Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Tâm lí học: Sức khoẻ tâm thần của thanh thiếu niên tại Campuchia: Mối quan hệ giữa các hội chứng văn hoá đặc hiệu, trầm cảm, lo âu và suy giảm chức năng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.02 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

KHANN SARETH

SỨC KHOẺ TÂM THẦN CỦA THANH THIẾU NIÊN TẠI
CAMPUCHIA: MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC HỘI CHỨNG VĂN HOÁ
ĐẶC HIỆU, TRẦM CẢM, LO ÂU VÀ SUY GIẢM CHỨC NĂNG

TÓM TẮT LUẬN ÁN NGÀNH TÂM LÍ HỌC
CHUYÊN NGÀNH: Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên
Mã số: 9210401.01

HÀ NỘI, 2021


CƠNG TRÌNH ĐÃ HỒN THÀNH TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC, ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

Giảng viên hướng dẫn:
TS. Desiree M. Seponski
TS. Trần Văn Công

Người phản biện 1: …………………………….
Người phản biện 2: …………………………….
Người phản biện 2: …………………………….

Luận án này sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá tại Trường Đại học
Giáo dục

Có thể tìm luận án tại:


- Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội
- Trung tâm Thông tin – Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội


MỞ ĐẦU
1. Bối cảnh nghiên cứu
Campuchia đã trải qua nội chiến và các chế độ tàn ác trong nhiều thập kỷ,
điều này đã tạo nên một tình huống rất khó khăn, thách thức liên quan đến sức khỏe
tâm thần. Một nghiên cứu gần đây cho thấy 16.7% người Campuchia báo cáo có
trầm cảm ở mức lâm sàng, 27.4% báo cáo có rối loạn lo âu và 7.6% đáp ứng các tiêu
chuẩn chẩn đoán của rối loạn căng thẳng sau sang chấn (Seponski và cộng sự,
2018). Người Campuchia, đặc biệt là những người sống ở vùng nông thôn, họ vẫn
tin rằng các vấn đề tâm thần là do sự tức giận của linh hồn tổ tiên của họ (Chhim,
2017; Kim & Peeters, 2017), không phải do các nguyên nhân tâm lý xã hội hoặc
sinh học mà khoa học đã xác định (Ka, Ka, & Savin, 2014).
2. Đặt vấn đề
Một hạn chế đang tồn tại đối với các cách thức tiếp cận đánh giá sức khỏe
tâm thần hiện nay là sự phụ thuộc vào các cách thức đánh giá từ phương Tây mà
khơng tính đến các hội chứng văn hóa đặc hiệu ở Campuchia. Nghiên cứu về sức
khỏe tâm thần ở Campuchia vẫn còn hạn chế, đặc biệt là nghiên cứu trên thanh thiếu
niên Campuchia. Nghiên cứu này đóng góp vào khoảng trống quan trọng trong việc
tìm hiểu về sức khỏe tâm thần ở Campuchia, tập trung vào thanh thiếu niên.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu chính của nghiên cứu này là đánh giá tính độ hiệu lực cấu trúc của
các hội chứng tâm bệnh văn hóa đặc hiệu ở Campuchia bằng cách sử dụng thang đo
triệu chứng cơ thể phiên bản Campuchia (CSSI). Để đánh giá độ hiệu lực cấu trúc
của CSSI, nghiên cứu này đã xem xét mối quan hệ giữa (a) CSSI, (b) các hội chứng
tâm thần dựa trên các tiêu chí chẩn đốn của phương Tây (các triệu chứng trầm cảm
và lo âu), và (c) các chỉ số bệnh lý bao gồm suy giảm chức năng, hành vi tìm kiếm
điều trị vấn đề sức khỏe tâm thần và chất lượng cuộc sống. “Bệnh lý” tâm thần và

“bệnh tâm thần” được xác định theo mối quan hệ với các yếu tố rối loạn chức năng
ở mỗi người. Do đó, độ hiệu lực cấu trúc của CSSI được định nghĩa là các mối quan
hệ đơn nhất về mặt thống kê (kiểm sốt lo âu và trầm cảm theo tiêu chí chẩn đoán
của phương Tây) với các chỉ số về bệnh lý tâm thần, bao gồm suy giảm chức năng,
chất lượng cuộc sống và tìm kiếm sự trợ giúp.
1


4. Giả thuyêt nghiên cứu
H1. Điểm số tiểu thang đo hội chứng văn hóa CSSI và điểm số tiểu thang đo triệu
chứng cơ thể CSSI sẽ tương quan có ý nghĩa thống kê với tiêu chuẩn chẩn đoán
hội chứng trầm cảm và lo âu theo tiêu chí chẩn đóan của phương Tây (một phần
của DSM và ICD)
H2. Các hội chứng theo tiêu chí chẩn đốn của phương Tây về trầm cảm và lo âu sẽ
tương quan có ý nghĩa thống kê với các chỉ số về tâm bệnh, bao gồm (a) suy
giảm chức năng, (b) tìm kiếm sự trợ giúp và (c) chất lượng cuộc sống.
H3. Điểm số tiểu thang đo hội chứng văn hóa CSSI và điểm số tiểu thang đo triệu
chứng cơ thể sẽ tương quan có ý nghĩa thống kê với các chỉ số về tâm bệnh, bao
gồm: (a) suy giảm chức năng, (b) tìm kiếm sự trợ giúp, (c) chất lượng cuộc
sống.
H4. Điểm số tiểu thang đo hội chứng văn hóa CSSI và điểm số tiểu thang đo triệu
chứng cơ thể CSSI sẽ có mối quan hệ đơn nhất về mặt thống kê (tức là, khi
kiểm soát các hội chứng lo âu và trầm cảm theo tiêu chí chẩn đốn của phương
Tây, tương quan vẫn có ý nghĩa) với (a) suy giảm chức năng, (b) tìm kiếm sự
trợ giúp, và (c) chất lượng cuộc sống, khi kiểm soát các hội chứng lo âu và trầm
cảm theo tiêu chí chẩn đốn của phương Tây.
5. Đóng góp của nghiên cứu
Đánh giá và chẩn đoán sức khỏe tâm thần sao cho phù hợp về mặt văn hóa là
điều vơ cùng quan trọng, đóng góp vào hiệu quả của cơng tác phòng ngừa, can thiệp
và điều trị. Đây cũng là điều quan trọng đối với sức khỏe tâm thần của thanh thiếu

niên bởi nhiều vấn đề sức khỏe tâm thần khởi phát từ sớm. Mục đích của nghiên cứu
này là đánh giá độ hiệu lực cấu trúc của thang đo hội chứng và triệu chứng cơ thể
phiên bản Campuchia (Cambodia Somatic Symptom and Syndrome Inventory,
CSSI) ở thanh thiếu niên. Trong trường hợp có sự khác biệt liên quan đến hội chứng
tâm bệnh văn hóa đặc hiệu, suy giảm chức năng và nhu cầu điều trị thì việc đánh giá
và điều trị sức khỏe tâm thần sẽ cần có thêm đánh giá các hội chứng văn hóa đặc
hiệu này. Kết quả của nghiên cứu có thể giúp các viện, tổ chức phi chính phủ sử
dụng để xây dựng kế hoạch chiến lược cải thiện tình trạng sức khỏe tâm thần ở
2


Campuchia, bằng cách nâng cao độ hiệu lực của các đánh giá sức khỏe tâm thần.
Điều này sẽ giúp chúng ta hiểu được mức độ mà các hội chứng văn hóa đặc hiệu này
có sự khác biệt riêng, ngồi phạm vi các hội chứng truyền thống. Quan trọng nhất,
nghiên cứu sẽ xem xét mối quan hệ đơn nhất nhất giữa CSSI và suy giảm chức
năng, nhận thức về nhu cầu điều trị (bao gồm cả nhận thức của gia đình) và tìm
kiếm điều trị trong thực tế.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan nghiên cứu
Sổ tay Thống kê và Chẩn đoán về Rối loạn Sức khỏe Tâm thần DSM-5
(APA, 2013) định nghĩa nhận thức mang tính văn hóa về sự đau khổ (distress) là
cách mà các nhóm văn hóa khác nhau trải nghiệm, hiểu và truyền đạt những đau khổ
về cảm xúc và tâm lý, các vấn đề hành vi liên quan, những suy nghĩ và cảm xúc mà
họ đang gặp trở ngại. Các hội chứng tâm bệnh đặc hiệu về mặt văn hóa bao gồm ba
thành phần có liên quan về mặt lâm sàng: (a) hội chứng văn hóa, là các nhóm triệu
chứng có xu hướng đồng thời xảy ra chỉ trong (các) nhóm văn hóa cụ thể (tức là có
các q trình nhân quả riêng trong nhóm văn hóa này); (b) các thành ngữ, câu nói về
nỗi đau khổ, trong đó nỗi đau khổ có nguyên nhân xuyên văn hóa nhưng cách thể
hiện tâm lý đau khổ và đau đớn này là duy nhất đối với một nền văn hóa (ví dụ, nói
về “khl”); và (c) sự giải thích hoặc ngun nhân có liên quan đến văn hóa về

