Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Bài thu hoạch môn CNXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.15 KB, 22 trang )

VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VÀO Q TRÌNH ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM.
A.MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nước ta đang trên con đường tiến lên cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, xây
dựng nền kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy việc nắm vững các
quan điểm thực tiễn, phát triển lí luận nhằm đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên giành thắng
lợi luôn là vấn đề cần thiết cần sự quan tâm của cả xã hội.
Trong xã hội , triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ
hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn, phương
pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn,
xây dựng và phát triển xã hội cho hoạt động. Chúng ta biết rằng, triết học là một trong
ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện
chứng đó chính là triết học của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là
mang tính ưu việt hơn cả. Trên cơ sở nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước
ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo
chính xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hồn cảnh đất nước.
Mặc dù có những khiếm khuyết khơng thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng
trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các
nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ
nghĩa xã hội và qua hai mươi năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên.
Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan
trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn đề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất
là trong quá trình đổi mới hiện nay.Vì vậy, em quyết định chọn nội dung “Vận dụng
mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn vào quá trình đổi mới ở Việt Nam ” làm đề tài
tiểu luận của mình.
2. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Qua việc vận dụng nghiên cứu mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn trong q
trình đổi mới nhằm giúp Đảng và Nhà nước ta có nhận thức, vận dụng đúng đắn những
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh vào q trình đổi mới trên
tất cả các lĩnh vực. Trên cơ sở đó rút ra kinh nghiệm tổng kết thực tiễn. Đổi mới trên cơ


sở vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò sáng tạo chủ động của
nhân dân xuất phát từ thực tiễn nhạy bén cái mới.
3.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Đây là một đề tài rộng được nhiều tác giả nghiên cứu. Tơi xin trình bày q trình
Đảng và Nhà Nước ta vận dụng mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn để đổi mới đất
nước trên tất cả các lĩnh vực .Từ đó tìm ra những mặt tiêu cực, hạn chế còn tồn tại để
trong quá trình đổi mới để đưa ra những giải pháp phù hợp.
4.Phương pháp nghiên cứu.
Tiểu luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương chính sách nghị quyết của Đảng


và Nhà nước ta. Cùng với phương pháp trên, tiểu luận còn sử dụng phương pháp
nghiên cứu tài liệu, phương pháp so sánh, thu thập tài liệu...
5. Kết cấu của đề tài.
Tiểu luận bao gồm: phần mở đầu; kết luận, danh mục ghi tài liệu tham khảo; phần
phụ lục và phần nội dung gồm có 3 chương:
Chương I: Cơ sở lí luận chung.
Chương II: Vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn để tìm hiểu quá trình
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay.
Chương III. Một số giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn mối quan hệ giữa lí luận và
thực tiễn trong việc phát triển kinh tế xã hội của nước ta.

B. NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lí luận.
`1. Thực tiễn.
1.1. Khái niệm.
- Định nghĩa:
Hoạt động của con người chia làm hai lĩnh vực cơ bản. Một trong hai lĩnh vực đó
là hoạt động thực tiễn.

Thực tiễn theo quan điểm triết học Mác xít: Là những hoạt động vật chất cảm tính,
có mục đích, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo, làm biến đổi tự nhiên
và xã hội.
- Kết cấu của thực tiễn:
Hoạt động sản xuất vật chất: Trong hoạt động vật chất, con người sử dụng các
phương tiện, công cụ, sức mạnh vật chất của mình để tác động vào tự nhiên, xã hội
nhằm cải tại, biến đổi chúng phù hợp với nhu cầu của mình. Đây là một quá trình tương
tác giữa chủ thể và khách thể. Trong đó, chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể. Cho
nên thực tiễn trở thành khâu trung gian nối liền ý thức con người với thế giới bên ngoài.


Chỉ có thực tiễn mói trực tiếp làm thay đổi thế giới hiện thực, mới thực sự mang
tính chất phê phán và cách mạng. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của thực tiễn, là cơ
sở để phân biệt hoạt động thực tiễn khác với hoạt động lý luận của con người.
Hoạt động chinh trị - xã hội: Là hoạt động của con người trong các lĩnh vực chính
trị - xã hội nhằm phát triển và hoàn thiện các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa
bàn rộng rãi cho hoạt động sản xuất và tạo ra những môi trường xã hội xứng đáng với
bản chất của con người bằng cách đấu tranh giai cấp và đấu tranh cách mạng.
Hoạt động thực nghiệm khoa học: Là hoạt động thực tiễn đặc biệt vì con người phải
tạo ra một thế giới riêng cho thực nghiệm của khoa học tự nhiên và cả khoa học xã hội.
1.2. Vai trò của thực tiễn.
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, là tiêu chuẩn của
nhận thức.
- Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt các sự
vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và quy luật của
chúng. Trong q trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn đề địi hỏi con
người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình thành. Như vậy, qua hoạt động thực
tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát triển thế giới quan( tạo điều kiện cho nhận thức
cao hơn).

Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn, các giác quan
ngày càng hoàn thiện hơn.
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.
Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các phương tiện
hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên.
- Thực tiễn là động lực của nhận thức
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi
bước phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức, thúc
đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị những phương tiện mới, đặt
ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà sốt sự nhận thức. Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều
lần, các tài liệu thu thập được phong phú, nhiều vẻ, con người mới phân biệt được đâu là
mối quan hệ ngẫu nhiên bề ngoài, đâu là mối liên hệ bản chất, những quy luật vận động
và phát triển của sự vật.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực
tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà là nhằm
cải tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần xã hội. Sự
hình thành và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực
tiễn.
Nhận thức chỉ trở về hồn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo hoạt động thực tiễn,
giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có thơng qua hoạt động thực tiễn, thì
tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu biết của con người
mới có ý nghĩa.


- Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó
phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
+ Chân lý

Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực tiễn khẳng định
( nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con người)
Chân lý mang tính khách quan, nó khơng phụ thuộc vào số đơng (ví dụ: chân lý tơn
giáo).
Chân lý mang tính hai mặt ( tuyệt đối và tương đối ) vì tính hai mặt trong q trình nhận
thức của nhân loại.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý không
phải là ý thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có thơng qua hoạt động thực
tiễn, tri thức mới trở lại tác động vào thế giới vật chất, qua đó nó được ”hiện thực hố”,
“vật chất hơn” thành các khách thể cảm tính. Từ đó mới có căn cứ để đánh giá nhận thức
của con người đúng hay sai, có đạt tới chân lý hay khơng.
Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người cũng được
kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau.
+Thực tiễn của xã hội ln ln vận động và phát triển.
+Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn. Nó khơng thể chứng minh hay
bác bỏ hồn tồn một tri thức nào đó của con người mà nó được thực tiễn tiếp theo
chứng minh, bổ sung thêm.
Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như vậy mới có khả
năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của nhận thức.
* ý nghĩa.
Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường
mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế độ xã hội mới: cơng bằng, bình
đẳng, tién bộ.
Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế cụ thể muốn biết
đúng hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong sản xuất, kinh doanh cũng như
quản lý các q trình đó. Đường lối chính sách cũng như các giải pháp kinh tế chỉ đúng
khi chúng mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao
động, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những bước tiến và những thành tựu to lớn

mang lại ý nghĩa lịch sử, giờ đây lại đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Những hoạt động
nghiên cứu lý luận chính là nhằm tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề của giai đoạn
cách mạng hiện nay. Công cuộc đổi mới ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động nhận thức nói chung và cơng tác lý luận nói riêng, nhất
định sẽ đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới, phong phú hơn và cụ thể hơn về mơ
hình chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2. Lý luận.


