TRƯỜNG
KHOA……………………
TIỂU LUẬN
Đề tài
Học thuyết Mac về hình thái kinh tế –
xã hội và sự vận dụng của đảng ta
trong thời kì đổi mới gắn với hoạt
động ngân hàng
TiÓu luËn triÕt
A.GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Mọi người đều biết, trong lịch sử tư tưởng nhân loại trước Mác đã có
không ít cách tiếp cận khi nghiên cứu sự phát triển của xã hội. Xuất phát từ
những nhận thức khác nhau, với những ý tưởng khác nhau mà có sự phân
chia lịch sử tiến hóa của xã hội theo những cách khác nhau. Chẳng hạn, nhà
xã hội học Vi – cô ở Italia (1668-1744) đã phân chia các thời kì phát triển
của xã hội giống như phân chia các giai đoạn của một đời người: thơ ấu,
thanh niên, thành niên và tuổi già. Nhà triết học duy tâm Hê-ghen (1770 -
1831) phân chia lịch sử xã hội loài người thành ba thời kì chủ yếu: thời kì
phương Đông, thời kì cổ đại và thời kì Giéc- ma- ni . Nhà xã hội chủ nghĩa
không tưởng Pháp Phu- ri- ê (1722-1837) chia lịch sử xã hội thành bốn giai
đoạn: giai đoạn mông muội, giai đoạn dã man, giai đoạn gia trưởng, giai
đoạn văn minh. Còn nhà nhân chủng Mỹ Hang- ri Moóc- găng ( 1818-1881 )
lại phân chia xã hội thành ba thời đại : thời đại mông muội , thời đại dã man
và thời đại văn minh
Mọi người cũng đã quen với những khái niệm : thời đại đồ
đồng , thời đại cối xay gió, thời đại máy hơi nước, và gần đây là các nền văn
minh : văn minh nông nghiệp, văn minh hậu công nghiệp.
Mỗi cách tiếp cận nêu trên có những điểm hợp lí nhất định,
và do đó đều có ý nghĩa nhất định, nhưng chưa nói lên bản chất sự phát triển
của xã hội một cách toàn diện, tổng thể, do đó mà còn hạn chế.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lí luận và tổng kết quá
trình lịch sử đã hình thành nên học thuyết về hình thái kinh tế -xã hội. Hình
thái kinh tế- xã hội là một khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để
chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất
đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng
sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những
mối quan hệ sản xuất.
TiÓu luËn triÕt
Là sự biểu hiện tập trung của quan niệm duy vật lịch sử, lí
luận về hình thái kinh tế – xã hội nghiên cứu lịch sử xã hội trên cơ sở xem
xét cả lực lượng sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, tức toàn
bộ các yếu tố cấu thành bộ mặt của một thời đại: chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, khoa học, kỹ thuật. Do đó, nó cắt nghĩa xã hội được sáng tỏ hơn, toàn
diện hơn, chỉ ra cả bản chất và quá trình phát triển của xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới của Đảng ta hiện nay, Đảng ta đã
vạch ra con đường phát triển của đất nước: "Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động "
Đề tài "Học thuyết Mac về hình thái kinh tế – xã hội và sự
vận dụng của đảng ta trong thời kì đổi mới gắn với hoạt động ngân
hàng" là một đề tài mang tính chất sâu rộng và có ý nghĩa vô cùng to lớn
trong nhận thức, đánh giá về đường lối chính sách. Nghiên cứu vấn đề đó là
một tất yếu khách quan vì nó không chỉ có ý nghĩa về phương pháp luận mà
còn có giá trị lớn trong thực tiễn.
TiÓu luËn triÕt
B.NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I.TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác như Lênin đánh giá là
thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học, trong đó cốt lõi là học thuyết
hình thái kinh tế-xã hội. Giai cấp tư bản không thể chấp nhận được học
thuyết này vì trong đó đã luận chứng một cách khoa học chặt chẽ chế độ tư
bản sẽ bị thay thế bằng chế độ cộng sản chủ nghĩa theo quy luật chung của
tiến hóa xã hội, mà chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác đã tìm ra.
Bằng sự nghiêm túc khoa học, chúng ta thấy rằng cho đến
nay chưa có học thuyết nào về tiến hóa xã hội có thể thay thế được học
thuyết Mác về hình thái kinh tế-xã hội. Học thuyết này đem đến cho chúng
ta cơ sở phương pháp luận để nhận thức quy luật phát triển xã hội và một
niềm tin khoa học vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, chủ nghĩa duy vật của Mác đã nhìn nhận học thuyết
hình thái kinh tế-xã hội là một quy luật phát triển của xã hội.
Từ đó ta đi tới khái niệm: hình thái kinh tế-xã hội
“ Hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy
vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một
kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất
định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng
được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy”
Khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội xuất phát từ
những nhận thức khác nhau, với những ý tưởng khác nhau mà có sự phân
lịch sử tiến hóa của xã hội theo những cách khác nhau.
Đơn cử như triết gia duy tâm Hê-ghen(1770-1831) phân kì
lịch sử xã hội loài người thành ba thời kì chủ yếu:Thời kì Phương Đông, thời
kì cổ đại và thời kì Grec-mani. Và như nhà xã hội không tưởng của Pháp là
Phu-ri-ê(1772-1831) chia lịch sử xã hội thành bốn giai doạn: giai đoạn mông
TiÓu luËn triÕt
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng thể quá
trình lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã vận dụng phép biện chứng
duy vật để nghiên cứu lịch sử xã hội, đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và
hình thành nên học thuyết về hình thái kinh tế-xã hội.
Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội với tư cách là: " Hòn đá
tảng" của xã hội học Mác Xít nói chung cho phép chúng ta hình dung quá
trình phát triển của lịch sử là quá trình lịch sử tự nhiên.
Loài người đã trải qua năm hình thái kinh tế-xã hội theo thứ tự
hình thái kinhtế-xã hội cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến,
tư bản chủ nghĩa và hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế-xã hội có tính lịch sử, có sự ra đời và diệt
vong. Chế độ xã hội lạc hậu sẽ mất đi, chế độ xã hội mới cao hơn sẽ thay thế
nó. Đó là khi phương thức sản xuất cũ đã trở nên lỗi thời, khủng hoảng do
mâu thuẫn của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kĩ thuật của mỗi hình
thài kinh tế-xã hội. Sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế, xét
cho cùng do lực lượng sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất qua các hình
thái kinh tế- xã hội nối tiếp nhau từ thấp lên cao.
Quan hệ sản xuất, quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất- là những quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định tất cả mọi
quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế- xã hội lại có một kiểu quan hệ
sản xuất của nó tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất là một tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội cụ
thể này với xã hội khác, đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển nhất
định của của lịch sử.
TiÓu luËn triÕt
Xuyên tạc, cắt xén nội dung học thuyết để phủ nhận học thuyết.
Điển hình của loại quan điểm này là quy lý luận của Mác thành quyết định
luật kinh tế với nghĩa coi kinh tế là yếu tố duy nhất quyết định sự vận động
và phát triển của xã hội. Điều này đã bị chính Ăng Ghen bác bỏ- Dùng chính
lý luận hình thái kinh tế- xã hội để bác bỏ sự ra đời của các nước xã hội chủ
nghĩa, cho rằng nó trái với quá trình lịch sử- tự nhiên rằng cách mạng tháng
Mười "Đẻ non" do chỗ dựa chưa có ''tất yếu kinh tế" cứ để qua chế độ tư
bản chủ nghĩa rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội rồi chủ nghĩa cộng sản theo đúng
quy luật". Lúc còn sống Lênin đã bác bỏ quan điểm này, song đến nay vẫn
tồn tại, kể cả biến thể của nó là loại quan điểm cho rằng chế độ xã hội chủ
nghĩa sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do hệ tư tưởng Mác-Lênin
sai trong đó có"lý luận hình thái kinh tế-xã hội". Đối với nước ta những năm
gần đây cũng có một số ý kiến tương tự, cho rằng ta chưa có"tất yếu kinh tế"
để lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa và để bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa.
Bác bỏ gián tiếp: Loại quan điểm này thể hiện dưới dạng:
Chứng minh chủ nghĩa xã hội không có tương lai, tất yếu bị diệt vong. Chủ
nghĩa tư bản là nấc thang cao nhất của lịch sử xã hội, nó tồn tại vĩnh viễn.
Muốn thay thế học thuyết hình thái kinh tế xã hội bằng học
thuyết khác. Điển hình cho loại quan điểm này là tiếp cận theo nền văn
minh. Xã hội phát triển từ nền văn minh nông nghiệp đến văn minh công
nghiệp và văn minh hậu công nghiệp. Sai lầm căn bản của cách tiếp cận này
là "coi trình độ phát triển khoa học, công nghệ, lực lượng sản xuất là yếu tố
quyết định duy nhất bỏ qua vai trò của quan hệ kinh tế, giai cấp, chế độ
chính trị".
TiÓu luËn triÕt
Qua đó chúng ta rút ra: ý nghĩa của học thuyết hình thái kinh
tế- xã hội và vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội vạch ra nguồn gốc, động
lực bên trong của sự phát triển xã hội, tìm ra nguyên nhân và cơ sở của sự
xuất hiện và biến đổi những hiện tượng xã hội đặt ra cơ sở lý luận cho khoa
học và xã hội học nâng nó lên thành khoa học thực sự. Chống lại quan điểm
duy tâm về lịch sử, coi xã hội là sự kết hợp có tính chất máy móc của nhiều
cá nhân và gia đình, coi sự vận động và phát triển của xã hội là lý do ý chí
của những nhà cầm quyền chi phối, coi kỹ thuật là cái chung quyết định tính
chất chế độ xã hội, là tiêu chuẩn khách quan phân biệt các hình thái kinh tế-
xã hội.
Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội vũ trang cho chúng ta
phương pháp khoa học để nghiên cứu sự phát triển xã hội qua các chế độ xã
hội khác nhau, hiểu rõ cơ cấu chung của hình thái kinh tế-xã hội và những
quy luật phổ biến tác động, chi phối sự vận động và phát triển của xã hội
.
Rõ ràng, học thuyết Mác về hình thái kinh tế -xã hội là một
thành tựu vĩ đại của khoa học xã hội, là một bước tiến khổng lồ trong
lịch sử tư tưởng nhân loại. Sự ra đời của học thuyết này là một cuộc
cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội.
Học thuyết Mác về hình thái kinh tế- xã hội đối lập với quan
niệm trừu tượng, duy tâm về xã hội. Nó bác bỏ cách miêu tả xã hội nói
chung, một xã hội cấu thành chỉ bởi những con người tự nhiên sinh vật. Nó
đánh đổ hẳn quan niệm cho rằng xã hội là một tổ hợp có tính máy móc, có
TiÓu luËn triÕt
thể biến đổi tùy ý theo đủ mọi kiểu, một tổ hợp sinh ra và biến hóa một cách
ngẫu nhiên.