những trải nghiệm nhận thức, cảm xúc và thể chất này (ví dụ, bị ma ám) (LewisFernández & Aggarwal., 2013). Có nhiều lý do để giải thích tại sao việc xác định,
đánh giá và hiểu bản chất bệnh lý của các hội chứng văn hóa đặc hiệu là quan trọng,
một trong số đó là việc tối đa hóa tính hữu dụng, thiết thực và hiệu quả của các công
cụ đánh giá và can thiệp sức khỏe tâm thần.
Hội chứng văn hóa đặc hiệu hay “những thành ngữ, cụm từ được sắp xếp
theo một thứ tự cố định và có ý nghĩa biểu đạt không đổi về sự đau khổ” có tương
quan cao với các rối loạn sức khỏe tâm thần khác nhau theo tiêu chí chẩn đốn của
phương Tây. Ví dụ, nghiên cứu của Kohrt và cộng sự (2014) đã cho thấy mối quan
hệ giữa cách hiểu khái niệm về sự đau khổ và các rối loạn tâm thần theo tiêu chí
chẩn đốn của phương Tây. Ví dụ, điểm số tiểu thang đo hội chứng văn hóa CSSI có
3


tương quan thuận có ý nghĩa thống kê với lo âu, trầm cảm và PTSD. Nghiên cứu
cũng chỉ ra rằng điểm số hai tiểu thang đo CSSI là những yếu tố dự báo có ý nghĩa
thống kê làm gia tăng nguy cơ cố gắng tự sát và thực hiện tự sát thành công (Armes
và cộng sự, 2018). Tương tự, các nghiên cứu khác cũng cho thấy “khyaˆl attacks”
(một hội chứng văn hóa giống với cơn hoảng sợ nhưng có cách giải thích khác về
mặt văn hóa) có tương quan cao với mức độ PTSD. Do sự đa dạng của các triệu
chứng cơ thể và nhận thức, “khyaˆl attacks” có thể định hình bản thể của các rối
loạn liên quan đến sang chấn, bao gồm các triệu chứng của PTSD, triệu chứng lo âu
và hoảng sợ (vốn là những trải nghiệm chính trong những rối loạn liên quan này,
mặc dù nó không nhất thiết là khái niệm trọng tâm của tất cả các hội chứng) và các
cách ứng phó với đau khổ do sang chấn. “Khyaˆl attacks” không chỉ là một “cụm từ
biểu hiện sự đau khổ”, nó định hình nỗi lo, tức là nó định hình một cách cơ bản
những triệu chứng lo âu mà bệnh nhân trải nghiệm (Hinton và cộng sự, 2010).
Nghiên cứu gần đây của Hinton và cộng sự đã cho thấy khách thể có mức độ triệu
chứng đau khổ (lo âu, trầm cảm) có điểm trung bình cao hơn ở tất cả các câu trong
thang Cambodian symptoms and syndromes addendum (CSSA) (Hinton và cộng sự,
2019). Từ đó, các nghiên cứu khác nhau đã thảo luận và ủng hộ ý tưởng rằng các hội

chứng văn hóa đặc hiệu có liên quan đến rối loạn tâm thần, hỗ trợ cho khái niệm của
họ về “tâm bệnh học”.
Hội chứng văn hóa đặc hiệu đã được chứng minh là có ảnh hưởng đến hoạt
động cuộc sống và nó cũng dẫn đến suy giảm chức năng trong các lĩnh vực như
công việc và nghề nghiệp, hoạt động xã hội và gia đình, và hạnh phúc nói chung,
được đánh giá bằng cách sử dụng các công cụ đo lường chất lượng cuộc sống và suy
giảm chức năng. Ví dụ, phàn nàn về “sự yếu kém” - một phần của hội chứng văn
hóa có liên quan đến chức năng tâm lý xã hội kém ở các nhóm dân cư châu Á như
người Campuchia (Hinton và cộng sự, 2007). Hơn nữa, hội chứng văn hóa đặc hiệu,
chẳng hạn như những hội chứng được đánh giá bằng CSSI, có thể góp phần vào sự
khác biệt trong chức năng liên quan đến công việc, xã hội và cá nhân ngồi sự khác
biệt được giải thích bởi PTSD, cũng như lo âu và trầm cảm. Ví dụ, người ta nhận
thấy rằng hội chứng văn hóa có liên quan tới tình trạng suy giảm chức năng liên
quan đến sức khỏe tâm thần trước khi điều chỉnh các triệu chứng như tiếp xúc với
4


sang chấn và sự hiện diện của rối loạn lo âu, bao gồm PTSD (Lewis-Fernandez và
cộng sự, 2009b). Một ví dụ khác về mối quan hệ đơn nhất về mặt thống kê với suy
giảm chức năng của các hội chứng văn hóa đặc hiệu là các triệu chứng phổ biến xảy
ra trong cơn khyaˆl (Hinton và cộng sự, 2010).
Các hội chứng văn hóa, các thành ngữ, cụm từ biểu hiện sự đau khổ và sự
giải thích về mặt văn hóa là cần thiết đối với công tác thực hành lâm sàng, bởi nó
phản ánh thực tế nhận thức của các cá nhân và nhóm trong xã hội này. Các thành
ngữ văn hóa về sự đau khổ có thể khơng liên quan đến các triệu chứng hoặc hội
chứng của bệnh lý tâm thần (nghĩa là không trực tiếp gây ra bởi rối loạn chức năng
sinh học hoặc tâm lý tiềm ẩn gây ra bệnh tâm thần).
1.2. Cơ sở lý luận của nghiên cứu
Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá độ hiệu lực cấu trúc của các thang
đo CSSI một cách cụ thể và tổng quát hơn, nhằm xác định độ hiệu lực cấu trúc của

khái niệm về các hội chứng văn hóa đặc hiệu, bằng cách xác định xem xét mối quan
hệ đơn nhất, không trùng lặp với các chỉ số về tâm bệnh, bao gồm suy giảm chức
năng, v.v ... Khung khái niệm tổng thể cho nghiên cứu được trình bày dưới đây. Giả
thuyết cho rằng căng thẳng trong cuộc sống sẽ là nguyên nhân cơ bản gây ra các vấn
đề về sức khỏe tâm thần. Tuy nhiên, các yếu tố văn hóa và xã hội cũng sẽ ảnh hưởng
đến sự phát triển của các vấn đề sức khỏe tâm thần, và ít nhất nó xác định liệu mỗi
người biểu hiện và trải qua các triệu chứng như hội chứng DSM hay hội chứng
CSSI hay không. Các triệu chứng DSM và CSSI được cho là sẽ tác động tiêu cực
đến suy giảm chức năng, vì chúng có thể cản trở khả năng thực hiện các hoạt động
hàng ngày của mọi người, những người gặp phải các triệu chứng này cho thấy họ đã
trải qua hoặc bị gia tăng nguy cơ suy giảm chức năng như cũng như những trải
nghiệm khó chịu như những suy nghĩ ám ảnh, né tránh / tê liệt và phản ứng nhạy
cảm, quá mức (Rona và cộng sự, 2009).
Trong mơ hình này, hành vi tìm kiếm sự trợ giúp được giả định là hệ quả trực
tiếp và gián tiếp của các triệu chứng CSSI và DSM, với suy giảm chức năng là yếu
tố trung gian. Không giống như suy giảm chức năng tâm lý mà mọi người có xu
hướng che giấu do nhiều lý do (bao gồm thiếu hiểu biết, kỳ thị về xã hội và sự kỳ
vọng của xã hội), suy giảm chức năng hàng ngày trực tiếp thúc đẩy mọi người tìm
5


sự giúp đỡ hoặc họ sẽ được mọi người xung quanh khuyến khích để được giúp đỡ vì
khả năng của họ bị hạn chế trong việc thực hiện các hoạt động sống hàng ngày.

