Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Ths. Triết học_Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về trí thức vào việc xây dựng đội ngũ trí thức ngành y tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.3 KB, 105 trang )

MỤC LỤC

Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TRÍ THỨC
1.1. Khái niệm trí thức
1.2. Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức

10
10
21

Chương 2: SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TRÍ
THỨC VÀO VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
NGÀNH Y TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP

47

2.1. Vị trí, vai trị của trí thức ngành y tế trong công cuộc đổi mới
hiện nay
2.2. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức vào việc

47

xây dựng đội ngũ trí thức ngành y tế
2.3. Một số giải pháp nhằm củng cố, xây dựng và phát triển đội ngũ


54

trí thức ngành y tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

71
97
99


DANH MỤC CÁC BIỂU

Biểu 2.1:
Biểu 2.2:
Biểu 2.3:

Số trí thức y tế trong những năm gần đây
Trí thức y tế phục vụ nhân dân trong những năm gần đây
Thực trạng phân bố trí thức ngành y tế theo tuyến vào
năm 2003

Trang
62
63
64


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trí thức với tính cách là một tầng lớp xã hội đặc biệt, đã có vị trí vơ cùng
quan trọng trong tiến trình phát triển lịch sử xã hội loài người. Trong mọi thời
đại, trí thức ln là nền tảng tiến bộ xã hội, là lực lượng nòng cốt sáng tạo và
truyền bá tri thức. Trí thức là nguồn lực trí tuệ quan trọng cho sự phát triển
kinh tế - xã hội không chỉ đối với mỗi đất nước mà còn đối với tất cả các quốc
gia trên thế giới. Họ có vai trò to lớn trong việc sáng tạo ra các giá trị văn hoá,
tinh thần, đem lại những thành tựu, những phát minh quan trọng trong khoa
học, kỹ thuật cũng như trong khoa học xã hội nhân văn, góp phần thúc đẩy sự
tiến bộ của xã hội loài người. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, khi cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ đang phát triển như vũ bão đã làm cho thế giới
chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, mà thực chất là quá trình
chuyển từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào vốn và tài nguyên thiên nhiên sang nền
kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức của con người, và khi khoa học trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp thì vai trị của đội ngũ trí thức ngày càng trở nên quan
trọng hơn bao giờ hết, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của mỗi
quốc gia, dân tộc. Đối với sự phát triển của nước ta, trong mọi thời kì đặc biệt
là thời kì đổi mới, vai trị của trí thức trong đó có trí thức ngành y tế ngày
càng được khẳng định.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, vấn đề trí thức ln là
vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm với những quan điểm
thiết thực và cụ thể. Người luôn luôn coi trí thức là “một bộ phận trong lực
lượng cách mạng” và là “vốn quý báu của dân tộc”, là người thầy của thế hệ
mai sau… Trên thực tế, với quan điểm sáng suốt này Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã tập hợp, đào tạo và xây dựng được một đội ngũ trí thức tầm cỡ, có những
đóng góp q báu cho sự nghiệp cách mạng bảo vệ và xây dựng đất nước.


2
Cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đang đặt ra trước mắt chúng ta

những yêu cầu cấp bách, trong đó có yêu cầu đặc biệt quan trọng đó là phát
triển nguồn nhân lực có trình độ khoa học kỹ thuật, cơng nghệ cao, phát triển
đội ngũ trí thức, trong đó phải kể đến vai trị quan trọng của đội ngũ trí thức
ngành y tế. Trí thức ngành y tế là những người mà nghề nghiệp có tính chất
đặc biệt; đó là chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ của con người, góp phần
đảm bảo cho tiến trình hoạt động sản xuất xã hội được điều hoà phát triển ngày
càng tốt hơn. Họ làm việc trong tất cả các cơ quan Đảng, Nhà nước, các thành
phần kinh tế khác nhau của xã hội, kể cả trong các cơ sở kinh tế tư nhân.
Để phát huy được vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung và đội
ngũ trí thức ngành y tế nói riêng trong thời kỳ cách mạng nước ta hiện nay,
thời kỳ tiến hành sự nghiệp đổi mới tồn diện, đẩy mạnh cơng nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước đưa nước ta tiến kịp các nước trong khu vực và trên thế
giới, việc nghiên cứu, học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và
tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức nói riêng là hết sức quan trọng và cấp thiết.
Đảng ta dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức
được vị trí, vai trị của đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung và trí thức ngành
y tế nói riêng trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Tại Hội nghị Trung ương 2, khoá VIII và Hội nghị Trung ương 6 khoá IX
của Đảng đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản về phương pháp luận chung
liên quan đến hình thành tư duy mới về công tác khoa học, công nghệ, giáo
dục, đào tạo. Văn kiện hai Hội nghị này đều thống nhất khẳng định: phát triển
giáo dục và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đây là vấn đề mang
tính phương pháp luận quan trọng thể hiện vai trò đặc biệt của giáo dục, đào
tạo và khoa học, công nghệ, khi chúng ta chuyển sang giai đoạn cơng nghiệp
hố, hiện đại hố. Y tế là một ngành khoa học và giáo dục có tính liên ngành


3

về chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ cho con người. Y học, dược học,
trang thiết bị y tế, những lý luận về cộng đồng và giáo dục chăm sóc sức khoẻ
céng đồng, khoa học về y học cổ truyền và những ngành nghề mới mà chúng
ta phải phát triển như: điều dưỡng, kỹ thuật y tế, xã hội học y tế…Đó đều là
những vấn đề của khoa học giáo dục liên ngành. Vậy khi ta nói giáo dục và
khoa học là quốc sách hàng đầu thì bao hàm cả ngành y tế vì thực chất ngành
y tế cũng là một ngành giáo dục, hơn thế lại là một khoa học giáo dục liên
ngành. Do đó, vị trí của y tế cũng ở trong phạm trù quốc sách hàng đầu. Mặt
khác, cơng nghiệp hố, hiện đại hố đang và sẽ đòi hỏi một đội ngũ nhân lực
phát triển cả về trí lực và thể lực. Chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ cho
các tầng lớp nhân dân là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển
toàn diện con người Việt Nam, nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở nhận thức được vai trò quan trọng của y tế, trong những năm
qua, đội ngũ trí thức ngành y đã góp phần to lớn thúc đẩy ngành y tế thu được
nhiều thành tựu, phát huy được truyền thống và bước vào thời kỳ ổn định,
phát triển.
Hiện nay, để phát huy nguồn lực con người trong ngành y tế cần chăm lo
xây dựng đội ngũ trí thức y tế có năng lực chun mơn giỏi để đáp ứng những
yêu cầu của nền y tế nước nhà đang từng bước xã hội hố, hội nhập và vươn
tới trình độ của các nước trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời cần rèn
luyện nâng cao tư tưởng đạo đức, lối sống của người thầy thuốc để xứng đáng
với danh hiệu “lương y như từ mẫu”.
Qua đường lối của Đảng ở các Đại hội toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII,
IX, X và các Hội nghị của Ban chấp hành Trung ương, đặc biệt là Hội nghị
Trung ương lần thứ 4, khố VII, Nhà nước ta đã hình thành định hướng chiến
lược của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, cụ thể đó là định
hướng chiến lược cơng tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân đến