Các- Mác đã vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội và
phân tích xã hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động và phát triển của nó.
Từ đó dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế-xã hội cao hơn là: Cộng sản
chủ nghĩa mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội.
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta, chúng ta vẫn giữ vững
mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng
của thời đại,và tuy nhiên chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh
tế phổ biến là sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nên phải trải qua
nhiều khâu trung gian, nhiều bước quá độ. Chúng ta phải trải qua những
bước đi tất yếu mà không thể bỏ qua được. Chúng ta phải kế thừa và phát
triển để tạo ra những tiền đề cần thiết cho chủ nghĩa xã hội trên tất cả các
mặt: từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, từ cơ sở hạ tầng đến kiến
trúc thượng tầng.
II. SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG HIỆN NAY GẮN
VỚI HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
1. Thực trạng kinh tế:
1.1 Những thành tựu và tiến bộ
:
Nền kinh tế nước ta tiếp tục phát triển và đạt mức tăng
trưởng khá.
TiÓu luËn triÕt
Năm 1997, GDP tăng 9% cao hơn bình quân của năm trước là
8,2%. Năm 1999, tăng 4,7%- 5%.
Theo số liệu Ban chấp hành Trung ương Đảng- Hội nghị lần
thứ VIII- khóa 8 thì mức độ thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu của nền kinh tế
nước ta năm 1999 như sau:
- Tổng sản phẩm trong nước(GDP) tăng 4,7%- 5%
- Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5,2%- 5,5%
- Sản lượng lương thực quy thóc đạt 33,8 triệu tấn.
- Giá trị sản lượng công nghiệp tăng 10,3%- 10,5%
- Giá trị các ngành dịch vụ tăng 3,5%- 3,8%
- Kim ngạch xuất khẩu tăng 14,3%
- Lạm phát 2%
- Bội chi ngân sách 4,9%(so với GDP)
- Số hộ đói nghèo giảm 40 vạn hộ.
- Tạo việc làm mới cho 1,2 triệu người.
- Số tỉnh hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ là
58/61 tỉnh.
-Trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn và thách thức nhưng nền
kinh tế vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng. Mặc dù GDP năm 1999 tăng 5%
so với năm 1998 có kém hơn so với tốc độ của các năm trước nhưng mức
tăng trưởng đã nhích dần từng tháng, từng quý: Quý I, GDP tăng 4,2%- Quý
II tăng 4,5%- Quý III tăng 5% làm xuất hiện khả năng chặn đà giảm sút,
tuy còn phải phấn đấu rất cao mới biến khả năng đó thành hiện thực.
TiÓu luËn triÕt
Đặc biệt giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5,2% so với năm
1998, mức tăng cao nhất từ trước tới nay và vượt mục tiêu Quốc hội đề ra.
Với sản lượng lương thực 33,8 triệu tấn đủ khẳng định khả năng của ngành
nông nghiệp với nền kinh tế quốc dân là rất lớn. Cùng với nông nghiệp trồng
trọt các ngành khác như chăn nuôi, đánh bắt thủy sản, hải sản đều có mức
tăng trưởng khá và ổn định.
Về công nghiệp, mặc dù chịu ảnh hưởng của các cuộc khủng
hoảng trên thế giới, cũng như khu vực, thị trường bị thu hẹp, đầu tư nước
ngoài giảm nhưng mức tăng trưởng vẫn duy trỳ trên 10%, đó là một sự cố
gắng lớn của toán ngành công nghiệp. Nhất là sản phẩm quan trọng có nhu
cầu lớn và thị trường đạt mức tăng trưởng khá so với năm 1998: Dầu thô
tăng 20,5%, điện tăng 8,2%, thép tăng 11,8%, may mặc tăng 12%, xe đạp
tăng 16,3%, động cơ Diêzen tăng 31%
Các cân đối kinh tế vĩ mô được duy trỳ tạo điều kiện cho phát
triển.
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao hơn kế hoạch dự kiến, thu
hẹp đáng kể chênh lệch xút nhập khẩu.
Trong điều kiện, bối cảnh kinh tế thế giới giảm sút, thị trường
tiêu thụ bị thu hẹp, giá hầu hết các mặt hàng giảm mạnh nhưng tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu cả nước năm 1999 vẫn đạt 10,7 tỷ USD, vượt hai lần
so với kế hoạch dự kiến.
Kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 11,3 tỷ USD giảm 2% so
với năm 1998 làm cho mức nhập siêu khoảng 600 triệu USD, bằng 5,6% so
TiÓu luËn triÕt
với kim ngạch xuất khẩu. Đây là mức thấp nhất trong nhiều năm qua, nhờ có
cán cân thanh toán quốc tế cả năm có được cải thiện, bội thu khá làm cho dự
trữ ngoại tệ được tăng lên.
Trong bối cảnh đầu tư nước ngoài giảm do hậu quả của
khủng hoảng kinh tế, tài chính trong khu vực và trên thế giới, với tư tưởng
chỉ đạo của TW4 và nghị quyết TW6 lần 1, chúng ta đã có một bước tiến
trong việc phát huy nội lực để bù đắp và bổ xung một phần thiếu hụt cho đầu
tư phát triển do sự giảm sút của đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Đánh giá sơ bộ cho thấy tổng đầu tư xã hội năm 1999 đạt 105
ngàn tỉ (tăng 9% so với năm 1998), đây là một sự cố gắng lớn. Nét nổi bật là
trong khi vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài giảm từ 24,3 ngàn tỉ (năm 1998)
xuống còn 18,8 ngàn tỉ đồng (năm 1999) nhưng tổng vốn đầu tư phát triển
vẫn tăng 9%. Điều đó nói lên tư tưởng phát huy nội lực của các Nghị quyết
Trung ương bước đầu đi vào cuộc sống.
