Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức và liên hệ bản thân trong việc thực hiện từng chuẩn mực đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.59 KB, 39 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

KIỂM TRA CUỐI KỲ
HÌNH THỨC BÀI TẬP LỚN/ TIỂU LUẬN

Tên chủ đề: Tư tưởng Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức cách mạng.
Anh chị hãy liên hệ bản thân trong việc thực hiện từng chuẩn mực đạo đức
theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới như Nghị quyết đại hội
Đảng lần thứ XIII đã nêu
Tên học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Số tín chỉ: 2
Học kỳ: 3, Năm học: 2020-2021
Mã phách:

Hà Nội, năm 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU...............................................................................3
1.

Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng...........3

1.1.

1.1.1.

Truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc.......................................4


1.1.2.

Tinh hoa đạo đức phương Đông, phương Tây................................5

1.1.3.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về đạo đức cách mạng.........6

1.2.

2.

Cơ sở lý luận..........................................................................................4

Cơ sở thực tiễn.......................................................................................7

1.2.1.

Hoàn cảnh Việt Nam.......................................................................7

1.2.2.

Hồn cảnh thế giới...........................................................................7

Tư tưởng Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức cách mạng..............8

2.1.

Trung với nước, hiếu với dân................................................................8


2.2.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư................................................10

2.3.

Thương u con người, sống có nghĩa có tình....................................14

2.4.

Tinh thần quốc tế trong sáng................................................................16

3.

Liên hệ bản thân trong việc thực hiện từng chuẩn mực đạo đức theo tư

tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới như Nghị quyết đại hội Đảng lần
thứ XIII..................................................................................................................
17
3.1.

Khái quát chung về Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ XIII.................17

3.1.1.

Tầm nhìn và định hướng phát triển...............................................17

3.1.2.

Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ XIII về xây dựng Đảng về đạo


đức

.......................................................................................................23


3.2.

Liên hệ bản thân trong việc thực hiện từng chuẩn mực đạo đức theo Tư

tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới như trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ XIII.............................................................................................................27
3.2.1.

Thực hành “Trung với nước, hiếu với dân”..................................30

3.2.2.

Rèn luyện “Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”.....................31

3.2.3.

Sống “ Thương u con người, sống có nghĩa có tình”................31

3.2.4.

Bồi dưỡng “Tinh thần quốc tế trong sáng”....................................32

KẾT LUẬN........................................................................................................33
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................35



MỞ ĐẦU
“Bác Hồ, Người là tình yêu thiết tha nhất
Trong lòng dân và trong trái tim nhân loại.
Cả cuộc đời Bác chăm lo cho hạnh phúc nhân dân
Cả cuộc đời Bác hi sinh cho dân tộc Việt Nam” [1]
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, là anh hùng giải
phóng dân tộc và là một danh nhân văn hóa kiệt suất của thế giới. Cuộc đời và
sự nghiệp của Người là một bản anh hùng ca về một tấm gương sáng về đạo đức
cách mạng, về phẩm chất và phong thái của người chiến sĩ cộng sản, về chủ
nghĩa yêu nước, về trí tuệ uyên bác, và là niềm cổ vũ lớn lao đối với các thế hệ
Việt Nam. Người đã gắn bó và hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách
mạng của Ðảng ta và dân tộc ta, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Denis Gray đã từng viết rằng: “Việt Nam có thể có những bước thăng trầm,
nhưng kí ức về vị lãnh tụ cộng sản được sinh ra từ cuối thế kỉ XIX sẽ tồn tại mãi
mãi.” [2] Suốt cuộc đời gần 60 năm hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí
Minh đã hình thành và phát triển nên hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, trở thành
tài sản vô giá Đảng và nhân dân Việt Nam. Đó là sự kết tinh, kế thừa và phát
huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, là sự chắt lọc tinh hoa của các
giá trị văn hóa Cổ, Kim, Đơng,Tây, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa MácLênin và những giá trị bình đẳng, tự do, bác ái, tiến bộ, dân chủ của phương Tây
vào hồn cảnh thực tiễn của Việt Nam. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Đình Phong
nhận xét: “Tư tưởng Hồ Chí Minh chứa đựng những giá trị bền vững bởi nội
dung toàn diện và sâu sắc với bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn” [3].
Trước lúc đi xa, Người đã để lại lời dặn dò về Đảng và các chuẩn mực đạo đức
cách mạng: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi Đảng viên và cán bộ phải
thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người đầy tớ
trung thành của nhân dân.”[4] Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng cả cuộc đời mình
để tự thực hiện một cách trọn vẹn những tư tưởng và khát vọng về đạo đức cách

mạng. Người không chỉ là một nhà lý luận đạo đức cách mạng mà còn là một
1


tấm gương đạo đức gần gũi và chân thực nhất. Dù đã ra đi hơn nửa thế kỉ, nhưng
những tư tưởng của Người mãi là viên ngọc sáng, trở thành hệ thống tư tưởng
soi đường, dẫn lối cho Việt Nam nhà hôm nay và mai sau. Bước vào thời đại
mới với Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ XIII, việc học tập và thực hiện từng
chuẩn mực đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nhân tố quan trọng góp
phần hồn thiện bản thân để đáp ứng được đòi hỏi và sự phát triển của xã hội
hiện đại.

2


NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1.

Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
Tư tưởng Hồ Chí Minh có một q trình phát triển lâu dài, gắn bó với cả

cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Đảng ta có một q trình phát triển
nhận thức về tư tưởng Hồ Chí Minh qua nhiều chặng đường lịch sử. Tại đại hội
VI (12-1986), Đảng ta nhấn mạnh: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm
vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa di sản
quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh”[5]. Đến
Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ VII (6-1991) có điểm mới là “nêu cao tư
tưởng Hồ Chí Minh” và khẳng định “Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả
của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của
nước ta, và trong thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh

thần quý báu của Đảng và dân tộc ta”[6]. Cương lĩnh năm 1991 khẳng định:
“Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động”[7]. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng cộng sản Việt Nam ( năm 2011) đã nêu khái niệm tư tưởng Hồ Chí
Minh như sau: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và
dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành
thắng lợi”[8]. Khái niệm đã chỉ rõ nội hàm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đó là bản chất cách mạng và khoa học, nguồn gốc và ý nghĩa, giá trị trường tồn
của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dân tộc ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có cơng lao vơ cùng to lớn đối với sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 1 năm 1930. Trên cơ sở vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người đã chuẩn bị
về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho q trình thành lập Đảng. Khơng chỉ vậy,
Hồ Chí Minh cịn quan tâm xây dựng Đảng về cả đạo đức cách mạng. Có thể
3


thấy, Người đã mở rộng “phạm vi xây dựng Đảng bao gồm: chính trị, tư tưởng,
tổ chức và đạo đức. Đó chính là đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh về mặt lí luận
trong cơng tác xây dựng Đảng trên nền tảng là chủ nghĩa Mác-Lênin”[9]. “Đạo
đức là một hình thái ý thức xã hội, tổng hợp các quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ
đó con người có thể điều chỉnh hành vi của mình”[10]. Đạo đức cách mạng là
vấn đề quan tâm hàng đầu của Người trong sự nghiệp cách mạng của mình. Tư
tưởng về đạo đức cách mạng của Người “bắt nguồn từ những truyền thống đạo
đức tốt đẹp của dân tộc, được hình thành và kết tinh trong suốt quá trình đấu
tranh dựng nước và giữ nước”[11]. Đồng thời còn là sự kết hợp giữa sự vận

dụng chủ nghĩa Mác-Lênin và những tinh hoa văn hóa nhân loại vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam. Cụ thể như sau:
1.1.

Cơ sở lý luận

1.1.1. Truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc
Trong suốt chiều dài lịch sử “dựng nước và giữ nước” của dân tộc Việt
Nam, biết bao thế hệ cha anh đã đấu tranh anh dũng, hi sinh máu xương của
mình để chiến đấu chống giặc ngoại xâm và giành lại nền độc lập cho dân tộc.
Trong suốt thời kì gian khổ mà hào hùng đó, nhân dân Việt Nam ta đã sớm hình
thành nên lịng yêu nước, tinh thần đoàn kết, “tương thân tương ái”, “đồng cam
cộng khổ”, sống “trọng nghĩa, trọng tình”... Những phẩm chất đạo đức tốt đẹp
đó đã được các thế hệ người Việt Nam “kế thừa và bồi đắp” từ đời này qua đời
khác, và trở thành những giá trị đạo đức cao đẹp, bền vững của dân tộc ta. Trong
đó, chủ nghĩa yêu nước là nét đặc sắc, nổi bật nhất trong các giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho u nước, nên
ngay từ khi cịn nhỏ Người đã được giáo dục về lòng yêu nước, nếp sống và nếp
sinh hoạt yêu thương, gần gũi với nhân dân. Hơn nữa, người lại chứng kiến cảnh
nước nhà bị bọn thực dân giày xéo, nhân dân khắp nơi lầm than, đói khổ. Truyền
thống đạo đức cao đẹp của dân tộc đã tiếp thêm nguồn động lực to lớn giúp cho
Hồ Chí Minh bền bỉ và quyết tâm trên con đường đấu tranh giành lại độc lập và
tự do cho dân tộc, “làm cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
4


tồn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”[12].
Những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã được Hồ Chí Minh kế
thừa, phát huy và được thể hiện một cách đầy đủ, sâu sắc trong quan niệm của

Người về đạo đức cách mạng.
1.1.2. Tinh hoa đạo đức phương Đơng, phương Tây
Hồ Chí Minh đã đi sâu tìm hiểu về tư tưởng đạo đức của Nho giáo, Phật giáo,
Người nhận định: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của
Khổng Tử có nhiều điều khơng đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta
nên học. Đó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân, nghiêm khắc với bản thân”[13].
Người cũng tìm thấy những điểm tiến bộ trong tư tưởng của Phật giáo đó là: Phật
giáo đề cao và coi trọng “cái thiện”, “khuyên con người sống hiền từ, khơng tham
lam, có lịng vị tha, cảm thông sâu sắc với người nghèo khổ, biết lo cho người hơn
lo cho mình”. Trong đạo đức của phương Tây, Hồ Chí Minh rất coi trọng những
“ưu điểm” trong tư tưởng của Thiên chúa giáo, đó là lịng nhân ái cao cả của
Chúa Giêsu, “khuyên con người sống trong sạch, thuỷ chung, thương yêu, giúp
đỡ lẫn nhau, biết hoà đồng và làm bạn với mọi người, kể cả làm bạn với bạn của
kẻ hại mình”. Người cũng đánh giá cao tinh thần “nhân đạo, dân chủ và nhân
quyền” , đề cao tư tưởng “tự do, bình đẳng, bác ái”. Bác cho rằng, đó là những
tư tưởng đạo đức tiến bộ, tuy nhiên lại bị giai cấp tư sản lợi dụng để củng cố
quyền lực chính trị của mình và đàn áp nhân dân, làm cho dân chúng khắp nơi
lâm vào hồn cảnh đói khổ.
Hồ Chí Minh đã chắt lọc những giá trị tinh hoa, tốt đẹp nhất của cả phương
Đơng và phương Tây để làm giàu cho trí tuệ của mình và dần hình thành nên tư
tưởng về đạo đức cách mạng. Đó cũng là một điều kiện khách quan giúp Hồ Chí
Minh đến với “chủ nghĩa nhân đạo” cao cả của chủ nghĩa Mác - Lênin, hình
thành nên tư duy biện chứng khoa học để người hoàn thiện các giá trị về đạo đức
bằng “những quan niệm mới, cách mạng và tiến bộ, phù hợp với xu thế phát
triển tất yếu của nhân loại”.

