Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Đỗ Bích Thúy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.99 KB, 9 trang )

Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (2), 2017

NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT ĐỖ BÍCH THÚY
Trần Thị Quỳnh Giang*
Trường Đại học Khoa học Huế
*Tác giả liên lạc:
(Ngày nhận bài: 01/8/2017; Ngày duyệt đăng: 30/9/2017)
TĨM TẮT
Đỗ Bích Thúy là một nhà văn dù tuổi đời còn khá trẻ nhưng lại là một trong những nhà
văn tài năng, sung sức, là một đại diện, một hiện tượng tiêu biểu đang được sự chú ý
trong văn học đương đại Việt Nam. Dù mới xuất hiện trên văn đàn chưa lâu, nhưng với
giọng văn ấn tượng và tài năng nghệ thuật độc đáo, Đỗ Bích Thúy đã gặt hái được nhiều
thành công với nhiều giải thưởng quan trọng. Nếu như truyện ngắn là thể loại giúp Đỗ
Bích Thúy đánh dấu tên tuổi của mình trong làng văn và tạo được nhiều ấn tượng sâu
sắc trong lòng độc giả, thì tiểu thuyết là thể loại mà chị đã khẳng định được tài năng và
phong cách cũng như bản lĩnh nghệ thuật của mình với những tiểu thuyết nổi tiếng như:
Bóng của cây sồi, Cánh chim kiêu hãnh, Cửa hiệu giặt là, Chúa đất. Góp phần đắc lực
trong việc thể hiện thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Đỗ Bích Thúy, bên cạnh thế giới
nhân vật cịn có sự đóng góp của những phương thức nghệ thuật đặc sắc, đặc biệt là
ngôn ngữ. Với việc sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, đậm chất văn hóa vùng miền giúp nhà
văn đi sâu vào thế giới nội tâm, khắc họa tâm lý nhân vật sâu sắc và tồn diện.
Từ khóa: Đỗ Bích Thúy, Giọng điệu, đương đại Việt Nam.
NARRATIVE LANGUAGE IN THE NOVEL DO BICH THUY
Tran Thi Quynh Giang*
Hue University College of Sciences
*Corresponding Author:
ABSTRACT
Do Bich Thuy is a writer who is quite young but one of the most talented writers, a
representation, a phenomenon typical of the contemporary Vietnamese literature.
Although appearing on the literature is not long, but with impressive voice and unique
artistic talent, Do Bich Thuy has achieved many success with many important awards.


If the short story is to help Do Bich Thuy mark her name in the literature and make a
deep impression in the readers, the novel is the type that she has confirmed the talent
and style. As well as her artistic field with the famous novels such as: Ball of oaks, Pride
Birds, Laundry Shop, Lord Land... contributing strongly to the art world in Do Bich
Thuy, besides the character world, there is also a contribution to the art form, especially
language. With the use of flexible language, the cultural content of the region helps her
go deeply into the inner world, depicting profound and comprehensive character
psychology.
Keywords: Do Bich Thuy, Tunes, Vietnamese contemporary.
là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang
tính đặc trưng của văn học. Khơng có ngơn
ngữ thì khơng thể có tác phẩm văn học.
Ngơn ngữ là yếu tố đầu tiên mà nhà văn sử
dụng trong quá trình chuẩn bị và sáng tạo
tác phẩm, nó cũng là yếu tố xuất hiện đầu

TỔNG QUAN
M.Gorki đã viết: “Yếu tố đầu tiên của văn
học là ngơn ngữ, cơng cụ chủ yếu của nó
và – cùng với các sự kiện, các hiện tượng
của cuộc sống - là chất liệu của văn học”
(Hà Minh Đức, 1999). Ngơn ngữ, đó chính
60


Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (2), 2017

tiên trong sự tiếp xúc của người đọc với tác
phẩm.
Ngơn ngữ trần thuật

Sau năm 1986, tiểu thuyết có sự đổi mới
trên nhiều phương diện, trong đó có ngơn
ngữ. Trần thuật là thành phần lời của tác
giả, của người trần thuật. Ngơn ngữ trần
thuật giữ vai trị then chốt trong phương
thức tự sự và là yếu tố cơ bản thể hiện
phong cách nhà văn, truyền đạt cái nhìn,
giọng điệu và cá tính của nhà văn. Bên
cạnh đó, ngơn ngữ trần thuật bộc lộ khá rõ
đặc trưng văn hóa vùng miền, chuyển tải
nhiều giá trị văn hóa nằm sâu dưới lớp
ngơn ngữ. Ngơn ngữ trần thuật trong tiểu
thuyết Đỗ Bích Thúy không quyền uy, cao
đạo, cũng không trần trụi mà là thứ ngôn
ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi với cuộc
sống đời thường. Ngôn ngữ trần thuật
trong tiểu thuyết của Đỗ Bích Thúy vì thế
đa dạng và sinh động.
Đỗ Bích Thúy đã khẳng định tên tuổi của
mình trong làng văn với những tác phẩm
viết về miền núi được nhiều người yêu
mến. Việc kết hợp những hình ảnh, từ ngữ
giàu chất thơ khiến cho mỗi tác phẩm của
chị đều lắng sâu vào lịng người đọc. Khi
viết về miền núi, ngơn ngữ tiểu thuyết của
Đỗ Bích Thúy thể hiện được sắc thái riêng,
đậm chất vùng cao khiến cho người đọc
được chìm đắm trong cảnh sắc, núi rừng
qua hệ thống từ ngữ và hình ảnh. Từ những
địa danh: Lao Chải, Đản Ván, Lùng Áng,

Mường Áng, Đường Thượng, Đường
Âm... đến cách gọi tên nhân vật: Già làng,
Lò Văn Pùa, Ké Sành, Vàng Séo Lử,
Vương Chí Sình, Dìn Phàn Sán, Triệu Mùi
Khún, Triệu Mùi Lai, phó lý Vừ Mí Tro,
Sùng Chúa Đà, Vàng Chở, Lù Mìn Sáng,
Sùng Pà Xính, Ly Chứ Dia, Thào Chá
Vàng, Thào Chá Pó... Tới cách xưng hơ
đậm chất miền núi: “Mế”, “mình”, “tơi”,
“tao”, “mày”... Và những âm thanh, mùi vị
mang dáng dấp của núi rừng: dịng nước
“cuồn cuộn, sơi ùng ục”, dịng sơng “cay
cay, nồng nồng”, gà trống gáy “the thé”,
mùi đất “nồng nồng”, trám chín phả ra
“mùi cay nồng nồng như men rượu”, gió

chạy “ào ào”, than rít “xèo xèo”, mùi rượu
“thơm nức”, hạt thóc nếp rơi “rào rạo”
(Bóng của cây sồi), cỏ mẫn trầu xanh nõn
“phả lên một thứ mùi thơm mát”, cị lửa
kêu “xoe xóe”, cái “hun hút” của gió, mùi
“ngọn khói mỏng tang” của cành dẻ khơ,
khói thuốc phiện “đặc quánh ngai ngái,
khen khét” (Cánh chim kiêu hãnh), gió lay
những chiếc lá “lào xào”, những hạt nước
từ trên tán cây rơi xuống “lộp độp”, quạ
đập cánh “phành phạch” (Chúa đất)... Tất
cả những hình ảnh, mùi vị đó đều đậm chất
miền núi. Sinh ra và lớn lên ở Hà Giang,
Đỗ Bích Thúy hiểu rõ con người, văn hóa