Nguồn vốn đầu tư phát triển xã hội đã được tập trung đầu tư
nhiều hơn cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển công nghiệp chế
biến và các ngành công nghiệp then chốt, xây dựng cơ sở hạ tầng, giao
thông, bưu điện, giáo dục, khoa học công nghệ, y tế, văn hóa
Thu ngân sách có nhiều cố gắng đạt dự toán năm. Việc thông
qua và đưa vào áp dụng lần đầu tiên ở nước ta thuế V.A.T là một cố gắng
lớn, bước đầu có sự chuyển biến tích cực ở một số lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh.
TiÓu luËn triÕt
Như vậy, mặc dù đứng trước hoàn cảnh kinh tế thế giới giảm
sút, khủng hoảng kinh tế thế giới và khu vực, nhưng nền kinh tế nước ta cơ
bản có sự phát triển và đổi sắc, góp phần nâng cao cuộc sống của người dân,
ổn định xã hội. Thành tựu đó là phần góp của mọi người dân lao động, công
nhân sản xuất và sự lãnh đạo tài tình của Đảng về mọi mặt của xã hội.
1.2 .Những mặt yếu kémvà tồn tại:
Mặc dù duy trì được sự ổn định trong bối cảnh phức tạp,
song tình hình kinh tế xã hội còn chứa đựng những yếu tố đáng lo ngại.
- Nhịp độ tăng trưởng kinh tế ở mức thấp từ năm 1990 đến
nay, cụ thể: Giai đoạn 1991-1995 GDP tăng 8,2%, năm 1996 tăng 9,3%,
năm 1997 tăng 8,2%, năm 1998 tăng 5,8%, năm 1999 GDP chỉ tăng 4,7%-
5% và vẫn trên đà giảm sút, mặc dù nhịp độ giảm sút có chậm lại. Nếu
không có biện pháp đủ mạnh “chặn đà suy giảm và phục hồi nhịp độ tăng
trưởng” cao thì khó có khả năng đạt được những mục tiêu chính sách đến
năm 2020 là cơ bản biến nước ta thành nước công nghiệp và gần đây nhất là
các chỉ tiêu kinh tế năm 2000.
Mức sản xuất bình quân đầu người còn thấp so với các
nước trong khu vực và trên thế giới, sản phẩm làm ra khó tiêu thụ do thị
trường ngày càng thu hẹp và càng khó tính trong khi chúng ta chưa bắt kịp
được với thời thượng.
Các biện pháp kích cầu mới được triển khai chưa phát huy
được tác dụng như mong muốn làm cho thị trường kém sôi động, một số sản
phẩm vẫn còn tồn đọng, dư thừa.
TiÓu luËn triÕt
Khu vực dịch vụ tăng quá quá chậm, tốc độ tăng trưởng
chỉ đạt 3,5-3,8% (kế hoạch đề ra là 4-5%) thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng
năm trước là 6%. Ngành thương nghiệp chiếm tỉ trọng cao thong lĩnh vực
dịch vụ nhưng chỉ đạt mức tăng trưởng dưới 2%.
Tốc độ tăng tỉ trọng vốn đầu tư toàn xã hội đang có xu
hướng giảm dần: từ 28%GDP (năm 1997) xuống còn 26,7% (năm1998) và
26,3% (năm 1999). Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vẫn tiếp tục giảm
mạnh. Điều này nếu không được khắc phục sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tốc
độ tăng trưởng kinh tế ở những năm đầu thế kỷ XXI.
Chỉ số giá tiêu dùng giảm mạnh dẫn đến hàng hóa ứ đọng,
thị trường kém sôi động, cơ hội và môi trường đầu tư còn bấp bênh. Tỉ lệ nợ
quá hạn trong hệ thống tín dụng vượt quá giới hạn an tòan (mức an toàn là
5%, nhưng hiện nay đã lên tới 14%). Trong số nợ quá hạn thì trên 7% là nợ
khó đòi. Đây là vấn đề bức xúc trong ngành tín dụng-ngân hàng.
Một vấn đề được toàn xã hội quan tâm đó là tình trạng
thất nghiệp. Hiện nay thất nghiệp ở Hà Nội đã dẫn tới nhiều tệ nạn xã hội vì
tỷ lệ thất nghiệp đã lên tới 10%, Thành phố Hồ Chí Minh 7%. Đặc biệt ở
nông thôn số thời gian lao động mới được sử dụng khoảng 70%.
* Một số vấn đề cản trở sự phát triển:
Vấn đề chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp vẫn
là tồn tại lớn nhất của nền kinh tế nước ta, vấn đề này đã được hội nghị trung
ương khóa VIII chỉ ra song trong hai năm qua không có chuyển biến tích
TiÓu luËn triÕt
cực. Biểu hiện rõ nét nhất là chi phí vật chất trong việc sản xuất kinh doanh
có chiều hướng tăng cao và khó tiêu thụ. Chi phí sản xuất vật chất toàn bộ
các ngành kinh tế chiếm khoảng 48% trong giá trị sản xuất năm 1998 và
tăng lên 50% trong năm 1999.
Sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta đã thấp lại càng
thấp hơn khi các nền kinh tế bị khủng hoảng trong khu vực đang có dấu hiệu
phục hồi. Điều này chúng ta không thể đổ lỗi cho các ngành sản xuất kinh
doanh vì trình độ phát triển của kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội: Điện, nước,
đường, bến cảng, viễn thông ở nước ta còn thấp.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm nên chưa phát huy
được nguồn lực các thành phần kinh tế trong từng ngành và từng vùng để
phát triển. Đặc biệt khu vực kinh tế Nhà nước: Chỉ có 21% các doanh
nghiệp, thậm chí 15-20% có nguy cơ bị phá sản. Việc thực hiện cổ phần hóa
và các bện pháp sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước còn nhiều hạn chế.
Ngân sách Nhà nước luôn trong tình trạng căng thẳng bởi
vì quy mô kinh tế còn quá nhỏ bé, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp, tỷ
lệ thất thu lớn dẫn tới chi đầu tư phát triển ngân sách chủ yếu còn phải dựa
vào nguồn vay trong nước và nước ngoài.
Chất lượng tín dụng thấp cũng là tồn tại lớn cản trở phát
triển bền vững của nền kinh tế nước ta. Nợ quá hạn cao hơn mức dự kiến
(5%- mức dự kiến). Gây khó khăn cho ngân sách quốc gia.
Chúng ta chủ trương thực hiện cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, nhưng đến nay các yếu tố của kinh tế thị trường chưa
TiÓu luËn triÕt
hình thành đồng bộ, môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng chưa được tạo
lập đầy đủ. Trong chính sách, thể chế quản lý của Nhà nước còn tồn tại
nhiều hình thức hành chích bao cấp, vẫn mang nặng cơ chế "Xin -cho", gắn
với thủ tục phiền hà thiếu tính công khai, nhưng lại có nhiều mặt buông lỏng
quản lý, không giữ được trật tự kỷ cương. Tình hình đó khiến cho kinh tế
vận hành trục trặc, không ăn khớp
Từ những nhận định và đánh giá ấy ta đi tìm nguyên
nhân của thành tựu thắng lợi cũng như những mặt tồn tại và yếu kém.
1.3 . Đánh giá chung nguyên nhân
Đánh giá khái quát tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế -
xã hội năm 1999 kết luận của hội nghị Trung ương 8 ghi rõ:
- Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội năm 1999 theo tinh thần nghị quyết Trung ương 4, Trung ương 6 (lần 1)
và nghị quyết 06 của Bộ chính trị, mặc dù gặp phải khó khăn và thách thức
to lớn do những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới chúng ta vẫn duy
trì được tốc độ tăng trưởng khoảng 5%.
Theo số liệu thống kê của bá Nguyễn Thị Hằng - Đăng
trên tạp chí Cộng sản 2/2000.
Hàng năm chúng ta giải quyết việc làm mới cho 1,2 -1,3
triệu người lao động có trình độ nghề.
TiÓu luËn triÕt
Đời sống của tuyệt đại bộ phận nhân dân được cải thiện
rõ rệt. Tỉ lệ đói nghèo cả nước đã giảm từ 20,3%(năm 1995)- xuống 14%
(1999).
Bình quân mỗi năm giảm 300 ngàn hộ (2% tổng số hộ
đói nghèo) 805 người có công đã có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống
trung bình của dân cư cùng xã, phường nơi cư trú.
Để đạt được những thành tựu đó là do: Sự nỗ lực, quyết
tâm cao của toàn dân, toàn Đảng, sự cố gắng của các ngành, các cấp thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4, và Nghị quyết Trung ương 6 (lần 1).
Cơ chế, chính sách, pháp luật đã được đồng bộ hóa thêm
một bước. Công tác chỉ đạo, điều chỉnh của Chính phủ, các ngành, các cấp
có tiến bộ. Bám sát kịp thời những biến động bất thường trong tình hình
kinh tế - xã hội.
Một số mặt tồn tại và yếu kém của Đảng- Nhà nước ta xuất
phát từ các nguyên nhân sau:
Công tác dự báo có cố gắng nhưng cũng có nhiều thiếu sót là
một trong những nguyên nhân dẫn đến cơ cấu đầu tư kém hiệu quả. Khó
khăn ngày càng tồn đọng là áp lực đè nặng lên sự phát triển.
Các chính sách, cơ chế được ban hành chưa thực sự đồng bộ,
hợp với thực tiễn và thực hiện các đường lối kinh tế vừa chậm và vừa không
đến nơi, đến chốn.
TiÓu luËn triÕt
Thu nhập dân cư thấp, thị trường bị thu hẹp, nên sức mua bị
hạn chế, giá thị trường giảm liên tục, sản xuất có dấu hiệu bị đình trệ, hàng
tồn kho tăng nên kìm hãm sự phát triển.
Các doang nghiệp trong nước chậm chuyển biến, không gắn
kết sản xuất với thị trường trong từng sản phẩm, dẫn đến tình trạng nhiều
sản phẩm đầu tư theo hướng phát triển năng lực sản xuất không chú ý tới
đầu ra của sản phẩm, gây ứ thừa, tồn kho, thiệt hại tài sản của Nhà nước và
doanh nghiệp.
Nguồn lực phát triển của đất nước chưa đủ sức điều chỉnh cơ
cấu nền kinh tế theo hướng phát huy lợi thế trong ngành, vùng.
Huy động vốn trong dân cư còn thấp nên dự trữ tiền tệ trong
tín dụng ngân hàng chưa cao, chưa phát huy được những tiềm lực kinh tế.