2.1. Định nghĩa.
Lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn. Nó phản ánh
những quy luật, của từn lĩnh vực trong hiện thực khách quan.
Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của xã hội nên
bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụng.
- Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn:
Ví dụ như lý luận Mác – Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô sản.
Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tùy thuộc vào nó được hướng dẫn
bởi lý luận nào, có khoa học hay khơng? Sự phát triển của lý luận là do yêu cầu của thực
tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn khơng tách rời lý luận, không thể thiếu sự hướng dẫn
của lý luận.
Vai trị của lý luận là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri thức đúng đắn về các quy
luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan , từ đó mới có cơ sở để định ra mục
tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Quan hệ giữa lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể là
thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
3. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý luận và thực tiễn
thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ chỗ: chúng đều là hoạt
động của con người, đều nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội để thoả mãn
nhu cầu của con người.

- Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực tiễn. Thực
tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội.
Lý luận khơng có mục đích tự nó mà mục đích cuối cùng là phục vụ thực tiễn. Sức sống
của lý luận chính là ln luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ cho yêu cầu của thực tiến.
- Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn
Ví dụ: lý luận Mác - Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô sản.
Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó được hướng dẫn
bởi lý luận nào, có khoa học hay khơng? Sự phát triển của lý luận là do yêu cầu của thực
tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn khơng tách rời lý luận, không thể thiếu sự hướng dẫn
của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri thức đúng đắn về
các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó mới có cơ sở để định
ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể là thống nhất
hoặc mâu thuẫn đối lập.
- Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần tiến bộ
và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì chúng sẽ tăng cường
lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự thống nhất đó là một trong những nguyên lý
căn bản của triết học Mác- Lênin.


- Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn
Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu thuẫn
nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến mọi đường lối, chính
sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động.
*ý nghĩa.
Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc biệt là lý
luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác - Lênin và các lý luận về kinh tế.

Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên đối với nước ta
trong giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và hoạt động. Hiện nay,
nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện các mặt của đời sống xã hội, mà
trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới từ nền kinh tế tập trung quan liêu sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một vấn đề hết sức mới mẻ chưa có
lời giải đáp sẵn. Và chúng ta cũng khơng bao giờ có thể có một lời giải sẵn sau đó mới
đi vào tiến hành đổi mới. Quá trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói riêng và việc
nhận thức q trình đổi mới đó khơng tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau cùng phát
triển
Chương II. Vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn để tìm hiểu
quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay.
2.1.Một số nét sơ lược về quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trước
đổi mới.
* Tình hình:
Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã hội
chủ nghĩa lúc đó, nước ta bắt đầu xây dựng một mơ hình kinh tế kế hoạch hố tập trung
dựa trên chế độ cơng hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức sản xuất và dịch vụ
quốc doanh được phát triển. Cùng với quốc doanh, hợp tác xã được tổ chức rộng rãi ở
nông thôn và thành thị. Với hai hình thức sở hữu tồn dân và tập thể, sở hữu tư nhân bị
thu hẹp lại, khơng cịn cơ sở cho tư nhân phát triển. Cùng với quốc doanh, hợp tác xã
được tổ chức rộng rãi vì ta đã học tập được mơ hình tổ chức kinh tế của Liên Xô cũ. Với
sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ
nghĩa lúc đó, mơ hình kế hoạch hố tập trung đã phát huy được những tính ưu việt đó.
Từ một nền kinh tế nơng nghiệp lạc hậu, phân tán và manh mún, bằng công cụ kế
hoạch hóa, ta đã tập trung được vào trong tay một lực lượng vật chất quan trọng về cơ sở
vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng thành thị và nông thơn, đất đai, máy móc, tiền vốn để ổn
định và phát triển kinh tế.
Vào những năm sau của thập niên 60, ở Miền Bắc đã có những chuyền biến về kinh tế,
xã hội. Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế tập trung bao cấp đã tỏ ra phù hợp với nền kinh tế
tự cung, tự cấp, phù hợp với điều kiện hai nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu trong chiến

tranh lúc đó.
Năm 1975, sau ngày giải phóng miền Nam, một bức tranh mới về hiện trạng kinh
tế Việt Nam đã thay đổi. Đó là sự duy trì một nền kinh tế tồn tại cả ba loại hình:
+Kinh tế cổ truyền (tự cung tự cấp)
+Kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp (ở miền Bắc)


+Kinh tế thị trường (đặc trưng ở miền Nam).
Mặc dù đây là một tồn tại khách quan sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục xây
dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trên phạm vi cả nước. Đó là sự áp
đặt rất bất lợi.
* Hậu quả:
Do chủ quan nóng vội, cứng nhắc, chúng ta đã không quản lý được hiệu quả các
nguồn lực dẫn tới việc sử dụng lãng phí nghiêm trọng các nguồn lực của đất nước.
- Tài nguyên bị phá hoại, sử dụng khai thác không hợp lý, môi trường bị ô nhiễm.
- Nhà nước bao cấp và tiến hành bù lỗ phổ biến gây hậu quả nghiệm trọng cho nền kinh
tế.
+ Sự tăng trưởng kinh tế chậm lại, tăng trưởng kinh tế trên lý thuyết, giấy tờ.
+Hàng hoá, sản phẩm trở nên khan hiếm, không đáp ứng được nhu cầu trong nước.
+Ngân sách thâm hụt nặng nề. Vốn nợ đọng nước ngồi ngày càng tăng và khơng có khả
năng cho chi trả.
+Thu nhập từ nền kinh tế quốc dân không đủ chi dùng, tích luỹ hầu như khơng có.
+Vốn đầu tư cho sản xuất và xây dựng chủ yếu là dựa vào vay và viện trợ nước ngồi.
- Cùng với đó là sự thoái hoá về mặt con người và xã hội.
- Đến năm 1979, nền kinh tế rất suy yếu, sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân khó khăn,
nguồn trợ giúp từ bên ngoài giảm mạnh.
- Từ năm 1975 đến năm 1985, các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể bị tiêu diệt
hoặc khơng cịn điều kiện phát triển dẫn đến thực trạng tiềm năng to lớn của các thành
phần kinh tế này không được khai thác và phục vụ cho mục tiêu chung của nền kinh tế.
Ngược lại, thành phần kinh tế quốc doanh đã phát triển ồ ạt, tràn lan trên mọi lĩnh vực

trở thành địa vị đọc tôn trong hầu hết các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ (trừ
ngành nông nghiệp, thành phần kinh tế tập thể là chủ yếu).Thời điểm cao nhất,
thànhphần kinh tế quốc doanhđã cõ gần 13 nghìn doanh nghiệp với số tài sản cố định
chiếm 70% tổng số tài sản cố định của nền kinh tế. Thời kỳ này, kinh tế nước ta tuy có
đạt được tốc độ tăng trưởng nhất định nhưng sự tăng trưởng đó khơng có cơ sở để phát
triển vì đã dựa vào điều kiện bao cấp, bội chi ngân sách, lạm phát và vay nợ nước ngoài.
- Do phát triển tràn lan lại quản lý theo cơ chế bao cấp, kế hoạch hoá tập trung nên nhà
nước gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý, điều hành các doanh nghiệp quốc doanh,
nhiều doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, lực lượng sản xuất khơng được giải
phóng, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng và tụt hậu.
* Nguyên nhân.
Trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần còn tồn tại trong thời gian tương đối dài, chưa nắm vững
và vận dụng đúng lý luận và thực tiễn vào tinh hình nước ta.
Đến năm 1986, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về căn bản vẫn chưa bị xoá bỏ. Cơ
chế mới chưa được thiết lập đồng bộ, nhiều chính sách, thể chế lỗi thời chưa được thay
đổi. Tình trạng tập trung quan liêu còn nặng, đồng thời những hiện tượng vơ tổ chức, vơ
kỷ luật cịn khá phổ biến.