4
năm 2000 - 2010 và chính sách quốc gia về thuốc. Chiến lược này có thành
cơng hay khơng phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ trí thức ngành y tế.
Với mong muốn được nghiên cứu, phân tích làm rõ và hệ thống hóa
những nội dung và quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức,
góp phần nhỏ bé trong việc xây dựng, tạo cơ sở lý luận để Đảng và Nhà nước
ta ngày càng hoàn thiện hơn các chính sách đối với trí thức Việt Nam nói
chung và trí thức ngành y tế nói riêng, tơi mạnh dạn lựa chọn đề tài luận văn
thạc sĩ: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức vào việc xây dựng đội
ngũ trí thức ngành y tế ë Việt Nam hiện nay"
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có một số cơng trình khoa học, bài viết có giá trị đã được
cơng bố, nghiên cứu về vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức. Trong quá
trình nghiên cứu để thực hiện đề cương luận văn, ngoài khai thác các giá trị kinh
điển, các quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh, của Đảng ta và một số tư liệu
khác, tác giả chú trọng tham khảo sâu hơn một số cơng trình khoa học, luận văn,
bài viết có liên quan đến đề tài và có sự kế thừa, tránh trùng lặp. Cụ thể như sau:
- Trần Đương (2005) : Bác Hồ với nhân sĩ, trí thức, Nxb Thơng tấn, Hà
Nội. Trong cơng trình này, tác giả chủ yếu chắt lọc từ nhiều nguồn tư liệu,
sách báo, ghi chép lời kể của các nhân chứng, hệ thống hoá thành những bài
viết hết sức cảm động xung quanh mối quan hệ và ảnh hưởng của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với các nhân sĩ, trí thức Việt Nam giai
đoạn đất nước mới giành được độc lập, đang rất cần những người có tâm, có
tài phụng sự sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
- Lê Thị Thanh Hà (1999 - 2000) : Hồ Chí Minh bàn về tầng lớp trí thức
Việt Nam - Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ; Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh. Trong bài viết này, tác giả đã trình bày về nguồn gốc hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và một số quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh
về trí thức Việt Nam.



5
Ngồi những cơng trình trên cịn có một số luận văn và bài viết có nội
dung và phạm vi nghiên cứu gần với đề tài như: Nguyễn Văn Hiền: Tư tưởng
Hồ Chí Minh về trí thức, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 6 - 2004; Nguyễn
Xuyến: Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức - http:// www.dostquangtri.gov.vn;
PGS,TS Đức Vượng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề trí thức - http://
www.nhantainhanluc.com.vn, PGS,TS Đức Vượng: Tư tưởng Hồ Chí Minh
và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam
trong thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, Tạp chí Công
an nhân dân, Số 1 - 2009.
Trong những luận văn và bài viết này đã khái quát những nét cơ bản của
tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và cũng đã đề cập đến vị trí, vai trị của trí
thức trong cách mạng Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, song chúng cịn
chưa được lý giải một cách sâu sắc, đầy đủ và tồn diện.
Trong cơng cuộc đổi mới đất nước cho đến nay cũng đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu về trí thức y tế và liên quan đến trí thức y tế là:
Luận văn của ThS Nguyễn Thị Hịa Bình (1996) : Đội ngũ trí thức ngành
y tế trong quá trình cách mạng Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh. Trong luận án, tác giả đã nghiên cứu một số khía cạnh chính của đội ngũ
trí thức ngành y tế trong lịch sử cách mạng Việt Nam, từ đó thấy được rằng:
trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay vì mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” khơng thể thiếu được vai trị của đội ngũ
trí thức y tế. Trong đó, tác giả chủ yếu tiếp cận dưới góc độ lịch sử, chưa phân
tích rõ thực trạng, vị trí, vai trị của trí thức ngành y tế ở Việt Nam hiện nay.
- Đỗ Nguyên Phương (1997): Phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học
công nghệ ngành y tế theo Nghị quyết Trung ương 2, Nxb Y học, Hà Nội,
1997. Cuối tháng 4 năm 1997, Bộ y tế đã tổ chức Hội nghị triển khai nghị
quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII. Hội
nghị đã đề cập vấn đề vận dụng các quan điểm của Hội nghị Trung ương 2