Cuối cùng là bộ máy quản lý điều hành còn cồng kềnh trùng
lặp chức năng. Sự phối hợp giải quyết các công việc giữa các ngành, các cấp
chưa chặt chẽ. Phân công công việc chưa rõ ràng, chưa đảm bảo tập trung
thống nhất lại vừa thiếu dân chủ trong điều hành nên gây nhiều chủ trương,
quyết định đúng đắn không được tổ chức triển khai kịp thời nên hiệu quả
kém.
Trên đây ta đã nghiên cứu thực trạng kinh tế Việt Nam trong
những năm đổi mới đặc biệt là năm 1998-1999 là hai năm đánh dấu những
bước ngoặt kinh tế của thế kỷ XX mở đầu cho những định hướng kinh tế
trong tương lai. Với những thành tựu đã đạt được là nguồn cổ vũ khích lệ
cho các cấp, các ngành để cùng nhau tiến bộ. Nhưng những yếu kém và tồn
TiÓu luËn triÕt
tại cũng là những bài học đầy ý nghĩa cần phải được nghiên cứu lại một cách
hòan thịên bộ máy Nhà nước và sau nữa là định hướng đường lối phát triển
cuả đất nước nhằm biến nước ta thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, trở thành một
nước công nghiệp để có thể "sánh vai" với những cường quốc năm châu -
như ý nguyện của Bác Hồ vĩ đại.
Với những tiên đề tiền lệ đó Đảng ta có những chính sách,
chủ trương gì để phát triển đất nước trong thời kì đổi mới ?
Một trong những chính sách và chủ trương lớn của Đảng, của
Nhà nước là: ta tiếp tục nghiên cứu:
2.Đường lối lãnh đạo của Đảng.
Với chủ trương "''Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động
của hệ thống ngân hàng ở nước ta'', Đảng ta đã vận dụng linh hoạt học
thuyết hình thái kinh tế-xã hội vào thực tiễn và lý luận nhằm phát triển nền
kinh tế nước ta.
2.1 Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở việt nam
Những nhược điểm và sai lầm của cơ chế quản lý kinh tế
theo mô hình kinh tế hóa tập trung thật ra đã được Đảng và Nhà nước ta phát
hiện từ lâu. Ngay từ 1972 Hội nghị TW Lần thứ 20( khóa III )đã dề ra “Xóa
bỏ lối quản lý hành chính cung cấp”. Đặc biệt từ sau khi thống nhất đất
nước, những ý đồ chủ quan , duy ý chí , muốn áp đặt cơ chế quản lý tập
trung quan liêu bao cấp trên cả nước đã gặp không ít những phản ánh từ cơ
sở ,địa phương , nhất là ở các tỉnh miền Nam. Các cấp lãnh đạo của Đảng và
TiÓu luËn triÕt
nhà nước, các nhà nghiên cứu và quả lý kinh tế đều nhận thức được rằng
trong suốt một thời gian quá dài chúng ta điều hành nền kinh tế chỉ bằng
những mệnh lệnh hành chính ,bằng bằng những Nghị quyết của Đảng là chủ
yếu mà không coi trọng đầy đủ các quy luật khách quan, coi nhẹ lợi ích kinh
tế, quan hệ thị trường, quan hệ hàng hóa tiền tệ. Chúng ta từ lâu cũng đã
nhìn thấy tính chất bao cấp tràn lan trong cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, đơn thuần dựa vào chế độ cấp phát và giao nộp, hạch toán
kinh tế chỉ là giả tạo hình thức chính vì vậy mà các cơ sở kinh doanh luôn ở
trong tình thế bị gò bó, thụ động và ỷ lại mất hết động lực kinh tế, không
quan tâm tới năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế.
Chính vì vậy đỏi mơí chính sách kinh tế ở việt nam là một yếu tố cấp thiết
cần sớm được thực hiện.
2.2. Đổi mới quản lý kinh tế tất yếu phải đổi mới hệ thống
tiền tệ, tín dụng ngân hàng
Nền kinh tế hiện đại thực chất là nền kinh tế tiền tệ nền
kinh tế đã được tiền tệ hóa cao độ. Những công trình nghiên cứu về các nước
công nghiệp mới trong khu vực trong những năm gần đây để đi đến một kết
luận thống nhất là nền kinh tế nào được tiền tệ hóa cao thì nền kinh tế đó có
điều kiện tăng trưởng tốt nhất.
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi sang
một nền kinh tế thị trường về thực chất cũng là một quá trình tiền tệ hóa mọi
hoạt động của đất nước.
TiÓu luËn triÕt
Trong cơ chế quản lý hành chính tập trung quan liêu bao
cấp như văn kiện đại hội VI đã vạch rõ: “ Cơ chế đó chưa chú ý đầy đủ đến
quan hệ hàng hóa- tiền tệ và hiệu quả kinh tế, dẫn tới cách quản lý và kế
hoạch hóa thông qua chế độ cấp phát và giao nộp theo quan hệ hiện vật là
chủ yếu”. Cơ chế bao cấp ở nước ta thể hiện qua bao cấp qua giá, bao cấp
qua chế độ lương hiện vật, bao cấp qua chế độ cấp phát vốn, kể cả vốn tín
dụng ngân hàng với lãi suất rất thấp.
Rõ ràng là trong một cơ chế quản lý như vậy mọi động
lực kinh tế đều bị triệt tiêu, các hoạt động kinh tế không thể điều tiết và kiểm
soát được, tính năng động và sáng tạo bị tê liệt, và hiệu quả kinh tế thật sự
thấp kém, mọi hiện tượng tiêu cực và rối ren trong xã hội đều phát sinh từ
đó. Quan hệ hàng hóa tiền tệ trong điều kiện đó, dù có khơi dậy và áp đạt
bằng mệnh lệnh hành chính cũng không thể nào phát huy được hiệu quả.
