Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Tài liệu Đề tài "NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU" doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.9 KB, 75 trang )

LUẬN VĂN
"NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ
LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT
ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ
PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU"
MỤC LỤC
LU N V NẬ Ă 1
M C L CỤ Ụ 2
CH NG IƯƠ 4
NH NG V N LÝ LU N C B N V HO T NG XU T KH U VÀ PHÂN TÍCH Ữ Ấ ĐỀ Ậ Ơ Ả Ề Ạ ĐỘ Ấ Ẩ
HO T NG XU T KH UẠ ĐỘ Ấ Ẩ 4
I. Khái ni m v ho t ng xu t kh u và c i m ho t ng kinh doanhệ ề ạ độ ấ ẩ đặ đ ể ạ độ
xu t kh uấ ẩ 4
1/ Khái ni m xu t kh u hàng hoá, hi u qu xu t kh u và c i m ho tệ ấ ẩ ệ ả ấ ẩ đặ đ ể ạ
ng kinh doanh xu t kh uđộ ấ ẩ 4
1.1/ Khái ni m v xu t kh u hàng hoáệ ề ấ ẩ 4
1.2 / Hi u qu xu t kh uệ ả ấ ẩ 4
2/ Các ph ng th c kinh doanh xu t kh u ươ ứ ấ ẩ 6
3/ c i m ho t ng kinh doanh xu t kh uĐặ đ ể ạ độ ấ ẩ 7
II. Vai trò c a xu t kh u i v i s phát tri n c a n n kinh tủ ấ ẩ đố ớ ự ể ủ ề ế 8
1/ Xu t kh u t o ngu n v n ch y u cho nh p kh u ph c v Công ấ ẩ ạ ồ ố ủ ế ậ ẩ ụ ụ
Nghi p Hoá t n c.ệ đấ ướ 8
2/ Xu t kh u óng góp vào vi c chuy n d ch c c u kinh t thúc y ấ ẩ đ ệ ể ị ơ ấ ế đẩ
s n xu t phát tri nả ấ ể 9
3/ Xu t kh u có tác d ng tích c c n vi c gi i quy t công n vi c ấ ẩ ụ ự đế ệ ả ế ă ệ
làm và c i thi n i s ng c a ng i dân.ả ệ đờ ố ủ ườ 10
4/ Xu t kh u là c s m r ng và thúc y các quan h kinh t i ấ ẩ ơ ở để ở ộ đẩ ệ ế đố
ngo i c a n c ta.ạ ủ ướ 11
III. S c n thi t ph I phân tích tình hình và hi u qu kinh doanh ự ầ ế ả ệ ả
xu t kh uấ ẩ 11


1/ Các nhân t nh h ng n hi u qu xu t kh uố ả ưở đế ệ ả ấ ẩ 11
2/ S c n thi t ph i phân tích tình hình và hi u qu kinh doanh xu t ự ầ ế ả ệ ả ấ
kh uẩ 11
IV. Ngu n tài li u và ph ng pháp phân tíchồ ệ ươ 16
1.Ngu n tài li uồ ệ 16
2. Ph ng pháp phân tíchươ 17
2.1/ Ph ng pháp so sánhươ 18
2.2/ Ph ng pháp bi u m u s ươ ể ẫ ơ đồ 20
2.3/ Ph ng pháp cân iươ đố 21
2.4/ Ph ng pháp thay th liên hoàn và ph ng pháp s chênh l chươ ế ươ ố ệ 22
2.5 Ph ng pháp ch sươ ỉ ố 24
CH NG IIƯƠ 26
TH C TR NG V PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH VÀ HI U QU KINH DOANH XU T Ự Ạ Ề Ệ Ả Ấ
KH U T I CÔNG TY XU T NH P KH U T P PH M HÀ N IẨ Ạ Ấ Ậ Ẩ Ạ Ẩ Ộ 26
.Gi i thi u khái quát v công ty xu t nh p kh u t p ph m Hà N iΙ ớ ệ ề ấ ậ ẩ ạ ẩ ộ 26
1.Quá trình hình thành và phát tri nể 26
2. Ch c n ng, nhi m v c a công tyứ ă ệ ụ ủ 27
3. T ch c b máy qu n lý s n xu t kinh doanhổ ứ ộ ả ả ấ 28
4. i ng lao ng c a công tyĐộ ũ độ ủ 31
5. Tình hình th c hi n công tác tài chínhự ệ 32
5.1. Tình hình t ch c và phân c p qu n lý tài chínhổ ứ ấ ả 32
5.2. Tình hình xây d ng các k ho ch tài chính và vi c th c hi n cácự ế ạ ệ ự ệ
k ho ch óế ạ đ 35
5.3 C c u ngu n v n ơ ấ ồ ố 36
5.4 Tình hình t ng gi m ngu n v n ngu n v n ch s h uă ả ồ ố ồ ố ủ ở ữ 37
II. Th c tr ng v phân tích tình hình xu t kh u và hi u qu xu t ự ạ ề ấ ẩ ệ ả ấ
kh uẩ 39
1. Th c tr ng v t ch c phân tíchự ạ ề ổ ứ 39
2. T ch c công tác phân tíchổ ứ 43
2.1/ Th c tr ng v n i dung phân tích tình hình xu t kh uự ạ ề ộ ấ ẩ 44

2.2 Th c tr ng v phân tích hi u qu xu t kh uự ạ ề ệ ả ấ ẩ 50
3/ T su t l i nhu n trên t ng tài s nỷ ấ ợ ậ ổ ả 53
4/ T su t l i nhu n sau thu trên ngu n v n ch s h uỷ ấ ợ ậ ế ồ ố ủ ở ữ 53
Ch ng IIIươ 56
Hoàn thi n n i dung phân tích tình hình và hi u qu xu t kh u t i ệ ộ ệ ả ấ ẩ ạ
công ty xu t nh p kh u hà n iấ ậ ẩ ộ 56
I. S c n thi t ph i hoàn thi n công tác phân tích tình hình và hi u ự ầ ế ả ệ ệ
qu xu t kh uả ấ ẩ 56
II. Hoàn thi n v công tác t ch c phân tích tình hình và hi u qu ệ ề ổ ứ ệ ả
xu t kh uấ ẩ 57
1. Hoàn thi n v t ch c phân tíchệ ề ổ ứ 57
2. Hoàn thi n v n i dung phân tíchệ ề ộ 59
2.1 Hoàn thi n v phân tích tình hình xu t kh uệ ề ấ ẩ 59
3. T giá h i oái nh h ng n hi u qu xu t qu ỷ ố đ ả ưở đế ệ ả ấ ả 72
III. i u ki n th c hi n các gi i pháp a raĐ ề ệ để ự ệ ả đư 73
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU VÀ PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
I. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu và đặc điểm hoạt động kinh
doanh xuất khẩu
1/ Khái niệm xuất khẩu hàng hoá, hiệu quả xuất khẩu và đặc điểm
hoạt động kinh doanh xuất khẩu
1.1/ Khái niệm về xuất khẩu hàng hoá
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh ngoại thương mà
hàng hoá dịch vụ của quốc gia này bán cho quốc gia khác.
* Xuất khẩu hàng hoá thường diễn ra dưới các hình thức sau:
+ Hàng hoá nước ta bán ra nước ngoài theo hợp đồng thương mại được
ký kết của các thành phần kinh tế của nước ta với các thành phần kinh tế
ở nước ngoài không thường trú trên lãnh thổ Việt Nam.
+ Hàng hoá mà các đơn vị, dân cư nước ta bán cho nước ngoài qua các