6
vào ngành y tế. Cơng trình trên là sự tập hợp các bài viết, các bài phát biểu tại
Hội nghị. Các bài phát biểu trong Hội nghị cũng như trong các buổi thảo luận
đã có sự đánh giá thực trạng tình hình cơng tác giáo dục - đào tạo và khoa học
công nghệ trong lĩnh vực y tế và y học, chỉ ra nguyên nhân của những thành
tựu và tồn tại trong thời gian qua. Đồng thời, đã xác định định hướng chiến
lược, mục tiêu, nội dung và những biện pháp lớn trong công tác giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học của ngành theo phương hướng xây dựng một
nền y học hiện đại, phát triển ở Việt Nam, phù hợp với thời kì cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng ngày càng tốt hơn sự nghiệp chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe nhân dân.
- Đỗ Nguyên Phương (1999): Y tế Việt Nam trong quá trình đổi mới, Nxb
Y học. Cơng trình trên là sự tập hợp các bài nói, bài viết của Giáo sư nguyên
Bộ trưởng Bộ y tế Đỗ Nguyên Phương - người đã có nhiều đóng góp to lớn
vào việc xây dựng ngành y tế Việt Nam trong thời kì đổi mới. Trong cơng
trình này, Giáo sư Đỗ Ngun Phương đã có sự đánh giá vai trị của những trí
thức tiêu biểu như Hải Thượng Lãn Ông, Phạm Ngọc Thạch và đề xuất những
giải pháp đưa cán bộ y tế về cơ sở.
- Đỗ Nguyên Phương (1998) : Một số vấn đề xây dựng ngành y tế phát
triển ở Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội. Tác giả giành một phần nội dung cuốn
sách để làm rõ các quan điểm của Hồ Chí Minh về y tế và đạo đức của người
thầy thuốcViệt Nam, tấm gương của GS Đặng Văn Ngữ, GS Hoàng Đình Cầu và
truyền thống nghề nghiệp, đạo đức của các thế hệ thầy thuốc tiêu biểu khác.
- Phạm Mạnh Hùng, Lê Ngọc Trọng, Lê Văn Truyền, Nguyễn Văn
Thưởng (1999): Y tế Việt Nam trong quá trình đổi mới, Nxb Y học, Hà Nội.
Các tác giả đánh giá kết quả đưa bác sĩ về xã công tác, công tác đào tạo c¸n bộ
y tế có trình độ đại học và sau đại học.
- Nhiều tác giả (2001): 55 năm phát triển sự nghiệp y tế cách mạng Việt
Nam (1945 - 2000), Nxb Y học, Hà Nội. Trong cơng trình có đánh giá khái



7
quát sự phát triển của trí thức ngành y tế qua mỗi giai đoạn của cách mạng
nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn: Trên cơ sở luận giải và làm sáng tỏ những
quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về trí thức và sự vận dụng của Đảng ta
vào việc xây dựng đội ngũ trí thức ngành y tế ở Việt Nam hiện nay, luận văn
đề xuất một số giải pháp để góp phần xây dựng và phát huy những tiềm năng
quan trọng của trí thức y tế Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự
nghiệp chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân góp phần quan trọng phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nhiệm vụ của luận văn:
Để đạt được mục đích trên luận văn cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về trí thức.
+ Phân tích thực trạng đội ngũ trí thức ngành y tế ở Việt Nam hiện nay và
thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức của Đảng ta vào việc
xây dựng đội ngũ trí thức ngành y tế trong thời kì đổi mới.
+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và phát huy vai trị
của đội ngũ trí thức ngành y tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới theo tư tưởng
Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
-

Đối tượng nghiên cứu:

+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, chủ yếu là về vị trí, vai trị của trí
thức Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
+ Đội ngũ trí thức ngành y tế, cụ thể là: đội ngũ bác sĩ, dược sĩ, lương y,

y tá và nữ hộ sinh đại học, và các cán bộ kỹ thuật có trình độ cao đẳng trở lên
hoạt động trong ngành y tế.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về trí thức trong cách mạng giải phóng dân tộc và trong sự nghiệp xây


8
dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Hoạt động của đội ngũ trí
thức ngành y tế trên phạm vi cả nước, chủ yếu từ khi đổi mới cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu luận văn
- Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận cơ bản của luận văn là những quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của
Đảng ta về trí thức và vai trị của trí thức nói chung và trí thức ngành y tế nói
riêng. Luận văn cũng kế thừa những thành tựu nghiên cứu khoa học xã hội và
nhân văn liên quan đến nội dung luận văn.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngồi ra cịn
sử dụng đồng thời các phương pháp khác với tư cách là những phương pháp
hỗ trợ như tiếp cận hệ thống - cấu trúc, lơgíc - lịch sử, quy nạp, diễn dịch…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về trí thức, đặc biệt là về vị trí, vai trị của trí thức trong cách mạng giải
phóng dân tộc và trong sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kì quá độ tiến
lên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam vào việc
xây dựng đội ngũ trí thức ngành y tế trong thời kì đổi mới.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của trí thức
ngành y tế trong cơng cuộc đổi mới Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm rõ những quan điểm cơ bản
của Hồ Chí Minh về trí thức, bổ sung làm rõ hơn về vị trí, vai trị của trí thức

Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Về mặt thực tiễn: Các giải pháp nhằm phát huy vai trị của đội ngũ trí
thức ngành y tế Việt Nam được đề xuất trong luận văn khi được áp dụng thực
hiện sẽ góp phần nhỏ bé vào việc xây dựng đội ngũ trí thức ngành y tế ở Việt
Nam hiện nay vừa hồng vừa chuyên, để đội ngũ này phát huy được vai trò và


9
tiềm lực của mình trong cơng cuộc đẩy mạnh cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, thực hiện mục tiêu chiến lược của Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra về
chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 2 chương, 5 tiết.


10
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TRÍ THỨC
1.1. KHÁI NIỆM TRÍ THỨC

Thuật ngữ “trí thức” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là Intellidentina, nghĩa
là sự thơng minh, có trí tuệ, có nhận thức hiểu biết. Thuật ngữ này xuất hiện
từ rất sớm trong lịch sử khi sự phân công lao động xã hội tách lao động trí óc
khỏi lao động chân tay. Tuy nhiên, khái niệm này chỉ thực sự phổ biến và trở
nên thông dụng từ những năm nửa sau thế kỉ XIX đến nay, khi mà vai trị của
trí thức được thể hiện ngày càng rõ nét và là nhân tố khơng thể thiếu trong
q trình phát triển đi lên của xã hội lồi người nói chung và trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia dân tộc nói riêng.
Cho đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm trí thức. Sở

dĩ có hiện tượng này trước hết phụ thuộc vào lập trường, quan điểm, hay góc
độ tiếp cận đối tượng trí thức của mỗi người hay mỗi nhóm người khác nhau.
Hơn nữa, kể từ khi khái niệm này xuất hiện cho đến nay, nó ln được dùng
để chỉ một lực lượng lao động đặc biệt trong xã hội, mà lực lượng này tïy theo
từng giai đoạn phát triển của lịch sử có những sự thay đổi to lớn về vị trí và
vai trị đối với sự phát triển của xã hội. Vì vậy, trí thức là một phạm trù có tính
lịch sử.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và Hồ Chí Minh là những
người đã đặc biệt quan tâm đến trí thức và vấn đề tri thức, khơng chỉ bởi các
ơng là những nhà trí thức lớn mà cịn là vì các ơng đã nhận thấy vai trị, vị trí
vơ cùng quan trọng của trí thức đối với sự phát triển của xã hội.
Ở vào thời đại của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã quan tâm nghiên
cứu đến tầng lớp trí thức trong q trình phát triển của xã hội trên tất cả các
lĩnh vực. Theo các ơng trí thức gắn liền với sự phân cơng lao động xã hội giữa
lao động trí óc và lao động chân tay. Sự phân công lao động ngày càng phát


