HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
BÀI THU HOẠCH
MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
KIÊN ĐỊNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ SÁNG TẠO CON ĐƯỜNG
ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Học viên:
Mã số học viên:
Lớp:
Hà Nội, tháng 11-2019
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Sau những biến động chính trị ở Đông Âu và Liên Xô cuối thập niên 80
đầu thập niên 90 thế kỷ XX, một chiến dịch công kích, phê phán, xun tạc,
bơi nhọ chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác-Lênin dấy lên từ nhiều phía. Kẻ
thù chủ nghĩa Mác từng vu cáo, xuyên tạc, bác bỏ học thuyết cách mạng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động giờ đây như có được “cơ hội bằng
vàng”, càng ra sức xun tạc, bác bỏ, hịng chơn vùi nó vĩnh viễn, chủ nghĩa
xã hội lâm vào thối trào, chủ nghĩa Mác-Lênin bị đặt trước thử thách khắc
nghiệt của lịch sử.
Trong điều kiện mới hiện nay, việc tiếp tục phát triển lý luận về chủ
nghĩa xã hội là một địi hỏi tất yếu, cấp bách. Tình hình trong nước và quốc tế
đã có nhiều biến đổi và địi hỏi lý luận phải tiếp tục hoàn thiện, phát triển, bổ
sung. Đi lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề cốt lõi trong tư tưởng và thực tiễn của
Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, không phải ai cũng nhận thức rõ điều này,
thậm chí cịn có những quan điểm phủ nhận hoặc xuyên tạc về con đường
phát triển của đất nước. Do vậy, việc làm sáng tỏ và nhận thức một cách đúng
đắn hơn chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
và sự vận dụng vào Việt Nam khơng chỉ có ý nghĩa lý luận sâu sắc, mà cịn có
ý nghĩa thực tiễn hết sức to lớn.
2. Đối tượng và mục tiêu
- Đối tượng: Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội và sự vận dụng vào Việt Nam
- Mục tiêu: Nghiên cứu làm rõ giá trị lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
NỘI DUNG
1. Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội
Ở Việt Nam, từ những năm 20 của thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác-Lênin thâm
nhập vào thông qua lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và một số chiến sĩ cách mạng
tiền bối thời bấy giờ và ngày càng được truyền bá rộng rãi. Chủ nghĩa MácLênin đã đem lại cho chúng ta nền tảng tư tưởng vững chắc, những điểm tựa
lý luận, phương pháp luận khoa học sâu sắc, giúp chúng ta nâng cao tầm tư
tưởng, tầm trí tuệ, tư duy độc lập, sáng tạo, tìm ra con đường và giải pháp
đúng để xử lý các vấn đề quan trọng trong cách mạng giải phóng dân tộc. Hồ
Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh lịch sử
đặc thù của Việt Nam. Người đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội
nhờ có sự giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, nắm bắt được tinh thần và xu thế
phát triển của thời đại, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định rằng, chỉ có chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập dân
tộc, mới xóa bỏ vĩnh viễn ách áp bức, bóc lột và nơ dịch, mới giải quyết tận
gốc vấn đề giải phóng xã hội, giải phóng con người. Có thể khẳng định rằng,
tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ đơn thuần là kết quả của sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể để giải quyết các nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam, mà còn là một bước phát triển mới của chủ nghĩa MácLênin thích ứng với những vấn đề do thực tiễn đất nước và lịch sử thời đại
mới đặt ra. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là
một hệ thống quan điểm tồn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là
tài sản tinh thần vơ cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi
đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ra giành thắng lợi”1.
Như chúng ta đã biết, chủ nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống lý luận khoa
học và cách mạng, được tổng kết, đúc rút từ sự phân tích tồn bộ lịch sử nhân
loại và thực tiễn xã hội thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản, kế thừa một cách
có hệ thống những giá trị tư tưởng và thành tựu khoa học quan trọng nhất của
lồi người. Nó cung cấp cho chúng ta một thế giới quan khoa học và cách
mạng, những quy luật phổ biến về sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã
hội và tư duy con người. Đặc biệt, về mặt xã hội, chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ
ra quy luật vận động của lịch sử nhân loại và con đường tất yếu tới chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản - một hình thái phát triển cao của xã hội lồi
người, trong đó con người được tự do, hạnh phúc, có đủ các điều kiện để phát
triển và hoàn thiện một cách toàn diện.