đường biên giới, trên bộ, trên biển, ở hải đảo và trên tuyến hàng không.
+ Hàng gia công chuyển tiếp
+ Hàng gia công để xuất khẩu thông qua một cơ sở ký hợp đồng gia
công trực tiếp với nước ngoài.
+ Hàng hoá do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bán
cho người mua nước ngoài nhưng giao hàng tại Việt Nam
+ Hàng hoá do các chuyên gia, người lao động, học sinh, người du
lịch mang ra khỏi nước ta.
+ Những hàng hoá là quà biếu, đồ dùng khác của dân cư thường
trú nước ta gửi cho thân nhân, các tổ chức, huặc người nước ngoài khác.
+ Những hàng hoá là viện trợ, giúp đỡ của chính phủ, các tổ chức
và dân cư thường trú nước ta gửi cho chính phủ, các tổ chức, dân cư
nước ngoài.
1.2 / Hiệu quả xuất khẩu
Trong điều kiện nước ta hiện nay, kinh tế đối ngoại có vai trò ngày
càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy Đảng và nhà nước
luôn coi trọng lĩnh vực này và nhấn mạnh “nhiệm vụ ổn định và phát
triển kinh tế cũng như sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công ngiệp
hoá của nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần
vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại”. Đảm bảo
không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế xuất khẩu là mối quan tâm hàng
đầu của bất kỳ nền kinh tế nói chung và cuả mỗi doanh nghiệp nói riêng.
Hiệu quả hoạt động xuất khẩu chủ yếu được thẩm định bởi thị
trường, là phương hướng cơ bản để xác định phương hướng hoạt động
xuất khẩu. Tuy vậy hiệu quả đó là gì? như thế nào là có hiệu quả?
Không phải là vấn đề đã được thống nhất. Không thể đánh giá được mức
độ đạt được hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu khi mà bản thân
phạm trù này chưa được định rõ bản chất và những biểu hiện của nó. Vì
vậy, hiểu đúng bản chất của hiệu quả kinh tế xuất khẩu cũng như mục
tiêu đảm bảo hiệu quả kinh tế xuất khẩu của mỗi thời kỳ là vấn đề có ý

nghĩa thiết thực không những về lý luận thống nhất quan niệm về bản
chất của hiệu quả kinh tế xuất khẩu mà còn là cơ sở để xác định các tiêu
chuẩn và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế xuất khẩu, xác định yêu cầu
đối với việc đề ra mục tiêu và biện pháp nâng cao hiệu của kinh tế ngoại
thương.
Cho đến nay còn có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về hiệu quả
kinh doanh nói chung và hiệu quả xuất khẩu nói riêng. Quan niệm phổ
biến là hiệu quả kinh tế xuất khẩu là kết quả của quá trình sản xuất trong
nước, nó được biểu hiện ở mối tương quan giữa kết quả thu được và chi
phí bỏ ra. Trong thực tiễn cũng có người cho rằng hiệu quả kinh tế xuất
khẩu chính là số lợi nhuận thu được thông qua xuất khẩu. Những quan
niệm trên bộc lộ một số mặt chưa hợp lý.
Một là, đồng nhất hiệu quả và kết quả. Hai là, không phân định rõ
bản chất và tiêu chuẩn hiệu quả xuất khẩu với các chỉ tiêu biểu hiện bản
chất và tiêu chuẩn đó.
Cần phân biệt rõ khái niệm “kết quả” và “hiệu quả”. Về hình thức
hiệu quả kinh tế là một phạm trù so sánh thể hiện mối tương quan giữa
cái phải bỏ ra và cái thu về được. Kết quả chỉ là yếu tố cần thiết để tính
toán và phân tích hiệu quả. Tự bản thân mình, kết quả chưa thể hiện nó
tạo ra ở mức nào và với chi phí là bao nhiêu.
Mỗi hoạt động trong sản xuất kinh doanh thương mại dịch vụ nói
riêng là phải phấn đấu đạt được kết quả, nhưng không phải là kết quả bất
kỳ mà phải là kết quả có mục tiêu và có lợi ích cụ thể nào đó. Nhưng kết
quả có được ở mức độ nào với giá nào đó chính là vấn đề cần xem xét,
vì nó là chất lượng của hoạt động tạo ra kết qủa. Vì vậy, đánh giá hoạt
động kinh tế xuất khẩu không chỉ là đánh giá kết quả mà còn là đánh giá
chất lượng của hoạt động để tạo ra kết quả đó. Vấn đề không phải chỉ là
chúng ta xuất khẩu được bao nhiêu tỷ đồng hàng hoá mà còn là với chi
phí bao nhiêu để có được kim ngạch xuất khẩu như vậy. Mục đích hay
bản chất của hoạt động xuất khẩu là với chi phí xuất khẩu nhất định có

thể thu được lợi nhuận
lớn nhất. Chính mục đích đó nảy sinh vấn đề phải xem lựa chọn cách
nào để đạt được kết quả lớn nhất.
Từ cách nhìn nhận trên ta thấy các chỉ tiêu lượng hàng hoá xuất
khẩu, tổng trị giá hàng hoá xuất khẩu chỉ là những chỉ tiêu thể hiện kết
quả của hoạt động xuất khẩu chứ không thể coi là hiệu quả kinh tế của
hoạt động xuất khẩu được, nó chưa thể hiện kết quả đó được tạo ra với
chi phí nào
Nếu chỉ dừng lại ở đó thì còn rất trìu tượng và chưa chính xác. Điều cốt
lõi là chi phí cái gì, bao nhiêu và kết quả được thể hiện như thế nào.
trong hoạt động xuất khẩu, kết quả đầu ra thể hiện bằng số ngoại tệ thu
được do xuất khẩu đem lại và chi phí đầu vào là toàn bộ chi phí doanh
nghiệp đã bỏ ra nhưng có liên quan đến hoạt động xuất khẩu bao gồm
chi phí mua huặc chi phí sản xuất gia công hàng xuất khẩu, chi phí vận
chuyển, bốc dỡ, bảo quản, chi phí sơ chế, tái chế hàng xuất khẩu và
những chi phí trực tiếp huặc gián tiếp khác gắn với hợp đồng xuất khẩu.
Từ những nhận xét trên ta có công thức tính hiệu quả xuất khẩu như sau:
2/ Các phương thức kinh doanh xuất khẩu
* Phương thức kinh doanh xuất khẩu trực tiếp:
Xuất khẩu trực tiếp là phương thức kinh doanh mà trong đó, đơn vị
tham gia hoạt động xuất khẩu có thể trực tiếp đàm phán, ký kết hợp
đồng với nước ngoài; trực tiếp giao nhận hàng và thanh toán tiền hàng.
Các doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu trực tiếp trên cơ sở tự cân đối về
tài chính, có quyền tìm kiếm bạn hàng, định đoạt giá cả, lựa chọn
phương thức thanh toán và thị trường, xác định phạm vi kinh doanh
nhưng trong khuôn khổ chính sách quản lý xuất khẩu của nhà nước.
* Phương thức kinh doanh xuất khẩu uỷ thác
Xuất khẩu uỷ thác là phương thức kinh doanh mà trong đó, đơn vị
tham gia hoạt động kinh doanh xuất khẩu không đứng ra trực tiếp đàm
phán với nước ngoài mà phải nhờ qua một đơn vị xuất khẩu có uy tín

thực hiện hoạt động xuất khẩu cho mình.
Hiệu quả xuất khẩu
Doanh thu ngoại tệ do
xuất khẩu đem lại
Chi phí liên quan đến
hoạt động xuất khẩu
=
Hiệu quả kinh tế
=
Kết quả đầu ra
Chi phí đầu vào
Đặc điểm hoạt động xuất khẩu uỷ thác là có hai bên tham gia trong
hoạt động xuất khẩu:
+ Bên giao uỷ thác xuất khẩu (bên uỷ thác): bên uỷ thác là bên có
đủ điều kiện bán hàng xuất khẩu.
+ Bên nhận uỷ thác xuất khẩu (bên nhận uỷ thác): bên nhận uỷ
thác xuất khẩu là bên đứng ra thay mặt bên uỷ thác ký kết hợp đồng với
bên nước ngoài. Hợp đồng này được thực hiện thông qua hợp đồng uỷ
thác và chịu sự điều chỉnh của luật kinh doanh trong nước. Bên nhận uỷ
thác sau khi ký kết hợp đồng uỷ thác xuất khẩu sẽ đóng vai trò là một
bên của hợp đồng mua bán ngoại thương.
Do vậy, bên nhận uỷ thác sẽ phải chịu sự điều chỉnh về mặt pháp
lý của luật kinh doanh trong nước, luật kinh doanh của bên đối tác và
luật buôn bán quốc tế.
Theo phương thức kinh doanh xuất khẩu uỷ thác, doanh nghiệp
giao uỷ thác giữ vai trò là người sử dụng dịch vụ, còn doanh nghiệp
nhận uỷ thác lại giữ vai trò là người cung cấp dịch vụ, hưởng hoa hồng
theo sự thoả thuận giữa hai bên ký trong hợp đồng uỷ thác.
* Xuất khẩu theo hiệp định:
Bộ phận hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu theo hiệp định của nhà