Các triệu chứng DSM

Bối cảnh

Stress
trong cuộc

sống

Suy giảm
chức năng
Các triệu chứng CSSI

Tìm kiếm sự trợ
giúp

CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mẫu
Nghiên cứu này là nghiên cứu cắt ngang. Dữ liệu thu thập được từ 391 học
sinh THPT, lớp 10 – 11, từ hai trường ở Phnom Penh (khu vực thành thị) và hai
trường ở tỉnh Prey Veng (khu vực nơng thơn). Mẫu gồm có 199 nam và 192 nữ.
2.2. Công cụ đo lường
Thang đo hội chứng và triệu chứng cơ thể phiên bản Campuchia (Cambodian
Somatic Symptom and Syndrome Inventory - CSSI) là thang đo tự thuật, bao gồm
các tiểu thang đo triệu chứng cơ thể CSSI và tiểu thang đo hội chứng văn hóa CSSI,
được chứng minh là quan trọng về mặt lâm sàng đối với các nhóm bệnh nhân. Hiện
thang CSSI đang được sử dụng rộng rãi ở Campuchia như một công cụ đánh giá sức
khỏe tâm thần tiêu chuẩn trong các phịng khám, để chẩn đốn phân biệt người có và
khơng có vấn đề sức khỏe tâm thần. CSSI gồm 2 tiểu thang đo: (a) Tiểu thang đo
triệu chứng cơ thể CSSI; và (b) Tiểu thang đo hội chứng văn hóa CSSI. Tiểu thang
đo triệu chứng cơ thể CSSI có 18 câu (ví dụ: đau nhức cổ). Tiểu thang đo hội chứng
văn hóa CSSI có 19 câu được sắp xếp thành 5 thang nhỏ hơn: Hội chứng tập trung
vào triệu chứng cơ thể (10 câu; ví dụ: biểu hiện khyaˆl), Hội chứng ám ảnh sợ
khoảng trống/ say xe (2 câu; ví dụ: bị nhiễm độc trong ô tô), Hội chứng tập trung
vào cảm xúc (2 câu; ví dụ: suy nghĩ quá nhiều), Hội chứng về năng lực nhận thức (1
mục; ví dụ: hay quên / mất tập trung) và hội chứng liên quan đến tâm linh (4 câu; ví
dụ: ma đẩy bạn xuống). Mỗi câu được đánh giá trên thang năm điểm (0 = khơng

hồn tồn, 1 = ít, 2 = trung bình, 3 = khá nhiều và 4 = rất nhiều). Độ tin cậy của
6


thang đo triệu chứng cơ thể và thang đo hội chứng văn hóa lần lượt là .91 và .89.
Trong nghiên cứu này, CSSI cho thấy độ tin cậy bên trong tốt (ví dụ: phàn nàn về cơ
thể α = .88, hội chứng văn hóa α = .88). Bệnh nhân dễ hiểu tất cả các câu trong
CSSI, nó rõ ràng về độ hiệu lực bề mặt trong văn hóa của họ vì các câu CSSI được
xây dựng bằng tiếng Khmer.
Thang Patient Health Questionnaire (PHQ-9) được sử dụng trên phạm vi
quốc tế để sàng lọc và đánh giá mức độ trầm cảm. Thang gồm 9 câu (ví dụ: Mất
hứng thú và niềm vui khi làm việc) dựa trên tiêu chí của DSM-IV. PHQ-9 đã được
dịch và hiệu lực hóa với hơn 40 ngôn ngữ, bao gồm một số ngôn ngữ Châu Á. Mỗi
câu trong thang đo PHQ được đánh giá trên thang điểm 4 (0 = hồn tồn khơng, 1 =
vài ngày, 2 = hơn một nửa số ngày và 3 = gần như mỗi ngày). Điểm ranh giới của
PHQ-9 là: 5-9 = các triệu chứng tối thiểu; 10-14 = trầm cảm nhẹ; 15-19 = trầm cảm
nặng, vừa phải; và> 20 = trầm cảm nặng, trầm trọng. Với mẫu của nghiên cứu này,
PHQ-9 đã có độ tin cậy bên trong tốt (α = .82).
Bảng hỏi về rối loạn lo âu lan tỏa (Generalized Anxiety Disorder
questionnaire, GAD-7) là một thang đo tự thuật về rối loạn lo âu lan tỏa. Thang có 7
câu (ví dụ: cảm giác hồi hộp, lo lắng hoặc căng thẳng) dựa trên tiêu chí của DSMIV. GAD-7 đã được thích nghi và dịch với hơn 40 ngơn ngữ và đã được hiệu lực hóa
trên phạm vi quốc tế. Mỗi câu được khách thể đánh giá trên thang điểm 4 (0 = hồn
tồn khơng phải, 1 = vài ngày, 2 = hơn một nửa số ngày và 3 = gần như mỗi ngày).
Điểm giới hạn cho GAD-7 là 5-9 = loâu nhẹ; 10-14 = lo âu vừa phải; 15-21 = lo âu
nghiêm trọng. Với mẫu của nghiên cứu này, GAD-7 cho thấy độ tin cậy tốt (α = .87).
Thang đo suy giảm ngắn (Brief Impairment Scale, BIS) là một thang đo do
cha mẹ báo cáo, có 23 câu đánh giá hoạt động trong ba lĩnh vực: Hoạt động liên cá
nhân (ví dụ: ― Có bao nhiêu vấn đề mà trẻ đã gặp phải với mẹ ruột (hoặc mẹ kế
hoặc mẹ nuôi); tiểu thang đo về hoạt động ở trường học / cơng việc (ví dụ: ― Mức
độ thường xun trẻ nghỉ học trong 12 tháng qua); và tiểu thang đo về hoạt động tự

chăm sóc (ví dụ: ―So với các bạn cùng tuổi, trẻ chăm sóc sức khỏe của mình tốt
như thế nào). Mỗi câu trong thang đo được đánh giá trên thang điểm 4 (0 = khơng
có vấn đề; 1 = có vấn đề một chút; 2 = tương đối có vấn đề; 3 = có vấn đề nghiêm
7


trọng). Đối với mẫu của nghiên cứu này BIS đã cho thấy độ tin cậy bên trong phù
hợp (α = .69).
Bảng hỏi Chất lượng của việc tận hưởng và hải lòng với cuộc sống phiên bản
ngắn (Quality of Life Enjoyment and Satisfaction Questionnaire-Short Form, QLES-Q-SF) đánh giá chất lượng tận hưởng cuộc sống và sự hài lòng của khách thể.
Bảng hỏi gồm 14 câu đánh giá mức độ hài lòng với cuộc sống trong tuần qua (ví dụ:
― Xem xét tất cả mọi thứ, trong tuần qua mức độ hài lòng của bạn đối với sức khỏe
thể chất của bạn). Mỗi câu được đánh giá trên thang điểm 5 (1 = hồn tồn khơng; 2
= ít; 3 = trung bình; 4 = nhiều; 5 = rất nhiều). Đối với mẫu của nghiên cứu này, QLES-Q-SF đã cho thấy độ tin cậy bên trong tốt (α = .85).
Bảng hỏi về tìm kiếm sự trợ giúp chung (General Help Seeking
Questionnaire, GHSQ) được xây dựng để đánh giá việc khách thể sử dụng các
nguồn trợ giúp khác nhau liên quan đến sức khỏe tâm thần mà người đó đã tìm kiếm
trong sáu tháng qua. Bảng hỏi yêu cầu khách thể cho biết các nguồn trợ giúp của họ
(ví dụ: người thân, bác sĩ), số lần nhận được sự trợ giúp và mức độ hữu ích của sự
trợ giúp này. GHSQ có độ tin cậy và độ hiệu lực tốt, và là một công cụ đo lường
hành vi tìm kiếm trợ giúp một cách linh hoạt, có thể sử dụng cho nhiều bối cảnh.
Bảng hỏi gồm 13 câu/ nguồn trợ giúp tiềm năng, với (a) có tìm kiếm trợ giúp từ
nguồn này hay khơng; (b) nếu có, bao nhiêu lần, và (c) mức độ hữu ích của trợ giúp
này trên thang điểm 5 (1 = khơng hữu ích chút nào; 2 = hữu ích một chút; 3 = khá
hữu ích; 4 = hữu ích; và 5 = rất hữu ích). Đối với mẫu của nghiên cứu này, GHSQ
có độ tin cậy bên trong tốt (α = .72).
Các bảng hỏi, thang đo, trừ CSSI đều được dịch xuôi và dịch ngược thành
tiếng Khmer. Sau khi dịch, nhà nghiên cứu thực hiện thử nghiệm bảng hỏi đã được
dịch với sinh viên năm nhất. Sinh viên đưa ra các phản hồi về bảng hỏi. Dựa trên
các phản hồi này, bảng hỏi được điều chỉnh và thích nghi. Nhà nghiên cứu tính tổng