11
triển thì trí thức càng trở thành một lực lượng đơng đảo trong xã hội. Mỗi một
chế độ chính trị - xã hội xuất hiện một tầng lớp trí thức đại diện cho chế độ xã
hội đó và nó cũng phù hợp với hồn cảnh kinh tế, chính trị của từng thời kì. Tuy
nhiên, do những điều kiện nhất định các ơng chưa đưa ra định nghĩa về trí thức.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trong điều
kiện mới khi nước Nga Xô viết đã giành được chính quyền và bắt tay vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội, địi hỏi phải có sự đóng góp thật nhiều của các nguồn
lực có trí tuệ, V.I.Lênin đã quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng và sử dụng
đội ngũ trí thức. Ơng đã định nghĩa về trí thức như sau: “Tơi dùng chữ trí
thức, giới trí thức,… bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại biểu của
các nghề tự do nói chung, các đại biểu của những người lao động trí óc (…)
khác với những đại biểu của lao động chân tay ” [34, tr.372]. Với quan niệm

này, Lênin đã lấy tính chất và nội dung lao động của trí thức là lao động trí óc
cùng với trình độ học vấn của họ để làm cơ sở phân biệt trí thức với những
người lao động chân tay nói chung. Sự khác nhau đó là kết quả của sự phân
công lao động trong xã hội và đồng thời nó cũng quyết định cả sự tồn tại và
phát triển của trí thức.
Có thể nói, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trí thức là một
tầng lớp xã hội gồm những người lao động bằng trí óc như nhà giáo, nhà thơ,
nhà luật học, thầy thuốc, kỹ sư, các nhà khoa học… Trong thực tế, trí thức
không phải là một giai cấp riêng biệt, mà là những người xuất thân từ nhiều
giai cấp khác nhau.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin về trí thức, tiếp thu tinh hoa văn hố của dân tộc và trí tuệ của thời
đại, đồng thời qua thực tiễn xây dựng và sử dụng trí thức trong cách mạng
giải phóng dân tộc cũng như trong cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ
Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về trí thức trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm
việc” như sau:


12
Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là hiểu
biết sự đấu tranh sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết
tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Ngồi hai cái đó, khơng có trí thức nào
khác. Một người học xong đại học, có thể gọi là trí thức. Song y khơng biết
cày ruộng, khơng biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều
việc khác. Nói tóm lại: cơng việc thực tế, y khơng biết gì cả. Thế là y chỉ là trí
thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải trí thức hồn tồn.
Y muốn là một trí thức hồn tồn, thì phải biết đem tri thức đó áp dụng vào
thực tế [42, tr.235].
Tuy định nghĩa trên của Hồ Chí Minh khơng theo cách định nghĩa mang
tính chất tu từ của các nhà ngôn ngữ học, nhưng bằng cách diễn đạt dễ hiểu,

Người đã cho chúng ta thấy ai là trí thức và ai là người trí thức chân chính.
Đối với Đảng ta, trong quan niệm về trí thức luôn xuất phát từ quan
niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hiện nay, trong điều
kiện mới việc đưa ra định nghĩa về trí thức cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Qua việc nghiên cứu, tham khảo các định nghĩa hiện có, đồng thời trên cơ sở
tổng kết cả về mặt lý luận và thực tiễn, tại Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành
Trung ương khố X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kì đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước Đảng ta quan niệm: “Trí thức là những
người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chun mơn nhất
định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo
ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội” [18, tr.81].
Trong định nghĩa này, khái niệm trí thức về cơ bản vẫn dùng để chỉ
những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao. Tuy vậy, nội hàm của
khái niệm cũng đã được bổ sung cụ thể hơn. Từ các tiêu chí được đề cập trong
định nghĩa cho thấy, nếu một người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao,
nhưng trong lao động khơng có sự sáng tạo, không truyền bá và làm giàu tri
thức, không tạo ra được những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối


13
với xã hội cũng khơng thể được coi là trí thức. Đây là một đòi hỏi cao nhưng
cần thiết đối với trí thức, đặc biệt là trí thức trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Trong hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh thì tư tưởng của Người về trí
thức giữ một vai trị quan trọng khơng chỉ trong cách mạng giải phóng dân tộc
mà cả trong cơng cuộc cải tạo, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Đặc
biệt trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, khi mà khoa học công nghệ
phát triển như vũ bão và đang ngày càng chiếm lĩnh vị trí hàng đầu thì vai trị
của trí thức có vị trí đặc biệt quan trọng.
Lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh khơng có những tác phẩm riêng viết
về trí thức. Tư tưởng của Người về trí thức chủ yếu được thể hiện qua các bài

viết, các bài phát biểu. Trước khi tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức
chúng ta cần tìm hiểu mặc dù khái lược về nguồn gốc hình thành tư tưởng của
Người về tầng lớp trí thức.
Trước hết, dân tộc Việt Nam ta là một dân tộc có truyền thống tơn sư
trọng đạo, tơn trọng và đề cao các bậc trí thức, hiền tài của dân tộc. Trong văn
bia tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám - Trường đại học đầu tiên của Việt Nam ghi
rõ: “Hiền tài là ngun khí quốc gia. Ngun khí mạnh thì thế nước mới
mạnh…”. Truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc ta đã được hun đúc, truyền từ
thế hệ này đến thế hệ khác và góp phần quan trọng vào việc hình thành nên tư
tưởng Hồ Chí Minh về tầng lớp trí thức Việt Nam. Chính từ truyền thống quý
báu đó mà dân tộc ta đã trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, trải
qua bao thăng trầm của lịch sử, nhưng vẫn sản sinh rất nhiều những bậc anh
hùng hào kiệt, các bậc trí thức tài năng, những trí thức này đã góp phần cơng
sức và trí tuệ không nhỏ cho sự hưng thịnh của đất nước. Từ xưa đến nay dù
trong bất kì hồn cảnh nào, các bậc nhân sĩ, trí thức ln là những người nặng
lịng với Tổ quốc và dân tộc, ln mong muốn được đóng góp nhiều nhất cho
xã hội. Tơn sư trọng đạo là một truyền thống quý báu của dân tộc ta. Truyền
thống đó từ xa xưa đã được nhân dân ta lưu truyền từ đời này sang đời khác