nước ký kết với nước ngoài. Các doanh nghiệp thay mặt nhà nước ký
các hợp đồng cụ thể và thực hiện các hợp đồng đó với nước bạn.
*Xuất khẩu ngoài hiệp định:
Bộ phận hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu không nằm trong hiệp định
của nhà nước phân bổ cho doanh nghiệp.
3/ Đặc điểm hoạt động kinh doanh xuất khẩu
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu có các đặc điểm sau:
♣ Thời gian lưu chuyển hàng hoá xuất khẩu:
Thời gian lưu chuyển hàng hoá trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu
bao giờ cũng dài hơn so với thời gian lưu chuyển hàng hoá trong hoạt
động kinh doanh nội địa do khoảng cách địa lý cũng như các thủ tục
phức tạp để xuất khẩu hàng hoá. Do đó, để xác định kết quả hoạt động
kinh doanh xuất khẩu, người ta chỉ xác định khi hàng hoá đã luân
chuyển được một vòng hay khi đã thực hiện xong một thương vụ ngoại
thương.
♣ Hàng hoá kinh doanh xuất khẩu:
Hàng hoá kinh doanh xuất khẩu bao gồm nhiều loại, trong đó xuất khẩu
chủ yếu những mặt hàng thuộc thế mạnh trong nước như: rau quả tươi,
hàng mây tre đan, hàng thủ công mỹ nghệ …
♣Thời điểm giao, nhận hàng và thời điểm thanh toán:
Thời điểm xuất khẩu hàng hoá và thời điểm thanh toán tiền hàng không
trùng nhau mà có khoảng cách dài.
♣ Phương thức thanh toán:
Trong xuất khẩu hàng hoá, có nhiều phương thức thanh toán có thể áp
dụng được tuy nhiên phương thức thanh toán chủ yếu được sử dụng là
phương thức thanh toán bằng thư tín dụng. Đây là phương thức thanh
toán đảm bảo được quyền lợi của nhà xuất khẩu.
♣ Tập quán, pháp luật:
Hai bên mua, bán có quốc tịch khác nhau, pháp luật khác nhau, tập quán
kinh doanh khác nhau, do vậy phải tuân thủ luật kinh doanh cũng như

tập quán kinh doanh của từng nước và luật thương mại quốc tế.
II. Vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển của nền kinh tế
1/ Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ Công
Nghiệp Hoá đất nước.
Đất nước ta đang từng bước tiến tới Công Nghiệp Hoá - Hiện Đại
Hoá đất nước. Đây là một nhiệm vụ cần thiết đáp ứng yêu cầu của Đảng
ta là đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu từng bước phát triển
nền kinh tế ngày một bền vững ổn định, xoá dần khoảng cách về kinh tế
giữa nước ta và các nước trên thế giới.
Nhìn chung các ngành sản xuất trong nước vẫn chưa thể đáp ứng
được yêu cầu của quá trình hiện đaị hoá chính vì vậy mà chúng ta cần
thiết phải nhập khẩu một số trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại từ
nước ngoài vào Việt Nam. Nguồn vốn ngoại tệ để nhập khẩu có thể
được hình thành từ các nguồn sau:
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài
+ Kinh doanh dịch vụ thu ngoại tệ
+ Vay nợ, nhận viện trợ
+ Xuất khẩu hàng hoá
Các nguồn vốn ngoại tệ như: đầu tư trực tiếp nước ngoài, vay nợ,
kinh doanh dịch vụ thu ngoại tệ không đóng góp nhiều lắm vào việc tăng
thu ngoại tệ, chỉ có xuất khẩu hàng hoá là nguồn thu ngoại tệ lớn của đất
nước, nguồn thu này dùng để nhập khẩu các trang thiết bị hiện đại phục
vụ công nghiệp hóa và trang trải những chi phí cần thiết khác cho quá
trình này, xuất khẩu không những nâng cao được uy tín xuất khẩu của
các doanh nghiệp trong nước mà còn phản ánh năng lực sản xuất hiện
đại của chính nước đó.
Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ
hội đầu tư, vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi
khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu –
nguồn vốn duy nhất để trả nợ – trở thành hiện thực. Điều này càng nói

lên vai trò vô cùng quan trọng của xuất khẩu.
2/ Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy
sản xuất phát triển
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô
cùng mạnh mẽ. Đó chính là thành quả của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình Công
Nghiệp Hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất
yếu đối với nước ta. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu
đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Một là: Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ sản phẩm thừa do sản xuất
vượt quá tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế nước ta còn
quá lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản chưa đủ
tiêu dùng. Nếu chỉ thụ động chờ ở sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất
khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp, sản xuất và sự thay đổi
cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm.
Hai là: Coi thị trường đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng
để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất
thể hiện ở chỗ:
♦ Xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác có cơ hội
phát triển. Khi chúng ta xuất khẩu một mặt hàng nào đó kéo theo đó là
sự phát triển các ngành khác phục vụ cho việc xuất khẩu mặt hàng này.
Chẳng hạn khi xuất khẩu các sản phẩm dệt may thì ngành sản xuất
nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm cũng sẽ phát triển theo quy mô
xuất khẩu sản phẩm may. Chính điều này làm cho cơ cấu kinh tế thay
đổi một cách đồng bộ không có sự mất cân đối giữa các ngành với nhau.
Như vậy xuất khẩu đã góp phần tạo ra một cơ cấu kinh tế phù hợp với
xu thế phát triển của thế giới.
♦Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần
cho sản xuất phát triển và ổn định.

Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng muốn mở rộng thị trường, nâng cao
khả năng chiếm lĩnh thị trường từ đó thu lợi nhuận cao. Mặt khác mở
rộng thị trường xuất khẩu là giảm sự phụ thuộc vào thị trường nội địa
khi thị trường này có sự biến động ảnh hưởng không tốt đến việc kinh
doanh của doanh nghiệp và tăng khả năng thoả mãn nhu cầu cho người
tiêu dùng.
Thị trường nước ngoài hầu như là những thị trường có sức tiêu thụ
hàng hoá lớn hơn so với nhu cầu tiêu dùng trong nước, chính vì vậy mọi
doanh nghiệp đều luôn cố gắng thoả mãn tốt nhất nhu cầu này để tăng
doanh thu đạt lợi nhuận cao nhưng lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng
lớn, doanh nghiệp phảI chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp
khác. trong điều kiện như vậy doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất kinh doanh, nâng cao
năng lực sản xuất hiện có cả về số lượng và chất lượng bằng cách nhập
các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ
thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng
sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
Như vậy xuất khẩu góp phần phát triển sản xuất ngày một hiện đại hơn
và ổn định hơn.
♦ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào
cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói
đến xuất khẩu là điều kiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ
từ bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hóa nền kinh tế của đất nước,
tạo ra năng lực sản xuất mới.
♦ Xuất khẩu chính là việc hàng hoá được tiêu dùng ở nước ngoài,
chịu sự cạnh tranh về giá cả, chất lượng.
Doanh nghiệp muốn có một chỗ đứng trên thị trường thì phải có kế
hoạch sản xuất kinh doanh sao cho có thể tận dụng hết mọi năng lực sản
xuất hiện có để tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt đáp ứng được
đòi hỏi của người tiêu dùng về tính năng công dụng của sản phẩm càng

nhiều càng tốt nhưng lại phảI có mức giá cả hợp lý để vừa có thể cạnh
tranh về giá với các doanh nghiệp khác vừa mang lại lợi nhuận cho
doanh nghiệp. Điều này sẽ làm cho doanh nghiệp luôn cố gắng để sản
xuất có hiệu quả tăng cường đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị
sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường.
Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả cũng có nghĩa là nền kinh tế cũng
ngày một đi lên, như vậy xuất khẩu không chỉ đem lại lợi nhuận cho
doanh nghiệp mà còn làm cho nền kinh tế ngày một phát triển và ổn
định.
3/ Xuất khẩu có tác dụng tích cực đến việc giải quyết công ăn việc
làm và cải thiện đời sống của người dân.
Hiện nay việc hàng trăm triệu người lao động đang đổ xô về thành
phố kiếm việc làm đã gây ra nhiều vấn đề xã hội và làm cho sự quản lý
của nhà nước thêm khó khăn. Nó cũng chứng tỏ người dân đặc biệt là
những người dân ở các vùng nông thôn đang thiếu việc làm một cách
trầm trọng. Xuất khẩu đã giải quyết được vấn đề công ăn việc làm cho
người lao động, tạo thu nhập và cải thiện đời sống của dân cư. Đồng thời
xuất khẩu cũng đóng góp vào ngân sách quốc gia một nguồn vốn ngoại
tệ đáng kể. Đây là nguồn vốn dùng để nhập khẩu các vật phẩm tiêu dùng
thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được nhằm phục vụ nhu cầu ngày
càng cao của người dân.
4/ Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế
đối ngoại của nước ta.
Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác
động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Có thể thấy hoạt động xuất khẩu có
sớm hơn hoạt động kinh tế đối ngoại khác và tạo điều kiện thúc đẩy
quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng,
đầu tư, mở rộng vận tảI quốc tế… Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế
đối ngoại lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến

lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước.
III. Sự cần thiết phảI phân tích tình hình và hiệu quả kinh doanh
xuất khẩu
1/ Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả xuất khẩu
2/ Sự cần thiết phải phân tích tình hình và hiệu quả kinh doanh xuất
khẩu
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp luôn phải chịu sự
cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ cạnh tranh về mọi mặt: giá cả, chất
lượng, thị trường, khách hàng… nếu như doanh nghiệp không nhanh
nhậy nắm bắt được tình hình thực tế cũng như không biết chính xác về
tình hình kinh doanh, hiệu quả kinh doanh của chính doanh nghiệp mình
thì doanh nghiệp sẽ có những ảo tưởng về kết quả mà doanh nghiệp đã
đạt được điều này dẫn tới doanh nghiệp sẽ thất bại trong cuộc cạnh tranh
với các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp sẽ dần mất đi những gì mà
mình đang có mà điều này cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đang
dần suy vong và có nguy cơ dẫn đến phá sản.
Đặc biệt đối với các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực xuất khẩu
hàng hoá thì sự cạnh tranh còn gay gắt hơn nhiều so với các doanh
nghiệp trong nước bởi vì doanh nghiệp khi tham gia xuất khẩu hàng hoá
sang thị trường nước ngoài không những phải chịu sự cạnh tranh của các
doanh nghiệp từ nhiều nơi khác mà còn phải chịu áp lực từ chính nước
mình xuất khẩu hàng hoá sang lý do là nhiều khi các nước đó áp dụng
các chính sách quy chế gây cản trở cho các doanh ngiệp xuất khẩu mục
đích là để bảo hộ cho ngành sản xuất trong nước của họ. Để giúp cho
các chủ doanh nghiệp xuất khẩu luôn nắm bắt được tình hình kinh doanh
thực tế cũng như biết được doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả không thì
công tác phân tích tình hình xuất khẩu và hiệu quả xuất khẩu là một việc
làm hết sức cần thiết không chỉ đối với các doanh nghiệp tham gia vào
lĩnh vực xuất khẩu mà tất cả các doanh nghiệp đều phải chú trọng tới
công tác phân tích. Phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu đem lại rất

nhiều lợi ích cho doanh nghiệp:
+ Việc phân tích tình hình xuất khẩu được thực hiện sau mỗi một
kỳ kinh doanh giúp doanh nghiệp kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện
kế hoạch xuất khẩu mà doanh nghiệp đã đề ra ở kỳ kế hoạch.
Để thực hiện các nghiệp vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
đòi hỏi chủ doanh nghiệp và các nhà quản lý phải xây dựng các chỉ tiêu
kế hoạch sản xuất kinh doanh cũng như các kế hoạch tài chính, kế hoạch
lao động, tiền lương … đó là những mục tiêu cần đạt được trong kỳ kế
hoạch. Nhưng đồng thời nó cũng là cơ sở để chỉ đạo mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, để nhận thức và đánh giá
tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ
doanh nghiệp cần thiết phải phân tích để thấy được mức độ hoàn thành
của các chỉ tiêu kế hoạch về phần trăm và số chênh lệch tăng giảm.
Việc phân tích này là cần thiết bởi vì thông qua phân tích các nhà
quản lý sẽ thấy được doanh nghiệp đã thực hiện kế hoạch đề ra ở mức
độ nào, có hoàn thành kế hoạch đề ra hay không từ đó tìm ra nguyên
nhân của việc không hoàn thành kế hoạch cũng như nhân tố góp phần
vào việc hoàn thành vượt mức kế hoạch đặt ra và đưa ra các giải pháp để
kỳ kinh doanh tiếp theo sẽ hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch
đặt ra. Việc phân tích này sẽ giúp doanh nghiệp nhìn ra đâu là mặt mạnh
cũng như những điểm còn yếu kém trong từng khâu của quá trình sản
xuất kinh doanh để có thể tận dụng hết thế mạnh của mình, khắc phục
dần những điểm còn tồn tại từ đó nâng cao lợi nhuận, mở rộng sản xuất
kinh doanh, mở rộng thị trường nâng cao uy tín và vị thế của doanh
nghiệp trên thương trường.
Doanh nghiệp nào cũng có thị trường, khách hàng, mặt hàng riêng
của mình, tuy nhiên doanh nghiệp cũng chia ra thành thị trường chính,
mặt hàng chủ lực, khách hàng truyền thống để từ đó có kế hoạch cung
ứng hàng hoá cho phù hợp. Nếu đối với các thị trường chính có sức tiêu
thụ lớn mà ta lại không chú ý tới, không có kế hoạch cung ứng hàng hoá

đầy đủ kịp thời đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng thì doanh
nghiệp sẽ dần mất đi thị phần trên thị trường đó và các doanh nghiệp
khác sẽ có cơ hội để chiếm lĩnh thị trường đó có nghĩa là doanh nghiệp
đang đánh mất cơ hội làm tăng lợi nhuận của chính mình.
Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu theo thị trường sẽ
cho ta biết được mức độ hoàn thành kế hoạch đối với thị trường chính
cũng như các thị trường khác để có kế hoạch cung ứng hàng hoá cho
phù hợp. Như vậy việc phân tích tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu
là thật sự cần thiết đối với mỗi một doanh nghiệp đặc biệt là các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu.
+ Phân tích tình hình xuất khẩu ngay trong khi thực hiện kế hoạch xuất
khẩu giúp doanh nghiệp phát hiện ra những thay đổi bất thường của thị
trường có ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện kế hoạch xuất khẩu cũng
như gây tổn thất cho doanh nghiệp về mặt kinh tế, những khó khăn mới
nảy sinh cản trở tiến trình thực hiện xuất khẩu.
Sau mỗi một kỳ kinh doanh, doanh nghiệp đều đưa ra những kế hoạch
kinh doanh cho kỳ tiếp sau, mặc dù đã có sự chuẩn bị trước nhưng trong
thực tế không phải lúc nào mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều diễn
ra theo kế hoạch đã định. Thị trường luôn chứa đựng trong nó những
biến động bất thường, những biến động này có thể là theo chiều hướng
xấu đối với doanh nghiệp cũng có thể theo chiều hướng thuận lợi cho
doanh nghiệp nhưng bất kể là xấu hay tốt thì nhiệm vụ của nhà quản lý
doanh nghiệp là phải luôn đưa ra các quyết định chỉ đạo kinh doanh linh
hoạt, phù hợp với tình hình thực tế đưa doanh nghiệp thoát khỏi tình
trạng khó khăn do thị trường gây ra cũng như tận dụng cơ hội kinh
doanh do thị trường đem lại. Để làm được điều này các nhà quản lý phải
luôn nắm chắc tình hình kinh doanh xuất khẩu bằng cách tiến hành phân
tích thường xuyên, cẩn thận, kỹ lưỡng tình hình xuất khẩu từ đó có sự
điều chỉnh kế hoạch xuất khẩu cho phù hợp.
Thị trường quốc tế luôn biến động hàng ngày hàng giờ nếu không phân