và ngôn ngữ của vùng cao nguyên đầy núi
đá và chị đã chuyển hóa chúng một cách
linh hoạt và tinh tế vào trong tác phẩm của
mình.
Đặc biệt, trong tiểu thuyết của mình, Đỗ
Bích Thúy cịn vận dụng nhiều cách nói
liên tưởng, so sánh giàu hình ảnh dựa trên
tư duy của người miền núi: “Cái đẹp của
Kim... là cái đẹp của con rắn ở trong hang,
càng giấu càng đẹp... mập mạp, trắng nõn
đã nướng qua lửa” (Đỗ Bích Thúy, 2006),
bà như bơng hoa đào vừa nở đầu cành
(Chúa đất), Vàng Chở - Bơng hoa anh túc
rực rỡ nhất nhì thung lũng Đường Thượng
(Chúa đất), Xính là một bơng anh túc đẹp
nhất trong những bông hoa anh túc đang
nở ở thung lũng Đường Thượng (Chúa
đất)... Cùng với vẻ đẹp là tiếng hát cũng
được đem ra so sánh với gió mây, với chim
ca, trăng sao: “Tiếng hát của Mai làm gió
ngừng thổi, mây ngừng trôi, cả mấy con
họa mi đậu trên cây sổ già cũng lặng yên
theo” (Đỗ Bích Thúy, 2006), “tiếng hát
của Xính trong như giọt sương đang rơi từ
trên ngọn lá xuống lưng chừng núi” (Đỗ
Bích Thúy, 2015), “tiếng hát như một
dịng trong vắt, chảy trên những viên đá
đầy màu sắc, dưới ánh nắng vàng như mật
ong, thỉnh thoảng một con cá nhỏ sáng lấp
lánh quẫy lên...” (Đỗ Bích Thúy, 2015).

Tất cả những so sánh đó khiến vẻ đẹp của
các cơ gái càng thêm nổi bật.
Khi tạm xa những đề tài về miền núi, Đỗ
Bích Thúy viết về đơ thị lại đậm đặc chất
61


Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (2), 2017

phố thị. Về mặt ngôn từ, văn xuôi viết về
Hà Nội của Đỗ Bích Thúy có những nét
độc đáo, cá tính riêng biệt, biểu hiện qua
tính tự nhiên, thoải mái, khơng bắt chước,
gị bó mà giản dị, thấy gì nói đó, khơng gân
guốc, hoa mỹ. Ngơn ngữ sinh hoạt hằng
ngày được sử dụng linh hoạt với các từ
khẩu ngữ: “vầng”, “tao”, “mày”, “hử”, “cơ
đấy”, “nhá”. Đôi khi là cái kiểu vừa “chửi”
vừa “bới” bốp chát, đậm chất người miền
Bắc qua những lời thoại: “xin xin cái mả
bố nhà mày”, “mày nói câu nữa tao vả vỡ
mồm bây giờ”, “bà thì bà bẻ chân bẻ tay
làm tăm xỉa răng bây giờ”, “tiên sư chúng
mày”... cũng được sử dụng. Bên cạnh
những ngơn ngữ đời thường gần gũi, tác
giả cịn sử dụng các ngôn từ đặc trưng thời
đại kĩ thuật số, công nghệ thông tin như:
báo mạng, báo in, trang web, kiểu cổng
thông tin điện tử, kiểu báo lá cải, 3G, báo
điện tử... Những từ ngữ mới xuất hiện gần

đây cũng được đưa vào tác phẩm: đồng
tính, sếp, showbiz, câu veiw, phim Hàn
Quốc... Ngôn ngữ hiện đại đã ùa vào tiểu
thuyết, chi phối đến các phát ngơn của
người trần thuật. Có thể nói, với những
ngơn ngữ trần thuật mang màu sắc rõ rệt
của từng văn hóa vùng miền, tiểu thuyết
của Đỗ Bích Thúy khiến cho người đọc
cảm thấy gần gũi và chân thực hơn.
Bên cạnh tính hiện đại trong ngơn ngữ trần
thuật và lớp ngơn ngữ đậm chất văn hóa
vùng miền thì ngơn ngữ trần thuật trong
tiểu thuyết Đỗ Bích Thúy cịn có sự đan
xen, kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời tả và
kể. Thông qua thủ pháp tả và kể các nhân
vật trong tiểu thuyết được tác giả mổ xẻ và
phân tích nội tâm khá kỹ. Ở tiểu thuyết
Bóng của cây sồi, bằng sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa tả và kể, Đỗ Bích Thúy đã
khắc họa được tâm trạng cơ đơn, trống trải
của Kim kể từ sau khi mẹ mất, là nỗi đau
của Kim khi chứng kiến cảnh người yêu đi
lấy vợ. Là sự vương vấn, khát khao và ám
ảnh bởi những hình ảnh của Kim trong con
người Phù. Là nỗi đau của người mẹ khi
phải gả đứa con gái thân yêu cho cái thằng
không cha không mẹ, lưu manh, gian xảo.