14
mà chúng ta đều thấy quen thuộc: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, “ Không thầy
đố mày làm nên”… Lịch sử dân tộc ta mãi ghi công lao của những người thầy
tiêu biểu được tôn vinh như thầy Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm… Bản thân Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngay từ nhỏ đã được cha
trực tiếp dạy dỗ một cách chu đáo và cho theo học những người thầy nổi tiếng
cả đức lẫn tài, giỏi giang và giàu lòng yêu nước. Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX, ở đất Nam Đàn có bốn người học giỏi nổi tiếng, được nhân dân phong
là tứ hổ : Uyên bác như San, tài ba bất như Quý, cường quý bất như Lương,
thông minh bất như Sắc (nghĩa là không ai hiểu biết rộng như San - Phan Bội

Châu, không ai tài hoa như Vương Thúc Quý, không ai nhớ giỏi như Trần
Văn Lương, không ai thông minh như Nguyễn Sinh Sắc). Nguyễn Tất Thành
đã may mắn được là học trò của ba trong bốn nhà trí thức - nhân tài đó.
Đặc biệt khi là học trò của thầy Vương Thúc Quý - con trai của lãnh tụ
Cần Vương chống Pháp Vương Thúc Mậu, Nguyễn Tất Thành không chỉ
được học chữ, trau dồi tri thức, mà còn được trang bị tinh thần yêu nước của
Duy tân hội mà thầy Quý là một trong những lãnh tụ của phong trào.
Nguyễn Tất Thành còn được gần gũi cụ Phan Bội Châu, lắng nghe ý kiến
của cụ khi đàm đạo việc nước với cha mình và khơng phải ngẫu nhiên mà cụ
Phan đã thuyết phục Nguyễn Tất Thành “Đơng du” sang Nhật.
Cịn cụ Nguyễn Sinh Sắc đối với Nguyễn Tất Thành khơng chỉ là cha, mà
cịn là người thầy tận tâm và nghiêm khắc. Hồi chưa phải đi làm quan, cụ
Nguyễn Sinh Sắc đã đưa con mình đi vào thực tế chống xâm lược của các bậc
tiền bối, một thực tế vừa hào hùng vừa đau thương. Cụ đã đưa Nguyễn Tất
Thành lên thăm núi Thiên Nhẫn, thành Lục Niên, đại bản doanh của Lê Lợi Nguyễn Trãi chống quân xâm lược nhà Minh để suy ngẫm về chiến thắng Chi
Lăng - Xương Giang và về một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Nguyễn Tất Thành cịn được cha đưa lên núi Bùi Phong thăm miếu La
Sơn Phu Tử mà nghĩ suy về phong thái hiền nho chí sĩ của Nguyễn Thiếp; đến


15
làng Đơng Thái q hương Phan Đình Phùng để nghe nhân dân ca tụng về sự
hy sinh lẫm liệt và bi tráng của một vị anh hùng.
Cụ Nguyễn Sinh Sắc còn đưa Nguyễn Tất Thành đi gặp gỡ nhiều bậc sĩ
phu yêu nước và được nghe những lời tâm sự đầy khí phách và tràn đầy nhiệt
huyết của họ.
Bản thân Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình trí thức, giàu lòng
yêu nước. Nguyễn Tất Thành sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước
gần gũi với nhân dân, một gia đình giàu truyền thống cách mạng. Ơng ngoại
của Hồ Chí Minh, cụ Hồng Xn Đường là một nhà Nho yêu nước. Rồi đến

cha của Người, Ông Nguyễn Sinh Sắc, một nhà nho cấp tiến có tinh thần yêu
nước thương dân. Có thể nói rằng cha của Hồ Chí Minh đã có ảnh hưởng rất
lớn tới q trình hình thành nhân cách tư tưởng con người Hồ Chí Minh. Ơng
Nguyễn Sinh Sắc khơng những là một người cha hết lòng yêu thương, lo lắng
cho con mà còn là người thầy nghiêm khắc hết lòng dạy dỗ cho học trị của
mình. Ơng đã dạy cho Hồ Chí Minh những bài học về tình yêu thương quê
hương đất nước và nỗi đau, nỗi nhục của người dân mất nước, phải chịu cảnh
nơ lệ lầm than. Từ đó, đã sớm hình thành ở Hồ Chí Minh một tình u q
hương đất nước vô bờ bến.
Được nuôi dưỡng và trưởng thành trong mơi trường có truyền thống tơn
sư trọng đạo đó và truyền thống này đã ăn sâu vào tâm trí của người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành và là hành trang cho Người ra đi tìm đường
cứu nước, đưa nhân dân ta thốt khỏi ách nơ lệ của thực dân và phong kiến.
Đồng thời, đó cũng là hành trang cho Người hình thành quan điểm đúng đắn
về tầng lớp trí thức, xác định được chính xác vị trí, vai trị của tầng lớp trí
thức trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng
xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức là sự kết tinh của triết học,
văn hố phương Đơng mà chủ yếu là Nho giáo, Phật giáo và triết học, văn hoá


16
phương Tây mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin. VI. Lênin đã từng nói
người cộng sản phải làm giàu cho mình bằng mọi tinh hoa trí tuệ nhân loại.
Đây chính là yếu tố làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức vừa uyên bác,
sâu sắc, khoa học, vừa có tính cách mạng triệt để.
Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình khoa bảng, nên ngay từ nhỏ
Người đã được tiếp thu tri thức Hán học, trong đó chủ yếu là Nho giáo. Người
sáng lập Nho giáo là Khổng Tử - một nhà nho uyên bác. Ông lập ra học
thuyết, mở trường dạy học, đi chu du nhiều nơi, tranh luận với các phái khác

