Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận cao học môn triết học mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.18 KB, 23 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN : TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Đề tài :
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC
XÃ HỘI VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐỜI
SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Ý thức là một trong hai phạm trù cơ bản của triết học. Nó là hình thức
cao phản ánh thực tại khách quan ,hình thức mà riêng con người mới có. Tác
động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn.
Nền kinh tế nước việt Nam đi từ một điểm xuất phát thấp, nhân dân
phải làm gì để tránh nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế
giới? Câu hỏi này đặt cho mỗi chúng ta một vấn đề đó là sự lựa chọn bước đi
và trật tự ưu tiên để phát triển kinh tế, văn hóa tinh thần, như vậy chúng ta cần
có tri thức vì tri thức là khoa học. Tuy nhiên, chỉ chú trọng vào tri thức mà bỏ
qn cơng tác văn hóa tư tưởng thì sẽ khơng phát huy được sức mạnh của
truyền thống dân tộc. Hiện nay nước Việt Nam đang trên con đường xây dưng
xã hội chủ nghĩa cho nên việc tìm hiểu các hình thái ý thức xã hội, tồn tại xã
hội là rất cần thiết.
Ngoài ra, nước Việt Nam đang phát triển một nền kinh tế thị trường, đất
nước ngày càng mở cửa vì thế cho nên người Việt Nam có cơ hội được tìm
hiểu các nền văn hóa của các nước, tuy nhiên đó cũng là một phần lý do dẫn
đến những vấn đề của đời sống văn hóa tinh thần của con người Việt Nam
hiện nay.
Chính vì vậy em muốn được tìm hiểu thêm về vấn đề này. Đó là lý do
em chọn đề tài :


“Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội và ý
nghĩa của nó đối với việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Việt
Nam hiện nay”
Sau đây là một số ý kiến em xin được trình bày :

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG I
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI.
I.
1.

Tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Tồn tại xã hội.
- Khái niệm tồn tại xã hội
+ Khái niệm :
tồn tại xã hội dùng để chỉ toàn bộ sinh hoạt vật chất và điều kiện sinh
hoạt vật chất của mỗi cộng đồng người trong những điều kiện lịch sử xác
định.
+ Các yếu tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội,
gồm có:
Một là, phương thức sản xuất ra của cải vật chất của xã hội đó. Ví dụ,
phương thức kỹ thuật canh nông lúa nước là nhân tố cơ bản tạo thành điều
kiện sinh hoạt vật chất truyền thống của người Việt Nam.
Hai là, các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, như:
các điều kiện khí hậu, đất đai, sơng hồ,... tạo nên đặc điểm riêng có của khơng
gian sinh tồn của cộng đồng xã hội.

Ba là, các yếu tố dân cư, bao gồm: cách thức tổ chức dân cư, tính chất
lưu dân cư, mơ hình tổ chức dân cư,...
Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác
động lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó
phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất.
4


Ví dụ, trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều sơng
ngịi,... tất yếu làm hình thành nên phương thức canh tác lúa nước là thích hợp
nhất đối với người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm qua.
Để tiến hành được phương thức đó, người Việt buộc phải co cụm lại thành tổ
chức dân cư làng, xã, có tính ổn định bền vững,...
Tóm tát lại, tồn tại xã hội là toàn bộ đời sống vật chất và những điều
kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Các yếu tố tạo thành tồn tại xã hội là
phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên-hoàn cảnh địa lý, dân số
và mật độ dân số… trong đó sản xuất vât chất là yếu tố cơ bản nhất.
2 . Ý thức xã hội.
- Khái niệm ý thức xã hội
+ Khái niệm :
Khái niệm ý thức xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần
của xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những
giai đoạn phát triển nhất định.
+ Kết cấu của ý thức xã hội
Có thể phân tích từ những góc độ khác nhau :
Một là, theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội, ý thức xã
hội bao gồm các hình thái khác nhau, đó là ý thức chính trị, ý thức pháp
quvền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, ý thức khoa học,...
Hai là, theo trình độ phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội có
thể phân biệt ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận. Ý thức xã hội

thơng thường là tồn bộ những tri thức, những quan niệm... của những con
người trong một cộng đồng người nhất định, được hình thành một cách trực
tiếp từ hoạt dộng thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa
thành lý luận. Ý thức lý luận là những tư tương, quan điểm đã được hệ thống
5


hóa, khái quát hóa thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng
những khái niệm, phạm trù, quy luật. Ý thức lý luận khoa học có khả năng
phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch
ra các mối liên hệ bản chất của các sự vật và hiện tượng. Ý thức lý luận đạt
trình độ cao và mang tính hệ thống tạo thành các hệ tư tưởng.
Ba là, cũng có thể phân tích ý thức xã hội theo hai trình độ và hai
phương thức phản ánh đối với tồn tại xã hội. Đó là tâm lý xã hội và hệ tư
tưởng xã hội. Tâm lý xã hội là toàn bộ đời sống tình cảm, tâm trạng, khát
vọng, ý chí.... của những cộng đồng người nhất định; là sự phản ánh trực tiếp
và tự phát đối với hoàn cảnh sống của họ. Hệ tư tưởng xã hội là toàn bộ các
hệ thống quan niệm, quan điểm xã hội như: chính trị, triết học, đạo đức, nghệ
thuật, tôn giáo,...; là sự phản ánh gián tiếp và tự giác đối với tồn tại xã hội.
- Bản chất của ý thức xã hội


Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết
định. Nguồn gốc, nội dung, tính chất của ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết
định; và khi tồn tại xã hội thay đổi, nhất là khi phương thức sản xuất thay đổi
sẽ dẫn đến sự thay đổi các yếu tố của ý thức xã hội với mức độ, nhịp điệu
khác nhau. Khi trong tồn tại xã hội có sự phân chia giai cấp, ý thức xã hội
cũng mang tính giai cấp. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội một cách đa
dạng, phức tạp, bị ảnh hưởng bởi các yếu tố trung gian (lợi ích, tình cảm…).
Khi những điều kiện tồn tại xã hội thay đổi thì một số yếu tố cụ thể trong ý

thức xã hội sẽ thay đổi theo. Tuy nhiên cũng có những yếu tố khơng thay đổi
trong hàng ngàn năm dù cho các điều kiện tồn tại xã hội liên tục thay đổi.



Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với tồn tại
xã hội. Do sức ỳ của ý thức xã hội, những tác động qua lại về lợi ích trong xã
hội và do bản chất là sự phản ánh của tồn tại xã hội nên một số yếu tố của ý
thức xã hội cụ vẫn tồn tại và phát huy ảnh hưởng trong tồn tại xã hội mới. Tuy
nhiên, trong những điều kiện nhất định, một số yếu tố của ý thức xã hội có thể
vượt trước tồn tại xã hội. Trong quá trình phát triển của ý thức xã hội, các tư
6


tưởng, quan điểm… thường có sự kế thừa lẫn nhau, nó là sự thống nhất giữa
giữ gìn và loại bỏ, do đó cần phải chống khuynh hướng "bảo thủ" và "phủ
định sạch trơn".


Giữa các hình thái ý thức xã hội ln có sự xâm nhập, ảnh hưởng, tác
động qua lại lẫn nhau. Ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định thường có một hình
thái ý thức xã hội nổi lên đóng vai trị chủ đạo, chi phối các hình thái ý thức
xã hội khác. Do đó, việc tìm hiểu sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý
thức xã hội có ý nghĩa thực tiễn lớn.



Ý thức xã hội có thể tác động mạnh mẽ trở lại tồn tại xã hội; nó có thể
thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội khi phản ánh đúng quy luật vận động
của tồn tại xã hội; thậm chí kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội khi phản

ánh không đúng quy luật vận động của tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội,bao gồm toàn bộ
những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm tâm trạng … của những
cộng đồng xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong
những giai đoạn phát triển nhất định Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời
sống xã hội, ý thức xã hội bao gồm những lĩnh vực khác nhau : ý thức chính
trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ…
Theo trình độ phản ánh có thể phân biệt ý thức xã hội thông thường và ý thức
luận Ý thức xã hội thơng thường là tồn bộ những tri thức, những quan niệm
của nhưng con người trong một cộng đồng người nhất đinh, được hình thành
2 một cách trực tiếp từ hoạt đông thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống
hóa, khái niệm hóa thành lý luận. Theo ý thức xã hội thông thường, tâm lý xã
hội là một phận xã hội quan trọng. Ý thức xã hội thông thường thường phản
ánh sinh động trực tiếp nhiều mặt cuộc sống hàng ngày của con người, thường
xuyên chi phối cc sống đó. Ý thức lí luận là những tư tưởng đã được hệ
thống hóa, khái quát hóa thành những học thuyết xã hội được trình bày dưới
dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật … .Ý thức lí luận có khả năng đánh

7


giá hiện thực khoa học một cách khái quát và sâu sắc và chính xác, vạch ra
những mối liên hệ về bản chất của các sự vật và hiện tượng
II. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội vá ý thức xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng : tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại
xã hội. Mỗi khi tồn tạ xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì tư
tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học,
đạo đức, văn hóa nghệ thuật …sớm muộn sẽ biến đổi theo Các cặp phạm trù
của chủ nghĩa duy vật lịch sử giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh

vực xã hội. Tồn tại xã hội là đời sống vật chất của xã hội, là sự sản xuất của
cải vật chất và những quan hệ của con người trong quá trình sản xuất ấy. Tồn
tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Ý thức xã hội là phản ánh của tồn tại xã
hội, bao gồm nhiều trình độ khác nhau (ý thức thơng thường, ý thức lí luận)
và nhiều hình thái khác nhau (chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ
thuật, triết học, khoa học, v v... Ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định,
nhưng có tính độc lập tương đối của nó, thể hiện trên những nét cơ bản là : Có
tính kế thừa, có lơgic phát triển nội tại, có sự tác động qua lại giữa các hình
thái ý thức xã hội. Ý thức khoa học, tiến bộ có thể dự báo triển vọng của xã
hội, cũng có thể cải tạo tồn tại xã hội thông qua thực tiễn của con người;
ngược lại, ý thức sai lầm, lạc hậu, có thể xun tạc, kìm hãm sự phát triển của
tồn tại xã hội.
1.

Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội :
Quan điểm duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội không phải
dừng lại ở chỗ xác định sự phụ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội, mà
còn chr ra rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách
giản đơn trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian. Không phải bất
cứ tư tưởng quan điểm, lý luận, hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ
ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi nào xét đến

8


cùng thì chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng
cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy.
2.

Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội

Lịch sử cho thấy nhiều khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất rất lâu,
nhưng ý thức xã hội cũ đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối
này biểu hiện đặc biệt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã hội (trong truyền thống ,tập
quán ,thói quen …) Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội là do
những nguyên nhân sau đây :
- Một là : sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường
xuyên và trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người, thường diễn
ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể khơng phản ánh kịp và trở nên lạc
hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ
biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
- Hai là :do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như
do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái xã hội.
- Ba là : Ý thức xã hội ln gắn với lợi ích của những nhóm, những tập
đồn người, những giai cấp nhất định trong xã hội.

3.

Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là
những tu tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại
xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức chỉ đạo hoạt động thực
tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào hướng giải quyết những nhiệm
vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra.

4.

Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm
tuyệt đối hóa vai trị của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan niệm duy vật tầm
thường hay chủ nghĩa duy vật kinh tế phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức

xã hội trong đời sống xã hội Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát

9


triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất của
các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh.
5.

Ý nghĩa phương pháp luận.
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện
chứng của đời sống xã hội. Cần thấy rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện
cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội, mặt khác ta cũng thấy rằng không chỉ
những biến đổi trong 5 tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to
lớn trong đời sống tinh thần của xã hội, mà ngược lại, những tác động của đời
sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những
biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội Quán triệt nguyên tắc phương
pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Việt Nam,
một mặt phải coi trọng cuộc cách mang tư tưởng văn hóa, phát huy vai trị tác
động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế
và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; mặt khác phải tránh tái phạm sai
lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dưng văn hóa, xây dựng con người
mới. Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã
hội XHCN trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông
truyền thống và xác lập, phát triển được phương thức sản xuất mới trên cơ sở
thực hiện thành cơng sự cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.

10



CHƯƠNG II
Ý NGHĨA CỦA MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI ĐỐI VỚI VIỆT XÂY DỰNG
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nước việt nam đang ở trong quá trình chuyển tiếp từ xã hội truyền
thống sang xã hội hiện đại và nhiều người tưởng rằng cứ tập trung sức lực vào
xây dựng công nghiệp, xã hội hiện đại sẽ hiện ra, không hiểu rằng xã hội hiện
đại không chỉ bắt nguồn từ trạng thái kinh tế mà còn là một trạng thái đồi
sống, văn hoá và tinh thần.
I. Ý nghĩa đối với đời sống văn hóa tinh thần.
1. Đời sống văn hóa của con người Việt Nam.
Việt Nam là đất nước có nền văn hóa phong phú, đa dạng, giàu bản sắc
dân tộc với dân số hơn 90 triệu dân và 54 dân tộc khác nhau. Trong đó, dân
tộc đông nhất là dân tộc Kinh, chiếm 86,2% dân số.
Ở Việt Nam, chào hỏi – một nét đẹp của lối sống thiên về cộng đồng đã
trở thành một nét đặc trưng trong văn hóa Việt. Chào hỏi có nghĩa là khẳng
định và củng cố thêm mối quan hệ vốn có của con người đồng thời có thể
thiết lập các mối quan hệ mới.
Việt Nam là một quốc gia đa tơn giáo, tín ngưỡng. Người dân Việt Nam
có truyền thống sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng từ lâu đời. Các dân tộc trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có những tín ngưỡng riêng gắn liền với
đời sống kinh tế và tâm linh của mình. Các tơn giáo chính là Phật giáo, Cơng
giáo, Cao Đài, Hồ Hảo, Tin lành, Đạo Hồi.
Giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc
Xuất phát từ những điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử hết sức đặc
biệt, văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam có những giá trị, phẩm chất độc
đáo. Ðó là tinh thần nồng nàn yêu nước và nhân văn; đó là anh hùng trong
chiến đấu, nhưng tinh tế trong ứng xử; đó là sáng tạo trong lao động, nhưng
11