Cùng với sự vận động nhanh chóng của thực tiễn thế kỷ XX, chủ nghĩa
Mác-Lênin cũng có những trải nghiệm thực tế và sự phát triển phong phú,
sinh động. Đó là sự không ngừng đổi mới về nhận thức thế giới trên cơ sở
phương pháp luận duy vật biện chứng và những thành tựu khoa học mới để
nâng cao năng lực tư duy, năng lực cải tạo thế giới của con người; là sự phát
triển nhận thức về thời đại và con đường, phương pháp, mục tiêu cách mạng
thích ứng với những đặc điểm, điều kiện của thời đại; đó là q trình khơng
ngừng tổng kết những bài học kinh nghiệm trong thực tiễn để đổi mới về mơ
hình phát triển xã hội, về chiến lược phát triển và duy trì các quan hệ quốc tế
tích cực, có lợi cho mục tiêu phát triển của chủ nghĩa xã hội; là sự phát triển
và vận dụng những nguyên lý chung của chủ nghĩa Mác-Lênin để giải quyết
những nhiệm vụ cách mạng trong những điều kiện lịch sử, thực tiễn vô cùng
phong phú của các quốc gia, dân tộc trên khắp thế giới, v.v.. Đúng như C.Mác
và Ph.Ăngghen đã từng nói: Học thuyết của các ông không phải là học thuyết
nhất thành bất biến mà là học thuyết về sự phát triển, học thuyết của sự phát
triển. Do đó, chủ nghĩa Mác-Lênin chưa bao giờ lỗi thời mà là một học thuyết
khoa học có sức sống mãnh liệt.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia,
H.2011, tr.88.
Lý luận của Mác đã chỉ ra rằng, sự phát triển của xã hội lồi người là
một q trình lịch sử tự nhiên. Chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay thế bằng
một phương thức sản xuất mới cao hơn, tiến bộ hơn, đó là phương thức sản
xuất cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
C.Mác cho rằng: “Khơng một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất
cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho
phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng
không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những
quan hệ đó chưa chín muồi trong lịng bản thân xã hội cũ” 1. Những luận điểm
của Ph.Ăngghen về thời kỳ quá độ, về khả năng có thể thực hiện phương thức
phát triển “rút ngắn” ở các nước lạc hậu, chậm phát triển và về những đặc
trưng cơ bản nhất của xã hội tương lai là cống hiến lớn lao của ơng trong việc
phát triển, hồn thiện học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học, thực sự có giá
trị thời sự trong giai đoạn hiện nay. Thực chất của sự phát triển “rút ngắn” ở
Việt Nam gồm có hai nội dung: Vừa rút ngắn q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội. Phương thức để rút ngắn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội từ một nền kinh tế tiểu nông đã được V.I.Lênin chỉ ra, là phải
thông qua con đường phát triển tư bản nhà nước, phải bắc những nhịp cầu nho
nhỏ đi xuyên qua con đường tư bản nhà nước để đến với chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế tư bản nhà nước vừa là một thành phần kinh tế trong kết cấu kinh tế
đa thành phần, vừa là con đường rút ngắn, “phi tư bản” đối với các nước có
xuất phát điểm thấp, đây là phương pháp để phát triển lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã phân tích một cách khoa học những tiền đề
những điều kiện khách quan cho sự ra đời một xã hội mới xã hội chủ nghĩa,
đó là một quá trình lịch sử tự nhiên. Nhận thức được tư tưởng đó, từ khi mới
ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam ngay trong cương lĩnh của mình đã khẳng
định rõ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuân theo lý luận chủ
nghĩa Mác chính là tuân theo quan điểm thực tiễn, lý luận ra đời từ thực tiễn,
lấy thực tiễn để kiểm nghiệm lý luận.