5


1.1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về đạo đức cách mạng

“Chủ nghĩa Mác ra đời đã đánh dấu bước ngoặt về một nền đạo đức mới,
đạo đức cộng sản, gạt bỏ tất cả những quan niệm duy tâm, phi lịch sử về đạo
đức”. C.Mác cho rằng, “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ
trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế, của xã hội lúc bấy giờ”[14].
Ơng cịn chỉ rõ, nếu trong một xã hội mà có sự đối lập về giai cấp, thì “đạo đức
cũng là đạo đức của giai cấp, hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của
giai cấp thống trị, hoặc là khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh, thì nó tiêu biểu
cho sự nổi dậy chống lại sự thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi ích tương lai
của những người bị áp bức. Đạo đức tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những
người bị áp bức chính là đạo đức mới, đạo đức cách mạng mang bản chất giai
cấp cơng nhân, nó khác hẳn với bản chất đạo đức cũ của giai cấp thống trị bóc
lột”. V..Lênin cũng đã từng nhấn mạnh: “Đạo đức đó là những gì góp phần phá
huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đồn kết tất cả những người lao động
chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra một xã hội mới của những người
cộng sản” [15] Tư tưởng của Mác-Lênin cũng như tấm gương mà họ để lại là
nhân tố đặc biệt quan trọng hình thành nên tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo
đức.
Có thể thấy, chủ nghĩa Mác - Lênin rất chú trọng đến vấn đề đạo đức và xây
dựng đạo đức cách mạng. Tư tưởng về đạo đức ấy không chỉ có sức huyết phục
ở tính khoa học, cách mạng mà còn bởi các “nhà kinh điển” ấy đã trở thành
những tấm gương sáng về đạo đức cách mạng. Người đã xúc động viết lên:
“Lênin là người đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng về sự giản dị vĩ đại và
sự khiêm tốn cao độ. Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi
khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm
lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân
tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về người, khơng gì ngăn cản
nổi.” [16] . Bởi vậy, tư tưởng về đạo đức của chủ nghĩa Mác-Lênin đã có sức
ảnh hưởng rất lớn tới nhận thức, tư duy và tình cảm của Hồ Chí Minh.

6



1.2.

Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Hoàn cảnh Việt Nam
Trong xã hội thuộc địa phong kiến và nửa phong kiến, chính sách cai trị hà khắc
của bọn thực dân đã khiến cho nhân dân Việt Nam rơi vào cảnh đói khổ, lầm than.
Chúng bóc khơng chỉ bóc lột nhân dân ta về thể xác mà còn hành hạ về tinh thần.
Trong văn hóa, chúng áp đặt “lối sống tư sản”, đề cao “chủ nghĩa cá nhân” và trói
buộc nhân dân ta trong những lễ giáo phong kiến, làm phai nhạt dần truyền thống đạo
đức tốt đẹp của nhân dân ta. Đó chính là những khó khăn lớn mà nhân dân ta phải đối
mặt trong sự nghiệp giải phóng bản thân, giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức. Bởi vì lẽ
đó, Hồ Chí Minh đã nhận thức được rằng: “Đối với cách mạng nước ta, muốn giải
phóng triệt để cho người lao động phải đồng thời giải phóng cho họ cả về tư tưởng,
văn hố, đạo đức lối sống, thói quen lạc hậu có gốc rễ từ hàng ngàn năm nay”[17].
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hịa
được thành lập, Hồ Chí Minh sớm phát hiện ra “những hiện tượng sai lệch của
một bộ phận cán bộ, Đảng viên như quan liêu, hách dịch, cậy chức, cậy quyền
tham ơ, hủ hố... nếu khơng sớm ngăn chặn dễ trở thành nguy cơ làm tổn hại đến
thanh danh của Đảng và toàn bộ sự nghiệp cách mạng, nhất là trong điều kiện
Đảng cầm quyền”[18]. Điều đó địi hỏi nước ta, dân tộc ta cần phải xây dựng
một nền đạo đức cách mạng mới đáp ứng được đòi hỏi khách quan của thời đại.
Đó cũng là cơ sở quan trọng để Hồ Chí Minh xây dựng quan niệm về đạo đức
cách mạng
1.2.2. Hoàn cảnh thế giới
Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã đi
đến nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới, và người đã rút ra một kết luận sâu sắc:
“Ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động

cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề”[19]. Người còn nhận ra rằng, chủ nghĩa để
quốc đã và đang thực hiện chính sách “đầu độc về văn hoá, tuyên truyền cho lối
sống thực dụng, đề cao chủ nghĩa cá nhân, áp đặt các giá trị đạo đức, luân lý tư
sản vào các nước thuộc địa”. Bởi vậy, giải phóng dân tộc khơng chỉ nhằm mục
đích giành lại độc lập mà còn là để bảo vệ những giá trị đạo đức truyền thống tốt
7


đẹp của đất nước. Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã mở ra
một kỉ nguyên mới trong công cuộc cải tạo, xây dựng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt
là về mặt đạo đức, nhằm xây dựng một nền đạo đức tiến bộ. Hồ Chí Minh đã
nhận thức và tiếp thu một cách đúng đắn để hình thành nên tư tưởng của Người
về đạo đức cách mạng.
2.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức cách mạng
Với tư duy nhạy bén, sâu sắc, phương pháp luận khoa học, với lịng u

nước và sự gắn bó mật thiết với cuộc sống của nhân dân, Hồ Chí Miinh đã kế
thừa một cách chọn lọc những tinh hoa văn hóa truyền thống, văn hóa nhân loại
và chủ nghĩa Mác-Lênnin, đồng thời phát huy tối đa những nét tiến bộ, văn minh
nhất để hình thành nên quan niệm của Người về các chuẩn mực đạo đức cách
mạng. Bởi thế, tư tưởng đạo đức của Người luôn hấp dẫn, thuyết phục các
thế hệ người Việt và toàn thể nhân dân yêu chuộng hồ bình và tiến bộ trên
thế giới.
Chính chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về thực hành đạo đức
cách mạng trong suốt cuộc đời của mình. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là
nguồn ni dưỡng và phát triển con người, là nền tảng và sức mạnh của người
cách mạng. Người coi đạo đức quan trọng như “cái gốc của cây, như ngọn
nguồn của sông suối”. “Người cách mạng cần phải có đạo đức cách mạng thì

mới hồn thành được nhiệm vụ giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, có đạo đức thì khi gặp khó khăn sẽ khơng lùi bước, khi thành công vẫn
khiêm tốn và tiếp tục cố gắng hơn nữa”. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, chuẩn mực
đạo đức cách mạng gồm bốn phẩm chất sau:
2.1.