điểm của mỗi bảng hỏi, sau đó theo các hướng dẫn về chuẩn của bảng hỏi để tính
điểm ranh giới, từ đó xác định trường hợp lâm sàng.
2.3. Quy trình
Sử dụng cách chọn mẫu ngẫu nhiên, hai lớp 10 và hai lớp 11 được lựa chọn
ngẫu nhiên ở mỗi trường, tổng cộng có 8 lớp ở mỗi địa phương. Kỹ thuật chọn mẫu
8


hạn ngạch và chọn theo hệ thống dược sử dụng để lựa chọn 25 học sinh ở mỗi lớp trên.
Nghiên cứu đã được Bộ Giáo dục, Thể thao và Thanh niên Campuchia
(Cambodian Ministry of Education, Sport and Youth, MoEYS) phê duyệt. Thư chấp
thuận của MoEYS và Hội đồng Đạo đức đã được gửi đến Sở Giáo dục, Thể thao và
Thanh niên (Department of Education, Sports and Youth) ở tỉnh Prey Veng và thành
phố Phnom Penh, yêu cầu cho phép học sinh trung học tại các trường được chọn
tham gia vào dự án. Việc lựa chọn các trường trung học dựa trên việc lựa chọn có
chủ đích các trường trung học ở thành thị và nông thôn bằng cách sử dụng phương
pháp chọn mẫu thuận tiện. Hiệu trưởng và giáo viên lớp 10 và 11 của các trường
được chọn đã được nhà nghiên cứu liên hệ để giới thiệu nghiên cứu. Sau đó, nhà
nghiên cứu chọn ngẫu nhiên hai lớp từ mỗi khối ở mỗi trường. Kỹ thuật lấy mẫu hạn
ngạch với lựa chọn có hệ thống đã được sử dụng để chọn 25 học sinh ở mỗi lớp
được chọn.
Học sinh được chọn mang thư chấp thuận tham gia nghiên cứu về nhà cho
cha mẹ của các em. Đối với học sinh đã được cha mẹ đồng ý, các em muốn tham gia
vào nghiên cứu sẽ ký vào bản chấp thuận có đầy đủ thơng tin của các em. Học sinh
ký vào bản đồng ý xong sẽ được cung cấp bảng câu hỏi cũng như hướng dẫn về
bảng hỏi đó. Nếu cha mẹ đồng ý nhưng học sinh không đồng ý, học sinh đó khơng
tham gia vào nghiên cứu.
Nghiên cứu này đã được Hội đồng Đạo đức Quốc gia Campuchia về Nghiên
cứu Sức khỏe (Cambodian National Ethics Committee for Health Research,
NECHR) xem xét và phê duyệt vào ngày 1 tháng 1 năm 2018 (005 NECHR), cho

phép thực hiện nghiên cứu với học sinh trung học. Việc thu thập dữ liệu chỉ được
bắt đầu sau khi nhận được sự đồng ý tự nguyện từ khách thể.
2.4. Phân tích dữ liệu
Việc phân tích được thực hiện trên phần mềm SPSS (IBM SPSS statistics for
Windows, 2013). Nghiên cứu phân tích mơ tả và phân tích suy luận. Kiểm định
Pearson Chi-Square và phân tích phương sai một chiều (ANOVA) được sử dụng để
so sánh sự khác biệt, ví dụ: so sánh giữa các nhóm khách thể sống ở thành thị so với
nông thôn về nền tảng nhân khẩu học và các yếu tố SES, CSSI, lo âu, trầm cảm, suy
giảm chức năng, chất lượng cuộc sống và hành vi tìm kiếm trợ giúp.
9


Phương pháp tiếp cận mơ hình tuyến tính tổng qt/ mơ hình tuyến tính chung
(general linear model, GLM) được sử dụng để phân tích dữ liệu vì tính linh hoạt của
nó; GLM gộp vào một số mơ hình thống kê chuẩn, bao gồm Phân tích phương sai,
Phân tích hiệp phương sai, Hồi quy nhiều lần và kiểm định T-test. Cụ thể, GLM
được sử dụng vì một số lý do sau đây: Thứ nhất, GLM cho phép đánh giá các tác
động tổng thể và duy nhất, là trọng tâm của các giả thuyết của nghiên cứu này.
Trong bối cảnh này, chúng tôi quan tâm đến Type III Sums of Squares, mang lại
hiệu ứng kiểm soát đơn nhất cho các biến khác trong mơ hình. Thứ hai, GLM cho
phép đưa vào các biến phân loại và biến liên tục, cần thiết cho nghiên cứu này.
GLM được sử dụng để xem xét mối quan hệ giữa điểm số của tiểu thang đo hội
chứng văn hóa CSSI, điểm số của tiểu thang đo triệu chứng cơ thể CSSI với các hội
chứng DSM và ICD (các triệu chứng trầm cảm, lo âu) kiểm soát các biến nhân khẩu
học và các yếu tố SES; mối quan hệ giữa điểm số tiểu thang đo hội chứng văn hóa
CSSI, điểm số tiểu thang đo triệu chứng cơ thể CSSI với suy giảm chức năng, hành
vi tìm kiếm sự trợ giúp và chất lượng cuộc sống, kiểm soát các biến nhân khẩu học
và các yếu tố SES; mối quan hệ giữa các hội chứng theo tiêu chí chẩn đốn của
phương Tây là trầm cảm, lo âu, hội chứng văn hóa CSSI, triệu chứng cơ thể CSSI
với suy giảm chức năng, hành vi tìm kiếm sự trợ giúp và chất lượng cuộc sống,

kiểm soát các biến nhân khẩu học và các yếu tố SES; để kiểm tra mối quan hệ đơn
nhất của hội chứng văn hóa CSSI, triệu chứng cơ thể CSSI với suy giảm chức năng,
hành vi tìm kiếm sự trợ giúp và chất lượng cuộc sống, kiểm soát các triệu chứng lo
âu và trầm cảm.

CHƯƠNG 3 : KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Kết quả
3.1.1. Các đặc điểm nhân khẩu học và tình trạng kinh tế - xã hội của khách thể
nghiên cứu
Mẫu gồm 391 học sinh trung học đến từ: thành phố Phnom Penh (thành thị)
và tỉnh Prey Veang (nơng thơn). Có 194 học sinh (nam=100, nữ=94) đến từ thành
phố Phnom Penh và 197 học sinh (nam=99, nữ=98) ở tỉnh Prey Veang. Các học sinh
này học lớp 10 và 11 và tuổi trung bình của khách thể nghiên cứu là 16.62
(SD=1,091, Min=15 & Max=19). Có 85% học sinh được hỏi cho biết các em sống
10


với cả cha và mẹ (gia đình nguyên vẹn) (78,87% ở thành thị so với 90,36% ở nông
thôn), và 15% (21,13% ở thành thị so với 9,64% ở nông thôn) học sinh cho biết
không cùng sống với cha/ mẹ (gia đình khơng ngun vẹn) (Xem Bảng 1).
Bảng3.1. Đặc điểm của khách thể nghiên cứu và tình trạng kinh tế - xã hội
Các biến
Tuổi
Độ tuổi trung bình (SD)
Giới tính
Nam (N=199)
Nữ (N=192)
Lớp
10 (N=192)
11 (N=199)

Tình trạng hơn nhân của cha mẹ
Đầy đủ cả cha và mẹ (N=60)
Không cùng cha/ mẹ (N=331)
Nghề nghiệp của cha
Nơng dân (n=180)
Nhân viên văn phịng (N=84)
Bán hàng, cơng nhân (N=87)
Khác (N=40)
Nghề nghiệp của mẹ
Nơng dân (N=172)
Nhân viên văn phịng (N=23)
Bán hàng, công nhân (N=67)
Nội trợ (N=114)
Khác (N=15)
Điều kiện sống
Nghèo (N=30)
Trung bình (N=350)
Giàu (N=11)

Thành thị
N=194

Nơng thơn
N=197

Tổng cộng
N=391

16.51 (1.08)


16.73 (1.09)

16.62 (1.09)

52%
48%

50%
50%

51%
49%

49%
51%

49%
51%

49%
51%

21%
79%

10%
90%

15%
85%


14%
35%
37%
14%

78%
8%
8%
6%

46%
21%
22%
10%

10%
9%
25%
53%
4%

78%
3%
9%
6%
4%

44%
6%

17%
29%
4%

9%
89%
3%

7%
90%
3%

8%
90%
3%

3.1.2. Mối quan hệ giữa tâm bệnh và chức năng cuộc sống
3.1.2.1 Mối quan hệ giữa điểm số của tiểu thang đo hội chứng văn hóa CSSI với các
triệu chứng lo âu, trầm cảm, kiểm soát các biến nhân khẩu học và tình trạng kinh tế
- xã hội
Bảng 2 chỉ ra rằng điểm số tiểu thang đo hội chứng văn hóa CSSI có liên
quan có ý nghĩa thống kê với trầm cảm [F (1, 381) = 350,64, p <.0001], kiểm soát
11


đặc điểm nhân khẩu học và các yếu tố SES bao gồm nơi sống, cấp học, giới tính,
tuổi, điều kiện sống, tình trạng hơn nhân của cha mẹ, nghề nghiệp của cha và nghề
nghiệp của mẹ. Kết quả cũng chỉ ra rằng chỉ có một biến kiểm sốt; nơi sống [F =
(1, 381) 6.10, p <.05] là có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.2. Mối quan hệ giữa điểm số của tiểu thang đo hội chứng văn hóa CSSI

với các triệu chứng lo âu, trầm cảm, kiểm soát các biến nhân khẩu học
và tình trạng kinh tế - xã hội
Source
Df(1) Df(2)
F
Eta-squared1
Model
9
381
47.51
.53
Điểm số của tiểu thang đo hội
1
381
350.64 ****
.48
chứng văn hóa CSSI
Nơi sống
1
381
6.10 *
.02
Lớp
1
381
2.93
.01
Giới tính
1
381