để tuyên truyền lý tưởng của mình.
Theo quan điểm của Nho giáo, nhà Nho trí thức phải đọc sách thánh
hiền, phải tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Quan điểm giáo dục con người của Nho giáo nhằm đào tạo những quân
tử, những kẻ sĩ có phẩm chất đạo đức cao quý, ham hiểu biết, có nhân cách,
có ý thức với cộng đồng để làm quan. Những người này vừa là hạt nhân trong
cuộc sống xã hội, vừa là lực lượng để bổ sung cho các thế lực cầm quyền duy
trì chế độ phong kiến. Nếu trước đây đối tượng giáo dục chỉ giới hạn trong
tầng lớp quý tộc, thì Khổng Tử lại quan niệm đối tượng giáo dục phải là tất cả
mọi người. Ơng nói: “Hữu giáo vơ loại” (Trong giáo dục không phân biệt kẻ
sang, người hèn, kẻ cao người thấp). Như vậy, ông cho rằng, việc giáo dục
không cần phân biệt địa vị.
Bởi quan niệm rằng, đa số mọi người đều có thể nhờ giáo dục mà thay
đổi, nên sau khi chu du khắp thiên hạ trở về ông đã chú tâm vào việc mở
trường dạy học và đã thu nạp hầu hết mọi hạng người khắp nơi muốn học.
Mở rộng đối tượng giáo dục, thực hiện ý tưởng “hữu giáo vơ loại”, khi
nhận học trị đến học, Khổng Tử không phân biệt giàu - nghèo, sang hèn, ông
cũng không có tư tưởng kỳ thị chủng tộc, phân biệt Hoa Di.
Khổng Tử quan niệm: “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Ngay
trong một đời suy tưởng, nghĩ đến sau cùng, khi tổng kết lại thì khơng gì bằng
học, cho nên ơng đã nói: “sống đến già, học đến già”.


17
Người học trò theo quan niệm của Nho giáo phải cần cù, chịu khó,
chun cần, kiên trì ơn luyện. Ở đây, các nhà Nho có một cách nhìn duy vật
và tiến bộ, họ tin tưởng vào khả năng nhận thức của con người. Tri thức, hiểu
biết không phải là cái gì sẵn có. Nó do con người chủ động tích cực học tập.
Học là một q trình tích lũy tri thức.
Có thể nói, nhờ sự đề sướng của các nhà Nho mà giáo dục được mở

mang, trình độ dân trí của quần chúng được nâng lên rõ rệt, văn hiến nhờ vậy
mà càng rực rỡ.
Đầu năm 1946, trong khi trả lời các nhà báo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
Tơi tuyệt nhiên khơng ham muốn cơng danh phú q chút nào.
Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tơi phải
gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra
trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tơi lui, thì tơi rất vui lịng lui.
Tơi có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tơi thì
làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá,
trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn
trâu, khơng dính líu gì với vòng danh lợi [39, tr.161].
Rõ ràng ở đây, chúng ta nhìn thấy ở Hồ Chí Minh hình ảnh một Khổng
Tử khi cịn trẻ phải “mịn trán, lỏng gót” vì đời và một Lão Tử “vô vi” nhàn
tâm lúc tuổi già.
Ngoài những tư tưởng tinh hoa, tiến bộ của Nho giáo, Hồ Chí Minh cịn
tiếp thu triết lý của Phật giáo nhưng trên tinh thần tiếp thu có chọn lọc.
Phật giáo có nghĩa là giác ngộ. Do vậy, trí thức có học phải biết giác ngộ
cho con người về nỗi khổ nhưng không chỉ nỗi khổ như Phật quan niệm.
Phật giáo là một tơn giáo có tơn chỉ hành động là “duy tuệ thị nghiệp”,
tức là bằng thức tỉnh trí tuệ mỗi con người để họ hướng tới, để họ tự giải thoát


18
cho chính họ. Trong giáo lý Phật giáo cho rằng đó là cách hướng dẫn đơng
đảo các phật tử “tự chứng” để giải thoát và hành đạo là việc làm tự giác của
phật tử. Họ khơng bị ràng buộc, gị ép vì bất cứ lý do gì. Họ cho rằng quá
trình “tự chứng” trong hiểu biết qua ba bước: giới, định, tuệ. Tức là phải làm
chủ được bản thân trong tư duy (tuệ), trong việc làm (giới) và phải xác định

được mục tiêu để phấn đấu (định).
Nhận thức sâu sắc phương thức giáo dục rèn luyện này của tôn giáo Phật
giáo là một phương thức mở, tự nguyện, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những
nội dung thiết thực, phù hợp trong giáo dục như: cần - là chuyên cần chăm chỉ
mọi lúc, mọi nơi cả về tư duy học tập, đã học tập thì phải chuyên cần.
Đạo Phật đề cao vai trị của trí tuệ, xem đó là điều kiện không thể thiếu
được để tiến tới giác ngộ giải thốt. Phật khẳng định rằng có trí tuệ mới có
khả năng phân biệt đúng sai, thiện ác… mới có thể tự giải thoát khỏi những
ràng buộc của dục vọng cá nhân. Thông qua “tam học” Phật giáo quan niệm
về con đường giải thốt. Trong đó, Phật giáo quan niệm “tuệ học”, mở mang
hiểu biết, có trí tuệ sáng suốt, diệt trừ được vô minh, tham dục, chứng ngộ
được chân lý, làm điều thiện, mưu lợi ích cho chúng sinh. Trong phật pháp,
học là quan trọng nhất, từ sơ phát tâm thẳng đến Như Lai địa, mỗi ngày học tập,
dũng mãnh tinh tấn, chăm chỉ nỗ lực. Sau khi thành Phật vẫn chăm chỉ học tập
làm gương cho người khác. Các nhà tu hành theo lời răn dạy của Phật đều ra sức
học tập khơng chỉ phật pháp mà cịn học cả cách chữa bệnh cứu người.
Tư tưởng triết học và nền văn hoá phương Tây là một trong những nguồn
gốc quan trọng hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức. Gần một phần
ba thế kỉ bơn ba hải ngoại, mà chủ yếu là ở châu Âu, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp
thu nền văn hoá châu Âu thế kỷ XVIII - XIX, trong đó có nhiều tư tưởng tiến
bộ của các nhà trí thức tư sản. Người cịn được tiếp thu tư tưởng triết học khai
sáng Pháp như Vônte… đề cao sự hiểu biết tri thức. Nền văn hoá, chế độ dân
chủ tư sản và tư tưởng cách mạng của các nước châu Âu đã ảnh hưởng sâu