tích một cách toàn diện, thường xuyên thì không thể đưa ra một quyết
định tối ưu nhất, sáng suốt nhất. Một quyết định sai lầm, xa rời thực tế
không giải quyết được yêu cầu đang đặt ra sẽ khiến cho hoạt động xuất
khẩu của doanh nghiệp không được liên tục thông suốt, gây tổn thất cho
doanh nghiệp. Để có thể đưa ra được những chính sách biện pháp và chỉ
đạo quản lý một cách hiệu quả thì việc phân tích rất cần thiết phải được
tiến hành ngay từ giai đoạn lập kế hoạch đến khi thực hiện kế hoạch và
sau khi kế hoạch đã được thực hiện.
+ Phân tích hiệu quả xuất khẩu sẽ cung cấp những thông tin chính xác
về kết quả kinh doanh, các nhân tố ảnh hưởng và nguyên nhân ảnh
hưởng đến kết qủa kinh doanh, từ đó tìm ra những chính sách biện pháp
thích hợp để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Trong nền kinh tế tập trung bao cấp, các doanh nghiệp hoạt động
dưới sự chỉ đạo của nhà nước bằng các hệ thống chỉ tiêu pháp lệch. Mọi
khâu của quá trình sản xuất kinh doanh như: sản xuất cái gì? sản xuất
cho ai? Sản xuất như thế nào đều do nhà nước trực tiếp chỉ đạo, doanh
nghiệp chỉ như một cỗ máy hoạt động theo kế hoạch đã định sẵn. Bởi
vậy mà việc doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hay không không phải
là vấn đề cần quan tâm trong thời kỳ đó, nếu doanh nghiệp làm ăn thua
lỗ đã có nhà nước bù lỗ vì vậy doanh nghiệp chỉ quan tâm xem mình có
đạt được các chỉ tiêu kế hoạch do bên trên giao hay không.
Nhưng từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự tham gia
của nhiều thành phần kinh tế nhà nước đã trao quyền tự chủ kinh doanh
cho doanh nghiệp có nghĩa là chủ doanh nghiệp sẽ phải quyết định mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình và chịu trách
nhiệm về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, nhà nước chỉ kiểm soát
doanh nghiệp ở tầm vĩ mô:định hướng cho doanh nghiệp hoạt động, tạo
ra môi trường kinh doanh thuận lợi và doanh nghiệp chỉ được phép hoạt
động trong khuôn khổ mà nhà nước cho phép. Và khi mà sự suy vong
hay phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc vào nỗ lực của chính bản

thân doanh nghiệp thì hiệu quả kinh doanh lại là một vấn đề sống còn
đối với doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp luôn cố gắng để tìm ra các biện pháp nâng cao
hiệu quả kinh doanh, tìm cho mình một chỗ đứng trên thị trường. Muốn
nâng cao hiệu quả kinh doanh thì trước hết ta phải biết được hiệu quả
kinh doanh hiện tại như thế nào để từ đó tìm ra nguyên nhân cũng như
những điểm đã đạt được, rút ra bài học cho kỳ sau. Định kỳ cứ sau mỗi
kỳ kinh doanh doanh nghiệp cần phải tiến hành phân tích xem doanh
nghiệp đạt hiệu quả kinh doanh cao hay thấp bằng các chỉ tiêu phân tích
đã định trước phù hợp với yêu cầu và nội dung phân tích. Việc phân tích
sẽ cung cấp những thông tin chính xác trung thực về chất lượng kinh
doanh của doanh nghiệp, tìm ra các nhân tố và nguyên nhân ảnh hưởng
đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp từ đó có kế hoạch chỉ đạo
cho kỳ kinh doanh sau để làm sao doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh
doanh cao hơn nữa. Nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng đồng nghĩa với
việc nâng cao lợi nhuận, phát triển mở rộng công việc kinh doanh của
doanh nghiệp.
Tiền đề của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là tối ưu hoá
trong việc sử dụng các loại nguồn lực. Nguồn lực ở đây được hiểu theo
nghĩa rộng bao gồm các nguồn lực tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể và
không tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể. Tối ưu hoá trong việc sử dụng
các loại nguồn lực phải được xem xét trong một tổng thể chung. Để đạt
được điều này đòi hỏi phải tiến hành phân tích một cách toàn diện, đầy
đủ tổng hợp toàn bộ các mặt có liên quan đến hoạt động của doanh
nghiệp để kịp thời phát hiện các nhân tố tích cực cũng như tiêu cực trong
kinh doanh làm cơ sở đề ra các quyết định đúng đắn và kịp thời nhằm
nâng cao hiệu quả kinh doanh. Hiểu quả kinh doanh phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nhau, nhưng cũng cần phải thấy rằng: hoạt động kinh doanh
cũng như các hoạt động khác nhiều khi cũng gặp những rủi ro làm giảm
hiệu qủa kinh doanh và có khi còn làm cho doanh nghiệp phá sản. Phân

tích giúp chủ động đối phó với các bất trắc có thể xảy ra và tránh các rủi
ro.
Không phải ngẫu nhiên mà các doanh nghiệp đều luôn quan tâm
đến việc phân tích hiệu quả kinh doanh và họ cho là phân tích là điều
cần thiết. Công việc này không những đem lại cho doanh nghiệp nhiều
lợi ích mà còn giúp doanh nghiệp tận dụng được những khả năng tiềm
tàng mà doanh nghiệp chưa sử dụng hết để thúc đẩy quá trình hoạt động
sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp xuất khẩu hoạt động có hiệu quả không những đem lại
nguồn ngoại tệ cho doanh nghiệp mình mà còn góp phần tăng thu ngoại
tệ cho đất nước, cải thiện cán cân thương mại, bình ổn tỷ giá hối đoái,
góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như uy tín của các doanh
nghiệp xuất khẩu trong nước. Việc phân tích hiệu quả kinh doanh xuất
khẩu cần phải được tiến hành trên nhiều mặt, tiến hành một cách toàn
diện từ đó mới có được những phương hướng hoạt động thích hợp cho
kỳ kinh doanh sau để làm sao sử dụng hết nguồn lực vật chất hiện có
nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh.
+ Phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu là cơ sở khoa học cho
việc đề ra các kế hoạch sản xuất kinh doanh ở kỳ tiếp theo
Doanh nghiệp là một hệ thống bao gồm nhiều phần tử: phòng, ban,
chi nhánh…mỗi một bộ phận đều có chức năng nhiệm vụ riêng, những
chức năng đó dù là nhỏ nhất cũng đều có quan hệ với nhau tạo nên hiệu
quả kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Phân
tích tình hình và hiệu quả kinh doanh xuất khẩu là cơ sở khoa học cho
việc đề ra các kế hoạch sản xuất kinh doanh tiếp theo đó cũng chính là
việc phối hợp hoạt động giữa các phòng ban trong doanh nghiệp sao cho
ăn khớp, hoạt động nhịp nhàng, hợp lý, tất cả các phòng ban đều hướng
tới một mục tiêu chung là lợi nhuận của doanh nghiệp thì doanh nghiệp
sẽ đạt được hiệu quả kinh doanh cao. Trên cơ sở nhận xét đánh giá về
kết quả doanh nghiệp đạt được ở kỳ này, phân tích hiệu quả kinh doanh

cao hay thấp, chủ doanh nghiệp sẽ đưa ra một kế hoạch kinh doanh cũng
như đưa ra các chỉ tiêu cần đạt được trong kỳ tiếp theo sao cho phù hợp
với khả năng của doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể hoàn thành vượt
mức kế hoạch đề ra.
Một kế hoạch kinh doanh đưa ra mà không dựa trên các kết quả đã
đạt được trước đó rất có thể sẽ là một kế hoạch nằm ngoài khả năng thực
hiện của doanh nghiệp, doanh nghiệp chỉ theo đuổi những mục tiêu xa
vời mà không để ý đến thực lực của doanh nghiệp mình sẽ dẫn đến
không hoàn thành kế hoạch và không đạt được hiệu quả kinh doanh như
mong muốn. Các doanh nghiệp luôn đứng vững trước mọi thay đổi của
thị trường là những doanh nghiệp có kế hoạch kinh doanh hợp lý, luôn
thích ứng với sự thay đổi của thị trường, cung ứng hàng hoá kịp thời đáp
ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Các kế hoạch sản xuất kinh
doanh không chỉ là mục tiêu mà doanh nghiệp cần đạt tới mà nó còn là
định hướng cho doanh nghiệp hoạt động.
Nói tóm lại, phân tích tình hình và hiệu quả kinh doanh xuất khẩu
là một việc làm hết sức cần thiết trong mỗi doanh nghiệp, nó giúp doanh
nghiệp nhận thức và đánh giá đúng đắn tình hình và hiệu quả hoạt động
kinh doanh, thấy được những thành tích, kết quả đã đạt được, những
mâu thuẫn tồn tại và những nguyên nhân ảnh hưởng để trong kỳ kinh
doanh tới phát huy hơn nữa những thành tích đã đạt được, tránh lặp lại
những sai lầm và giải quyết mâu thuẫn còn vướng mắc. Đúc kết được
những bài học kinh nghiệm, những sáng kiến cải tiến rút ra từ thực tiễn,
kể cả những bài học kinh nghiệm thành công huặc thất bại làm cơ sở cho
việc đề ra những phương án, kế hoạch kinh doanh trong kỳ tới.
IV. Nguồn tài liệu và phương pháp phân tích
1.Nguồn tài liệu
Phân tích kinh tế nói chung cũng như phân tích hoạt động kinh tế
nói riêng có một vai trò rất quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô cũng
như vi mô. Để quản lý tốt nền kinh tế quốc dân, quản lý một ngành hay