1
C.Mác và Ph.Ănghen: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.1993, t.13, tr.15-16.
Vào thời điểm lịch sử ấy, Nguyễn Ái Quốc bôn ba khắp thế giới để quan
sát và tìm đường cứu nước, qua thực tiễn thống trị tàn bạo phổ biến của chủ
nghĩa đế quốc và dưới ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga, đã nhận thức
đúng thời đại mới là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới, từ đó Người chủ trương đưa cách mạng Việt Nam
vào đúng giữa dịng thời đại. Cùng với luận điểm “Khơng có gì quý hơn độc
lập, tự do”, luận điểm: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc khơng có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản” 1 là luận điểm gốc của tư tưởng
Hồ Chí Minh; nếu ai quên đi thì căn bản khơng thể hiểu đúng tư tưởng Hồ
Chí Minh, không thể hiểu được nguyên lý cơ bản nhất của cách mạng Việt
Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nguyên lý ấy là nền
tảng Cương lĩnh chính trị, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong
suốt những năm qua.
Chủ nghĩa Mác-Lênin chính là cơ sở lý luận để Nguyễn Ái Quốc quyết
định lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đứng vững
trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin, dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã tìm ra con đường phát triển
mang tính đặc thù - đó là con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến. Cách thức
phát triển này cho phép giải quyết một cách triệt để mâu thuẫn dân tộc và
mâu thuẫn giai cấp của xã hội Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Như vậy, con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phản ánh sự lựa chọn
khách quan của chính thực tiễn - lịch sử dân tộc mang đậm tính đặc thù của
Việt Nam đã được khẳng định.
Với mục tiêu đã xác định, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, kết hợp với sự ủng hộ giúp đỡ cả về vật chất và tinh
thần của các nước xã hội chủ nghĩa, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác, giành độc lập, tự do cho dân tộc, đưa đất nước thống nhất
và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1975 đến năm 1985,
1
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.2, tr.603.
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt được những thành tựu nhất định. Song
cũng trong thời gian này, những sai lầm trong chỉ đạo chiến lược và tổ chức
thực hiện do thiếu kinh nghiệm và do chủ quan duy ý chí, nóng vội đã khiến
cho đất nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội. Đại hội lần
thứ VI (1986) của Đảng đã tự phê bình nghiêm túc, rút ra những bài học sâu
sắc, từ đó đề ra đường lối đổi mới đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên.
Việt Nam tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một yếu tố
khách quan có cơ sở lý luận khoa học và cách mạng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh soi đường, cùng với những nhận thức lý luận mới của Đảng
Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ngày càng được làm sáng tỏ, nhất là từ sự nghiệp đổi mới đất nước đến nay. Với
sự hoàn thiện không ngừng trong thực tiễn, tư duy lý luận của Đảng ta được
nâng cao, nhận thức ngày càng đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc hơn về chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự vận dụng và phát triển lý luận chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nguồn cảm hứng to lớn, nguyên
nhân cơ bản của thắng lợi vĩ đại trong hai cuộc kháng chiến, cũng như những
thành tựu to lớn trong sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ là cơ sở lý
luận, phương pháp luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, là cơ sở và nền tảng
cho chủ thuyết phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng.
2. Sự vận dụng sáng tạo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng
sáng tạo, bổ sung, phát triển liên tục trong hơn 30 năm đổi mới cùng những căn
cứ thực tiễn của thế giới và Việt Nam là cơ sở lý luận và thực tiễn khoa học để
Đại hội lần thứ XII (2016) của Đảng tiếp tục khẳng định: “con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát
triển của lịch sử”1.
Cơ sở thực tiễn của việc tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam chính là từ những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đã đạt
được qua hơn 30 năm đổi mới. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam có nhiều nét đặc thù so với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của các
nước trên thế giới. Những nét đặc thù được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta không được thực
hiện đồng thời cùng một thời điểm ở cả hai miền của đất nước.
