĩ sẽ đưa vào miệng bạn, qua họng xuống đến thực quản một ống nội soi
mềm, đàn hồi, có đèn ở đầu ống. Nội soi giúp người Bác sĩ quan sát được niêm mạc
thực quản và vùng tâm vị, nơi thực quản nối với dạ dày. Nếu phát hiện một vùng nào
đó bị tổn thương, Bác sĩ sẽ bấm sinh thiết, lấy một mảnh mô nhỏ để quan sát dưới kính
hiển vi nhằm phát hiện tế bào bất thường. Nhà giải phẫu bệnh là người đọc các tổn
thương này, nếu phát hiện thấy tế bào ung thư (ác tính), thì tiếp theo đó là xác định
loại tổn thương. Các ung thư ở vùng đầu và giữa thực quản thường là ung thư tế bào
vẩy, trong khi đó ung thư ở đoạn cuối thực quản gần dạ dày thì thường là ung thư tế

bào tuyến.
Một khi nhà giải phẫu bệnh phát hiện ra ung thư, thì người Bác sĩ cần biết thêm
về giai đoạn hay độ lan rộng của khối u. Việc phân độ của ung thư là một công việc
quan trọng để đánh giá chính xác những cơ quan nào của cơ thể đã bị khối u xâm lấn.
Việc quyết định điều trị là dựa trên giai đoạn của ung thư. Để phân độ chính xác,
người thầy thuốc cần thăm khám lâm sàng kỹ lưỡng, đặc biệt lưu ý vùng cổ và ngực,
làm thêm các xét nghiệm cận lâm sàng khác như xét nghiệm máu, chụp X-quang,
Các Bác sĩ cũng hay chỉ định thêm chụp CTscan vùng ngực và bụng trên.
CTscan cũng là chụp X-quang, nhưng cùng một lúc nhiều phim được chụp, sau đó
được máy vi tính phân tích và cho ra hình ảnh chính xác. Một số bệnh nhân phải chụp
cả phim MRI, đây là một kĩ thuật chụp dựa trên tính nhiễm từ của các phân tử nước
trong cơ thể. Máy chụp là một máy từ trường lớn nối với máy vi tính để xử lý hình
ảnh.
Các Bác sĩ còn sử dụng nhiều phương pháp và phương tiện đặc biệt khác để
phát hiện các khối u di căn. Ví dụ như gương soi hầu họng, ống nội soi khí quản và
phế quản-đường dẫn khí vào phổi, để phát hiện ung thư thứ phát ở những nơi này.
Đôi khi các hạch kế cận thực quản to lên, phát hiện được khi khám, thì các Bác
sĩ có thể cho sinh thiết hạch này tìm xem có tế bào ác tính hay không ?

×