quản lý một doanh nghiệp đòi hỏi các nhà quản lý phải đưa ra những chủ
trương chính sách biện pháp quản lý đúng đắn, phù hợp với tình hình
thực tiễn và quy luật phát triển khách quan. Muốn vậy đòi hỏi các nhà
quản lý các cấp phải thường xuyên tiến hành phân tích các hiện tượng
kinh tế cũng như quá trình và kết quả sản xuất kinh doanh.
Để có thể tiến hành phân tích đòi hỏi phải thu thập một lượng
thông tin cần thiết đầy đủ kịp thời phù hợp với mục đích yêu cầu về nội
dung và phạm vi của đối tượng phân tích. Thông tin dùng trong phân
tích hoạt động kinh tế là những số liệu tài liệu cần thiết làm cơ sở để tính
toán và phân tích tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, nó cũng là cơ sở cho việc đề ra các quyết định tối ưu
trong kinh doanh và quản lý. Các quyết định của nhà quản lý nếu thiếu
sự nghiên cứu, phân tích một cách đầy đủ toàn diện các số liệu thông tin
thì sẽ dẫn tới những quyết định thoát ly thực tế không phù hợp với yêu
cầu khách quan từ đó sẽ dẫn đến khả năng rủi ro thua lỗ trong sản xuất
kinh doanh.
Nguồn tài liệu ta có thể sử dụng để phân tích hoạt động kinh tế của
doanh nghiệp gồm: nguồn tài liệu bên ngoài và nguồn tài liệu bên trong
doanh nghiệp cung cấp.
* Nguồn tài liệu bên ngoài là các nguồn tài liệu phản ánh chủ
trương chính sách của Đảng nhà nước và các ngành về việc chỉ đạo, phát
triển sản xuất và lưu thông trong và ngoài nước.
+ Chính sách kinh tế tài chính do nhà nước quy định trong
từng thời kỳ như: chính sách cấp vốn huặc cho vay vốn, các chính sách
thuế của nhà nước, chính sách về kinh tế đối ngoại, chính sách về ngoại
giao….
+ Tình hình thay đổi về thu nhập thị hiếu trong và ngoài
nước.
+ Biến động về cung cầu giá cả trên thị trường trong và ngoài
nước.

* Nguồn tài liệu bên trong là các tài liệu liên quan đến việc phản
ánh quá trình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp
+ Tài liệu thông tin từ các kế hoạch sản xuất kinh doanh đã đặt ra
bao gồm: kế hoạch tài chính, kế hoạch xuất khẩu hàng hoá, kế hoạch về
sử dụng vốn…
+ Số liệu trên các báo cáo tài chính do phòng kế toán lập hàng kỳ:
báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, bảng cân đối tài
khoản, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính.
+ Số liệu do các phòng kinh doanh cung cấp hàng tháng: báo cáo
xuất khẩu theo tháng, theo quý.
+ Tài liệu hạch toán: các sổ sách kế toán, hạch toán tổng hợp, chi
tiết, các chứng từ hoá đơn.
Thông tin trong phân tích hoạt động kinh tế rất phong phú và đa
dạng, trước khi tiến hành phân tích cần phải kiểm tra lại thông tin, số
liệu tài liệu đã thu thập để đảm bảo tính đúng đắn về mặt nội dung kinh
tế, thời điểm địa điểm phát sinh, phương pháp ghi chép, tính toán để
tránh những sai sót vì sự sai sót về số liệu dùng trong phân tích sẽ ảnh
hưởng đến kết quả phân tích.
Tuỳ thuộc vào nội dung và yêu cầu phân tích mà nhà phân tích sẽ
lựa chọn thông tin cho thích hợp.
2. Phương pháp phân tích
Xuất phát từ nội dung, đối tượng và nhiệm vụ phân tích của doanh
nghiệp, phân tích kinh tế vừa phải sử dụng các phương pháp nghiên cứu
của các môn khoa học khác như thống kê, kế toán, tài chính, quản lý
kinh tế… vừa có những phương pháp nghiên cứu riêng của mình, mỗi
phương pháp đều có những ưu nhược điểm và điều kiện vận dụng nhất
định, mang tính nghiệp vụ – kỹ thuật cụ thể, phải tuỳ thuộc vào loại hình
doanh nghiệp, bản chất của các hiện tượng kinh tế, kết quả kinh tế, đối
tượng cụ thể, các nguồn tài liệu, số liệu và vào mục đích phân tích… để
lựa chọn phương pháp thích hợp. Sau đây là một số phương pháp thường

được sử dụng:
2.1/ Phương pháp so sánh
So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến để đánh giá kết
quả, xác định vị trí và xu hướng biến động của các chỉ tiêu phân tích. Để
áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện có thể so
sánh được của các chỉ tiêu:
+ Thống nhất về nội dung, phương pháp xác định, thời gian và đơn vị
tính của chỉ tiêu so sánh.
+ Tuỳ theo mục đích phân tích để xác định gốc so sánh. Gốc so sánh có
thể chọn gốc thời gian (kỳ kế hoạch, kỳ trước, cùng kỳ năm trước…)
huặc gốc không gian (so với tổng thể, so với đơn vị khác có điều kiện
tương đương, so với các bộ phận trong cùng tổng thể…) kỳ được chọn
làm gốc so sánh gọi là kỳ gốc, còn kỳ được chọn để phân tích là kỳ phân
tích. Các trị số của chỉ tiêu tính ra ở từng thời kỳ tương ứng là trị số chỉ
tiêu kỳ gốc, kỳ phân tích.
Có nhiều dạng so sánh, phải căn cứ vào mục đích và yêu cầu của
việc phân tích để lựa chọn dạng so sánh. Mỗi dạng so sánh đều có ý
nghĩa kinh tế riêng của nó, giúp cho doanh nghiệp biết được sự vận động
của các hoạt động kinh tế trên mọi góc độ khác, từ đó có những phương
pháp khai thác tiềm năng của bản thân doanh nghiệp và tiềm năng của
xã hội mà doanh nghiệp có thể khai thác được. Qua so sánh ta biết được
kết quả của việc thực hiện các nhiệm vụ đã đặt ra, biết được tốc độ phát
triển của các hiện tượng kinh tế đồng thời biết được mức độ cụ thể của
từng bộ phận cấu thành hệ thống chỉ tiêu cần phân tích.
Phương pháp so sánh được sử dụng trong phân tích hoạt động kinh
tế bao gồm nhiều nội dung khác nhau:
♦ So sánh giữa số thực hiện của kỳ báo cáo với số kế hoạch huặc
số định mức để thấy được mức độ hoàn thành bằng tỷ lệ phần trăm (%)
hay số chênh lệch tăng giảm.
♦ So sánh giữa số liệu thực hiện kỳ báo cáo với số liệu cùng kỳ

năm trước huặc các năm trước. Mục đích của việc so sánh này là để thấy
được sự biến động tăng giảm của các chỉ tiêu kinh tế qua những thời kỳ
khác nhau và xu thế phát triển của chúng trong tương lai.
♦ So sánh giữa số liệu thực hiện của một đơn vị này với một đơn
vị khác để thấy được sự khác nhau và mức độ,khả năng phấn đấu của
đơn vị. Thông thường thì người ta thường so sánh với những đơn vị bình
quân tiên tiến trở lên.
Ngoài ra, trong phân tích hoạt động kinh tế người ta thường phải
so sánh giữa doanh thu với chi phí đế xác định kết quả kinh doanh huặc
so sánh giữa chỉ tiêu cá biệt với các chỉ tiêu chung để xác định tỷ trọng
của nó trong chỉ tiêu chung…
Để phục vụ cho mục đích cụ thể của phân tích người ta thường tiến
hành so sánh bằng các phương pháp sau:
* So sánh giản đơn
So sánh giản đơn là phương pháp so sánh trực tiếp trị số của chỉ
tiêu phân tích giữa hai kỳ (kỳ phân tích và kỳ gốc)
Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch (%) =
Mức chênh lệch = Chỉ tiêu thực hiện – Chỉ tiêu kế hoạch.
Việc so sánh như trên sẽ cho biết khối lượng, quy mô mà doanh
nghiệp đạt ở mức độ nào, với tỷ lệ đạt bao nhiêu.
* So sánh có liên hệ:
So sánh có liên hệ là phương pháp so sánh để xem xét sự biến
động của chỉ tiêu phân tích nhưng có liên hệ với tình hình thực hiện của
một chỉ tiêu khác có liên quan.
Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch =
(liên hệ với …)
Phương pháp so sánh còn được dùng để phản ánh nhịp độ biến
động hay tốc độ tăng trưởng của chỉ tiêu cần phân tích (thường là 5
năm).
Tốc độ phát triển liên hoàn:

100
1
×=
−i
i
i
M
M
T
Tốc độ phát triển định gốc:
100
0
×=
M
M
T
i
oi
Tốc độ phát triển bình quân:
1−
=
n
i
tichcacTT
Trong đó:
i
T
: tỷ lệ phát triển liên hoàn
T
: tỷ lệ phát triển bình quân

i
T
0
: tỷ lệ phát triển định gốc
i
M
: doanh thu bán hàng kỳ i
1−i
M
: doanh thu bán hàng kỳ i -1
0
M
: doanh thu bán hàng kỳ gốc
Chỉ tiêu thực hiện
Chỉ tiêu kế hoạch
×
100
Chỉ tiêu thực hiện
Chỉ tiêu kế hoạch
×
Chỉ tiêu liên hệ kế hoạch
Chỉ tiêu liên hệ thực hiện
×
100
Phương pháp so sánh giản đơn được sử dụng để phân tích tình hình
xuất khẩu theo thị trường, theo các đơn vị trực thuộc, theo các phòng
kinh doanh và theo tháng. Thông qua việc so sánh này ta biết được các
phòng kinh doanh xuất nhập khẩu có hoàn thành nhiệm vụ xuất khẩu
của mình hay không cả về số tương đối và số tuyệt đối, phương pháp so
sánh còn được sử dụng để theo dõi tình hình xuất khẩu qua các năm

(thường là 5 năm trở lên) để thấy được xu hướng của xuất khẩu qua các
năm là tăng hay giảm.
Như vậy phương phương pháp so sánh được sử dụng hầu hết trong
các nội dung phân tích tình hình xuất khẩu. Ngoài phương pháp so sánh
còn có một số phương pháp cũng được sử dụng trong phân tích tình hình
và hiệu quả xuất khẩu, sau đây là các phương pháp đó.
2.2/ Phương pháp biểu mẫu sơ đồ
Trong phân tích kinh tế người ta phải dùng biểu mẫu, sơ đồ phân
tích để phản ánh một cách trực quan qua các số liệu phân tích. Biểu phân
tích nhìn chung được thiết lập theo các dòng cột để ghi chép các chỉ tiêu
và số liệu phân tích. Các dạng biểu phân tích thường phản ánh mối quan
hệ so sánh giữa các chỉ tiêu kinh tế có liên hệ với nhau: so sánh giữa số
thực hiện với số kế hoạch, so với số cùng kỳ năm trước huặc so sánh
giữa chỉ tiêu cá biệt với chỉ tiêu tổng thể. Số lượng các dòng cột tuỳ
thuộc vào mục đích yêu cầu và nội dung phân tích. Tuỳ theo nội dung
phân tích mà biểu phân tích có tên gọi khác nhau, đơn vị tính khác nhau.
Còn sơ đồ, biểu đồ đồ thị được sử dụng trong phân tích để phản
ánh sự biến động tăng giảm của các chỉ tiêu kinh tế trong những khoảng
thời gian khác nhau huặc các mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau mang tính
chất hàm số giữa các chỉ tiêu kinh tế. Khi tiến hành phân tích tình hình
hay hiệu quả xuất khẩu thì ta đều phải lập bảng biểu để ghi các số liệu
vào các dòng cột đã chọn thực chất chính là ta đang áp dụng phương
pháp biểu mẫu sơ đồ, tuy nhiên phương pháp này không được sử dụng
một mình nó nó còn kết hợp với các phương pháp khác như phương
pháp so sánh, phương pháp số chênh lệch, tỷ trọng, tỷ suất. Ngoài ra,
trong phân tích hoạt động kinh tế người ta còn sử dụng các phương trình
quy hoạch tuyến tính huặc phương trình phi tuyến trong trường hợp các
chỉ tiêu phân tích kinh tế có liên hệ với các chỉ tiêu khác bằng các
phương trình trên. Các kết quả thu được khi sử dụng các hàm hồi quy
thông qua ngoại suy chủ yếu phục vụ cho phân tích dự đoán để lập các

chỉ tiêu cho các kế hoạch ngắn và dài hạn. Nhưng khi sử dụng các kết
quả đó cần phải lưu ý rằng chúng được tính toán dựa trên các hiện tượng
và kết quả kinh tế đã xảy ra trong quá khứ và lại được sử dụng cho hiện
tại và tương lai gần, trong đó chúng còn chịu sự tác động của nhiều yếu
tố khác. Do đó, cần phải tính đến sự tác động của các nhân tố đó để tiến
hành điều chỉnh các chỉ tiêu đã được lập ra sao cho phù hợp với tình
hình biến động của thực tế, đảm bảo tính hiện thực, tính khoa học của
các chỉ tiêu, giúp cho công tác quản lý đạt được hiệu quả cao nhất. trọng,
tỷ suất.
Phương pháp này được dùng để phân tích tình hình xuất khẩu theo
các nội dung như đã nêu ở phương pháp so sánh. Đây cũng là một
phương pháp được sử dụng phổ biến giống như phương pháp so sánh.
2.3/ Phương pháp cân đối
Trong hệ thống các chỉ tiêu kinh tế – tài chính của doanh nghiệp có
nhiều chỉ tiêu có liên hệ với nhau bằng những mối liên hệ mang tính
chất cân đối. Các quan hệ cân đối trong doanh nghiệp có hai loại: cân
đối tổng thể và cân đối cá biệt
Cân đối tổng thể là mối quan hệ cân đối của các chỉ tiêu kinh tế tổng
hợp.
Ví dụ: giữa tài sản và nguồn vốn kinh doanh liên hệ với nhau bằng công
thức:
∑ Tài sản = ∑ Nguồn vốn
Huặc giữa các chỉ tiêu của lưu chuyển hàng hoá có mối quan hệ cân đối
được phản ánh qua công thức:
Hàng
tồn đầu
kỳ
+
Hàng
nhập

trong kỳ
=
Hàng
bán
trong kỳ
+
Hao
hụt
+
Hàng
tồn
cuối kỳ
Cân đối cá biệt là quan hệ cân đối của các chỉ tiêu kinh tế cá biệt
v.v…
Từ những mối liên hệ mang tính cân đối nếu có sự thay đổi một chỉ
tiêu nào đó sẽ dẫn sự thay đổi một chỉ tiêu khác từ đó xác định được ảnh
hưởng của từng nhân tố đến đối tượng phân tích.
Do vậy khi phân tích một chỉ tiêu kinh tế có liên hệ với các chỉ tiêu
kinh tế khác bằng mối liên hệ cân đối ta phải lập công thức cân đối, thu
thập số liệu, áp dụng phương pháp số chênh lệch để xác định mức độ
ảnh hưởng của các chỉ tiêu đến chỉ tiêu phân tích.
Ví dụ: Khi tính toán phân tích trị giá vốn của hàng xuất bán trong kỳ ta
có công thức sau:
Trị giá = Trị giá hàng + Trị giá hàng - Hao hụt - Trị giá
Nợ phải thu
khách hàng
đầu kỳ
+
Nợ phải thu
khách hàng

trongkỳ
=
Nợ phải thu
khách hàng đã
thu trong kỳ
+
Nợ phải thu
khách hàng
cuối kỳ
vốn hàng
xuất bán
tồn kho đầu
kỳ
mua vào
trong kỳ
trong
kỳ
hàng tồn
cuối kỳ
Huặc
Nợ phải
thu khách
hàng cuối
kỳ
=
Nợ phải thu
khách hàng
đầu kỳ
+
Nợ phải thu