Trung với nước, hiếu với dân
“Trung” và “hiếu” là những khái niệm cũ, đã tồn tại trong truyền thống

đạo đức của văn hóa phương Đơng và cả Việt Nam. Thời xưa, đạo Nho dạy
người quân tử “trung-hiếu” là phạm trù đạo đức cốt lõi của một người quân tử.
Trong đó, “trung” là trung với vua, “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”, vua
là người quyết định tất cả mọi việc. Trong các triều đại phong kiến xưa, người
8


quân tử phải luôn là tấm gương trung thành với vua, sẵn sàng chết để bảo vệ
vua, tuân theo mọi mệnh lệnh của vua, nếu vua tử trận, họ cũng sẽ chết theo.
Còn “hiếu” nghĩa là phải hết lòng thờ kính ơng bà cha mẹ, những người bề trên
của mình. Con cái phải một mực nghe theo lời dạy bảo của cha mẹ, phải phụng
dưỡng cha mẹ đến già, lúc đau ốm, bệnh tật. Trong lịch sử Việt Nam, tư tưởng
“trung quân” cũng đã tồn tại nhưng gắn bó chặt chẽ với “ái quốc”, nếu như vua
chỉ ăn chơi sa đọa mà khơng giúp cho đất nước phát triển thì lịng trung với vua
cũng khơng cịn nữa. Đó là điểm riêng của tư tưởng “trung quân” ở Việt Nam.
Từ nội dung còn nhiều hạn chế của các phạm trù đạo đức cũ của Nho
Giáo và xã hội phong kiến Việt Nam, Hồ Chí Minh đã mở rộng quan niệm về
“trung” và “hiếu” với những nội dung hết sức tiến bộ đó là: “Trung với nước,
hiếu với dân”. Đây được coi là nội dung cơ bản, bao trùm trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cách mạng, thể hiện mối quan hệ của con người với đất nước
và nhân dân. “Trung với nước” trong quan niệm của Người là trung thành với sự

nghiệp xây dựng đất nước, phải đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên hàng đầu,
mà đầu tiên là phải đấu tranh cho sự phát triển của đất nước, đem lại đời sống
ấm no cho nhân dân. Do đó, Hồ Chí Minh cho rằng “trung với nước” cũng chính
là trung thành với Đảng, tin tưởng vào mục tiêu và lí tưởng của Đảng, với sự
nghiệp cách mạng mà Đảng hướng tới đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Còn “hiếu” trong tư tưởng của Hồ Chí Minh khơng chỉ là hiếu với
cha mẹ như trong đạo Nho, mà là “hiếu với dân” là phải u mến, tơn trọng
nhân dân, trong đó có ông bà cha mẹ của mình, phải vì dân phục vụ, gắn bó với
đời sống nhân dân, đem lại cuộc sống hịa bình, ấm no, hạnh phúc cho dân. Bởi
Người cho rằng, “bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì
dân, tất cả quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[20]. Đây chính là nét đặc
biệt và hết sức nhân văn trong tư tưởng của Hồ Chí Minh mà rất ít vị lãnh tụ nào
làm được điều đó. “Trung” và “hiếu” trong tư tưởng của Hồ Chí Minh có mối
quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, là sự chắt lọc tinh hoa của truyền thống và sự
phát triển sao cho phù hợp với thời đại mới.
Chính cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh là một minh chứng rõ nét, là
tấm gương sáng về một con người “trung với nước, hiếu với dân”, suốt cuộc đời
9


“vì đất nước, vì nhân dân”. Ngay từ khi cịn trẻ, Hồ Chí Minh đã hướng tới mục
tiêu “hiến dâng cả cuộc đời mình cho cách mạng”. Người đã cống hiến trọn đời
mình cho “sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc, giải phóng giai
cấp cơng nhân và dân tộc bị áp bức, cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội”. Ở
Hồ Chí Minh, “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ,
là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”[21]. Suốt đời vì nước vì dân,
đến cuối đời, tuy nằm trên giường bệnh nhưng bác vẫn làm việc, vẫn nghe các
đồng chí tỏng Bộ Chính trị đến báo cáo cơng việt. Những ngày cuối đời, có lúc
cơn đau tim đau đớn, nhưng khi tĩnh lại, Bác lại hỏi thăm: “Miền Bắc chống bão
lụt với đâu rồi? Miền Nam mấy hôm nay đánh trận thế nào?”. Trong “Di chúc”

để lại, về việc riêng Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Suốt đời tơi hết lịng hết sức
phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân Dân. Nay dù phải từ biệt
thế giới này, tơi khơng có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được
phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”[22]. “Tấm gương vì nước, vì dân của Hồ
Chí Minh đã được nhân dân thế giới và bạn bè quốc tế thừa nhận và kính phục.
Họ đã dùng những lời lẽ đẹp đẽ và trang trọng nhất để ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí
Minh là nhà cách mạng triệt để, nhà hoạt động quốc tế thần thoại, một nhân vật
nổi bật nhất trong thời đại chúng ta, một tấm gương sáng chói những phẩm chất
cách mạng và nhân đạo cao cả nhất”.
2.2.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh “Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” chính là

nền tảng đạo đức của xã hội mới, là phẩm chất hàng đầu cần có của đạo đức cách
mạng. Theo Khổng Tử, những đức tính đó là do trời phú, nhưng Bác lại cho rằng
những phẩm chất ấy không phải do thiên phú mà do con người rèn luyện mà thành.
Bởi vậy, Người khẳng định “đạo đức cách mạng không phải từ trên trời rơi xuống”
mà do quá trình học tập, rèn luyện và cố gắng của con người. “Cần, kiệm, liêm,
chính” khơng phải là khái niệm mới, nhưng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, những
phẩm chất này được kế thừa và phát triển một cách sáng tạo, đáp ứng được những
yêu cầu mới. Đó là những đức tính mà mỗi người cần phải ghi nhớ và áp dụng vào