giản dị trong lối sống; đó là tinh thần cố kết cộng đồng, là lòng khoan dung,
cởi mở, giàu năng lực tiếp biến...
Những giá trị văn hóa ấy đã gắn kết các cá nhân thành cộng đồng, cùng
chung tay dựng xây đất nước, cùng ra sức bảo vệ non sông, cùng chia sẻ
những nỗi đau trong thiên tai, địch họa, cùng khát vọng về một cơ đồ tươi
sáng “sánh vai với các cường quốc năm châu”.
Thực tiễn phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới đã khẳng định vị
thế quan trọng của văn hóa, con người trong chiến lược phát triển quốc gia.
Văn hóa khơng chỉ giới hạn tầm vóc trong chiều sâu những phẩm giá tinh
thần mà nó còn là nguồn lực trực tiếp cho sự phát triển đất nước. Bên cạnh
hiệu ích xã hội lớn lao như vun đắp một đời sống tinh thần lành mạnh cho cá
nhân và cộng đồng, khơi dậy lòng tự hào dân tộc và hướng con người, xã hội
loài người theo các giá trị Chân - Thiện - Mỹ thì văn hóa trong xã hội hiện đại
cịn có những thế mạnh khác mà trong xã hội truyền thống ít được đề cập đến.
Sự phát triển của các ngành công nghiệp sáng tạo, sự mở rộng của thị trường
các sản phẩm và dịch vụ văn hóa với những hiệu ích kinh tế khơng nhỏ đã
mang lại những kỳ vọng vào một hướng phát triển nhanh, bền vững, phát huy
tối đa nguồn lực nội sinh chính là văn hóa và con người Việt Nam.
Văn hóa là một lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội, có vị trí, vai
trị hết sức quan trọng trong sự hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân, sự
vững chắc của mỗi cộng đồng và rộng hơn là sự phát triển của mỗi quốc
gia. Sẽ khơng thể có một sự phát triển nhanh và bền vững nếu không phát
huy được nội lực của chính quốc gia đó. Mà nội lực quan trọng nhất của
mỗi một quốc gia chính là con người, là những sáng tạo của con người
quốc gia đó. Chính vì vậy “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” phải được xem là nhiệm vụ
chiến lược để khơi dậy sức mạnh nội sinh của dân tộc trong giai đoạn
cách mạng hiện nay.

12


2.

Tinh thần cần có trong đời sống con người Việt Nam hiện náy.
Tinh thần là từ thông dụng sử dụng trong nhiều trường hợp khác nhau
với những ý nghĩa khác nhau bao gồm : Linh hồn trong quan niệm tâm linh,
tâm thần, tâm trí, ý chí và nguyên tắc.

-

Nhân ái
Đây là tình yêu thương, một nội dung của đạo đức theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, là chuẩn mực trong quan hệ bao trùm nhất, mỗi người với đồng
loại nói chung, là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp khởi nguồn sự
gắn kết trong cộng đồng, xã hội. Gia đình là mơi trường giáo dục về lịng
nhân ái trực tiếp và thường xuyên nhất. Có thể khẳng định: một người khơng
có tình u thương đồng loại, tức khơng đạt chuẩn đạo đức trong cuộc sống

-

của mình.
Nghĩa tình
Là tình yêu thương, khảng khái, chân thành, vì mọi người..., là lối sống
vì điều thiện, khơng ích kỷ, có chia sẻ khi đang thắng lợi, có phục thiện và
cầu tiến khi đang thất thế. Cuộc sống nghĩa tình, đầy tình nghĩa ln thể hiện
nơi một gia đình hịa thuận, xóm giềng tương thân tương ái. Lấy nghĩa tình
làm đầu, chúng ta khắc phục được tính ích kỷ tranh giành quyền lợi, tính tự
phụ, tự cao, tự đại; suy cho cùng là tránh được chủ nghĩa cá nhân ln đeo

bám bên mình mỗi người. Sống có nghĩa có tình đã tồn tại hàng ngàn năm nay
trong đời sống nhân dân ta; khi gắn với chủ nghĩa Mác - Lênin thì càng được
mở rộng, khơng chỉ trong nước mà cịn ngồi nước, khơng chỉ trong vấn đề

-

dân tộc mà cịn có trong vấn đề giai cấp...
Trung thực
Là đức tính chân thật của mỗi người; người trung thực là người có bản
lĩnh trong ứng xử trước các mối quan hệ. Làm được việc tốt, ta dễ trung thực
hơn là khi phạm lỗi; nói cách khác tự đánh giá mình đã khơng dễ, phê bình
người khác càng khó hơn, phải suy nghĩ chín chắn. Trước lỗi lầm, nhiều
người thường né tránh, biện hộ, vì sợ bị đánh giá thấp kém hoặc tiêu cực dẫn
đến sút giảm thanh danh và lịng tự tơn của mình. Do đó, trước thành công