khách hàng
trong kỳ
-
Nợ phải thu
khách hàng đã
thu trong kỳ
2.4/ Phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch
Quá trình sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp luôn chịu sự
tác động ảnh hưởng của các nhân tố trong đó có những nhân tố mang
tính chất khách quan và có những nhân tố mang tính chất chủ quan. Về
mức độ ảnh hưởng có nhân tố ảnh hưởng tăng, nhưng có những nhân tố
ảnh hưởng giảm kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Do vậy, để phân tích các nhân tố ảnh hưởng qua đó thấy được
mức độ và tính chất ảnh hưởng của các nhân tố đến đối tượng nghiên
cứu ta phải áp dụng những phương pháp tính toán khác nhau trong đó có
phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch.
Phương pháp thay thế liên hoàn được sử dụng trong trường hợp
giữa đối tượng phân tích với các nhân tố ảnh hưởng có mối liên hệ phụ
thuộc chặt chẽ được thể hiện bằng những công thức toán học mang tính
chất hàm số trong đó có sự thay đổi của các nhân tố thì kéo theo sự biến
đổi của chỉ tiêu phân tích. Ví dụ: khi phân tích doanh thu bán hàng ta
thấy có hai nhân tố ảnh hưởng cơ bản là số lượng hàng bán và đơn giá
bán. Hai nhân tố đó có liên hệ với doanh thu bán hàng bằng công thức
sau:
Doanh thu bán hàng = Số lượng hàng bán × Đơn giá bán
Phương pháp thay thế liên hoàn cho phép thu nhận một dãy số
những giá trị điều chỉnh bằng cách thay thế liên hoàn các giá trị ở kỳ gốc
của các nhân tố bằng giá trị của các kỳ báo cáo. Số lượng nhân tố càng
nhiều thì số điều chỉnh càng nhiều. Mỗi lần thay thế là một lần tính toán
riêng biệt. Kết quả tính toán được khi thay thế trừ đi giá trị của kỳ gốc

huặc giá trị thay thế lần trước thể hiện mức độ ảnh hưởng nhân tố đó đến
đối tượng phân tích.
Nếu số chênh lệch mang dấu (+) thì ảnh hưởng tăng và ngược lại.
Khi thay thế một nhân tố thì phải giả định nhân tố khác không thay đổi.
Các nhân tố thay đổi phải được sắp xếp trong công thức tính toán theo
một trình tự hợp lý. Khi thay đổi trình tự thay thế có thể cho ta những
kết quả khác nhau, nhưng tổng của chúng không thay đổi.
Dạng tổng quát của phương pháp thay thế liên hoàn có thể được
minh hoạ như sau:
Giả sử một chỉ tiêu phân tích có hai nhân tố ảnh hưởng được thể
hiện bằng biểu thức:
Z = f(x,y) = x.y
Trong đó: Z là chỉ tiêu tổng hợp cần phân tích
F là hàm số
x;y là những biến số biểu thị sự biến đổi của hai nhân
tố ảnh hưởng.
Ta có:
( )
00000
., yxyxfZ ==
là giá trị gốc
11111
.),( yxyxfZ
==
là giá trị kỳ thực tế
( )
0101
),( yxyxfxZ
==
là giá trị điều chỉnh của nhân tố x

1111
.),( yxyxfZ
y
==
là giá trị điều chỉnh của nhân tố y
Số chênh lệch tuyệt đối của chỉ tiêu phân tích được xác định bằng
công thức:
0011
yxyxZ
−=∆
Số chênh lệch do tác động của nhân tố x
( )
0001
yxyxZ
x
−=∆
Số chênh lệch do tác động của nhân tố y
( )
0111
yxyxZ
y
−=∆
Tổng hợp lại ta có:
( ) ( )
yx
ZZZ
∆+∆=∆
Trong thực tế phân tích, phương pháp thay thế liên hoàn còn được
thực hiện bằng phương pháp số chênh lệch. Phương pháp số chênh lệch
sử dụng ngay số chênh lệch của các nhân tố ảnh hưởng để thay thế vào

các biểu thức tính toán mức độ ảnh hưởng của nhân tố đó đến chỉ tiêu
phân tích.
So với phương pháp thay thế liên hoàn, phương pháp số chênh lệch
đơn giản hơn trong cách tính toán, cho ngay kết quả cuối cùng. Tuy
nhiên phương pháp này chỉ được áp dụng trong trường hợp đối tượng
phân tích liên hệ với các nhân tố ảnh hưởng bằng công thức tính giản
đơn, chỉ có phép nhân, không có phép chia.
Phương pháp chênh lệch được minh hoạ tổng quát như sau:
01
xxx −=∆
là số chênh lệch của nhân tố x
01
yyy
−=∆
là số chênh lệch của nhân tố y

0
.)( yxxZ ∆=∆
là số chênh lệch do tác động
của nhân tố x
yxyZ
∆=∆
.)(
1
là số chênh lệch do tác động
của nhân tố y
phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch không
được dùng trong phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu ở Công ty
xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội nhưng phương pháp này vẫn được đưa
ra nhằm giúp cho công ty có thể dùng phương pháp này để xác định

mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến kim ngạch xuất khẩu. Để xác
định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố tới kim ngạch xuất khẩu có thể
dùng công thức sau:
Kim
ngạch xuất
khẩu
(USD)
=
Số
lượng
hàng
xuất
khẩu
×
Đơn giá
xuất
khẩu
×
Tỷ giá
ngoại
tệ
Sử dụng công thức trên cùng phương pháp thay thế liên hoàn huặc
phương pháp số chênh lệch ta sẽ xác định được mức độ ảnh hưởng của
từng nhân tố trên đến kim ngạch xuất khẩu.
2.5 Phương pháp chỉ số
Phương pháp chỉ số được áp dụng để tính toán phân tích sự biến
động tăng giảm và mối liên hệ tác động phụ thuộc lẫn nhau của các chỉ
tiêu kinh tế có một huặc nhiều yếu tố khác. Chỉ tiêu chỉ số được xác định
bằng mối liên hệ so sánh của một chỉ tiêu kinh tế ở những thời điểm
khác nhau, thường là so sánh kỳ báo cáo và kỳ gốc. Các chỉ số áp dụng

trong phân tích kinh tế có hai loại: chỉ số chung và chỉ số cá thể.
Chỉ số chung là chỉ số phản ánh sự biến động tăng giảm của một
chỉ tiêu kinh tế tổng hợp có nhiều yếu tố hợp thành. Ví dụ: Chỉ số tăng
giảm của chỉ tiêu doanh thu bán hàng trong kỳ.
Chỉ số cá thể là chỉ số phản ánh sự biến động tăng giảm của một
chỉ tiêu kinh tế riêng biệt. Ví dụ: Chỉ số giá cả hàng hoá bán ra trong kỳ;
chỉ số tăng giảm lao động huặc mức thu nhập của người lao động trong
kỳ…
Phân tích kinh tế bằng phương pháp chỉ số cho phép ta thấy được
mức biến động tăng giảm và mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các
yếu tố hợp thành của một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp tại những thời điểm
khác nhau.
Ví dụ:
pqM
III
×=
Trong đó:
M
I
chỉ số doanh thu bán hàng trong kỳ
q
I
chỉ số số lượng hàng bán
p
I
chỉ số giả cả hàng bán
áp dụng công thức trên, kết hợp với phương pháp thay thế liên
hoàn có thể xác định được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố (số tuyệt
đối) đến Doanh thu bán hàng, doanh thu xuất khẩu.
+ Tỷ trọng: là chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ % của một chỉ tiêu cá thể so với chỉ

tiêu tổng thể.
Tỷ trọng được sử dụng trong phân tích tình hình xuất khẩu hàng
hoá theo thị trường, dựa vào công thức này ta sẽ tính được từng thị
trường có kim ngạch xuất khẩu chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng số.
+ Tỷ suất: là một chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ so sánh giữa một
chỉ tiêu này với một chỉ tiêu khác có liên hệ chặt chẽ và tác động lẫn
nhau: tỷ suất chi phí, tỷ suất lợi nhuận, tỷ suất tự tài trợ, tỷ suất đầu tư.
Nó được sử dụng trong phân tích hiệu quả kinh doanh xuất khẩu. Dựa
vào tỷ suất như tỷ suất lợi nhuận ta sẽ biết được lợi nhuận doanh nghiệp
thu được thực tế so với doanh thu là bao nhiêu, hay tỷ suất chi phí phản
ánh tình hình sử dụng chi phí thực tế thể hiện việc tiết kiệm hay lãng phí
chi phí.
Tỷ suất LNXK trên doanh thu =
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn =
Số tổng
thể
=
Tỷ trọng
(%)
Số cá biệt
×
100
LN XK trước thuế
(sau
thuế)
Doanh thu
thuần
×
100
LN XK trước thuế

(sau thuế)
Tổng vốn kinh doanh
bình quân
100
×

×