Việc đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý, việc điều hành không nhạy bén, là những
nguyên nhân quan trọng dẫn tới hành động không thống nhất từ trên xuống dưới.
Chúng ta mới nêu ra được phương hướng chủ yếu của cơ chế mới, hình thức, bước đi,
cách làm cụ thể thì cịn nhiều vấn đề chưa giải quyết được thoả đáng cả về lý luận và
thực tiễn.
* Phương hướng chỉ đạo.
Chúng ta đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận trong thời kỳ quá độ:”Khuynh
hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy,đặc biệt là những chính sách kinh tế là
bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo
nguyện vọng chủ quan” (Đảng cơng sản Việt nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VI-1986). Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thừa
nhận thật sự những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan.
Chúng ta đã ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách quá mức mà hiệu quả
kinh tế phát triển chậm. Hơn thế nữa, ta chưa chú ý đúng mức tới sản xuất nông nghiệp
và sản xuất hàng tiêu dùng nên đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Chính vì vậy, đại hội VI ( tháng 12-1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất
nước bao gồm đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức cán bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo
và phong cách công tác. Đại hội đặc biệt nhấn mạnh phải đổi mới tư duy, trước hết là tư
duy kinh tế, phải nắm vững quy luật khách quan, lấy dân làm gốc
Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Những quan điểm,
đường lói do Đại hội VI vạch ra là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mac –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của đất nước. Công cuộc đổi mới của Đảng
ta từ sau Đại hội VI đến nay nước ta khơng nằm ngồi những quy luật phổ biến của phép
biện chứng. Đảng ta đã vận dụng phép biện chứng vào nhận thức hiện thực xã hội, phân
tích các mối liên hệ biện chứng của đời sống hiện thực, tìm ra các mâu thuẫn đó và tạo
động lực mạnh mẽ cho q trình đổi mới đó.
2.2. Q trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay.
Việc Đảng ta tổng kết những bài học ở Đại hội VI, lần đầu tiên chỉ rõ sai lầm chủ
quan, duy ý chí, coi thường các quy luật khách quan dẫn tới làm sai, làm hỏng và phải
sửa chữa trong các chính sách xây dựng kinh tế, phát triền văn hố có ý nghĩa tự giải
phóng và mở đường cho sự phát triển mới rất to lớn.
Trên thực tế, đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo có một sự tương đồng về hồn
cảnh, nội dung và ý nghĩa như”Chính sách kinh tế mới của Lênin” (NEP). Với đổi mới,
quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta đã
ngày được xác định rõ hơn. Nó thấm nhuần quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm thực
tiễn và quan điểm phát triển.
2.2.1. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong đổi mới về kinh tế
2.2.1.1. Về các thành phần kinh tế và các chủ thể kinh tế thị trường.
Đổi mới về mối quan hệ giữa củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất với phát triển lực
lượng sản xuất - một trong những căn cứ quan trọng cho sự đổi mới tư duy về cấu trúc

nền kinh tế (cấu trúc sở hữu và các thành phần kinh tế ).


Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất của phương thức sản
xuất, trong đó, mỗi mặt có vị trí và tác động khơng giống nhau. Lực lượng sản xuất là
mặt động nhất, cách mạng nhất và giữ vị trí quyết định đối với quan hệ sản xuất. Mối
quan sản xuất được thiết lập thích ứng với trạng thái, trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất sẽ giữ vai trò mở đường tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất: Lực lượng sản xuất quyết định tính chất của quan hệ sản xuất, quyết định sự phát
triển của quan hệ sản xuất, do đó, khơng thể nóng vội thiết lập quan hệ sản xuất mới khi
chưa tạo ra được lực lượng sản xuất mới và cũng không thể tuỳ tiện xố bỏ quan hệ sản
xuất hiện có khi nó cịn tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
Như vậy, từ chỗ chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất phải đi trước để mở đường,
thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, chúng ta đã nhận thức lại yêu cầu củng
cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, để giải
phóng sức sản xuất, đã khẳng định thước đo của đổi mới là thực tiễn: sản xuất phát
triển, lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân từng bước được
nâng cao, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ xã hội chủ nghĩa được củng cố. Đã khẳng
định mục tiêu đúng đắn của đổi mới, hoàn thiện quan hệ sản xuất nhằm giải phóng sức
sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đồng thời tạo sự đồng thuận trong xã
hội, tạo sự lực thu hút mọi nguồn lực trong xã hội đầu tư cho phát triển.
• Về vấn đề sở hữu.
Trước đây, trong xây dựng quan hệ sản xuất chỉ chú trọng quan hệ sở hữu mà mấu
chốt là cải biến chế độ sở hữu cá thể và chế độ sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản
xuất thành các hình thức khác nhau của chế độ cơng hữu xã hội chủ nghĩa. Đổi mới yêu
cầu phải chú trọng cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ sản xuất mới bao gồm ba
mặt: xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối
xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ coi các hình thức sở hữu tồn tại biệt lập trong từng thành phần
kinh tế đến chỗ coi các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất vốn có bản chất riêng nhưng
trong hoạt động sản xuất kinh doanh khơng ngăn cách nhau mà có nhiều loại hình đa

dạng, đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu.
Quan niệm về sở hữu cũng có những đổi mới rất căn bản, từ chỗ chỉ nhìn nhận đối
tượng sở hữu về mặt hiện vật, tiến đến chú trọng đối tượng sở hữu về mặt
giá trị và sở hữu trí tuệ; có sự phân định và ngày càng làm rõ quan hệ giữa quyền sở hữu
và quyền sử dụng, đặt cơ sở quan trọng cho việc phân định trong mối quan hệ giữa
quyền chủ sở hữu và quyền tài sản tại doanh nghiệp nhà nước.
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ VII (1994) nhận thức về khả năng và
sự cần thiết tách bạch quan hệ quản lý kinh doanh từ chủ thể sở hữu là Nhà nước đã
được phát triển thêm một bước không chỉ trong quan hệ đất đai mà còn mở rộng ra các
tài sản khác mà Nhà nước quản lý, từ đó đã phân biệt rõ sở hữu nhà nước và doanh
nghiệp nhà nước. Phát triển sở hữu nhà nước để bảo đảm vai trị điều tiết kinh tế - xã hội
có hiệu quả cao, chuyển một bộ phận tài sản do nhà nước quản lý cho các chủ thể khác
sử dụng với mục đích kinh doanh dưới các hình thức: giao quyền sử dụng lâu dài (đất
đai, rừng..), cho thuê, tô nhượng (hầm mỏ), liên doanh; góp cổ phần…


Đại hội IX đã xác định ba hình thức sở hữu tồn tại căn bản trong nền kinh tế nhà
nước, bao gồm sở hữu toàn dân; sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể. Nhà nước chú trọng
phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu,
giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và nước ngoài. Phát triển mạnh
hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội.
* Về các thành phần kinh tế
Đại hội lần thứ VI của Đảng trên cơ sở vận dụng quan điểm của Lênin về chính sách
kinh tế mới, về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước Nga Xôviết và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong chế độ dân chủ mới có
năm loại hình kinh tế khác nhau và xuất phát từ thực tiễn 10 năm tìm tịi, thử nghiệm ở
nước ta. Đảng đã xác định nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta là một nền kinh tế
có cơ cấu nhiều thành phần. Các thành phần đó là:
Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùng với
bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó.

Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hố (thợ thủ cơng, nơng
dân cá thể, những người buôn bán, kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế có vốn đầu tư nước ng dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp
doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiẻu số ở
Tây Nguyên và các vùng cao khác.
Trong các thành phần kinh tế ấy, kinh tế xã hội chủ nghĩa với khu vực quốc doanh
làm nòng cốt phải giành được vai trò quyết định trong nền kinh tế quốc dân, cụ thể là
chiếm tỷ trọng lớn cả trong sản xuất và lưu thơng. Thể hiện tính ưu việt và chi phối được
các thành phần kinh tế khác.
Đổi mới lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước để củng cố và tăng cường vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế. Phân biệt sở hữu nhà nước với hình thức
doanh nghiệp nhà nước. Tài sản và vốn thuộc sở hữu nhà nước được sử dụng dưới nhiều
hình thức để bảo đảm hiệu quả kinh tế đồng thời tăng cường khả năng kiểm soát trực
tiếp của nhà nước. Tập trung xây dựng doanh nghiệp nhà nước ở những ngành, lĩnh vực
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống tài chính ngân hàng. Trong nhiều lĩnh vực, thực
hiện chủ trương giảm bớt những doanh nghiệp nhà nước khơng cần giữ hình thức quốc
doanh, đồng thời cho phép các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác tham gia.
Tăng cường hệ thống thương nghiệp nhà nước, khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nơng nghiệp, đồng thời coi trọng phát triển ngành dịch vụ.
2.2.2. Về việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
2.2.2.1 Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việc đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
một đột phá lí luận rất sáng tạo của Đảng ta. Từ đại hội VI, chúng ta đã dứt khốt từ
bỏ mơ hình kinh tế phi hàng hóa, phi thị trường, mơ hình kinh tế tập trung quan liêu,
bao cấp , chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Cương lĩnh
1991 khẳng định “ Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà Nước”. Đại hội


IX đư ra khái niệm” kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” xem đó là mơ

hình tổng quát trong suốt thời kì qua độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội; trong đó quá trình sản xuất,
phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thơng qua thị trường. Vì thế kinh tế
thị trường không chỉ là “công nghệ”, là “phương tiện” để phát triển kinh tế - xã hội, mà
còn là những quan hệ kinh tế - xã hội, nó khơng chỉ gồm lực lượng sản xuất, mà cịn cả
một hệ thống quan hệ sản xuất. Như vậy rõ ràng là khơng thể có một nền kinh tế thị
trường chung chung, trừu tượng tách rời khỏi hình thái kinh tế - xã hội, tách rời khỏi chế
độ chính trị - xã hội của một nước.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vừa tuân theo quy
luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối của các nhân tố định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vì thế kinh tế thị trường ở nước ta vừa có những đặc trưng chung, phổ biến của
mọi nền kinh tế thị trường, vừa có những đặc trưng mang tính đặc thù - định hướng xã
hội chủ nghĩa. Theo tinh thần của các đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam từ lần thứ VI đến
lần thứ X định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường thể hiện ở các nội dung sau
đây: Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
giải phóng mạnh mẽ và khơng ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân
dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, đồng thời khuyến khích mọi người làm giàu chính
đáng và giúp đỡ, tạo điều kiện để người khác thoát khỏi nghèo, từng bước khá giả hơn;
phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trị chủ đạo; thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội ngay trong từng bước và
từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo
dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; thực hiện chế độ
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp
vốn cùng với nguồn lực khác và thơng qua phúc lợi xã hội; phát huy quyền làm chủ xã
hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định thành công sự phát triển rút
ngắn, bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và công
cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, kinh tế thị trường... mới không bị chệch định

hướng xã hội chủ nghĩa.
Về tốc độ tăng trưởng, trong những năm khởi đầu công cuộc đổi mới (1986-1991)
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng tương đối chậm. Nhưng khi quá trình đổi
mới diễn ra rộng khắp và đi vào thực chất thì tốc độ tăng trưởng GDP luôn đạt mức cao
và ổn định kéo dài, mặc dù có lúc bị giảm sút do dự báo chủ quan và ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Năm 2008 là năm kỷ lục thu hút FDI của Việt Nam (đạt trên 60 tỷ USD). Năm 2009,
dù kinh tế thế giới đang suy thoái và khủng hoảng tài chính nhưng đến nay cam kết đầu
tư nước ngồi đã đạt 18 tỷ USD, dự kiến có thể đạt 20 tỷ USD. Mặc dù kinh tế thế giới
suy thoái nhưng Việt Nam vẫn là một trong những nước đạt tăng trưởng dương (khoảng
5,2% năm 2009). Kết quả này cũng nhờ vào chính sách mở cửa, thu hút đầu tư, tăng


trưởng xuất khẩu. Năm 2009, chúng ta không bị rơi vào tình trạng suy thối kinh tế nặng
nề như một số nước.
Do tốc độ tăng GDP cao nên GDP/người/năm cũng tăng lên đáng kể, từ 289 USD
(năm 1995) lên 1.024 USD (năm 2008), cho thấy Việt Nam đang từng bước vượt qua
ranh giới của quốc gia đang phát triển có thu nhập thấp và đang vươn lên nước đang
phát triển có thu nhập trung bình thấp (theo quy ước chung của quốc tế và xếp loại các
nước theo trình độ phát triển thì nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp là
những nước có GDP/người từ 765 đến 3.385 USD).
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các
thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực kinh tế nhà nước được
tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP vào năm 2005. Kinh tế dân doanh phát triển
khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, chiếm 45,7% GDP, đóng góp
quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân
dân; kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển khá đa dạng (đóng góp 6,8% GDP). Kinh tế
có vốn đầu tư nước ngồi có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu
nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế .
Thành tựu đổi mới trong nước kết hợp với thực hiện chính sách mở cửa, tích vực và

chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế
Việt Nam và mang lại cho Việt Nam một vị thế quốc tế mới. Từ một quốc gia bị phong
tỏa, cấm vận; từ một nền kinh tế kém phát triển và “đóng cửa”, sau hơn 20 năm đổi mới,
Việt Nam đã vươn mạnh ra thế giới. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần
170 nước và vùng lãnh thổ; mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với 221 quốc gia và
vùng lãnh thổ. Ngồi ra, Việt Nam cịn là thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh
tế quốc tế và khu vực, và điều đáng nói nhất là năm 2007 Việt Nam đã trở thành thành
viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
2.2.3.. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong đổi mới về chính trị.
2.2.3.1. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cộng sản
Trong đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, vấn đề mấu chốt
nhất và cũng là khó nhất là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, khắc phục cả hai
khuynh hướng thường xảy ra trong thực tế: hoặc là Đảng bao biện, làm thay, hoặc là
buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải làm
rõ, nhận thức đúng đắn vấn đề Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện
có chính quyền, dân chủ hóa và thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Đảng lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện và trực tiếp, nhưng Đảng không làm thay Nhà
nước, không được sử dụng quyền lực Nhà nước; Đảng lãnh đạo Nhà nước ban hành luật
pháp, nhưng Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; Đảng giữ
vai trị lãnh đạo chính trị khơng có nghĩa là chỉ đạo chung chung, chỉ dừng ở việc đề ra
cương lĩnh, đường lối chung, không thể không quyết định những chủ trương , chính sách
lớn liên quan quan đến sự phát triển kinh tế - xã hội và ổn định chính trị chúng, đến quốc
phòng, an ninh và quan hệ đối ngoại của quốc gia, đến công tác cán bộ của cả hệ thống
chính trị, đến đời sống chung của các tầng lớp nhân dân…