10


trong từng hoạt động thường ngày của mình, đặc biệt là các cán bộ, Đảng viên hoạt
động trong Đảng. Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh:
“Trời có bốn mùa: Xn, Hạ, Thu, Đơng
Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc

Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa thì khơng thành trời
Thiếu một phương thì khơng thành đất
Thiếu một đức thì khơng thành người”
“Cần” trong tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh là “cần cù, siêng năng, có kế
hoạch trong lao động, luôn tự giác, không ỷ lại, lười biếng, khơng dựa dẫm vào
người khác”. “Cần” cịn là đi làm và đúng giờ, không đi muộn về sớm, làm việc
cần hiệu quả và chu đáo với mỗi việc dù là nhỏ nhất. Mỗi người cần nhận thức
được lao động chính là nghĩa vụ thiêng liêng, là một niềm hạnh phúc. Bác đã từng
nói: “Người siêng năng thì mau tiến bộ. Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no. Cả làng
siêng năng thì làng phồn thịnh. Cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu.”[23] Lười
biếng chính là kẻ thủ của sự biến bộ và phát triển. Tuy nhiên, “cần” trong quan
niệm của Người không phải là “quá trớn” mà cịn phải biết tiết chế, giữ gìn sức lực
và tinh thần để làm việc được trong thời gian lâu dài chứ không phải chỉ làm ngày
một ngày hai.
“Kiệm” là “tiết kiệm sức lao động, thời gian, tiền của của nhân dân, của
đất nước và của chính bản thân mình”. Đồng thời phải tiết kiệm “dù là những cái
nhỏ, đến những cái to, khơng sống hoang phí, bừa bãi, khơng phơ trương”. Tiết
kiệm là “không sống xa xỉ, cán bộ, Đảng viên được ăn ngon mặc đẹp trong khi
nhân dân đang nghèo đói, thiếu thốn là xa xỉ, là đáng trách, là có lỗi với đồng
bào mình”. Cần và kiệm phải ln song hành với nhau, là phẩm chất cần có của
người lao động trong xã hội. Nếu chỉ cần cù mà không biết tiết kiệm, “làm
chừng nào xào chừng ấy” thì khơng để lại được điều gì có ý nghĩa. Ngược lại,
11


nếu chỉ tiết kiệm mà không biết chăm chỉ lao động thì sẽ khơng phát triển được,
đời sống sẽ khơng được nâng cao. Song, “kiệm” không phải là hà tiện hay bủn
xỉn mà là việc gì đáng tiêu thì cần phải tiêu. Bác đã từng dạy rằng: “Tiết kiệm
không phải là ép bộ đội, nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc, nhưng khi khơng nên tiêu

xài thì một đồng cũng khơng nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc lợi ích cho
nhân dân, cho Tổ quốc, thì bao nhiêu cơng, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng”.
“Liêm” trong quan niệm của Bác là sống “trong sạch, không tham lam tiền
tài, địa vị, không xâm phạm vào dù chỉ là một chút ít tài sản của nhân dân”. “Liêm”
cịn là ln ln biết “giữ gìn của cơng và của nhân dân, khơng tham người tâng
bốc mình lên trong khi bản thân cịn nhiều yếu kém”. Khổng Tử đã từng nhấn
mạnh “Người mà khơng liêm, khơng bằng súc vật”, cịn Mạnh Tử nói “ Ai cũng
tham lợi thì nước sẽ nguy”. Tuy nhiên, có nhưng thứ con người có thể ham được đó
là “ham học, ham làm, ham sự tiến bộ” của bản thân và xã hội. Khi nói về “liêm”,
Hồ Chí Minh viết: “Những người ở các công sở từ làng cho đến Chính phủ trung
ương đều tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của Chính phủ hoặc khoét đục của nhân
dân. Đến khi lộ ra, bị phạt thì mất hết cả danh giá mà của phi nghĩa đó cũng khơng
được hưởng. Vậy những người trong công sở phải lấy liêm làm đầu”. Bác còn nhận
định rằng, “liêm” phải đồng hành cùng với “kiệm” cũng giống như “kiệm” phải
song hành với “cần”, có tiết kiệm thì mới có “liêm” được.
“Chính” là đối với mình ln sống “thẳng thắn, chính trực, đứng đắn, ln
có ý thức học tập để tiến bộ, biết tự kiểm điểm mình để loại bỏ những điều xấu và
học hỏi những điều hay, lẽ phải, góp phần hồn thiện bản thân mình”. “Chính” cịn
là đối với người khác thì không nịnh nọt, luôn khiêm tốn và chân thành, đối với
cơng việc thì để việc cơng lên trên việc cá nhân của mình, được giao nhiệm vụ gì
thì cố gắng hồn thành thật tốt, “việc tốt thì dù mấy cũng thực hiện, cịn việc ác thì
nhỏ mấy cũng tránh”. Khi nói về phẩm chất “chính”, Hồ Chí Minh đã từng nói
“Một người phải cần, kiệm, nhưng cịn phải chính mới là người hồn tồn. Trên
quả đất có hàng mn triệu người sống, số người ấy có thể chia thành hai hạng:
Người thiện và người ác. Trong xã hội, tuy có trăm cơng, nghìn việc, song, những
12


cơng việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc chính và việc tà. Làm việc chính, là
người thiện. Làm việc tà, là người ác. Siêng năng (cần), tiết kiệm (kiệm), trong