0.93
.00
Tuổi
1
381
0.01
.00
Điều kiện sống
1
381
3.54
.01
Tình trạng hơn nhân của cha
1
381
3.49
.01
mẹ
Nghề nghiệp của cha
1
381
0.48
.00
Nghề nghiệp của mẹ
1
381
0.00
.00
Ghi chú: * = p < .05, ** = p < .01, *** = p < .001, **** = p < .0001.
1

= bình phương eta trong Mơ hình là bình phương eta đủ, bình phương eta với
mỗi yếu tố là bình phương eta một phần.
Bảng 3 chỉ ra rằng điểm số của tiểu thang đo hội chứng văn hóa CSSI có mối
quan hệ có ý nghĩa thống kê với lo âu [F = (1, 381) 329,58, p <.0001], kiểm soát đặc
điểm nhân khẩu học và các yếu tố SES. Chỉ có một biến kiểm sốt, nơi sống [F = (1,
381) 5,80, p <0,05], là có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.3. Mối quan hệ giữa điểm số của tiểu thang đo hội chứng văn hóa CSSI
và lo âu, kiểm soát các biến nhân khẩu học và các yếu tố tình trạng
kinh tế - xã hội
Bình phương
Nguồn
Df(1) Df(2)
F
eta1
Mơ hình
9
381
42.63
.50
Tiểu thang các hội chứng văn
1
381 329.58 ****
.46
hóa CSSI
Khu vực sinh sống
1
381
5.80 *
.02
Lớp học

1
381
.25
.00
Giới tính
1
381
.26
.00
Tuổi
1
381
1.13
.00
Điều kiện sinh sống
1
381
2.25
.01
12


Tình trạng hơn nhân của cha
1
381
2.10
.01
mẹ
Nghề nghiệp của cha
1

381
.39
.00
Nghề nghiệp của mẹ
1
381
.12
.00
Ghi chú: * = p < .05, ** = p < .01, *** = p < .001, **** = p < .0001.
1
= bình phương eta trong Mơ hình là bình phương eta đủ, bình phương eta với
mỗi yếu tố là bình phương eta một phần.
1
= Bình phương eta for Model is full Bình phương eta, Bình phương eta for
individual factors is partial Bình phương eta.
3.1.2.2. Mối liên hệ giữa điểm số tiểu thang các hội chứng văn hóa CSSI và sự suy
giảm chức năng, tìm kiếm sự trợ giúp, và chất lượng cuộc sống khi kiểm soát các
yếu tố kinh tế xã hội và bối cảnh nhân khẩu
Bảng 4 cho thấy tiểu thang các hội chứng văn hóa CSSI có liên hệ có ý nghĩa
thống kê với mức độ suy giảm chức năng [F= (1, 381) 64.13, p< .0001] khi kiểm
soát các yếu tố kinh tế xã hội và bối cảnh nhân khẩu. Các kết quả cũng chỉ ra hai
biến kiểm soát là khu vực sinh sống [F= (1, 381) 4.27, p< .05] và tình trạng hơn
nhân của cha mẹ [F= (1, 381) 17.70, p< .0001], có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.4. Mối liên hệ giữa tiểu thang các hội chứng văn hóa CSSI và sự suy
giảm chức năng khi kiểm soát các yếu tố kinh tế xã hội và bối cảnh nhân khẩu
Nguồn

Df(1)

Df(2)


F
15.90

Bình
phương eta1

Mơ hình
9
381
.27
Tiểu thang các hội chứng văn
1
381
64.13 ****
.14
hóa CSSI
Khu vực sinh sống
1
381
4.27 *
.01
Lớp học
1
381
0.49
.00
Giới tính
1
381

1.74
.00
Tuổi
1
381
0.22
.00
Điều kiện sinh sống
1
381
0.62
.00
Tình trạng hơn nhân của cha
1
381
17.70 ****
.04
mẹ
Nghề nghiệp của cha
1
381
3.20
.01
Nghề nghiệp của mẹ
1
381
0.01
.00
Ghi chú: * = p < .05, ** = p < .01, *** = p < .001, **** = p < .0001.
1

= bình phương eta trong Mơ hình là bình phương eta đủ, bình phương eta với
mỗi yếu tố là bình phương eta một phần.
Bảng 5 cho thấy điểm số tiểu thang các hội chứng văn hóa CSSI có liên hệ có
ý nghĩa thống kê với chất lượng cuộc sống [F= (1, 381) 6.04, p< .05], kiểm soát các
13


yếu tố kinh tế xã hội và bối cảnh nhân khẩu. Các kết quả cũng chỉ ra rằng hai biến
kiểm soát là khu vực sinh sống [F= (1, 381) 13.72, p< .0001] và điều kiện sống [F=
(1, 381) 6.05, p< .05], có ý nghĩa thống kê.
Bảng 5. Mối liên hệ giữa tiểu thang các hội chứng văn hóa CSSI và chất lượng
cuộc sống khi kiểm soát các yếu tố kinh tế xã hội và bối cảnh nhân khẩu
Nguồn

Df(1)

Df(2)

F

Mơ hình
Tiểu thang các hội chứng
văn hóa CSSI
Khu vực sinh sống
Lớp học
Giới tính
Tuổi
Điều kiện sinh sống
Tình trạng hơn nhân của cha
mẹ

Nghề nghiệp của cha
Nghề nghiệp của mẹ

9

381

5.44

1

381

6.04 *

1
1
1
1
1

381
381
381
381
381

1

381


13.72 ****
0.80
0.56
0.11
6.05 *
1.05

Bình phương
eta1
.11
.02
.03
.00
.00
.00
.02
.00

1
381
0.00
.00
1
381
0.19
.00
Ghi chú: * = p < .05, ** = p < .01, *** = p < .001, **** = p < .0001.
1
= bình phương eta trong Mơ hình là bình phương eta đủ, bình phương eta với

mỗi yếu tố là bình phương eta một phần.
Bảng 6 cho thấy mối liên hệ có ý nghĩa thống kê giữa điểm số tiểu thang cá
hội chứng văn hóa CSSI và sự tìm kiếm sự trợ giúp chung [F= (1, 381) 8.80, p <
.01], kiểm soát các yếu tố kinh tế xã hội và bối cảnh nhân khẩu. Hai biến kiểm soát
là lớp học [F= (1, 381) 7.19, p < .01] và giới tính [F= (1, 381) 6.71, p < .05], có ý
nghĩa thống kê.
Bảng 3.6. Mối liên hệ giữa tiểu thang các hội chứng văn hóa CSSI và sự tìm kiếm sự
trợ giúp chung khi kiểm soát các yếu tố kinh tế xã hội và bối cảnh nhân khẩu
Bình phương
Nguồn
Df(1)
Df(2)
F
eta1
Mơ hình
9
381
3.17
.07
Tiểu thang các hội chứng
1
381
8.80 **
.02
văn hóa CSSI
Khu vực sinh sống
1
381
0.24
.00

Lớp học
1
381
7.19 **
.02
Giới tính
1
381
6.71 *
.02
Tuổi
1
381
3.58
.01
Điều kiện sinh sống
1
381
0.66
.00
Tình trạng hơn nhân của
1
381
3.34
.01
14


cha mẹ
Nghề nghiệp của cha

1
381
0.77
.00
Nghề nghiệp của mẹ
1
381
0.03
.00
Ghi chú: * = p < .05, ** = p < .01, *** = p < .001, **** = p < .0001.
1
= bình phương eta trong Mơ hình là bình phương eta đủ, bình phương eta với
mỗi yếu tố là bình phương eta một phần.
3.1.2.3 Mối liên hệ giữa trầm cảm, lo âu và sự suy giảm chức năng, tìm kiếm sự trợ
giúp, và chất lượng cuộc sống khi kiểm soát các yếu tố kinh tế xã hội và bối cảnh
nhân khẩu
Trong Bảng 7, lo âu và trầm cảm được đặt vào cùng một mơ hình. Kết quả
cho thấy lo âu [F= (1, 380) 15.84, p< .0001] và trầm cảm [F= (1, 381) 14.12, p<
.0001] có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê với suy giảm chức năng khi kiểm soát các
yếu tố bối cảnh nhân khẩu và kinh tế xã hội. Tuy nhiên, giá trị F của lo âu và trầm cảm
giảm, ví dụ với trầm cảm giảm từ 121.06 xuống 14.12 và lo âu giảm từ 123.26 xuống
15.84. Hai biến kiểm sốt là tình trạng hơn nhân của cha mẹ [F= (1, 380) 14.19, p<
.0001] và nghề nghiệp của cha [F= (1, 380) 5.04, p< .05] có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.7. Mối liên hệ giữa lo âu, trầm cảm và suy giảm chức năng khi kiểm
soát các yếu tố kinh tế xã hội và bối cảnh nhân khẩu
Bình phương
Nguồn
Df(1)
Df(2)
F

eta1
Mơ hình
10
380
23.42
.38
Lo âu
1
380
15.84 ****
.04
Trầm cảm
1
380
14.12 ****
.04
Khu vực sinh sống
1
380
1.20
.00
Lớp học
1
380
0.06
.00
Giới tính
1
380
2.30