Xét về phương diện hiệu quả lãnh đạo chính trị, có thể nói rằng, tư duy lý luận của
Đảng ta trong những năm qua về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng tạo ra bước
đột phá quan trọng vào những khâu khó nhất, nhạy cảm nhất mà nhiều năm trước chưa

tháo gỡ được. Vì vậy, đó là một bước tiến, một cống hiến quan trọng vào sự phát triển lý
luận về Đảng cầm quyền, trong đó có sự quán triệt và bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh về
sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện có chính quyền.
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam thì đổi mới không phải là từ bỏ việc
thực hiện chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ quyền lãnh đạo duy nhất.
đổi mới chỉ là thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội Đảng lần X lần đầu tiên lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của các tầng lớp nhân
dân, lần đầu tiên cho phép Đảng viên tự ứng cử vào Ban Chấp hành Trung ươg Đảng.
2.2.3.2.Đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở.
Trong q trình đổi mới hệ thống chính trị, đặc biệt coi trọng đổi mới hệ thống chính
trị ở cơ sở, nhất là ở xã, phường, thị trấn thể hiện nhận thức mới của Đảng về đổi mới
chính trị. Trên cơ sở giữ vững ổn định chính trị, xác định và thực hiện đúng phương
hướng đổi mới hệ thống chính trị nhằm phát huy cao nhất vai trò của các tổ chức trong
cả hệ thống và quyền làm chủ của nhân dân, khi công cuộc đổi mới ngày càng đi vào
chiều sâu, Đảng ta chủ trương hướng mạnh về cơ sở, quan tâm củng cố cơ sở xã hội của
chính trị, đề cao các sáng kiến sáng tạo từ cơ sở.
Trong hệ thống chính trị - xã hội ngày nay, điểm mới đáng chú ý so với cấu trúc của
hệ thống chính trị như trước đây là sự hiện diện của các tổ chức xã hội rộng lớn của
nhân dân, đặc biệt là các hội đoàn trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, các tổ chức hiệp hội
nghề nghiệp, kinh doanh, dịch vụ xã hội... Tuy không trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ
chính trị của Đảng và Nhà nước nhưng trong điều kiện của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên, các tổ chức này có tác động
ngày càng to lớn đến đời sống kinh tế - chính trị của đất nước. Đảng, Nhà nước khơng
quản lý trực tiếp đối với các tổ chức này nhưng có mối liên hệ mật thiết với các tổ chức
đó. Đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước có được xây dựng và thực thi
tốt hay không, nhất là các vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của các
thành viên tổ chức hiệp hội, khơng thể khơng tính đến vai trị và sự tác động tích cực của
các tổ chức xã hội. Hoạt động tư vấn, giám định và phản biện xã hội đối với đường lối,
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước phải được coi là hoạt động cơ
bản và thể hiện sinh động nhất vai trò mới, rất tích cực của các tổ chức hiệp hội kinh tế xã hội. Do vậy, cơ chế chính trị - pháp lý để vận hành mối liên hệ giữa hệ thống chính trị

và hệ thống xã hội như đã nêu cũng được xác định là thành tố cơ bản trong cấu trúc của
hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay.
Tất cả các tổ chức Đảng, chính quyền, đồn thể ở cơ sở phải thật sự gần dân, tin dân,
trọng dân, nghe dân; Cán bộ, đảng viên ở cơ sở nêu gương tồn diện trước dân, lời nói đi
đơi với việc làm, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm để dân tin, vừa là người lãnh đạo, vừa
là người đày tớ trung thành của nhân dân; Các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở
phối hợp hoạt động chặt chẽ, đồng bộ, phát động được các phong trào cách mạng tích


cực đổi mới, như vậy thì sẽ khơi dậy mạnh mẽ tiềm năng con người, đất đai, ngành
nghề, ý chí chính trị và truyền thống văn hóa và hiện đại hóa đất nước.
Thực hiện đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở là thiết thực thực hiện nguyên lý của
chủ nghĩa Mác – Lênin, đó là cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, là đem lời dạy
của Hồ Chí Minh: đem chính trị vào giữa dân, cơ sở là nơi Đảng và chính quyền sống
trong lịng dân, là cầu nối giữa Đảng, chính phủ với dân.
2.2.4. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong đổi mới văn hoá – xã hội
2.2.4.1. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Đảng ta khẳng định nền văn hố nước ta là nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc và từng bước làm rõ các nội hàm của các khái niệm “tiên tiến”, “đậm
đà bản sắc dân tộc”. “Tiên tiến” là yêu nước tiến bộ, mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn
diện của con người trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và
tự nhiên.
Nền văn hoá Việt Nam đang xây dựng là một nền văn hoá thống nhất mà đa dạng của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Những giá trị và đặc sắc văn hóa của 54 dân tộc anh
em được kế thừa và phát triển, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam
thống nhất trong đa dạng. Giao lưu, hợp tác văn hóa với nước ngồi được mở rộng. Một
số nét mới trong chuẩn mực văn hóa của con người Việt Nam từng bước hình thành. Các
tài năng văn hóa - nghệ thuật được khuyến khích. Nhiều di sản văn hóa - cả vật thể và

phi vật thể - được giữ gìn, tơn tạo. Việc phân phối các sản phẩm văn hoá đã nhanh và
đều khắp hơn. Hệ thống các sản phẩm văn hố góp phần trực tiếp vào sự phát triển, tăng
trưởng của ngành du lịch, của nền kinh tế quốc dân. Hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế
về văn hố thực sự khởi sắc, góp phần làm cho vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao; văn hoá, con người và cuộc sống Việt Nam được bạn bè hiểu biết rõ hơn.
Dân trí được nâng lên, cùng với văn hố phát triển đã góp phần khơi dậy tính chủ động
sáng tạo của nhân dân và nâng cao tính đồng thuận xã hội, tạo ra bầu khơng khí dân chủ,
niềm tin của nhân dân được nâng lên không ngừng.
2.2.4.2. Xây dựng một xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh
Trong q trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, bên cạnh việc tập trung vào xây
dựng nền văn hoá mới, con người mới, đạo đức và lối sống mới. Đảng ta rất coi trọng
việc phát triển một xã hội dân công bằng , dân chủ, văn minh. Đảng ta xác định rõ các
nhiệm vụ và giải pháp có tính chất tồn diện và tổng thể chiến lược phát triển xã hội, từ
công tác kế hoạch hoá dân số, giải quyết việc làm cho người lao động, thực hiện công
bằng xã hội, đảm bảo an tồn xã hội, xây dựng lối sống văn hố, khơi phục trật tự kỷ
cương trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chăm lo đáp ứng các nhu cầu về giáo dục,
văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân, xây dựng chính sách bảo trợ xã
hội…đến thực hiện đúng chính sách giai cấp và chính sách dân tộc. Phải bằng một hệ
thống chính sách xã hội toàn diện, sâu sát và cụ thể mới tạo điều kiện để xây dựng một
xã hội công bằng dân chủ và văn minh.


Quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo đã được bảo đảm đầy đủ. Hiện nay, hơn 20 triệu
tín đồ thuộc các tôn giáo được tự do thực hiện các hoạt động tôn giáo. Quyền của đồng
bào các dân tộc thiểu số khơng những được pháp luật bảo vệ mà cịn được Nhà nước
chăm sóc, giúp đỡ thơng qua các chương trình phát triển kinh tế-xã hội cho các vùng
khó khăn, thơng qua chính sách xã hội, văn hóa như hệ thống trường dân tộc nội trú, như
công tác bồi dưỡng và đào tạo cán bộ đồng bào các dân tộc. Đặc biệt là di sản văn hóa
và ngơn ngữ của các dân tộc thiểu số đã và đang được phục hồi, phát triển.
2.2.4.3. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa.

Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta đã được giải quyết một cách có hiệu
quả. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm liền. Các cơ hội phát
triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế , cho mọi tần lớp dân cư. Đời sống
của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt.
- Cơng tác giải quyết việc làm xóa đói giảm nghèo đạt kết quả tốt: Tự 2000 đến
2005 tạo việc làm cho 7,5 lao động, tỉ lệ hộ đói nghèo giảm từ 30% (1992) – 7%
( 2005).
- Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển về quiy mơ, đa dạng hoa về loại hình từ
mầm non, đại học, cao đẳng. Năm 2000 cả nước đã xoa mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học. Năm 2004, 20 tỉnh thành phố đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở.
2.3.Ý nghĩa thực tiễn của qúa trình đổi mới.
Đảng cộng sản Việt Nam, trước sau như một, vẫn khẳng định mục tiêu chủ nghĩa xã hội
của cách mạng Việt Nam . Nhưng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
đã xuất hiện bệnh chủ quan duy ý chí. Đại Hội VII Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng
định: Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm
tịi, xây dựng đường lối, xây dựng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng
Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan nóng vội trong
cải tạo xã hội chủ nghĩa, xố bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, duy trì quá lâu cơ
chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp... Quán triệt nguyên tắc khách quan,
khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí là nhiệm vụ của tồn Đảng, toàn dân.
Bản thân sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ mới mẻ, khó khăn, phức
tạp đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan và tính năng động chủ
quan. Vì thế phải kết hợp chặt chẽ giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học bởi tri
thức khoa học có được hay khơng là nhờ ở lịng ham hiểu biết, trí thơng minh, ý chí
ngược lại nếu tri thức khoa học phát huy được tác dụng trong thực tiễn thì nó lại trở
thành động lực tăng thêm tri thức, nhận thức. Sự kết hợp xuất phát từ thực tế khách quan
và phát huy nỗ lực chủ quan không những đem lại hiệu quả cao trong sự phát triển nhận
thức mà cịn giúp cho lý luận khơng bao giờ xa rời thực tiễn cuộc sống.
Nắm bắt và vận dụng được có hiệu quả các quy luật tất yếu khách quan để hoạt động và
đem nó vào thực tiễn để kiểm nghiệm là một phương tâm chủ đạo trong công cuộc đổi

mới hiện nay. Chỉ có dám nghĩ, dám làm kết hợp với tri thức khoa học được trang bị,
chúng ta mới thành công được. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, nắm bắt quy luật kinh
tế, quy luật sản xuất lại càng cần thiết để cải tạo thực tiễn, tạo ra phương hướng`và mục
tiêu đúng đắn phát triển đi lên. Chỉ có thế nước ta mới theo kịp được trình độ phát triển


kinh tế chung của khu vực và trên thế giới. Trong xu thế hội nhập tồn cầu hố hiện nay,
những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước xuất phát từ thực tiễn tình hình đất
nước đáng phát huy mạnh mẽ tính ưu việt của nó.
2.4.
Những hạn chế cịn tồn tại trong q trình đổi mới.
2.4.1. Đổi mới cịn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu và chưa theo kịp sự vận động
của thực tiễn, tính dự báo, đón đầu còn hạn chế
Phải thừa nhận rằng việc đổi mới tư duy của Đảng ta trong những năm qua còn
chậm, vừa chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới vừa chưa theo kịp sự phát
triển nhanh chóng, sâu sắc của thực tiễn đất nước và của thế giới trong thời đại ngày nay.
Ví dụ như thời kỳ quá độ ở nước ta gồm mấy chặng, là những chặng nào, nội dung và
thời gian của mỗi chặng ra sao, tiêu chuẩn để kết thúc thời kỳ quá độ là gì, các tiêu thức
để đánh giá hồn thành cơng nghiệp hoá hiện đại hoá, nội dung cơ bản của thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thậm chí, một vấn đề cụ thể là đảng viên có
được làm kinh tế tư nhân hay khơng được đặt ra đã 15 năm, đến nay vẫn chưa có câu trả
lời đầy đủ.
2.4.2. Thực tiễn nước ta còn nhiều vấn đề bất cập
Sự tăng trưởng kinh tế gắn kết với sự gia tăng mức độ bất bình đẳng đặc biệt
là khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị càng xa. Tỷ lệ đói nghèo cịn cao,
đặc biệt giữa các nhóm dân tộc thiểu số vốn chiếm 14% dân số và sống chủ yếu tại các
vùng cao xa xôi. Khoảng 90% người nghèo sống ở khu vực nông thơn.
Mặc dù có những tiến bộ về sức khoẻ sinh sản và bình đẳng giới, nhưng vẫn tồn tại
những khoảng trống đáng kể. Đó là người dân sống ở vùng sâu cịn thiếu sự tiếp cận
thơng tin và dịch vụ sức khoẻ sinh sản nhạy cảm về giới và một bộ phận lớn dân cư vẫn

có các hành vi y tế khơng an tồn. Những thiếu nữ trẻ có nguy cơ có thai ngồi ý muốn
khá cao cũng như hành vi nạo phá thai khơng an tồn và mắc các bệnh truyền nhiễm qua
đường tình dục, bao gồm cả HIV. Ở tầm quốc gia, số người nhiễm HIV đang tăng nhanh.
Sự thay đổi kinh tế và xã hội đã góp phần dẫn đến sự gia tăng làn sóng di cư trong nước.
Do đa số những người di cư, đặc biệt là phụ nữ đang ở độ tuổi sinh sản nên họ rất dễ
chịu rủi ro liên quan đến sức khoẻ sinh sản, bao gồm cả nhiễm HIV.
Trong khi tỷ lệ nữ tham gia các vị trí quản lý và chính trị tăng lên thì mức độ đại
diện của phụ nữ còn rất hạn chế tại tất cả các cấp quản lý, đặc biệt là tại cấp tỉnh và địa
phương. Cần có nhiều nỗ lực hơn nữa trong việc xây dựng năng lực để có sự quản trị tốt
hơn; đấu tranh chống tham nhũng; tăng cường vai trị của báo chí; và tạo môi trường
thuận lợi cho sự phát triển kinh doanh.Vẫn chưa tạo dựng đầy đủ các khuôn khổ thể chế
và luật pháp để tạo điều kiện cho sự tham gia nhiều hơn của người dân và sự phát triển
xã hội dân sự, trách nhiệm giải trình và minh bạch tại tất cả các cấp.
Việt Nam là nước chịu nhiều thiên tai bao gồm bão, lụt, hạn hán, lở đất và cháy rừng
trong đó những người nghèo nhất trong xã hội là đối tượng dễ bị tổn thương nhất. Hơn 1
triệu người cần có sự hỗ trợ khẩn cấp hàng năm. Các mơ hình thay đổi khí hậu dự báo
rằng Việt Nam là một trong những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất trên thế giới. Cuối
cùng, cần nỗ lực hơn nữa trong việc tuân thủ các luật môi trường, các chiến lược và thỏa
ước toàn cầu và cải thiện năng lực quản lý môi trường nhằm đảm bảo rằng sự tăng


trưởng kinh tế nhanh sẽ không dẫn đến sự xuống cấp môi trường, những rủi ro lớn hơn
đối với sức khoẻ hoặc sự sụt giảm nhanh chóng của hệ thống đa dạng sinh học và các
nguồn tài nguyên.
Sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập cịn yếu; cơ sở hạ
tầng cịn thấp kém; trình độ quản lý, năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ cịn hạn
chế; thủ tục hành chính cịn nhiều rườm rà, gây phiền hà, tốn kém cho nhân dân, khiến
nhân dân bức xúc. Chúng ta phải mạnh dạn thừa nhận những yếu kém này để phấn đấu,
khắc phục, đưa đất nước phát triển.
Chương III. Một số giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn mối quan hệ giữa lí luận và