Thứ hai, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước tiếp tục
bị gián đoạn do chiến tranh tàn phá (biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc).
Đặc điểm này khiến cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
phải tất yếu thực hiện đồng thời các nhiệm vụ: vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội,
vừa bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; vừa cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền
Nam, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã nhận thức rõ mối quan hệ giữa cải tạo và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, cải tạo để mở đường, để chuẩn bị những tiền
đề, điều kiện cần thiết cho xây dựng; xây dựng là tiếp tục hoàn thiện nhiệm vụ
cải tạo và tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Nhìn
một cách tổng thể, đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta
vạch ra thời kỳ trước đổi mới là đúng đắn và phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh
thực tiễn của đất nước.
Thứ ba, nhận thức lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nhận thức luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lần đầu tiên được
Đảng ta nêu ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (2-1951) với quan niệm
về ba giai đoạn, trong đó, giai đoạn thứ ba của cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân được coi là thời kỳ quá độ với nhiệm vụ xây dựng, củng cố và hoàn thiện chế
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb.Chính trị quốc gia,
H.2016, tr.66.
độ dân chủ nhân dân.
Trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ quá độ,
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, đặc điểm lớn nhất của Việt Nam là quá độ từ một nước
nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa, do vậy nhiệm vụ quan trọng là phải xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế nhiều thành phần, có cơng nghiệp và
nơng nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Người cũng chỉ rõ tính
chất q độ là lâu dài, khó khăn trải qua nhiều bước.
Về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải
có tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, không giáo điều, rập khn, tìm tịi
cách đi cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960), nhiều vấn đề
lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tiếp tục được đặt ra nghiên cứu
và làm sáng tỏ như: lý luận phân kỳ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
những mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, đấu tranh giai cấp v.v..
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3-1982), tư duy lý luận của
Đảng ta về chủ nghĩa xã hội đã có nhận thức mới phù hợp hơn với thực tiễn của
Việt Nam, thể hiện ở sự điều chỉnh trong nhận thức về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và lần đầu tiên khái niệm chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội được sử dụng trong Văn kiện với mục tiêu tạo ra những
tiền đề cho q trình cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, thời kỳ
trước đổi mới, lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn chưa được
làm sáng tỏ.
Tiếp tục khẳng định và kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát
triển năm 2011) đã khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của
nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”1.
Thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước hơn 30 năm qua là bằng
chứng sống động bác bỏ những toan tính của các phần tử chống đối, thù địch
muốn Đảng và dân tộc ta rời bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chia rẽ sự
gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân trong quá trình thực hiện mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ trước đổi mới, thông qua đường lối, Cương lĩnh, chiến lược của
Đảng từ năm 1954 đến năm 1986 có thể khái quát chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
được phác thảo trên những lĩnh vực chủ yếu sau:
Về kinh tế: Đảng chủ trương “xây dựng một nền kinh tế quốc dân có cơng
nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học, kỹ thuật tiên tiến” làm cơ sở
vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Trong giai đoạn 19541957, Đảng cũng đưa ra quan điểm thừa nhận ở nước ta vẫn tồn tại nền kinh
tế nhiều thành phần và “Để phát huy mặt tích cực và hạn chế đến mức thấp
nhất mặt tiêu cực trong một nền kinh tế có nhiều thành phần, sự chỉ đạo và
quản lý của Nhà nước phải rất sắc bén, nắm vững kế hoạch hóa, đồng thời
khéo vận dụng các mối quan hệ hàng hóa, tiền tệ để thúc đẩy sản xuất phát
triển”1, đặc biệt là thừa nhận và bảo đảm trên thực tế quyền sở hữu ruộng đất
của nơng dân.