Trong tiểu thuyết Cánh chim kiêu hãnh,
Đỗ Bích Thúy bằng sự kết hợp giữa kể và

tả để khắc họa được nỗi đau đớn của Mai
khi Chúng mất. Nhưng có lẽ để lại nỗi đau
và ám ảnh nhất cho người đọc là đoạn văn
tác giả vừa kể vừa tả về cái bóng của Mai
ngã vật dưới họng súng kẻ thù: “Sinh hét
lên. Nhưng tiếng hét tắt ngang cổ vì cái
bóng mảnh dẻ của Mai đã đổ vật xuống
ngay trước mắt anh. Khẩu súng trong tay
Mai tự cướp cị nổ đánh đồng ngay sát
sườn thằng Nhật chỗ bụi chuối, nó vùng
dậy, vác súng chạy thục mạng” (Đỗ Bích
Thúy, 2013). Đến tiểu thuyết Chúa đất,
việc kết hợp giữa kể và tả cũng được nhà
văn khai thác triệt để. Sự giận dữ lên đến
tột đỉnh của chúa Đà khi bị chính người vợ
mà hắn ta yêu thương nhất phản bội đã
được Đỗ Bích Thúy lột tả rõ nét thông qua
thủ pháp tả và kể: “Chúa đất nói xong, giật
lấy khẩu súng kíp của thằng cận vệ đứng
bên cạnh, bắn ba phát lên trời. Tiếng súng
của chúa đất lúc xẩm tối như báo trước một
cơn giận giữ điên cuồng sắp trút xuống đầu
một kẻ nào đó. Đám thợ đá rùng mình,
người chưa kịp khơ vì mưa, đã lại ướt sũng
vì mồ hơi túa ra từ đỉnh đầu tới kẻ chân”
(Đỗ Bích Thúy, 2015). Đó là nỗi bực tức,
căm thù dâng tràn trong lòng Vàng khi
người anh em sinh đôi phải chết dưới tay
chúa để đổi lấy hạnh phúc cho anh cũng
được tác giả miêu tả. Đó là nỗi sợ hãi của

bà Cả khi lần đầu tiên nằm cạnh Đà. Và
tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là, tác giả cũng
không quên trong việc kết hợp giữa tả và
kể khi miêu tả tâm trạng lo lắng, bồn chồn
của một người mẹ trước hạnh phúc của
đứa con đã quá lứa lỡ thì, khi “nhìn Viên
ngày một già đi, giống y như một cái cây
đã ra hoa, kết trái, bị thu hoạch, tơi tả, xác
xơ, bà Minh như ngồi trên chậu than hoa.
Hết nhờ người mối lái lại đến tự liên hệ
kiếm chồng cho con” (Đỗ Bích Thúy,
2014). Hình ảnh cuộc sống của những con
người mưu sinh, chật vật trên con phố nhỏ
trong những ngày mùa đông giá rét cũng
được Đỗ Bích Thúy lột tả một cách sắc nét
thơng qua việc kể và tả. Là nỗi xót xa của
62


Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (2), 2017

cô chủ tiệm giặt là tốt bụng trước nỗi đau
mà Lê đang gánh chịu và nếm trải trong
một lần trót trao thân nhầm cho một thằng
đàn ơng bạc nhược, đê tiện. Ở bệnh viện
khi chứng kiến cảnh người đi phá thai toàn
là những đứa trẻ mới lớn, Oanh không khỏi
bất ngờ và e ngại cho lối sống buông thả,
thiếu trách nhiệm của giới trẻ hiện nay,
người ước không có, người thì lại bỏ đi.