.01
Tuổi
1
380
0.62
.00
Điều kiện sinh sống
1
380
0.00
.00
Tình trạng hơn nhân của
1
380
14.19 ****
.04
cha mẹ
Nghề nghiệp của cha
1
380
5.04 *
.01
Nghề nghiệp của mẹ
1
380
0.00
.00
Ghi chú: * = p < .05, ** = p < .01, *** = p < .001, **** = p < .0001.
1
= bình phương eta trong Mơ hình là bình phương eta đủ, bình phương eta với

mỗi yếu tố là bình phương eta một phần.
Ở Bảng 8, lo âu và trầm cảm được đặt vào cùng một mơ hình. Kết quả cho
thấy chỉ lo âu [F= (1, 380) 11.27, p< .0001] có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê với
sự tìm kiếm sự trợ giúp khi kiểm soát các yếu tố bối cảnh nhân khẩu và kinh tế xã
15


hội. Tuy nhiên, giá trị F của lo âu giảm từ 21.84 xuống 11.27. Hai biến kiểm soát là
lớp học [F= (1, 381) 7.58, p< .01] và giới tính [F= (1, 381) 6.20, p < .05] vẫn có ý
nghĩa thống kê với sự tìm kiếm sự trợ giúp.
Bảng 3.8. Mối liên hệ giữa lo âu, trầm cảm và sự tìm kiếm sự trợ giúp khi kiểm
soát các yếu tố kinh tế xã hội và bối cảnh nhân khẩu
Bình phương
Nguồn
Df(1)
Df(2)
F
eta1
Mơ hình
10
380
4.26
.10
Lo âu
1
380
11.27 **
.03
Trầm cảm
1

380
0.38
.00
Khu vực sinh sống
1
380
0.81
.00
Lớp học
1
380
7.58 **
.02
Giới tính
1
380
6.20 *
.02
Tuổi
1
380
2.91
.01
Điều kiện sinh sống
1
380
1.12
.00
Tình trạng hơn nhân của
1

380
2.63
.01
cha mẹ
Nghề nghiệp của cha
1
380
0.62
.00
Nghề nghiệp của mẹ
1
380
0.07
.00
Ghi chú: * = p < .05, ** = p < .01, *** = p < .001, **** = p < .0001.
1
= bình phương eta trong Mơ hình là bình phương eta đủ, bình phương eta với
mỗi yếu tố là bình phương eta một phần.
Ở Bảng 9, hội chứng lo âu và hội chứng trầm cảm được đặt vào cùng một
mơ hình để xem các mối liên hệ riêng biệt của các biến này với chất lượng cuộc
sống. Kết quả cho thấy lo âu và trầm cảm khơng có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê
riêng biệt với chất lượng cuộc sống khi kiểm soát từng biến, và khi kiểm soát các
yếu tố bối cảnh nhân khẩu và kinh tế xã hội. Hai biến kiểm soát là khu vực sinh
sống [F= (1, 381) 11.71, p< .01] và điều kiện sống [F= (1, 381) 5.02, p < .05] vẫn có
ý nghĩa thống kê với chất lượng cuộc sống.
Bảng 3.9. Mối liên hệ giữa lo âu, trầm cảm và chất lượng cuộc sống khi kiểm
soát các yếu tố kinh tế xã hội và bối cảnh nhân khẩu
Bình phương
Nguồn
Df(1)

Df(2)
F
eta1
Mơ hình
10
380
5.51
.13
Lo âu
1
380
0.08
.00
Trầm cảm
1
380
3.50
.01
Khu vực sinh sống
1
380
11.71 **
.03
Lớp học
1
380
0.49
.00
Giới tính
1

380
0.43
.00
Tuổi
1
380
0.10
.00
16


Điều kiện sinh sống
1
380
5.02 *
.01
Tình trạng hơn nhân của
1
380
0.63
.00
cha mẹ
Nghề nghiệp của cha
1
380
0.02
.00
Nghề nghiệp của mẹ
1
380

0.19
.00
Ghi chú: * = p < .05, ** = p < .01, *** = p < .001, **** = p < .0001.
1
= bình phương eta trong Mơ hình là bình phương eta đủ, bình phương eta với
mỗi yếu tố là bình phương eta một phần.
3.1.3. Các mối liên hệ riêng biệt giữa tâm bệnh và hoạt động chức năng cuộc sống

Các yếu tố bối cảnh nhân khẩu và kinh tế xã hội được thêm vào mơ hình ở vi
trí các yếu tố kiểm sốt cùng với lo âu và trầm cảm (Bảng 10). Kết quả cho thấy
điểm tiểu thang các hội chứng văn hóa CSSI vẫn khơng có mối quan hệ riêng biệt
với sự suy giảm chức năng. Các biến kiểm soát là lo âu [F= (1, 379) 14.24, p<.
0001], trầm cảm [F= (1, 379) 12.30, p<.01], tình trạng hơn nhân của cha mẹ [F= (1,
379) 14.14, p<. 0001] và nghề nghiệp của cha [F= (1, 379) 5.01, p<. 05] khơng có
mối quan hệ riêng biệt với sự suy giảm chức năng.
Bảng 10. Các mối liên hệ riêng biệt giữa tiểu thang các hội chứng văn hóa CSSI
và suy giảm chức năng khi kiểm sốt lo âu, trầm cảm, các yếu tố kinh tế xã hội
và bối cảnh nhân khẩu
Nguồn

Df(1)

Df(2)

F

Bình phương
eta1
.38


Mơ hình
11
379
21.23
Tiểu thang các hội chứng văn
1
379
0.00
.00
hóa của CSSI
Lo âu
1
379
14.24 ****
.04
Trầm cảm
1
379
12.30 **
.03
Khu vực sinh sống
1
379
1.18
.00
Lớp học
1
379
0.06
.00

Giới tính
1
379
2.29
.01
Tuổi
1
379
0.62
.00
Điều kiện sinh sống
1
379
0.00
.00
Tình trạng hơn nhân của cha
1
379
14.14 ****
.04
mẹ
Nghề nghiệp của cha
1
379
5.01 *
.01
Nghề nghiệp của mẹ
1
379
0.00

.00
Ghi chú: * = p < .05, ** = p < .01, *** = p < .001, **** = p < .0001.
1
= bình phương eta trong Mơ hình là bình phương eta đủ, bình phương eta với
mỗi yếu tố là bình phương eta một phần.
Các yếu tố bối cảnh nhân khẩu và kinh tế xã hội được thêm vào mơ hình ở vi
17


trí các yếu tố kiểm sốt cùng với lo âu và trầm cảm (Bảng 11). Kết quả cho thấy
điểm tiểu thang các hội chứng văn hóa CSSI khơng có mối quan hệ riêng biệt với sự
tìm kiếm sự trợ giúp chung. Các biến kiểm soát là lo âu [F= (1, 379) 10.23, p<. 01],
lớp học [F= (1, 379) 7.55, p<.01], và giới [F= (1, 379) 6.15, p<. 05] có mối quan hệ
riêng biệt với sự tìm kiếm sự trợ giúp chung.
Bảng 11. Các mối liên hệ riêng biệt giữa tiểu thang các hội chứng văn hóa CSSI
và sự tìm kiếm sự trợ giúp chung khi kiểm soát lo âu, trầm cảm, các yếu tố
kinh tế xã hội và bối cảnh nhân khẩu
Source

Df(1)

Df(2)

F

Bình phương
eta1
.10

Mơ hình

11
379
3.86
Tiểu thang các hội chứng văn
1
379
0.00
.00
hóa của CSSI
Lo âu
1
379
10.23 **
.03
Trầm cảm
1
379
0.33
.00
Khu vực sinh sống
1
379
0.79
.00
Lớp học
1
379
7.55 **
.02
Giới tính

1
379
6.15 *
.02
Tuổi
1
379
2.90
.01
Điều kiện sinh sống
1
379
1.11
.00
Tình trạng hơn nhân của cha
1
379
2.62
.01
mẹ
Nghề nghiệp của cha
1
379
0.62
.00
Nghề nghiệp của mẹ
1
379
0.07
.00