Về chính trị: Quan điểm đúng đắn xuyên suốt từ khi thành lập Đảng cho
đến thời kỳ này vẫn là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Việt Nam là
nước duy nhất thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược cùng một lúc: tiến
hành cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc. Đường lối chiến lược đúng đắn này đã thể hiện phương
châm chiến lược sáng tạo của Đảng về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa
xã hội trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Về văn hóa: Vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về văn hóa
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia,
H.2011, tr.70.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2004, t.36, tr.410411.
vơ sản - văn hóa xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương phải
xây dựng nền văn hóa mới - nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Về xã hội: Thực hiện cơng bằng, bình đẳng xã hội, chủ trương thực hiện nhất
quán hình thức phân phối theo lao động; quan tâm đến các gia đình chính sách.
Về con người: Thiết lập quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người, thể
hiện trong xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - đó là điều kiện,
tiền đề để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Về chính sách đối ngoại: Việt Nam chủ trương tranh thủ tối đa sự giúp đỡ
của các nước xã hội chủ nghĩa, của các lực lượng yêu chuộng hịa bình, dân
chủ và tiến bộ trên thế giới. Việt Nam luôn trung thành với tinh thần chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp với chủ nghĩa yêu nước chân chính của
dân tộc Việt Nam.
Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng, là thành quả lý
luận quan trọng trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực
tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.
Có thể thấy rằng, thời kỳ trước đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có một
số nhận thức đúng về chủ nghĩa xã hội, vận dụng những nét khái quát về đặc trưng
phổ biến của xã hội xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Thực tế cũng chứng minh rằng, kiên định và phát triển con đường xã hội chủ
nghĩa, “những thành tựu trong việc cụ thể hóa một con đường thích hợp quá
độ lên chủ nghĩa xã hội không chỉ là tài sản vô giá của những người cộng sản
Việt Nam mà còn là nguồn cảm hứng và tin tưởng đối với những người cộng
sản và cách mạng trên toàn thế giới”1.
Lập trường kiên định con đường xã hội chủ nghĩa của Đảng ta thể hiện
nhất quán ở sự khẳng định nước ta “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Sự bỏ
1
Alilốp: Việt
20-9-2000, tr.5.
Nam
là
biểu
tượng
của
thế
kỷ
XX,
báo
Nhân
Dân,
ngày
qua được chỉ ra cụ thể là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”. Bởi vì quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, trong đó tư liệu
sản xuất và của cải xã hội tập trung trong tay số ít người làm cho tình trạng áp
bức, bóc lột khơng ngừng “tái sinh” và nặng nề thêm sau mỗi chu kỳ sản xuất.
Khi xây dựng đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh sự cần thiết phải ra sức học tập để lĩnh hội
cho được thực chất quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội
rồi đem vận dụng sáng tạo quan điểm đó vào điều kiện cụ thể của nước ta;
Người nhấn mạnh sự cần thiết học tập kinh nghiệm của các nước anh em,
nhưng căn dặn: “Không phải học để thuộc lòng từng câu, từng chữ, đem kinh
nghiệm của các nước anh em áp dụng một cách máy móc” 1; ngay cả kinh
nghiệm của Liên Xơ cũng cần phân tích và tiếp thu có chọn lọc, bởi vì “ta
khơng thể giống Liên Xơ, vì Liên Xơ có phong tục tập qn khác, có lịch sử
địa lý khác”2.
Nét độc đáo nhưng mang tính thơng lệ của Đảng là mở đầu cơng cuộc đổi
mới bằng cuộc phê bình và tự phê bình tự giác theo tinh thần Mác-Lênin và
Hồ Chí Minh (có người gọi đó là cuộc “đại giải phẫu”) nhằm phanh phui mổ
xẻ những thiếu sót mắc phải trong giai đoạn trước đổi mới, đánh giá thành tựu
và sai lầm của giai đoạn đó bằng một tư duy biện chứng để từ đó rút ra những
bài học q. Cơng việc phê bình và tự phê bình đó thể hiện đúng sự địi hỏi
của V.I.Lênin: Đảng phải “công khai thừa nhận sai lầm, tìm ra ngun nhân
sai lầm, phân tích hồn cảnh đã đẻ ra sai lầm, nghiên cứu cẩn thận những biện
pháp để sửa chữa sai lầm ấy”3. Tại Đại hội mở đầu công cuộc đổi mới, Đảng
ta đã tiến hành phê bình, tự phê bình như thế. Đảng đã cơng khai chỉ ra những
sai lầm của mình, phân tích sâu sắc nguyên nhân của những sai lầm đó - chỉ ra
nguồn gốc của chúng là ảnh hưởng tư tưởng, tâm lý tiểu tư sản mà biểu hiện
thường là bệnh “tả” khuynh - và đặc biệt quan trọng là vạch ra giải pháp khắc
phục bằng thực hiện đổi mới toàn diện, sâu sắc.