sạch (liêm), chính là thiện; cịn lười biếng, xa xỉ, tham lam là ác, là tà”. Bác cịn
dặn: “Mình là người làm việc cần phải có cơng tâm, cơng đức. Chớ đem của công
dùng vào việc tư. Chớ đem người tư làm việc cơng. Việc gì cũng phải cơng minh,
chính trực, khơng nên vì tư ân, tư huệ hay tư thù, tư ốn. Mình có quyền dùng
người thì phải dùng những người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con, bầu
bạn mà bố họ vào chức nọ, chức kia. Chớ vì sợ mất lịng mà dìm những kẻ có tài
hơn mình. Phải trung thành với Chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm quan
cách mạng”[24].
“Chí cơng vô tư” trong quan niệm về đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh
là “làm việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân, của đất nước, nghĩ đến lợi ích của
mình sau”. Thực hành “chí cơng vơ tư” là “chống lại tính cá nhân trong mỗi con
người để nâng cao đạo đức cách mạng”. Bởi chủ nghĩa “cá nhân” sẽ sinh ra nhiều
tệ nạn khác như: “bè phái, tham ô, quan liêu, sa hoa, lãng phí, coi thường tập thể,
độc đốn, ...” Hồ Chí Minh viết: “ Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày
hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, khơng nhất định hôm nay vẫn được mọi
người yêu mến và ca ngợi, nếu lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa
cá nhân”. Tuy nhiên, mỗi người cần có nhận thức đúng đắn về đâu là “chủ nghĩa cá
nhân” và đâu là lợi ích cá nhân. Bác cho rằng: “Đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá
nhân không đồng nghĩa với chà đạp lên lợi ích của cá nhân. Mỗi người đều có tính
cách, thế mạnh riêng và hồn cảnh của riêng mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó
khơng trái với lợi ích của tập thể thì đó khơng phải là điều xấu. Cần, kiệm, liêm,
chính sẽ dẫn đến chí cơng vơ tư, và nếu đã chí cơng vơ tư thì sẽ một lịng chăm lo
cho lợi ích của Đảng, của nhân dân, để nhân dân có được cuộc sống ổn định, ấm
no”.
Như vậy, “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” có mối quan hệ mật
thiết với nhau, góp phần “tạo nên sự thống nhất trong phẩm chất đạo đức của
người một người cách mạng chân chính”. Đó cũng chính là chiếc thước đo sự
13



văn minh và tiến bộ của một quốc gia, một dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng
những người có đủ những đức tính trên sẽ vượt qua mọi khó khăn và hồn thiện
được bản thân mình. Người cán bộ, Đảng viên giữ được các phẩm chất ấy chính
là những người có ý thực phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Nếu con người
khơng biết “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” sẽ dễ trở nên tha hóa, làm
hại đến đời sống nhân dân. Và tự mình, Người đã gương mẫu thực hiện các
chuẩn mực đạo đức ấy, thể hiện trong từng lời nói, hành động, tác phong của
Người hàng ngày. Có lẽ, đức tính giản dị và sự gần gũi của Người đã để lại ấn
tượng khó quên đối với mỗi người đã từng một lần tiếp xúc với Bác. Sự giản dị
trong con người Bác khó ai có thể sánh bằng được. Những bộ quần áo của Bác
chỉ có vài bộ kaki may cùng kiểu, có những chiếc áo đã rách cổ vá đi vá lại mà
Bác vẫn giữ lại, không cho đổi. Đôi dép cao su đã gắn bó với Bác qua biết bao
chặng đường cách mạng, quai và đế dép đã mòn nhưng vẫn trơe thành người bạn
đường cùng Bác. Là một Chủ tịch nước, nhưng chiếc xe ôtô của Bác cũng là
một chiếc xe bình thường, Bác dùng để đi cơng tác hay thăm đồng bào của
mình. Bữa ăn thường ngày của Bác cũng chỉ đơn giản với dưa cà, thỉnh thoảng
có bữa thịt. Khi về địa phương thăm nhân dân, Bác cũng tự mình mang theo
cơm nắm bởi Bác sợ phiền hà đến nhân dân. Bác cũng không thông báo trước để
tánh nhân dân phải đón rước linh đình sẽ rất tốn kém. Trong kháng chiến, Bác ở
chiến khu với ngôi nhà sàn lợp mái lá đơn sơ. Khi nước nhà được độc lập, niềm
vui hịa bình tràn ngập cả nước, Bác về Thủ đô và Bác không chọn sống trong
một ngôi nhà khang trang, to đẹp mà Bác chọn sống ở nhà sàn. X.Asienđê Tổng thống nước Cộng hòa Chile đã khái quát: "Nếu như muốn tìm một sự tiêu
biểu cho tất cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đó là đức tính vơ cùng
giản dị và sự khiêm tốn phi thường”. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Hồ
Chủ tịch khơng có cái gì riêng. Cái gì của nước, của dân là của Người. Quyền
lợi tối cao của nước, lợi ích hàng ngày của dân là sự lo lắng đêm ngày của
Người. Gia đình của Người là đại gia đình Việt Nam". Tấm gương đạo đức về
thực hành “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” của Bác thật đáng nể phục và
đáng tự hào.
14



2.3.

Thương u con người, sống có nghĩa có tình
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, tình u thương con người là một

trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất của một con người. Bởi đó là sự
kết thừa truyền thống “nhân nghĩa”, cùng với sự kết hợp của “chủ nghĩa nhân
đạo cộng sản” và sự tiếp thu tinh thần nhân văn của cả nhân loại cùng với sự trải
nghiệm của Người thơng qua q trình hoạt động cách mạng. Theo Người, “yêu
thương con người trước hết là dành tình cảm yêu thương, sự sẻ chia cho những
người cùng khổ, những người bị áp bức, bất công, những người bị bóc lột về thể
xác và tinh thần”. Tình u thương ấy còn được thể hiện trong “mối quan hệ
hằng ngày giữa con người với mọi người xung quanh, trong cuộc sống hàng
ngày. Phải luôn nghiêm khắc với bản thân, nhưng rộng rãi, khoan dung với
người khác”. Tình yêu thương con người, sống có tình nghĩa theo Hồ Chí Minh
là phải dựa trên lập trường của giai cấp công nhân và thể hiện trong quan hệ
hàng ngày và hành động thiết thực. Bởi vậy, yêu thương con người còn là bao
dung với những người có sai lầm nhưng biết sửa chữa, với đối với những người
đi sai đường nhưng biết quay đầu, ... Người từng nói rằng: "Mỗi con người đều
có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người
nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người
cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ
quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện
trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời"[26].
Yêu thương là giúp mỗi người trong xã hội ngày càng tiến bộ và hoàn thiện hơn.
Hơn hết, tình yêu thương con người phải được biến thành hành động cụ thể vì lý
tưởng, vì sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân.
Suốt cuộc đời của mình, Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về tình yêu