Ghi chú: * = p < .05, ** = p < .01, *** = p < .001, **** = p < .0001.
1
= bình phương eta trong Mơ hình là bình phương eta đủ, bình phương eta với
mỗi yếu tố là bình phương eta một phần.
Các yếu tố bối cảnh nhân khẩu và kinh tế xã hội được thêm vào mơ hình ở vi
trí các yếu tố kiểm soát cùng với lo âu và trầm cảm (Bảng 12). Kết quả cho thấy
điểm tiểu thang các hội chứng văn hóa CSSI khơng có mối quan hệ riêng biệt với
chất lượng cuộc sống. Các biến kiểm soát là khu vực sinh sống[F= (1, 379) 11.40,
p<. 01], và điều kiện sống [F= (1, 379) 4.97, p<.05] có mối quan hệ riêng biệt với
chất lượng cuộc sống.
Bảng 12. Các mối liên hệ riêng biệt giữa tiểu thang các hội chứng văn hóa CSSI
và chất lượng cuộc sống khi kiểm sốt lo âu, trầm cảm, các yếu tố kinh tế xã
hội và bối cảnh nhân khẩu
Bình phương
Source
Df(1)
Df(2)
F
eta1
Mơ hình đã điều chỉnh
11
379
5.00
.13
18


Tiểu thang các hội chứng văn
1
379

0.01
.00
hóa của CSSI
Lo âu
1
379
0.06
.00
Trầm cảm
1
379
2.99
.01
Khu vực sinh sống
1
379
11.40 **
.03
Lớp học
1
379
0.49
.00
Giới tính
1
379
0.42
.00
Tuổi
1

379
0.10
.00
Điều kiện sinh sống
1
379
4.97 *
.01
Tình trạng hôn nhân của cha
1
379
0.64
.00
mẹ
Nghề nghiệp của cha
1
379
0.02
.00
Nghề nghiệp của mẹ
1
379
0.19
.00
Ghi chú: * = p < .05, ** = p < .01, *** = p < .001, **** = p < .0001.
1
= bình phương eta trong Mơ hình là bình phương eta đủ, bình phương eta với
mỗi yếu tố là bình phương eta một phần.
3.2. Bàn luận
Trong nghiên cứu này, CSSI có mối liên hệ thuận có ý nghĩa với trầm cảm và lo

âu, điều này cho thấy có sự trùng lặp về khái niệm và thực tiễn giữa hai lĩnh vực hội
chứng này. CSSI có mối liên hệ thuận có ý nghĩa với suy giảm chức năng, chất
lượng cuộc sống và sự tìm kiếm sự trợ giúp chung, điều này cho thấy CSSI thể hiện
cho tâm bệnh, bởi “tâm bệnh” có các mối quan hệ với sự suy giảm chức năng và
chất lượng cuộc sống và sự tìm kiếm sự trợ giúp chung. Trong nghiên cứu này, lo âu
và trầm cảm có các mối liên hệ có ý nghĩa thống kê với những chỉ báo tương tự của
tâm bệnh, cho thấy các hội chứng sức khỏe tâm thần tiêu chuẩn của phương Tây
cũng thể hiện tâm bệnh ở mẫu người dân Cam-pu-chia. Tuy nhiên, và quan trọng
nhất, CSSI không có các mối liên hệ riêng biệt với suy giảm chức năng, chất lượng
cuộc sống và sự tìm kiếm sự trợ giúp chung, điều này cho thấy CSSI không cung
cấp các thơng tin bổ sung về tâm bệnh, ít nhất ở nhóm mẫu này. Điều này nghĩa là
các hội chứng đặc hiệu về văn hóa khơng cung cấp thêm bất kỳ thơng tin riêng biệt
nào về “tâm bệnh”, ít nhất trong bối cảnh các công cụ đo này và các mẫu này.
Ngược lại, cả lo âu và trầm cảm đều có mối liên hệ riêng biệt với suy giảm chức
năng, và lo âu có mối liên hệ riêng biệt với hành vi tìm kiếm sự trợ giúp. Như vậy,
các hội chứng phương Tây không cung cấp thông tin riêng biệt về tâm bệnh.
Có nhiều lý do vì sao cần phải nhận diện, đánh giá, và hiểu bản chất tâm bệnh
19


của các hội chứng đặc hiệu về văn hóa, cuối cùng liên quan đến việ tối đa hóa tính tiện
ích và hiệu quả của các công cụ đánh giá và can thiệp về sức khỏe tâm thần.
Đầu tiên, các hội chứng đặc hiệu về văn hóa được đánh giá trong nghiên cứu
này có thể thể hiện các dạng riêng biệt của tâm bệnh, theo nghĩa là phản ánh các
nguyên nhân ngầm ẩn riêng biệt về văn hóa. Các hội chứng đặc hiệu về văn hóa có
thể biểu thị dạng tâm bệnh một cách cơ bản không tồn tại ở các nền văn hóa khác.
Tuy vậy, hai kết quả nghiên cứu chính cho thấy các hội chứng của CSSI (a) có liên
hệ với các chỉ báo về tâm bệnh, nhưng không (b) có mối liên hệ riêng biệt với các
chỉ báo về tâm bệnh. Sự trùng lặp giữa tiểu thang các hội chứng văn hóa CSSI và
các hội chứng phương Tây, một phần do tương quan mạnh giữa điểm số tiểu thang

các hội chứng văn hóa CSSI với lo âu (r = .691) và trầm cảm (r = .708), có thể cho
thấy tuy rằng các hội chứng văn hóa CSSI biểu thị tâm bệnh (chúng có tương quan
với các chỉ báo về tâm bệnh), chúng mang tính diễn giải các triệu chứng ở cấp độ
xã hội và văn hóa thay vì cấp độ nguyên nhân. Điều này nghĩa là, nếu các hội chứng
CSSI có các nguyên nhân riêng biệt hoặc một phần riêng biệt, ta có thể kỳ vọng
rằng hệ quả của các hội chứng này (suy giảm chức năng, chất lượng cuộc sống và sự
tìm kiếm sự trợ giúp chung) cũng có những mối liên hệ riêng biệt với các chỉ báo
tâm bệnh, bởi các nguyên nhân ngầm ẩn chịu trách nhiệm trực tiếp cho hoạt động
của các chỉ báo này. Nếu các hội chứng CSSI có những nguyên nhân ngầm ẩn riêng
biệt, một số thân chủ sẽ có các hội chứng CSSI ở mức độ cao nhưng các hội chứng
phương Tây ở mức độ thấp, và do vậy sẽ có những liên hệ riêng biệt với sự suy
giảm. Nhưng vì khơng có mối liên hệ riêng biệt với sự suy giảm, có vẻ như khơng
tồn tại các ngun nhân ngầm ẩn.
Tuy vậy, lý do thứ hai cần phải hiểu bản chất tâm bệnh của các hội chứng đặc
hiệu về văn hóa là bởi các hội chứng này có thể thể hiện các niềm tin quan trọng về
mặt văn hóa về tâm bệnh, điều này về bản chất không thể hiện trong các hội chứng
phương Tây tiêu chuẩn. Ví dụ, khái niệm khyaˆl của Cam-pu-chia, nằm trong CSSI,
thể hiện cách diễn đạt chính của người dân Cam-pu-chia về sự đau khổ/căng thẳng.
Các công cụ đánh giá phương Tây như PHQ và GAD khơng bao gồm các mục như
vậy. Do đó, đánh giá các hội chứng này tạo điều kiện cho nhà lâm sàng giao tiếp
một cách tồn diện và ít nhất là khởi đầu dễ dàng hơn với thân chủ có vấn đề về sức
20


khỏe tâm thần. Nó sẽ làm tăng sự tham gia vào các quá trình đánh giá và điều trị,
bằng cách cho thân chủ cơ hội để định nghĩa các đau khổ bằng ngơn từ của chính
họ, cho phép có sự đánh giá và can thiệp hiệu quả hơn (Belsiyal, Sasirekha, 2017).
Như vậy, các kết quả của nghiên cứu này có thể đề xuất cách các nhà lâm
sàng và nhà tâm lý ở Cam-pu-chia có thể sử dụng các hội chứng đặc hiệu về văn hóa
đo được trong CSSI. Đầu tiên, xét thấy các hội chứng này thể hiện được “tâm