thực tiễn trong việc phát triển kinh tế xã hội của nước ta.
3.1. Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc Và chủ nghĩa
xã hội trong tám thập kỉ qua và Đảng ta ln duy trì mục tiêu đó. Trong những năm đổi
mới, Đảng có sự nhận thức sâu sắc đúng đắn hơn về vấn đề này. Trong cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 Đảng ta đã đưa tư
tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho mọi hành động. Trên cơ sở đổi mới tư duy trước hết là tư duy về kinh tế, Đảng
ta đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng nhất là trong thời kì đổi mới đã khẳng định
giá trị, sức sống của chủ nghĩa Mác- Lenin tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tieu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là kiên định tính biện chứng là điều kiện cơ bản đảm
bảo cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong bối cảnh mới vơ cùng
phức tạp của tình hình thế giới.
3.2. Phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, khơng ngừng đổi
mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân
Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới đã khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng
là nhân tố quyết định thành công của đổi mới. Ðảng là người khởi xướng và lãnh đạo
tồn diện cơng cuộc đổi mới. Nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn, ngày càng được hồn
thiện, vai trị lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Ðảng được tăng cường, nhờ tính tiên
phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên nên đường lối đổi mới của Ðảng được
đông đảo nhân dân hưởng ứng, biến thành phong trào hành động sôi nổi, rộng khắp của
quần chúng.
Vì vậy trong quá trình đổi mới, Ðảng ta rất coi trọng công tác xây dựng Ðảng, coi xây
dựng Ðảng là nhiệm vụ then chốt, coi việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Ðảng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền,
dân chủ hóa xã hội, mở cửa, hội nhập quốc tế là nhiệm vụ sống còn trong tồn bộ sự

nghiệp cách mạng. Phải bảo đảm vai trị lãnh đạo duy nhất của Ðảng, kiên quyết không
chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Ðảng khẳng định tự đổi mới, tự chỉnh
đốn là quy luật tồn tại và phát triển của Ðảng. Phải giữ vững bản chất cách mạng và


khoa học của Ðảng, tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân và tính tiên phong của
Ðảng; xây dựng Ðảng thật sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương
thức lãnh đạo khoa học, ln ln gắn bó mật thiết với nhân dân. Ðồng thời kiên quyết
đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch muốn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản, đấu tranh với
các biểu hiện giáo điều và cơ hội dưới mọi hình thức.
Trong quá trình đổi mới, Ðảng ta rất coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa bởi vì dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi
mới. Dân chủ hóa đời sống xã hội sẽ làm cho mọi tiềm năng sáng tạo của con người
được phát huy, tính tích cực, chủ động của nhân dân được tăng lên, sự tham gia của nhân
dân vào các quá trình sáng tạo ra xã hội mới sẽ ngày càng có hiệu quả cao.
Ðể phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, phải đổi mới hệ thống chính trị, bởi vì
như Ðảng ta chỉ rõ, thực chất của cơng cuộc đổi mới và kiện tồn hệ thống chính trị
nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân.
Dân chủ được thể hiện và thực hiện chủ yếu và trực tiếp nhất qua Nhà nước,
bằng Nhà nước. Vì vậy xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, bảo đảm quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân là
yêu cầu bức thiết của dân chủ hóa xã hội. Nhà nước phải tạo điều kiện để nhân dân tham
gia quản lý Nhà nước, kiểm tra, giám sát các cơ quan Nhà nước và cán bộ, công chức
nhà nước. Nhà nước bảo đảm quyền công dân, quyền con người, nâng cao trách nhiệm
pháp lý giữa Nhà nước và công dân; thực hành dân chủ đồng thời tăng cường kỷ cương,
kỷ luật.
3.3. Ðổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò

chủ động sáng tạo của nhân dân, phù hợp thực tiễn, luôn luôn nhạy bén với cái mới
Sự nghiệp đổi mới do Ðảng ta khởi xướng và lãnh đạo về bản chất mang tính
nhân dân sâu sắc, thể hiện ở chỗ nó bắt nguồn từ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân và
do nhân dân thực hiện. Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân nảy
sinh từ thực tiễn là một nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Ðảng.
Dựa vào nhân dân, qua thực tiễn phong phú của nhân dân, tiến hành tổng kết, từng
bước khái quát thành lý luận, xây dựng và hoàn thiện đường lối đổi mới - đó là bước
đi hợp quy luật. Ðến lượt mình, đường lối đổi mới đã đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính
đáng, nguyện vọng bức xúc của nhân dân, hợp quy luật, thuận lòng dân nên đã được
nhân dân nhanh chóng hưởng ứng, tham gia tích cực, nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Ðường lối đó đã giải phóng được lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định cho sự phát
triển xã hội, khơi dậy được tài dân và sức dân để đóng góp xây dựng Tổ quốc. Do đó,
trong quá trình đổi mới, ý kiến, sáng kiến, cách làm sáng tạo của nhân dân các địa
phương và cơ sở là cực kỳ quan trọng. Nếu chúng ta sâu sát với nhân dân, biết lắng nghe
ý kiến nhân dân, chắt lọc, tổng kết, khái quát kinh nghiệm của nhân dân, thì sẽ có quyết
sách đúng, chủ trương phù hợp, nhất là vào những thời điểm khó khăn hoặc có tính bước
ngoặt. Chính vào những thời điểm đó, nhân dân có thể đề xuất những giải pháp cực kỳ


thơng minh, sáng tạo, vượt ra ngồi mọi sách vở có sẵn mà người lãnh đạo nghĩ mãi
khơng ra.
Hiện nay công cuộc đổi mới đang đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề khó khăn,
phức tạp cả về lý luận và thực tiễn, nhiều vấn đề chưa có câu trả lời rõ ràng và chuẩn
xác. Ðể đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, chúng ta phải giải quyết những vấn đề đó. Muốn
vậy phải đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và coi trọng tổng kết thực tiễn, coi trọng sáng
kiến của nhân dân, phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, tìm ra những nhân tố mới để
nhân rộng, qua đó phát hiện những điểm không phù hợp trong chủ trương, chính sách,
kịp thời có sự điều chỉnh, bổ sung, phát triển.
Hiện nay, do tác động của mặt trái của cơ chế thị trường và mở cửa, cũng như do
những thiếu sót, khuyết điểm chủ quan của chúng ta trong lãnh đạo và quản lý, tệ quan