Như vậy, quá trình đổi mới cơ chế quản lý đã tạo điều kịên cho quan hệ
hàng hóa phát sinh và phát triển tạo quá trình đổi mới hệ thống tiền tệ ,tín
dụng, ngân hàng. Nhưng ngược lại quá trình đổi mới hệ thống tiền tệ, tín
dụng, ngân hàng lại đóng vai trò “bà đỡ” trong tiến trình đối mới kinh tế.
Chính vì vậy, trong điều kiện kinh tế của ta hiện nay, như
trong nhiều Nghị quyết của Đảng đã đánh giá, còn ở trong tình trạng phân
tán, chia cắt, cơ chế thị trường đang ở dạng hoang sơ , quá trình đổi mới
kinh tế còn phải tiến hành trong một thời gian tương đối dài mới trở nên
tương đối hoàn chỉnh, quá trình đổi mới hệ thống tiền tệ tín dụng, ngân
hàng nhất thiết phải được coi như một khâu quan trọng và có ý nghĩa quyết
định trong công cuộc đổi mới cơ chế kế hoạch và quản lý kinh tế trong giai
đoạn hiện nay. Ngân hàng phải thực sự là một tác nhân thúc đẩy mạnh mẽ
quá trình hoàn thiện cơ chế thị trường hội nhập vào nền kinh tế khu vực và
TiÓu luËn triÕt
trên thế giới, thực sự là “bà đỡ” của tiến trình đổi mới kinh tế theo những
định hướng mà Đảng đã đề ra.
2.3. Tiếp tục đổi mới và chấn chỉnh hệ thống ngân hàng
Trong nhiệm vụ chấn chỉnh và lành mạnh hóa hệ thống
ngân hàng, cùng với việc xúc tiến mạnh hơn các biện pháp theo chương
trình đã đề ra, cần giả quyết vấn đề bức xúc hiện nay là tỉ lệ quá cao của nợ
quá hạn đang gây ách tắc, ứ đọng vốn trong hoạt động tín dụng. Giải pháp
cơ bản và lâu dài là đổi mới cơ chế lãi suất, đồng thời đòi hỏi các doanh
nghiệp phải làm ăn có lãi, trả được nợ, nếu mất khả năng thanh tóan thì áp
dụng luật phá sản, kể cả với doanh nghiệp nhà nước. Hệ thống ngân hàng
thương mại mà hạt nhân là các ngân hàng phải được chấn chỉnh và tổ chức
lại để kinh doanh có hiệu quả, thực hiện đầy đủ quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm trong hoạt động tín dụng, chấm dứt việc ngân hàng thương mại cho
vay cho vay theo lệnh hành chính. Chính phủ tạo nguồn vốn để hỗ trợ việc
giải quyết các khoản nợ quá hạn, có cơ chế xử lý tài sản thế chấp bị xiết nợ
đồng thời triển khai xây dựng công ty mua bán nợ, tạo cơ sở để sớm hạ thấp
tỷ lệ nợ quá hạn xuống giới hạn cho phép, tăng khối lượng và vòng quay vốn
qua ngân hàng.
2.4.Xây dựng chiến lược cải tổ hệ thống ngân hàng.
Để công cuộc cải tổ thu được nhiều kết quả mong muốn
đòi hỏi không chỉ thực hiện cải tổ toàn bộ hệ thống tài chính nói chung mà
còn phải cải tổ hoạt động của các ngân hàng riêng lẻ.
TiÓu luËn triÕt
2.4.1.Đánh giá:
Để xây dựng một chiến lược hoạt động và xác định công
cụ nhằm đạt được các mục tiêu của nó, các nhà hoạch định chính sách cần
phải đánh giá điều kện tài chính và hoạt động của các ngân hàng riêng lẻ và
những vấn đề trong hệ thống ngân hàng nói chung. Trong đánh giá cần phân
loại các ngân hàng có khả năng đứng vững, có thể đưa vào chương trình cải
tổ và những ngân hàng không đứng vững cần phải đóng cửa.
2.4.2.Phân bổ thiệt hại:
Các khoản thiệt hại của các ngân hàng vỡ nợ trong những giai đoạn đầu của
quá trình cải tổ cần được phân bổ một cách rõ ràng và công bằng đến mức có
thể. Các khoản thệt hại trước tiên phải được bù đắp bằng vốn tự có để có thể
nâng cao động cơ bảo toàn vốn của giới chủ ngân hàng tương lai.
2.4.3.Hoạch định chiến lược:
Những thiếu sót trong quản lý và điều hành ngân hàng
là những nguyên nhân chủ yếu gây nên các vấn đề của hệ thống ngân hàng.
Do đó cải tổ hoạt động các ngân hàng riêng lẻ phải là một bộ phận không thể
tách biệt của chiến lược.
Đối với hệ thống ngân hàng như một thực thể thống
nhất, điều đó có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động của ngân hàng là phải
xây dựng khung pháp lý, thể chế đầy đủ và đồng bộ tăng cường cơ chế điều
tiết giám sát và cơ cấu của khu vực ngân hàng không dược ngăn cản sự cạnh
tranh và tìm kiếm lợi nhuận trong kinh doanh.