13


hay thất bại, khẳng định tính trung thực địi hỏi bản lĩnh mỗi người; người có
trí tuệ, phấn đấu đè nén tính tự tơn, xóa dần bệnh tự ti, sẽ thực hiện thành
-

cơng tính trung thực trong các mối quan hệ.
Đoàn kết
Đây là truyền thống của dân tộc ta từ nhiều ngàn năm qua, bắt nguồn từ
sự gắn kết gia đình, dịng họ, làng xã... đến cả nước, nhất là khi làng nước
đứng trước thiên tai, địch họa đe dọa sự tồn vong của cả cộng đồng. Tuy vậy,
khi hòa bình, khi gia đình, làng xóm n ổn, sự đồn kết nhiều lúc trở thành
hạng thứ yếu, ganh đua và cạnh tranh có lúc đến mức mất cịn. Ngày nay, mặt
trái của cơ chế thị trường có lúc vì tư lợi làm cho đổ vỡ tình cảm gia đình,

dịng họ, láng giềng, làng nước. Do đó, giáo dục thường xuyên và phát huy
truyền thống đồn kết trong gia đình, gia tộc, mở rộng ra đồn kết làng nước
có ý nghĩa thực tế của mỗi gia đình và các nhóm xã hội, các đồn thể trong
cộng đồng dân tộc. Tìm kiếm các lợi ích chung được nhiều người thừa nhận
để phát động sự gắn kết cộng đồng, đoàn kết các thành phần, các giới để phát

-

triển xã hội bền vững. Đó là mục tiêu căn bản của xã hội ta ngày nay.
Cần cù
Là đức tính của người lao động chân chính; điều này chỉ phát huy cao
nhất khi chúng ta chọn được cho mình một nghề nghiệp thích hợp, nhất nghệ
tinh nhất thân vinh. Cần cù là sự chăm chỉ, siêng năng trong công việc hàng
ngày, là phần quan trọng của đức “cần” trong “cần, kiệm, liêm, chính” theo
truyền thống đạo lý của cha ông chúng ta, và được Bác Hồ truyền giảng với ý
nghĩa thời đại. Chữ cần còn bao gồm việc làm có kế hoạch tốt, có tư duy sáng
tạo khơng ngừng nâng cao năng suất lao động. Đó là ý nghĩa thực tiễn của đặc

-

tính cần cù trong con người mới hiện nay.
Sáng tạo
Là một chuỗi lao động miệt mài, nhuần nhuyễn, cộng thêm sự tác động
của trí tuệ và từ bản năng bẩm sinh, đổi mới từng phần đến thay đổi tổng thể
mang đến hiệu quả lao động tốt hơn hẳn. Để sáng tạo, con người cần tâm
huyết với việc mình đang làm, biết vì sự tiến bộ cho mình và cho xã hội hoặc
để đáp ứng một yêu cầu cao hơn của cộng đồng. Do đó, sáng tạo là đỉnh cao
14



của con người có nhận thức đúng, ham thích việc đang làm, phát huy năng lực
bẩm sinh, cùng với học hỏi tri thức xã hội mới có thể có sáng tạo nhằm không
ngừng cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất... Sáng tạo là đức tính nổi trội của con
người mới hiện nay.
Trên đây là những phạm trù về giá trị đạo đức được Trung ương Đảng
trình bày như là một chọn lọc về những đức tính nổi bật của người Việt Nam
trong bối cảnh nước ta phải ứng phó với nhiều thách thức trong cuộc mưu
sinh và chống giặc ngoại xâm. Những phẩm chất đó cũng là sự minh chứng
thuyết phục để giải đáp chuỗi giá trị tinh thần truyền thống mà nhân dân ta đã
dày công vun đắp suốt hàng ngàn năm qua. Do đó, các tính chất này được
lồng ghép vào trong tất cả các sinh hoạt, từ gia đình đến tồn xã hội.
Đạo đức xã hội và công cuộc xây dựng con người mới là vấn đề căn
bản trong phát triển xã hội hiện nay. Trước thách thức của thời cuộc, vừa phải
giải quyết thực tế cuộc sống cịn ở mức thấp, u cầu có tiến bộ nhanh, vừa
chỉnh đốn việc nhà việc nước, vừa phải hội nhập và cạnh tranh quốc tế, vấn đề
xây dựng con người mới trong bối cảnh hiện nay là rất quan trọng và cần kíp,
cần được thực hiện khẩn trương, nghiêm túc. Đó cũng là trách nhiệm của mỗi
người, mỗi gia đình..., nhất là cán bộ, đảng viên!
II. Vấn đề xây dựng ý thức xã hội mới ở nước Việt Nam hiện nay.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng ý thức xã hội mới là vấn
đề bức thiết. Xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Xây dựng ý
thức xã hội mới, chúng ta cần phải đẩy mạnh cơng mới, văn hố mới, con
người mới; khơng ngừng hoàn thiện ý thức xã hội theo hướng khoa học, cách
mạng, tiến bộ; đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức xã
hội mới. Trong sự phát triển của mỗi cá nhân, ngoài các yếu tố thuận về chủ
thể, họ còn bị chi phối bởi quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền


15


thống của cộng đồng, tức là bị chi phối bởi ý thức xã hội. Vì vậy, khi ý thức
xã hội tiến bộ, lành mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cá
nhân và ngược lại. Bởi thế, muốn xây dựng xã hội mới, tất yếu phải xây dựng
ý thức xã hội mới và việc xây dựng ý thức xã hội mới trở thành một nhiệm vụ
của cơng cuộc xây dựng xã hội mới. Có thể hiểu ý thức xã hội mới mà chúng
ta đang xây dựng là tồn bộ quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng... của xã
hội mới mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân
nhằm phục vụ công cuộc xây dựng xã hội mới. Trên thực tế, ý thức xã hội
mới đó biểu hiện rất phong phú, đa dạng. Ngồi hệ tư tưởng, nó cịn được
biểu hiện ra ở tâm trạng, tình cảm, nhu cầu và cả thói quen, phong tục, tập
quán của cộng đồng xã hội. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã
xác định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây
dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do
nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất; có nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải
phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển
toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương
trợ, giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới". Có thể nói, mơ hình
xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định đó là định
hướng có tính chiến lược trong việc xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta
hiện nay. Cùng với định hướng cơ bản trong việc phát triển các lĩnh vực của
đời sống xã hội, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng tiếp tục
khẳng định một số định lớn trong quá trình xây dựng ý thức xã hội mới. Vấn

đề này có thể khái quát lại trên một số điều cơ bản sau:

16


Thứ nhất, xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai, xây dựng ý thức xã hội mới trên cơ sở đẩy mạnh sự nghiệp
xây dựng và phát triển nền văn tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn
hoá thực sự trở thành mục tiêu, động lực của phát triển, thành nền tảng tinh
thần của xã hội
Thứ ba, xây dựng ý thức xã hội mới gắn với việc tăng cường học tập lý
luận, tuyên truyền, giáo dục, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác
-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng trở thành nền
tảng và kim chỉ nam cho nhận thức, hành động của toàn Đảng và nhân dân.
Thứ tư, xây dựng ý thức xã hội mới cần ý thức sâu sắc sự kết hợp chặt
chẽ giữa “xây dựng ” và “chống”. Ý thức xã hội mới là cốt lõi trong đời sống
tinh thần xã hội mới; nó khơng hình thành một cách tự phát trong lịng xã hội
cũ; nó cần được chủ động nhận thức, xây dựng, truyền bá thành ý thức chung
của con người trong xã hội mới, thành động lực tinh thần của con người trong
quá trình xây dựng xã hội mới.
Vì vậy, cần xây dựng ý thức xã hội mới đáp ứng nhu cầu phát triển đất
nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Trước hết, đó là tri thức, tình cảm,
quyết tâm kiên định con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, cần trang bị cho
con người những tri thức mới của thời đại, tri thức về kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế, đặc biệt là những tri thức về khoa học và cơng nghệ... Đó là u
cầu tiên quyết trong q trình xây dựng xã hội ta hiện nay. Đi cùng với nó là
việc bồi dưỡng lý tưởng sống, hồi bão, ước mơ, khát vọng cống hiến, đặc
biệt là đối với thế hệ trẻ. Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc xây dựng và phát huy ý

thức làm chủ trong nhân dân, bồi dưỡng và phát huy lòng yêu nước, ý thức về
dân tộc và tinh thần đoàn kết dân tộc; nâng cao ý thức phịng chống tham
nhũng, lãng phí, trước hết là trong đội ngũ cán bộ Đảng viên. Cùng với việc

17


xây dựng, bồi dưỡng ý thức xã hội mới, cần chống những biểu hiện cản trở sự
nghiệp xây dựng đó.
Xây dựng ý thức xã hội mới là quá trình lâu dài, phức tạp, để có hiệu
quả, người dân Việt Nam phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn
hoá mới, con người mới. Nghiên cứu sự vận động của lịch sử qua các thời kỳ,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát: “Không phải ý thức của con người quyết
định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”. Ý
thức xã hội mới luôn bị chi phối bởi điều kiện sinh hoạt vật chất, điều kiện
kinh tế của xã hội mới. Vì vậy, xây dựng ý thức xã hội mới phải bắt đầu từ
việc xây dựng đời sống vật chất của xã hội mới. Những biểu hiện lệch lạc
trong đời sống tinh thần ở xã hội ta thời gian qua có ngun nhân từ những
yếu kém trong cơng tác tư tưởng, nhưng cũng có ngun nhân từ những kết
quả cịn rất hạn chế trong việc xây dựng nền kinh tế mới. Bên cạnh đó, xây
dựng ý thức xã hội mới cũng phụ thuộc rất nhiều vào kết quả xây dựng nền
văn hoá mới, con người mới, bởi giữa kinh tế, văn hố và con người ln có
mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nhau, chi phối và ảnh hưởng qua lại
lẫn nhau.
Thứ hai, khơng ngừng hồn thiện ý thức xã hội mới theo hướng khoa
học, cách mạng, tiến bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội mới, con người
mới. Về mặt lý luận, chúng ta cần đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn, kịp thời làm sáng tỏ những vấn đề lý luận mà cuộc sống đang đặt ra, như
vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây

dựng Đảng cầm quyền trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần, vấn đề xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa... Mặt khác, chúng ta cũng cần
chú trọng vấn đề kế thừa và đổi mới những giá trị truyền thống của dân tộc.
Đó khơng chỉ là sự gìn giữ, bảo lưu các giá trị truyền thống, mà cịn tiếp thu
có chọn lọc các giá trị tinh thần được du nhập từ bên ngồi. Q trình này cần
được nhìn nhận một cách cụ thể trong điều kiện cụ thể ở nước Việt Nam hiện
18


nay. Lòng yêu nước nồng nàn, lòng tự hào dân tộc là những giá trị tinh thần
truyền thống, song trong điều kiện hiện nay, nó cần được thể hiện ở tinh thần
cần cù, sáng tạo, ý chí quyết tâm vượt khó để cải tạo cuộc sống, đưa đất nước
thốt khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Tinh thần đồn kết dân tộc phải được
thể hiện thành tinh thần đồng thuận trên cơ sở giải quyết hài hồ lợi ích cá
nhân và lợi ích cộng đồng, xố bỏ mặc cảm về thành phần, giai cấp, dân tộc,
tơn giáo vì một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ ba, tăng cường công tác tư tưởng phải đẩy mạnh tuyên truyền,
giáo dục, phát huy vai trị của các phương tiện thơng tin đại chúng trong quá
trình tuyên truyền, giáo dục ý thức xã hội mới. Trong công tác tư tưởng, nhân
dân Việt Nam cần bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và tìm ra
những vướng mắc trong tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân để kịp
thời giải đáp. Tăng cường vai trị của báo chí, của các phương tiện thông tin
đại chúng khác trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, định hướng dư luận theo chiều hướng tích cực, đồng thời phê phán
những quan điểm sai trái, luận điệu phản động. Trong công tác giáo dục,
tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương
pháp và hình thức để việc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin hiệu
quả hơn.
Thứ tư, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, khơi dậy

tính chủ động, tự giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Xây
dựng ý thức xã hội mới là quá trình đấu tranh gay go, phức tạp nhằm khắc
phục những tư tưởng, tập quán lạc hậu, làm thất bại cuộc tấn công về tư tưởng
của các thế lực phản động, kế thừa những giá trị tích cực trong truyền thống
và hình thành ý thức xã hội mới. Đây là quá trình lâu dài, phức tạp, địi hỏi
tính tự giác cao. Vì vậy, thơng qua chủ trương, chính sách, Đảng cần phải
khắc phục những biểu hiện của khuynh hướng coi nhẹ vai trò của nhân tố tư
tưởng, chính trị, đạo đức. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư
19


tưởng và tổ chức trong các cơ quan báo chí, khắc phục những biểu hiện lệch
lạc trong hoạt động báo chí, xuất bản, văn hố, văn nghệ, nhất là những biểu
hiện xa rời tơn chỉ, mục đích, chạy theo thị hiếu thấp kém...
Cùng với sự lãnh đạo của Đảng, cần mở rộng các hình thức dân chủ để
nhân dân có thể tham gia vào quá trình xây dựng ý thức xã hội mới một cách
chủ động và trực tiếp. Sự nghiệp xây dựng ý thức xã hội mới phải là q trình
tự giác, cần sự đóng góp của tất cả mọi người, trong đó đội ngũ cán bộ, đảng
viên, các chủ thể lãnh đạo, quản lý có vai trị đặc biệt quan trọng. Ngồi ra ,
về hệ tư tưởng, đó là việc tập trung khắc phục tình trạng suy thối về tư tưởng
chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên với các biểu hiện như: dao động
về lý tưởng, mục tiêu và con đường phát triển của dân tộc; phủ nhận thành
quả cách mạng và giá trị truyền thống của dân tộc; thiếu thống nhất với các
quan điểm, chủ trương của Đảng, từ đó nói và làm khơng theo đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước; ý thức mất cảnh giác trước âm mưu và thủ
đoạn “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch; khơng kịp thời và kiên
quyết phê phán, đấu tranh với những ý kiến, quan điểm sai trái...