Oanh thấy cuộc đời này thật ối oăm:
“Nhìn ra bên ngồi, gió thổi hun hút từng
cơn, trời xám xịt. Lại nhìn đám con gái, có
đứa mặt non choẹt, có khi chỉ mười sáu
mười bảy ra vào phòng thủ thuật cứ nườm
nượp như đi chợ, rùng mình. Bao nhiêu
người tốn tiền tỉ để kiếm một đứa con mà
khơng được, trong khi nhiều người khác có
con rồi lại bỏ con đi” (Đỗ Bích Thúy,
2014). Hay đó là tâm trạng buồn bã của
một đứa con gái trẻ dại như Trinh, mang
một nỗi buồn đến tê tái trước sự ra đi đột
ngột của mẹ. Qua việc kết hợp giữa tả và
kể, mỗi chi tiết dù là nhỏ nhất trong tiểu
thuyết Đỗ Bích Thúy cũng đều hiện lên
chân thực và sinh động từ bức tranh cuộc
sống đến thiên nhiên và con người.
Bên cạnh tính chất hiện đại, dấu ấn văn hóa
vùng miền đồng thời kết hợp giữa tả và kể
trong ngơn ngữ trần thuật thì tiểu thuyết
Đỗ Bích Thúy cịn mang tính chất đa
thanh, được thể hiện qua việc đan xen giữa
lời người trần thuật và lời nhân vật. Trong
tiểu thuyết Đỗ Bích Thúy, rất nhiều lần lời
người trần thuật đan xen với lời nhân vật.
Người trần thuật vừa đóng vai trị là người
giao tiếp vừa đóng vai trị là người kể
chuyện. Người trần thuật biến lời thoại của
nhân vật thành lời của bản thân, lược lời
thoại của nhân vật bằng lời kể. Những dấu

hiệu chú thích của người kể chuyện được
thể hiện rõ (ví dụ như anh ta kể, hắn bảo,
lão nói...). Chẳng hạn như cách nói trong
Bóng của cây sồi, qua đoạn đối thoại giữa
Cường và Sính, con người mưu mô, xảo
quyệt của Cường được lộ ra: “Cường dặn,
chuyện này chỉ người trong nhà biết,
không được để lộ ra ngồi, một khúc đi
cũng khơng được lộ. Sính cười hì hì: “Ừ,

phải giấu, khơng được treo ra cửa như cái
đi chó chứ gì” (Đỗ Bích Thúy, 2006).
Trong tiểu thuyết Chúa đất, đoạn văn cho
thấy tình yêu to lớn Vàng giành cho Xính:
“Xính bảo nhảy xuống sơng lúc trời đang
lạnh đến tím tái cả da tay da mặt thì Vàng
cũng nhảy. Xính bảo sau này Xính đẻ con,
hai đứa ba đứa, mặt già người cũng già,
Vàng đừng thấy thế mà chán Xính. Vàng
bảo: Khơng chán! Khơng chán! Khơng
bao giờ chán vợ. Dù vợ già vợ xấu, vợ
giống quả đậu tương trên giây phơi cũng
khơng chán” (Đỗ Bích Thúy, 2015). Và
bắt gặp trong tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là,
trước sự lo lắng của bà Minh, Oanh đã
đứng ra khuyên: “Oanh mấy lần bảo, bác
cứ kệ nó. Chồng con nó phải có cái dun,
dun chưa đến thì bác có lên nhờ ơng trời
cũng chịu. Cơ lại định dạy khơn tơi hử”
(Đỗ Bích Thúy, 2014). Có thể thấy, người