19
sắc đến việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức. Những tư tưởng dân
chủ và cách mạng cùng những hoạt động thực tiễn của Người trong giới trí thức
đã giúp ích cho Người rất nhiều trong việc tập hợp, bố trí và sử dụng trí thức
nước nhà sau này.

Nguyễn Ái Quốc còn học được lối làm việc dân chủ khi người tham gia
các hoạt động chính trị trong các tổ chức ở Pháp. Người đã thâu lượm, chắt
lọc, rèn luyện để kế thừa, đổi mới, phát triển, nâng tư tưởng, nhận thức lên
tầm cao của tri thức nhân loại.
Trên cơ sở những nhân tố tư tưởng nói trên, Hồ Chí Minh đã đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin. Chính trong qúa trình ra đi tìm đường cứu nước Hồ Chí
Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và từ đó Người đã tìm ra con đường
cứu nước cho dân tộc mình - con đường cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc
đã trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Người đã tin và đi theo
con đường mà Mác - Ăngghen và Lênin đã chỉ ra. Ngay từ tác phẩm Đường
cách mệnh (1927) Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mạng nhất là chủ nghĩa Lênin” [37, tr.268]. Có thể nói, chủ nghĩa Mác - Lênin
là cơ sở chủ yếu nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng
của Người về trí thức nói riêng. Chính lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin đã
cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan và phương pháp luận khoa học biện
chứng để có những quan điểm đúng đắn về vị trí, vai trị của trí thức. Và đứng
trên lập trường của giai cấp vơ sản, Hồ Chí Minh đã từng bước tập hợp và xây
dựng đội ngũ trí thức Việt Nam phù hợp với những yêu cầu và nhiệm vụ đặt
ra trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Thứ ba, ngay từ thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã tỏ ra là người ham đọc,
thích hiểu biết, có bản lĩnh, có hồi bão lớn, giàu lịng u nước, thương dân.
Khi được nghe cha và các bậc tiền bối, các bậc sĩ phu yêu nước ở quê hương
lúc bấy giờ đàm đạo chuyện thời thế và sự bế tắc trên con đường cứu nước đã


20
khiến cho Người suy nghĩ về những nỗi bất hạnh, những bất công, những
cảnh ngang trái đang diễn ra xung quanh mình. Phải chăng sự dốt nát cũng
dẫn đến cực khổ, bần cùng và chính Người sau này đã đưa ra lời nhận định:

“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Chính điều đó đã thơi thúc Người ra đi
tìm đường cứu nước và nó cũng đã góp phần vào việc hình thành tư tưởng của
Người về trí thức có tính độc lập và sáng tạo.
Hồn cảnh gia đình cũng như mơi trường giáo dục văn hố đặc biệt đó đã
giúp cậu học trị Nguyễn Sinh Cung ngay từ nhỏ đã có điều kiện học tập, trau
dồi tri thức và có nhận thức đúng đắn về tư cách đạo đức, cũng như vai trị
của người trí thức chân chính đối với dân, với nước.
Ngoài những nhân tố kể trên thì bản thân Hồ Chí Minh cũng là một nhà trí
thức lớn. Suốt cuộc đời Người khơng ngừng học tập và trau dồi tri thức. Để hoạt
động cách mạng có hiệu quả, Nguyễn Ái Quốc đã tự trang bị cho mình nhiều
ngoại ngữ. Người đã sớm nhận thấy những ngoại ngữ thông dụng trên thế giới là
công cụ đắc lực cho hoạt động chính trị của mình. Người đã bơn ba nhiều nơi
trên thế giới học tập kinh nghiệm của họ để tìm ra con đường cứu nước cho dân
tộc. Và chính trong q trình bơn ba tìm đường cứu nước đó Người đã tiếp xúc
với nhiều nền văn minh trên thế giới và tiếp thu được rất nhiều tri thức quý báu
của nhân loại. Người cũng đã được gặp gỡ với nhiều nhà trí thức lớn trên thế
giới. Chính những điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành tư tưởng
của Người về trí thức và trong cả cách Người đối đãi với trí thức sau này.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng có những tác phẩm riêng viết về trí thức,
nhưng trong những trước tác của Người đã có nói đến, tuy khơng nhiều song
ở những thời điểm lịch sử quan trọng nó có ý nghĩa quyết định sự thành bại,
thịnh suy của đất nước. Vì thế, việc tìm hiểu, học tập và vận dụng tư tưởng
của Người về tầng lớp trí thức nói chung và trí thức ngành y tế nói riêng có ý
nghĩa hết sức quan trọng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi đất nước ta
đang tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.