20



KẾT LUẬN
Ý thức xã hội, đời sống tinh thần là sự hoạt động của con người do xã
hội quy định không chỉ về cơ chế phát sinh và phát triển, mà cả về tính chất
tồn tại lẫn vai trị của nó trong đời sống xã hội. Nó là một hiện tượng của xã
hội, là dạng đặc thù của thực tại. Cho nên, theo em, ý thức xã hội, đời sống
tinh thần không phải là cái chung thuần tuý, mà được thể hiện trong một hệ
thống: "Con người-hoạt động- giao tiếp- xã hội- lịch sử-ngơn ngữ-văn hố"
Tính hệ thống của ý thức xã hội, của đời sống tinh thần thể hiện trong tiến
trình vận động và phát triển của các cá nhân kế tiếp nhau qua các chế độ
chính trị - xã hội và các thời đại khác nhau trong tiến trình phát triển của lịch
sử. Tất nhiên, khơng thể xem ý thức xã hội, đời sống tinh thần là một hệ thống
phi nhân cách của những tư tưởng trừu tượng, thoát khỏi con người rồi thống
trị mặt tinh thần của con người bằng tổng thể lịch sử của nó. Ý thức xã hội
không phải là tổng số những ý thức cá nhân được hiểu một cách máy móc,
đơn giản. Cho nên đời sống tinh thần của con người và xã hội cũng không thể
đồng nhất với ý thức xã hội như là cái đứng trên cá nhân, không bao hàm ý
thức cá nhân...; nó phải được hiểu là một sự thống nhất biện chứng giữa ý
thức xã hội và ý thức cá nhân, đời sống tinh thần của xã hội và của cá nhân
cùng với tính cộng đồng của các tập đoàn xã hội và toàn xã hội. Thế giới vẫn
tồn tại khách quan và vận động theo quy luật khách quan địi hỏi ý thức xã hội
phải có những biến đổi phù hợp với nó, tuy nhiên ý thức xã hội biến đổi theo
một chiều hướng tiêu cực sẽ kìm hãm sự phát triển của sư vật hiện tượng. Xét
về bản chất ý thức là cái có sau, là cái phản ánh lại hiện thực do vậy ý thức
vẫn là nhân tố thứ hai, vẫn bị quyết định. Tóm lại, ý thức khơng thuần t là
"hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan", mà là "hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan" đã được "cải biến" ở trong bộ óc người. Cho nên, đời
sống tinh thần khơng chỉ thể hiện ở thuộc tính chung và phổ biến của nó so
với “thực tại khách quan" mà phải được xem xét trong hệ thống con người21



hoạt động-giao tiếp ngơn ngữ-văn hố mang tính lịch sử-xã hội. Kết cấu và sự
vận động của đời sống tinh thần một mặt, có nguồn gốc sâu xa và trực tiếp từ
những quy luật của sự tồn tại và phát triển của xã hội nói chung. Mặt khác,
kết cấu và đời sống tinh thần đó cịn được thể hiện ở những quy luật đặc thù
của bản thân đời sống tinh thần cũng như sự tác động qua lại giữa các quy
luật này trong sự vận động, phát triển của đời sống tinh thần xã hội Sự phát
triển xã hội không chỉ có đời sống vật chất, mà cịn có đời sống tinh thần. Đó
là hai mặt khơng thể thiếu và giữa chúng có sự gắn bó, tác động tương hỗ có
thể làm giàu, phong phú cho nhau và cũng có thể kìm hãm nhau trong quá
trình phát triển. Bên cạnh kinh tế, văn hố ln đóng vai trị quyết định trong
quá trình phát triển và sự trường tồn của mỗi quốc gia, dân tộc. Hơn nữa, từ
trong bản chất, văn hố đã mang tính nhân văn, chứa đựng cái đúng, cái tốt,
cái đẹp được cộng đồng dân tộc sáng tạo, lưu giữ, truyền lại cho thế hệ sau
thành truyền thống văn hoá, thành hồn thiêng dân tộc. Các truyền thống này
được chuyển tải vào các lĩnh vực chính trị, đạo đức, pháp luật, nghệ thuật, tôn
giáo, v.v. tạo thành môi trường văn hố ni dưỡng đời sống tinh thần mỗi cá
nhân và cả cộng đồng. Trong điều kiện hiện nay, văn hố cịn đóng vai trị
quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường theo hướng phát triển
bền vững, hạn chế bớt những mặt trái của kinh tế thị trường. Chính vì vậy,
xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nội
dung cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội, là nhiệm vụ quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác-Lênin.
2. Hỏi – đáp về triết học Mác –Lênin.NXB Chính Trih Quốc Gia .Năm

2002. Tác giả: Khoa triết học –Học Viện Chính Trị Quốc Gia 3.
3. PGS, TS VŨ THỊ PHƯƠNG HẬUViện trưởng Văn hóa và Phát
triển,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
4.
5.

Nguyễn Nguyên Trứ, cách viết của Bác Hồ, NXB Giáo dục, 1999.
Nhiều tác giả, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà

6.

Nội, 2003.
Xem – lựa chọn một số nội dung từ Internet.

23



×