trần thuật đã lược bỏ đối thoại giữa hai
nhân vật thay vào đó là lời chỉ dẫn (Cường
dặn, Sính cười hì hì, Xính bảo, Vàng
bảo...), biến lời đối thoại thành lời kể. Với
việc thêm vào những chỉ dẫn và đưa
nguyên lời nói của người ấy vào, lời nhân
vật đã trở thành lời người kể chuyện. Lời
tác giả, lời người trần thuật, lời nhân vật
lẫn vào nhau, tạo nên những tranh cãi, đối
đáp.
Trong tiểu thuyết của Đỗ Bích Thúy, kiểu
lời người trần thuật đan xen với lời thoại
nhân vật được Đỗ Bích Thúy sử dụng khá
nhiều nhằm tăng hiệu quả biểu đạt. Lời kể
đan xen giữa cuộc đối thoại, đối đáp trong
Bóng của cây sồi: “Bí thư Đảng ủy xã kết
luận cái tội nặng nhất của Lao Chải khơng
chỉ là thờ nhầm mà cịn để nảy sinh mê tín
dị đoan. Thế nên phải dẹp. Phù ngồi ngay
trước mặt bí thư, cúi gằm xuống khơng cãi
được câu nào. Bí thư nói xong thì đến chủ
tịch. Chủ tịch được học ở huyện, ở tỉnh
nhiều, nói như dao sắc chém cột. Bây giờ
Lao Chải phải dẹp ngay cúng bái đi, khơng
dẹp thì cịn lâu mới được cơng nhận là làng
văn hóa. Đến khi xã này được nâng cấp
thành thị trấn rồi mà vẫn chưa dẹp xong thì
ủy ban sẽ gạt ra, làm cho bản ngoại thị”
63



Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (2), 2017

(Đỗ Bích Thúy, 2006). Trong tiểu thuyết
Cánh chim kiêu hãnh, Sinh với tâm trạng
hoảng sợ và lo lắng khi Mai bị thương:
“Dịng sơng đang ở rất gần, chỉ một qng
nữa thơi là tới bến đị. Mấy cơ thanh niên
có cịn đó khơng, Sinh gọi to, vừa vác Mai
chạy vừa gọi: “Có ai ở bến đó khơng, đị
ơi, chờ với, có người bị thương này, đợi
với”. Anh hổn hển gọi Mai: “Mai ơi, sắp
tới rồi. Cố lên Mai ơi, nghe anh nói khơng
đấy, nghe thấy thì cấu vào lưng cho anh
biết” (Đỗ Bích Thúy, 2013). Và tiểu thuyết
Chúa đất, lời người trần thuật và lời nhân
vật cũng trộn lẫn vào nhau trong đoạn đối
thoại, nói chuyện giữa Đà và bà Cả: “Đà
hỏi bà về làm dâu thấy vui hay buồn? Bà
nói vui một ít, buồn một ít. Bà run lên như
một con dê con khi lần đầu tiên theo mẹ ra
vườn, và hứng một cơn gió lạnh mùa đơng
vừa tới. Đà vòng cánh tay vâm váp qua
lưng bà, kéo bà lại gần Đà. Đà nói, rất khẽ,
rằng Đà khơng tốt. Đà không nên bắt một
người con gái như bà về làm vợ. Đà cũng
nói, làm vợ Đà sẽ khổ. Khổ đến lúc chết.
Bà im thin thít, khơng nói được câu nào,
khơng phải vì sợ mà vì khơng thở được nên
khơng nói được. Cũng khơng hiểu sao Đà

lại nói bà sẽ khổ đến lúc chết” (Đỗ Bích
Thúy, 2015). Nhà văn Đỗ Bích Thúy cũng
dùng lối kể đan xen này trong tiểu thuyết
Cửa hiệu giặt là khi nói về sự thay đổi của
Lê sau lần vấp ngã: “Con Lê biến thành
một người khác hồn tồn. Cả ngày cậy
răng cũng khơng nói. Nó bảo con Tư
xuống là quần áo, rồi trơng hàng, trả hàng,
cịn nó lên giặt. Con Tư nói thế nào cũng
khơng nghe. Bình thường con Tư khỏe
hơn, giặt là việc nặng nên nó nhận, cịn con
Lê khéo tay, nhanh mồm nhanh miệng,
Oanh xếp cho nó đứng cửa hàng. Giờ nó
dứt khoát đồi đổi chỗ. Oanh sợ con Lê quá
sức, gục ra đấy thì khơng biết làm thế nào.
Nhưng con Lê bảo, cơ phải cho cháu làm
việc nặng thì cháu mới quên đi được. Chứ
cứ đứng mãi ở đây, mọi người qua lại mỗi
người một câu, cháu chịu khơng nỗi” (Đỗ
Bích Thúy, 2014).
Sự chuyển đổi từ lời đối thoại sang lời kể