21
1.2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
TRÍ THỨC


1.2.1. Đặc điểm, tính chất của đội ngũ trí thức Việt Nam qua đánh
giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trước hết, theo Hồ Chí Minh, trí thức Việt Nam giàu lịng u nước và
có tinh thần cách mạng. Trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta, những nhà nho yêu nước, các bậc nhân sĩ, trí thức ln đóng vai
trị quan trọng và góp phần khơng nhỏ vào thắng lợi của dân tộc. Cho nên,
trong tư tưởng của Người hình ảnh những bậc sĩ phu yêu nước, những nhân
sĩ, trí thức chân chính là sự thể hiện cho ý chí quật cường, cho độc lập tự do
của dân tộc Việt Nam ta. Hồ Chí Minh hết sức ca ngợi những anh hùng dân
tộc hết lịng vì dân vì nước, những bậc nhân sĩ, trí thức với lịng u nước
thương dân sâu sắc như Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng…
Trước đây, tuy được đào tạo dưới chế độ cũ và tuy xuất thân từ nhiều
thành phần khác nhau, nhưng trí thức nói chung đều bị đế quốc và phong kiến
áp bức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra nhận định rất sáng suốt rằng: “trí
thức Việt Nam có đầu óc dân tộc và đầu óc cách mạng”, “Vì cũng có đầu óc
dân tộc và vì có học thức nên xem được sách, biết được dân chủ, biết được
lịch sử cách mạng, nhất là lịch sử cách mạng Pháp nên dễ hấp thu được tinh
thần cách mạng” [42, tr.34].
Trí thức Việt Nam có tinh thần dân tộc rất sâu đậm, ln gắn bó với sự
nghiệp giữ gìn nền độc lập của quốc gia, sự thống nhất của đất nước. Suốt
trong lịch sử dựng nước và giữ nước, trí thức Việt Nam ln ln trăn trở
trước vận mệnh của dân tộc, của nhân dân: “Chứng thực là trong cuộc kháng
chiến cứu quốc này, những người trí thức Việt Nam đã chung một phần quan
trọng. Một số thì trực tiếp tham gia vào công việc kháng chiến, hy sinh cực
khổ, chen vai thích cánh với bộ đội, nhân dân. Một số thì hăng hái giúp ở
ngồi” [40, tr.156].



22
Hồ Chí Minh đánh giá cao đặc điểm này của trí thức Việt Nam. Người
viết: “Chúng ta có quyền tự hào rằng, những người lao động trí óc ở Việt Nam
đứng trong hàng ngũ kháng chiến” [40, tr.157].
Hồ Chí Minh đánh giá cao tinh thần tự ý thức về lẽ sống, về khát vọng
tự do của người trí thức. Người nói: “Nhân dân ta sẵn lịng thân thiện với
nhân dân Pháp, nhưng quyết không làm nô lệ cho thực dân phản động. Anh
chị em văn hố trí thức là lớp tiên tri tiên giác, càng phải quyết tâm không
chịu làm nơ lệ” [40, tr.131]. Bởi người trí thức hiểu rằng trong mỗi con người
và ở mỗi quốc gia, dân tộc đều hướng tới tự do và có tinh thần độc lập, tự chủ
và tự tôn dân tộc. Trước khi cách mạng thành cơng, giới trí thức nước ta cũng
chịu chung số phận của người dân mất nước. Phần đông trong số họ cũng bị
phong kiến, đế quốc áp bức, bóc lột, khinh miệt, kìm hãm. Họ khơng được tự
do sáng tạo và phát triển tài năng.
Hồ Chí Minh cũng đã sớm chỉ ra rằng, trí thức Việt Nam có tinh thần
yêu nước và ý thức tự trọng dân tộc. Do bị áp bức về mặt xã hội, bị “đè nén”
về tinh thần nên trí thức Việt Nam đã ý thức được về mình cũng như thân
phận của dân tộc mình nên họ đã sớm xuất hiện ý thức về dân tộc và ý thức về
cách mạng. Như mọi người Việt Nam u nước khác, trí thức cảm thấy nơ lệ,
mất nước là quốc nhục. Họ mong muốn tìm lối thốt như phong trào Đông du
của Phan Bội Châu, hay phong trào Đông kinh nghĩa thục đều là những phong
trào yêu nước tiêu biểu, có những đóng góp trên nhiều phương diện vào lịch
sử dân tộc đầu thế kỷ XX. Nhưng tất cả những phong trào yêu nước đó đều
rơi vào bế tắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã tìm ra con đường cứu nước
giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Năm 1941, Người viết:
Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy.
Chúng ta phải đồn kết lại để đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian
đặng cứu giống nịi ra khỏi nước sơi lửa nóng…Việc cứu quốc là
việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một



23
phần trách nhiệm: người có tiền góp tiền, người có của góp của,
người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng [38, tr.198].
Lấy cứu quốc là việc chung, Hồ Chí Minh đã làm cho cả nước một lịng,
khơng cịn mấy ai nghi kỵ, mặc cảm, đắn đo. Hầu hết trí thức có tên tuổi của
nước Việt Nam như các cụ Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Văn
Tố, các ơng Phan Kế Toại, Nguyễn Văn Hun, Hồng Minh Giám, Tơn Thất
Tùng; các văn nghệ sĩ trí thức như Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi…
và biết bao trí thức u nước khác, cùng với tồn dân đã tập hợp dưới ngọn cờ
Tổ quốc do Hồ Chí Minh dẫn dắt, làm cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945
thành công và làm hai cuộc kháng chiến dài nhất, gian khổ nhất trong lịch sử
thắng lợi. Phát huy tinh thần yêu nước của trí thức, đồng thời thẳng thắn, chân
thành khuyên nhủ và bằng cả tấm lòng yêu nước, thương dân vô bờ bến, với
đạo đức trong sáng và tác phong giản dị, Hồ Chí Minh đã phát huy được năng
lực sáng tạo của trí thức, giúp họ ngày một tiến bộ, vững bước cùng dân tộc.
Cùng với những đánh giá, khen ngợi, khích lệ, Người đã chân tình, thẳng thắn
khuyên những người trí thức cần phải biết rõ cái khuyết điểm của mình, phải
khiêm tốn, chớ kiêu ngạo, phải ra sức làm các việc thực tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ, trí thức Việt Nam ham hiểu biết,
nhạy bén với cái mới. Ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, mặc dù bị thực dân
Pháp đô hộ, nhưng trí thức nước ta đã bộc lộ những tiềm năng lớn. Họ kế thừa
được truyền thống quý báu của dân tộc như trí thơng minh, sự ham học hỏi,
cần cù, chịu khó, khơng khuất phục trước những khó khăn, trở ngại của cuộc
sống, quyết tâm vươn tới những đỉnh cao của khoa học. Nói về sự ham hiểu
biết, tinh thần hiếu học, vươn tới những đỉnh cao khoa học, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói:
Người An Nam rất hiếu học. Trong các tầng lớp xã hội, người
sĩ phu chiếm địa vị hàng đầu. Có con học giỏi là một vinh hạnh cho
cha, mẹ. Cho nên, dù có nghèo đói đến đâu, cha mẹ cũng cố tìm



×