thương, nhân ái cao đẹp với mỗi con người. Người viết: "Tơi chỉ có một sự ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành".[27] Hồ Chí Minh ln dành tình u thương “cho đồng bào, cho nhân
dân, không phân biệt là miền xuôi hay miền ngược, người trẻ, người già, người
15


nam, người nữ ...”. Cả cuộc đời Bác đã sống “vì nhân dân, vì đất nước”. Người
nói: “Cả đời tơi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của tổ quốc và
hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào
chốn tù tội, xơng pha sự hiểm nghèo, là vì mục đích đó”[28]. Tấm lịng và tình
cảm u thương của Bác còn được thể hiện rõ trong quan niệm “chỉ có nâng con
người lên, chứ khơng cho phép hạ thấp, vùi dập con người xuống, dù cho họ có
khuyết điểm, thiếu sót”. Bác dạy “Ở đời ai cũng có chỗ tốt, chỗ xấu. Ta phải
khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”. Đối với Đảng, Bác đòi
hỏi “Đảng phải thương yêu cán bộ, nhưng thương yêu không phải vỗ về, nuông
chiều, thả mặc. Thương yêu là giúp cho họ học tập thêm, tiến bộ thêm”. Với tình
thương u bao la, Hồ Chí Minh “dành cho tất cả, chia sẻ với mọi người những
nỗi đau riêng”. Người nói: “Tơi hiến cả đời tơi cho dân tộc tơi …; Mỗi người,
mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng
của mỗi người, mỗi gia đình là thì thành nỗi đau khổ của tôi ”[29]. Năm 1945,
nước ta phải đối mặt với nạn đói khủng khiếp, Hồ Chí Minh chủ trương: “Tăng
gia sản xuất, mỗi tháng mỗi người nhìn ăn ba bữa để góp gạo cứu đói và Người
cũng đóng góp lon gạo của mình như mọi người dân”. Lịng nhân ái, yêu thương
của Người có sức mạnh to lớn trong việc cảm hóa một con người. “Ở Hồ Chí
Minh, thương người là một tình cảm lớn, sâu sắc”.
2.4.

Tinh thần quốc tế trong sáng

“Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của

đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nó dựa trên nền tảng là bản chất của giai cấp cơng
nhân, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, hướng đến mối quan hệ rộng với
vươn ra tầm thế giới”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là biểu tượng cao đẹp của
“chủ nghĩa yêu nước” kết hợp với tinh thần quốc tế trong sáng. Người quan
niệm: “ Tinh thần quốc tế trong sáng là sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và
đoàn kết với giai cấp vô sản thế giới, với các dân tộc bị áp bức, với tất cả các
dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại
mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc; chống lại chủ
nghĩa dân tộc hẹp hịi, sơvanh, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền.” Bởi
16


vậy, trong suốt quá trình tìm đường cứu nước và khi đã trở thành một lãnh tụ,
Hồ Chí Minh ln coi trọng việc giáo dục chủ nghĩa quốc tế vô sản cho Nhân
dân ta. Người nhắc nhở: “Tinh thần yêu nước chân chính khác với tinh thần vị
quốc của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế”. Hồ
Chí Minh ln nêu cao tinh thần “độc lập, tự chủ, tự cường” nhưng luôn kêu gọi
mọi người tăng cường sự hợp tác quốc tế và giúp đỡ các cuộc đấu tranh vì hịa
bình, dân chủ và tiến bộ xã hội của các nước trên thế giới. Người coi “cách
mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới”, cho nên
theo Người: “Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam
cả. Đã là đồng chí, thì sung sướng cực khổ phải có nhau”[30]. Đó là cơ sở vững
chắc để xây dựng tình cảm cách mạng trong sáng, “sự đoàn kết giữa các dân tộc
bị áp bức và nhân dân lao động trên thế giới trong cuộc đấu tranh vì nền độc lập
của mỗi quốc gia dân tộc và quyền tự do, hạnh phúc của nhân dân”. Hơn 60 năm
hoạt động cách mạng của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiến tạo nên “tinh thần
đồn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân toàn thế giới”, tạo ra
mối quan hệ quốc tế mới đó là “đối thoại thay cho đối đầu, nhằm kiến tạo một

nền văn hóa hịa bình cho nhân loại”. Đó chính là di sản văn hóa vơ cùng q
báu của Người về hịa bình và hữu nghị, hợp tác cùng phát triển giữa các dân tộc
trên thế giới.
3.

Liên hệ bản thân trong việc thực hiện từng chuẩn mực đạo đức theo

tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới như Nghị quyết đại hội Đảng lần
thứ XIII
3.1.

Khái quát chung về Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ XIII

3.1.1. Tầm nhìn và định hướng phát triển
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã được tổ chức từ ngày 25.1-1.2, tại
Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Thủ đô Hà Nội, Đảng ta nhận định: “Trong
những năm tiếp theo, tình hình thế giới và trong nước sẽ có thuận lợi và những
thử thách nhất định. Điều đó đặt ra những nhiệm vụ mới trong sự nghiệp phát
triển đất nước, đòi hỏi Đảng và nhân dân ta cần đổi mới mạnh mẽ về tư duy
17


chính trị, nỗ lực hơn nữa để phát huy tiềm lực, thế mạnh của quốc gia, đưa dân
tộc phát triển lên một tầm cao mới”[31]. Đồng thời, “quyết tâm thực hiện thắng
lợi những quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm” như sau:
3.1.1.1.