bệnh”, các nhà lâm sàng hoặc nhà tâm lý có thể sử dụng chúng để khám phá các
cách diễn đạt địa phương về sự đau khổ, nhờ đó giúp họ hiểu hơn về các vấn đề của
thân chủ trong bối cảnh của Cam-pu-chia. Sử dụng các hội chứng CSSI giúp thân
chủ hiểu một cách dễ dàng hơn các triệu chứng hoặc vấn đề của chính họ, để họ có
thể diễn đạt một cách dễ hơn bằng ngơn từ của chính họ. Như trong DSM 5 có ghi
chú, thảo luận các vấn đề về sức khỏe tâm thần bằng ngôn ngữ mà thân chủ heiuer
được sẽ mang lại quá trình giao tiếp tốt hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia
và thương lượng về quá trình điều trị, và khả năng duy trì và tuân thủ trị liệu cao
hơn (DSM-5, 2013). Cuối cùng, nó cũng xây dựng mối quan hệ giữa nhà lâm sàng
và thân chủ, bởi thân chủ sẽ thoải mái hơn để thảo luận các triệu chứng của họ khi
họ hiểu về các triệu chứng này từ góc nhìn của chính nền văn hóa của họ.
Dùng CSSI để đề cập đến các cách diễn đạt của Cam-pu-chia về sự đau khổ
cũng sẽ làm tăng số người tìm kiếm điều trị cho các rối loạn tâm lý và mong muốn
được tham gia điều trị, bởi nó có thể giúp thân chủ tăng sự hiểu biết của chính họ về
các vấn đề hay triệu chứng của mình. Thêm vào đó, việc sử dụng các cách diễn đạt
địa phương về sự đau khổ có thể hỗ trợ cho khơng gian trị liệu và mối quan hệ thấu
cảm, ví dụ: biết về ngôn ngữ của bệnh nhân cả về mặt ngôn ngữ và về mặt các khái
niệm phổ biến có thể cho thấy hiệu quả trong giao tiếp, và tạo điều kiện thuận lợi
cho sự thương lượng dẫn đến việc duy trì và tuân thủ điều trị cao hơn.
Cũng có thể diễn giải kết quả của nghiên cứu này là không cần thiết phải sử
dụng các thang đo đặc hiệu/riêng biệt về văn hóa, bởi các thang đo phương Tây hiện
tại (PHQ, GAD) có vẻ đã bao trùm các loại tâm bệnh mà CSSI đề cập đến. Tuy
nhiên, các kết quả này không cần thiết phải hàm ý rằng CSSI và những hội chứng
đặc hiệu về văn hóa khác khơng có tính ứng dụng lâm sàng, cả trong đánh giá và
điều trị. Các thuật ngữ và cách giải thích mang tính văn hóa mà các hội chứng này
21


thể hiện cần được sử dụng trong đánh giá và định hình trường hợp bởi chúng giúp
làm rõ các triêu chứng và các lý giải về nguyên nhân cho thân chủ, những người mà

ít nhất lúc ban đầu cũng có thể bối rối vì các triệu chứng có tên gọi của phương Tây
và các lý giải về nguyên nhân rất xa lạ đối với họ (Karthick & Sangita, 2017). Do đó
các thân chủ có thể tham gia nhiều hơn với quá trình đo lường và đánh giá.
Tuy vậy ngược lại, việc sử dụng các hội chứng của phương Tây hiện đang
không phải một phần cố hữu trong hệ thống định hình về mặt văn hóa có thể có ích
vì nhiều lý do. Thứ nhất, nó có thể ít định kiến hơn. Các triệu chứng đau khổ hoặc
bệnh lý truyền thống có thể được diễn giải thành các dấu hiêu của sự yếu đuối về
tinh thần, thể chất, hoặc sự thất bại hoặc khơng có khả năng đảm nhiệm các vai trị
quan trọng của xã hội. Các đặc tính cá nhân này có thể được đánh giá tiêu cực bởi
chúng có nghĩa là một người (hoặc một gia đình) đã thất bại trong một số trách
nhiệm xã hội quan trọng. Khi mọi người đánh giá sự đau khổ hoặc bệnh lý của
chính họ hoặc của người khác một cách tiêu cực như vậy, họ sẽ có những phản ứng
cảm xúc xấu hổ, cảm giác bị sỉ nhục, lo âu hoặc sợ hãi (Arnault, 2009), thể hiện sự
định kiến. Các hội chứng ít được tích hợp trong nền văn hóa có thể ít định kiến hơn
bởi khơng có lịch sử về việc chúng có liên hệ với các kết quả đầu ra tiêu cực
(Chhabra, Bhatia, & Gupta, 2008). Điều thứ hai, và quan trọng, các hội chứng sức
khỏe tâm thần dựa vào phương Tây có liên kết trực tiếp hơn với nghiên cứu và khoa
học khách quan, mang tính thực chứng hơn và có liên kết trực tiếp hơn đến các
nguyên nhân đã được xác định về mặt khoa học. Kết quả là việc sử dụng các hội
chứng dựa vào khoa học như trầm cảm và lo âu cuối cùng có thể có nhiều lợi ích
hơn bởi chúng có các mối liên hệ thực tiễn với các nguyên nhân, chúng nên được
gắn với các chương trình điều trị có hiệu quả khách quan. Cuối cùng, có thể là một
tiếp cận tích hợp sẽ có hiệu quả.
Có rất nhiều các hạn chế trong nghiên cứu này cần được xem xét tới. Thứ nhất,
nhằm tập trung vào các tiến trình phát triển của các mơ hình tâm bệnh mang tính
văn hóa, chúng tơi sử dụng mẫu trẻ vị thành niên. Tuy nhiên, có thể là các ngun
nhân mang tính văn hóa chỉ phát triển đầy đủ khi đến thời điểm trưởng thành sau
này của cá nhân và chỉ đến lúc đó mới tạo thành các mối liên hệ riêng biệt với các
chỉ báo của tâm bệnh. Bản thân điều này có thể là một phát hiện rất thú vị và quan
22



trọng. Thứ hai, nghiên cứu này chỉ tập trung vào một quốc gia. Tuy rằng Cam-puchia và một đất nước và nền văn hóa mà các hội chứng tâm bệnh mang tính đặc hiệu
về văn hóa đã được xác định, có thể có những hội chứng tâm bệnh đặc hiệu về mặt
văn hóa ở những quốc gia khác có mối liên hệ riêng biệt với những yếu tố định
nghĩa tâm bệnh (như suy giảm chức năng, sự tìm kiếm sự trợ giúp) mà thang đo ở
Cam-pu-chia của chúng tôi không đề cập đến. Thứ ba, PTSD bao gồm việc trải
nghiệm một sự kiện sang chấn, đe dọa đến cuộc sống hoặc nằm ngồi các trải
nghiệm thơng thường. Bởi chỉ 10% những người tham gia có các sư kiện như vậy,
thang đo này khơng thể phân tích được, và do vậy chúng tôi không thể xác định
được các mối quan hệ riêng biệt liên quan đến PTSD. Hạn chế thứ tư có thể có là
hầu hết các thang đo được sử dụng trong nghiên cứu này chưa được chính thức xác
nhận về mặt hiệu lực tại Cam-pu-chia. Ví dụ, tuy rằng CSSI được xây dựng theo
một quy trình mang tính nhạy cảm về văn hóa cao, được rà sốt cẩn trọng bởi các
nhà lâm sàng Cam-pu-chia, và được các chuyên gia của Cam-pu-chia chấp nhận về
hiệu lực, nó chưa được xác nhận về mặt hiệu lực một cách chính thức, điều này là
một hạn chế. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu ở các nước có thu nhập thấp và
trung bình có những hạn chế tương tự. Ví dụ, trong một nghiên cứu ở nước láng
giềng Việt Nam của Hinton và cộng sự (Hinton và cs, 2018), Phụ lục Triệu chứng
và Hội chứng Văn hóa Việt Nam - Vietnamese Symptom and Cultural Syndrome
Addendum (VN SSA) được sử dụng để đánh giá các phàn nàn tâm lý đáng chú ý ở
người dân Việt Nam bên cạnh các triệu chứng tiêu chuẩn được đánh giá bởi lo âu và
trầm cảm dựa trên phương Tây. Như vậy, tuy rằng việc quá trình xác nhận hiệu lực
chính thức là một hạn chế, nghiên cứu này và các nghiên cứu tương tự vẫn cung cấp
những thông tin hữu ích. Cũng cần lưu ý rằng khơng có công cụ đánh giá sức khỏe
tâm thần nào được xác nhân về hiệu lực một cách chính thức ở Cam-pu-chia. Một
vấn đề khác là GAD-7 ban đầu được cấu trúc để đánh giá Rối loạn Lo âu Lan tỏa, có
nghĩa là nghiên cứu hiện tại về mặt lý thuyết có thể đã khơng hồn thành được việc
đánh giá các rối loạn lo âu khác, như rối loạn cơn hoảng sợ hay PTSD. Tuy nhiên,
nghiên cứu cũng cho thấy là GAD-7 cũng nhận diên được những rối loạn lo âu khác

bao gồm PTSD, rối loạn ám sợ xã hội, và rối loạn cơn hoảng sợ (vd, Spitzer và cs,
2007; Spoont và cs, 2013). Cần lưu ý rằng khi GAD-7 chỉ đánh giá rối loạn lo âu lan
23


×