TiÓu luËn triÕt
2.4.4. Các công cụ thực hiện cải tổ:
Mục tiêu cải tổ tài chính nhằm phục hồi khả năng thanh
toán của các ngân hàng bằng cách lành mạnh hóa bảng cân đối tài sản và báo
cáo thu nhập để đảm bảo các tiêu chuẩn về vốn, khả năng sinh lời, tăng
cường khả năng thanh toán, quản lý rủi ro.
3/ ý nghĩa rút ra đối với bản thân:
Nhận thức được vai trò to lớn của “hoạt động đổi mới
hệ thống ngân hàng” Đảng và Nhà nước ta luôn ra sức phát triển và xây
dựng, nhằm phục vụ lý tưởng xã hội chủ nghĩa cao cả là: Vì con người, do
con người. Chính vì lẽ đó phát huy nhân tố con người, luôn là mục tiêu hàng
đầu và thiết thực nhất. Đảng và Nhà nước ta đã luôn cố gắng không mệt mỏi
để đấu tranh vì nhân quyền và nhân lợi đi đôi với giáo dục đào tạo vì một
tương lai tươi sáng hơn.
Là một sinh viên khoa Ngân Hàng Tài Chính, KTQD,
em hiểu ý nghĩa của học thuết kinh tế-xã hội có tác dụng như thế nào đối với
bản thân và luôn tự nhủ mình phải làm gì để học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội đi sâu hơn vào cuộc sống.
Sống và học tập dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, mỗi
sinh viên chúng ta được thừa hưởng những thành quả to lớn mà chế độ đã
TiÓu luËn triÕt
mang tới. Đó là một cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh với một hệ thống
trường lớp từ thấp đến cao. Cộng với một đội ngũ thầy cô giáo được đào tạo
căn bản và chuyên sâu là một nguồn tài sản vô giá của quốc gia bởi nguồn
nhân lực của một nước mạnh hay yếu là phụ thuộc vào giáo dục và đào tạo.
Thoát khỏi các cuộc chiến tranh liên miên, đặc biệt là
sau chiến thắng năm 1975 cả nước ta đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa với
một cơ sở hạ tầng bị tàn phá gần hết. Nhưng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
chúng ta từng bước xây dựng lại đất nước: " Đàng hoàng hơn, to đẹp hơn"
theo như mong muốn của Bác và toàn thể mọi người dân Việt Nam.
Được thừa hưởng thành quả to lớn mà Đảng đã mang lại cho
mỗi sing viên chúng em được sống và học tập trong điều kiện hòa bình của
đất nước và chứng kiến sự đổi thay từng ngày, từng giờ trên mọi mặt của đời
sống, kinh tế - xã hội. Hơn bao giờ hết chúng em tự hỏi mình đã làm gì để
góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp đổi mới đó.
Là sinh viên năm thứ nhất, tư duy lý luận và tư duy thực tế
chưa hoàn chỉnh nên nhận định về thực tiễn của em chưa thật sát thực,
nhưng với sự giảng dạy nhiệt tình của thầy cô em thấy được cái bản chất tốt
đẹp của chế độ mà Đảng ta xây dựng và phát triển. Thấy được vấn đề cốt
yếu của quá trình xây dựng và phát triển và để góp phần nhỏ bé của mình
vào quá trình đó, em cũng như bao bạn bè khác, phải cố gắng phấn đấu học
tập trong trường nhằm tiếp thu những kiến thức để sau này có thể đứng vào
hàng ngũ của Đảng nhằm xây dựng lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Học tập là vấn đề trọng tâm nhưng đi đôi với nó, chúng ta
phải biết hòa vào thực tế để không bị lạc hậu với nền văn hóa hiện tại. Đồng
TiÓu luËn triÕt
thời phải biết "Gạn đục khơi trong " tiếp thu những văn minh tiên tiến của
nhân loại và chống những tư tưởng phản động, làm tổn hại đến nền hòa bình
dân tộc, phá vỡ nền sản xuất xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ đó thật là lớn lao,
nhưng đặt ra trách nhiệm đối với mỗi con người, mỗi học sinh, sinh viên mà
là sinh viên Kinh tế quốc dân thì trách nhiệm lại càng lớn hơn. Vì khi ra
trường, với tấm bằng cử nhân kinh tế sẽ đi vào mọi mặt của đời sống kinh tế
- xã hội. Là những nhà kinh tế trong tương lai thì tất nhiên phải hiểu kinh tế
mà những việc cần làm trước mắt là trau dồi kiến thức đã học, chịu khó
nghiên cứu tìm hiểu tài liệu và đón nhận thông tin cập nhật về các lĩnh vực
đời sống kinh tế - xã hội.
Cùng với chủ trương "Phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa ".
Trong sự nghiệp đổi mới của Đảng ta hiện nay, nhiều vấn đề cũng đượcđặt
ra, mà giải quyết được nó phải có sự đồng lòng, đồng sức của tất cả mọi
người như: Vấn đề nổi cộm là tình trạng phân biệt chủng tộc, khác biệt tôn
giáo , vấn đề môi sinh môi trường và đặc biệt là hòa bình và ổn định thế
giới, ổn định trong nước. Nhưng chúng ta tin rằng với chủ trương và đường
lối chíng sách của Đảng, mọi vấn đề sẽ được giải quyết, tạo mọi hành lang
pháp lý thuận lợi cho cả xã hội phát triển.
C. KẾT LUẬN.
Thực tế đã khẳng định rằng, cho đến nay học thuyết
của Mác về hình thái kinh tế -xã hội vẫn là quan niệm duy nhất khoa học và
cách mạng để nghiên cứu phân tích lịch sử và nhận thức các vấn đề trong xã