liêu, nạn tham nhũng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã làm cho quan hệ giữa
Ðảng với nhân dân có mặt bị giảm sút. Vì vậy phải củng cố và tăng cường mối quan hệ
gắn bó mật thiết giữa Ðảng với nhân dân. "Lợi ích chính đáng của nhân dân" phải là cơ
sở để hoạch định chính sách và "thái độ ủng hộ của nhân dân" với Ðảng, Nhà nước là
một tiêu chuẩn để khẳng định tính đúng đắn của chính sách. Cán bộ, đảng viên phải thật
sự gần dân, trọng dân, tin dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin. Có như vậy,
những sáng kiến, kinh nghiệm của quần chúng, tiếng nói, nguyện vọng của nhân dân
mới có thể được chuyển thành những quyết sách chính trị trong q trình đổi mới.
3.4. Phát huy cao độ nội lực, đồng thời khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới
Trong quá trình đổi mới, Ðảng ta luôn coi trọng việc tạo ra và phát huy sức mạnh tổng
hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trong đó lấy phát huy nội lực là nhân
tố quyết định, khai thác ngoại lực là nhân tố quan trọng, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh của thời đại.
Công cuộc đổi mới diễn ra trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát
triển như vũ bão, kinh tế tri thức ngày càng phát triển. Vì vậy chúng ta phải chủ động
sử dụng những thành tựu khoa học và công nghệ nhất là các công nghệ cao (công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ nano...) cùng với
những thành tựu của kinh tế tri thức để phát triển kinh tế - xã hội, tăng năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm, rút ngắn quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện
"đi tắt đón đầu", tạo môi trường thuận lợi trong nước để phát triển và ứng dụng khoa
học, công nghệ hiện đại tiên tiến của thế giới.
Ngày nay tồn cầu hóa kinh tế đã trở thành một xu thế khách quan, một hiện thực sống
động, bao gồm cả mặt tích cực và tiêu cực, cả thời cơ và thách thức, tác động mạnh mẽ
đến tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Sớm nhận thức được xu thế này, Ðảng ta
đã đề ra chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện chính sách đối ngoại
độc lập tự chủ đi đơi với đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Cho đến nay
nước ta đã xác lập được quan hệ ổn định với các nước lớn, đã thiết lập quan hệ ngoại
giao với 167 nước, quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh thổ; chúng ta đã hội
nhập kinh tế trên các cấp độ (song phương, khu vực và toàn cầu), đã gia nhập AFTA,

ASEM, APEC và đang đàm phán để gia nhập WTO.


Thông qua việc mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực,
chúng ta đã thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngồi dưới hình thức vốn đầu tư
trực tiếp (FDI) và vốn hỗ trợ phát triển (ODA), cũng đã thiết lập được quan hệ tín dụng
với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, tranh thủ được số lượng đáng kể vốn vay ưu
đãi của Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu
Á (ADB), đồng thời tranh thủ khoa học - cơng nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý của
nước ngồi, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu để phát triển đất nước. Mặt khác, thông
qua mở rộng hợp tác quốc tế làm cho bạn bè quốc tế hiểu biết đất nước và con người
Việt Nam hơn, tăng thêm tình cảm, sự ủng hộ, giúp đỡ đối với công cuộc đổi mới của
Việt Nam và qua đó chúng ta góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân tiến bộ
thế giới vì mục tiêu của thời đại là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Có thể nói ngoại lực được khai thác đã làm nhân lên sức mạnh nội lực, còn nội
lực được phát huy tạo cơ sở cho việc sử dụng ngoại lực có hiệu quả hơn. Cũng như vậy,
sức mạnh thời đại được phát huy sẽ chuyển thành sức mạnh của dân tộc, trái lại, sức
mạnh của dân tộc được phát huy thì mới sử dụng có hiệu quả cơ hội, thuận lợi do sức
mạnh của thời đại tạo ra, vượt qua nguy cơ, khắc phục thách thức. Trong việc khai thác
ngoại lực, sử dụng sức mạnh của thời đại chúng ta phải đứng vững trên các nguyên tắc
như tôn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào cơng việc
nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc
3.5. Gắn chặt kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội
phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước đi và từng chính sách phát triển.
Đây là một đặc trưng cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội nước ta. Phát triển xã hội trên
nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội địi hỏi phải có một nền kinnh tế tăng trưởng
nhanh, hiệu quả cao và bền vững. Chỉ có một nền kinh tế như thế mới có khả năng huy

động các nguồn lực vật chất cho việc thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội. Vì vậy,
khơng thể có một nền kinh tế phát triển cao nếu như khơng có sự cơng bằng. Phát triển
xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng phải được tiến hành ngay trong từng bước
và trong quá trình phát triển kinh tế. Muốn vậy mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng
tới mục tiêu phát triển xã hội, mỗi chính sách xã hội phải nhân tạo ra động lực thúc đẩy
kinh tế.
Phát triển xã hội trên nguyên tắc công bằng không phải là chủ nghĩa cào bằng, thực hiện
chủ nghĩa bình quân, chia đều các nguồn lực của cải làm ra, bất chấp chất lượng hiệu
quả sản xuất, kinh doanh và sự đóng góp của mỗi người, cho sự phát triển chung của
cộng đồng. Do đó, trong mỗi bước đi, mỗi thời kì cụ thể phải tìm ra đúng cái “độ” tương
thích giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, sao cho hai mặt này không
cản trở, thậm trí triệ tiêu lẫn nhau mà hỗ trợ cho nhau cùng phát triển.
C.KẾT LUẬN.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo hơn 20 năm qua đã đạt được
những thành tựu to lớn về kinh tế xã hội và có ý nghĩa lịch sử to lớn. “ Đất nước đã ra


khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và có sự thay đổi toàn diện, kinh tế tăng trưởng khá
nhanh, sự nghiệp cơng nghiệp hoa hiện đại hóa phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống
chính trị và khối đại đồn kết dân tộc được tăng cường. Chính trị xã hội ổn định. Quốc
phịng an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Sức
mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều , tạo ra thế và lực cho đất nước phát
triển đi lên với triển vọng tốt đẹp”. Những thành tựu ấy có được là do nhiều nguyên
nhân, một trong những nguyên nhân đó là đảng ta luôn quán triệt tốt sự thống nhất giữa
lí luận và thực tiễn trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới. Bởi lẽ trên cơ sở quán triệt sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đường lối chủ trương của Đảng chính sách của Nhà
nước khơng ngừng được bổ sung hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam.Những
căn bệnh giáo điều, kinh nghiệm chủ quan duy ý chí đã được khắc phục.Vì vậy, đất nước
có phát triển như nào thì chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn luôn là kim chỉ nam cho hành động

của chúng ta. Trước thực tế của quá trình phát triển kinh tế Việt Nam từ sau cách mạng
tháng Tám, một lần nữa ta lại càng khẳng định vai trị khơng thể thiếu được của q
trình lý luận nhận thức và các chính sách, chủ trương xuất phát từ thực tiễn chi phối nền
kinh tế. Khi đi đúng vào tiến trình lịch sử của nhân loại, tất yếu chúng ta sẽ không bị lạc
hậu, thụt lùi mà ngày càng có vị thế, phát triển mạnh mẽ hơn. Đất nước Việt Nam sẽ
phát triển vượt bậc, có cơ sở cững chắc, đứng vào vị trí những nước có nền kinh tế tăng
trưởng mạnh trên thế giới.
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin . Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội 2009.
2. Giáo trình Triết học Mác – Lênin. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2003.
3. C. Mác và Ph.Ăngghen Tồn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995.
4. V.I.Lênin Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
5. PGS.TS Tơ Huy Rứa, GS.TS Hồng Chí Bảo, PGS.TS TRần Khắc Việt, PGS.TS Lê
Ngọc Tịng. Q trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay.Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2009
6. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Bộ Nơng nghiệp và phát triển nơng thơn: Con
đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn Việt Nam, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002.
7. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia.
8. Ban chỉ đạo tổng kết lý luận Trung ương: Báo cáo kết quả bước đầu tổng kết một số
vấn đề lý luận – thực tiễn, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 1994.
9. Hồng Chí Bảo: Đổi mới – Những vấn đề triết học của phát triển xã hội và con
người Việt Nam (Tham luận Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất, Hà Nội, 1998,
Lịch sử Đảng, 10 – 1998).
10. Viện phát triển quốc tế Harvard: Việt Nam cải cách kinh tế theo hướng rồng bay,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc
11. Trang web .



12. Đảng cộng sản Việt Nam 80 năm xây dựng và phát triển, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2010.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×