Điểm nổi bật của mơ hình chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới ở nước
1
2
3
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.11, tr.95.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.10, tr.391.
V.I.Lênin: Tồn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1977, t.41, tr.51.
ta trước hết là tính “mở” của nó. Mơ hình ấy biểu hiện như một kết cấu tổng
thể ổn định tương đối, nó khơng phải là một mơ hình khép kín và cứng nhắc
“nhất thành bất biến” là nét nổi bật của mơ hình cũ mà rốt cuộc đã khơng
tránh khỏi rơi vào bảo thủ, trì trệ. Mơ hình chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới ở
nước ta chứa đựng khả năng mở rộng nội hàm tiếp tục bổ sung những nét mới
là kết quả của việc không ngừng nâng cao trình độ lý luận và tổng kết thực
tiễn phong phú, đa dạng. Mơ hình này khơng tuyệt đối hóa một chiều những
nguyên tắc chung (nguyên tắc phổ biến của chủ nghĩa xã hội), hạ thấp ý nghĩa
của những nét đặc thù quốc gia, dân tộc, ngược lại, nó là kết quả của sự kết
hợp hài hòa cái phổ biến và cái đặc thù, cái chung và cái riêng để tạo nên một
mơ hình có danh xưng riêng: Mơ hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Đồng thời,
mơ hình này cũng không độc tôn thái quá những nét bản chất của chủ nghĩa
xã hội theo lối biệt phái mà hậu quả là đem tách biệt giả tạo giữa quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội và quá trình tiến hóa chung của lồi người, đối lập
cực đoan giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Ngược lại, nó thể hiện xu
thế gắn kết hợp lý tiến trình phát triển của chủ nghĩa xã hội với sự vận động
khơng ngừng nghỉ của nhân loại đi lên phía trước, kế thừa những thành tựu
tiến bộ của chủ nghĩa tư bản để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và
nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng
đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như:
đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai
đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối
bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời
kỳ quá độ; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà
nước pháp quyền với nhà nước tư sản...
Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên
cứu, nhưng Đảng đã nhận thức rằng: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân
Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao,
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát
triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
các nước trên thế giới.
Để thực hiện được mục tiêu đó, cần phải: Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam càng nhận thức
được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó
khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông
nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp,
lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù
địch thường xun tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp,
nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và
cái mới. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất
cơng, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế,
thể chế chính trị khơng phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải
bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong
thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành
tựu này phải trên quan điểm phát triển, có chọn lọc.
Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến
tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây
là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự
giác, liên tục, hướng đích lâu dài. Vì vậy, bên cạnh việc bảo đảm vai trị lãnh
đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia
tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực
hiện đường lối của Đảng vì thấy nó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của
mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển.
KẾT LUẬN
Qua quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chúng ta nhận
thấy cần phải tiếp tục phát triển một cách sáng tạo và khoa học những nội
dung căn bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học mà các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác đã xây dựng; nhận thức đúng nội dung và đặc điểm của thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội với tư cách trình độ phát triển kinh tế xã hội cao hơn về chất; tôn trọng và không ngừng phát triển nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa; từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân theo tinh thần của chủ nghĩa nhân văn.
Sự khủng hoảng của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới chỉ là tạm thời,
loài người tất yếu và nhất định sẽ đi tới mục đích tốt đẹp trong tương lai - đó
là chủ nghĩa xã hội với đúng nghĩa của nó.