Quan điểm chỉ đạo

Đảng ta đã quán triệt quan điểm chỉ đạo trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

XIII bao gồm: Một là, tiếp tục vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh vào cơng cuộc xây dựng đất nước, kiên định với mục tiêu
“độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”, với “đường lối đổi mới của
Đảng, với những nguyên tắc xây dựng Đảng, để xây dựng và bảo vệ và phát
triển dân tộc Việt Nam”. Hai là, “đảm bảo lợi ích quốc gia” trên cơ sở thực hiện
các nguyên tắc cơ bản của “Hiến chương Liên hợp quốc” và “luật pháp quốc tế”.
Tiếp tục phát triển đất nước nhanh chóng và bền vững, lấy “phát triển kinh tế xã hội là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hố là
nền tảng tinh thần, bảo đảm quốc phịng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”.
Ba là, khơi dậy ở nhân dân Việt Nam “tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự
cường, sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc và ước vọng phát triển đất nước ấm
no, hạnh phúc, phồn vinh”. Đồng thời phát huy “sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị” và của nền văn hoá đậm đà bản sản dân tộc, con người Việt
Nam, đất nước Việt Nam, “nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế thu
hút nhân tài nhằm tăng cường sự đổi mới sáng tạo và ứng dụng rộng rãi khoa
học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư vào cuộc sống”. Bốn là, “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại”, đề cao ý chí tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp
tác quốc tế; “phát huy nội lực dân tộc một cách tối đa, tranh thủ sức mạnh ngoại
lực. Trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng
nhất”. Năm là, “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai
cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và
sức chiến đấu của Đảng. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh, xây dựng Nhà nước hoạt động hiệu quả, gắn với tinh giản biên chế, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, công chức, viên chức. Đồng thời, xây dựng đội
18


ngũ cán bộ, Đảng viên, nhất là những người đứng đầu có đầy đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín và trách nhiệm, gắn bó mật thiết với lợi ích của nhân dân, góp
phần quyết định sự thành cơng của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước”.

[31]

3.1.1.2.

Mục tiêu tổng quát

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra mục tiêu tổng quát là: “Nâng cao
năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”. Đồng thời,
cần phải “chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
tồn diện nhằm củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, với
chế độ xã hội chủ nghĩa. Khơi dậy ở mỗi người dân khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy triệt để sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
kết hợp với sức mạnh thời đại, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ cơng cuộc đổi
mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc
dân tộc, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa”. [31]
3.1.1.3.

Mục tiêu cụ thể

Về mục tiêu cụ thể, Nghị quyết đã nêu rõ các mục tiêu như sau: “Đến
năm 2025 nước ta trở thành nước đang phát triển, có cơng nghiệp theo hướng
hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, nước ta kỉ
niệm 100 năm thành lập Đảng, sẽ trở thành nước đang phát triển, có cơng nghiệp
hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, gắn với kỉ niệm 100 năm sự ra
đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nước ta trở thành nước phát
triển, thu nhập cao. [31]
3.1.1.4.

Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030


Về “định hướng xây dựng và hoàn thiện thể chế”, Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ XIII đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng,
hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, mơi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi
19


tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững
của đất nước"[31]
Về “định hướng phát triển kinh tế”, văn kiện đã nêu rõ: “Hoàn thiện toàn
diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ
mơ, đổi mới mạnh mẽ mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và
phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới;
đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học
và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế”. [31]
Về “phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ”, Đảng ta
khẳng định: Cần tạo ra những tiến bộ vượt bậc và “đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng
dụng nhân tài”. Đồng thời, cần thúc đẩy “hoạt động nghiên cứu và chuyển giao
công nghệ 4.0 vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, cần chú trọng
một số lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng để trở thành động lực cho sự tăng tăng
trưởng nhằm bắt kịp, và vượt lên trên ở một số lĩnh vực so với các nước trong
khu vực và trên thế giới”. [31]
Về “phát triển con người và xây dựng nền văn hóa”, Nghị quyết Đại hội
Đảng đã khẳng định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa

Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức
mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho
phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo mơi trường và điều kiện
xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc,
niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ,
phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển
quan trọng nhất của đất nước”. [31]
20


Về “quản lý phát triển xã hội”, cần “thực hiện một cách có hiệu quả, trong
sạch, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và cơng bằng
xã hội; xây dựng mơi trường văn hố, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú
trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát
triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu
nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Khơng ngừng cải thiện tồn
diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. [31]
Về “thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ mơi trường”, Đảng ta xác định
rõ: “Cần phải chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phịng chống và giảm nhẹ
thiên tai, dịch bệnh.” Bên cạnh đó, cần phải “quản quản lý việc sử dụng tiết
kiệm và hiệu quả nguồn tài nguyên, đặt mục tiêu bảo vệ môi trường sống và sức
khoẻ nhân dân lên hàng đầu”. Đồng thời, phát hiện và “loại bỏ những dự án gây
ô nhiễm môi trường”, nhằm “bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa
dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hồn, thân
thiện với mơi trường”. [31]
Về “bảo vệ Tổ quốc”: “Phải kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng ta, Nhà nước ta,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa của ta”. Đồng thời, cần “giữ vững an ninh
chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh kinh tế, an ninh mạng, an ninh
con người, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương”. Chủ động ngăn chặn và xóa bỏ

các “nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm; phát hiện và xử lý kịp thời những
nhân tố có thể gây đột biến; đấu tranh triệt để nhằm làm thất bại mọi âm mưu và
hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch”. [31]
Về “đối ngoại”, văn kiện nhấn mạnh rằng: “Tiếp tục thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hố; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế tồn diện, sâu rộng, có hiệu quả; bảo vệ vũng chắc Tổ quốc, giữ
vững mơi trường hồ bình, ổn định, khơng ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế
của Việt Nam”. [31]

21


Về “đại đoàn kết toàn dân tộc”, Đảng ta cho rằng: “Cần thực hiện và phát
huy dân chủ, quyền làm chủ và vai trò, vị thế của nhân dân; phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân với Đảng,
tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội”. [31]
Về “xây dựng Nhà nước”, Nghị quyết Đại hội Đảng nhấn mạnh: “Xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững
mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát
triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình,
kiểm sốt quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà
nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phịng,
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”. [31]
Về “xây dựng Đảng”, văn kiện đã nêu rõ: “Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn
Đảng tồn diện; tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng; đổi mới
phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây
dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán
bộ cấp chiến lược có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm

tốt công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị
nội bộ; tăng cường cơng tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật và dân vận của Đảng”.
[31]
Về “các mối quan hệ lớn”: Cần phải xử lý tốt các quan hệ như: “Quan hệ
giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa;
giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hố, thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội, bảo vệ môi
trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
22


×