đã làm lạ hóa kiểu trần thuật đơn âm, tiến
tới một kiểu trần thuật đa giọng điệu. Đặc
biệt, với ngôn ngữ trần thuật, tiểu thuyết
của Đỗ Bích Thúy dù viết về Hà Nội hay
Hà Giang cũng đều kéo người đọc về phía
hiện thực gần gũi, thân quen.
Ngơn ngữ nhân vật
Trong tiểu thuyết, nhân vật giữ vị trí trung

tâm trong việc thể hiện tư tưởng, chủ đề
của tác phẩm. Có nhân vật thì có ngơn ngữ
nhân vật. Ngơn ngữ nhân vật chính là phát
ngơn của từng nhân vật, mỗi nhân vật có
một lai lịch, trình độ, quan niệm sống
riêng... Ngơn ngữ nhân vật là một trong
những phương tiện quan trọng được nhà
văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và
cá tính của nhân vật. Ngơn ngữ của nhân
vật có thể là đối thoại hoặc độc thoại.
Ngôn ngữ đối thoại sinh động
Đối thoại là hình thức đối đáp, trị chuyện
giữa hai hoặc nhiều người. Ngôn ngữ đối
thoại là lời phát ngôn của nhân vật nói với
người khác. Ngơn ngữ đối thoại góp phần
giúp nhà văn miêu tả tính cách nhân vật
một cách triệt để. Trong tiểu thuyết Đỗ
Bích Thúy, đối thoại xuất hiện dày đặc.
Cũng như ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ
nhân vật trong tiểu thuyết Đỗ Bích Thúy
đậm chất văn hóa vùng miền. Khi viết về
miền núi thì ngơn ngữ mang đậm hơi thở,
nhịp sống và khẩu ngữ của người vùng
cao, cịn khi viết về đơ thị thì ngơn ngữ lại
mang đậm hơi thở, nhịp sống và khẩu ngữ
của người phố thị.
Với lối tư duy trực giác nên người miền
núi không thích vịng vo, dài dịng, cách
nói của họ đơn giản, ngắn gọn và đi thẳng
trực tiếp vào vấn đề, về cái cần hỏi và cần

trả lời nên đa phần không có chủ ngữ. Vì
vậy, qua những đoạn đối thoại với nhau có
thể hiểu rõ được bản tính con người họ.
Chẳng hạn đoạn đối thoại giữa Phù và
người phụ nữ chừng bốn mươi tuổi, cho
thấy cuộc sống khổ cực, đói nghèo của
người dân:
“- Cho xin bát cơm với nhé?
- Khơng có cơm đâu, chỉ có sắn thơi. Ăn
được thì ăn.
64


Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (2), 2017

- Nói đùa đấy chứ, vừa mới xong vụ gặt
mà.
- Làm gì có lúa mà gặt.
- Sao lại khơng có?” (Đỗ Bích Thúy,
2006).
Chỉ với một mẫu đối thoại ngắn nhưng
cũng đủ để người đọc hiểu được nội dung
của nó. Qua đó có thể thấy được cuộc sống
của người dân vùng cao thiếu thốn, khổ
cực, lúa khơng có để gặt, gạo khơng có để
ăn, trong nhà chỉ có sắn làm lương thực
chính ăn qua ngày.
Trong tiểu thuyết Cánh chim kiêu hãnh,
cũng với kiểu đối thoại thẳng thắn, trực
tiếp, không vịng vo dài dịng. Chẳng hạn,

cuộc nói chuyện giữa Chúng và Mai trong
lần gặp gỡ đầu tiên có phần e thẹn, ngượng
ngùng:
“Thằng trai hỏi:
- Bây giờ làm gì tiếp?
- Về nhà. Ăn đòn. Đi ngủ.
- Làm sao mà ăn đòn?
- Cỏ dính đầy bùn thế kia, ngựa khơng ăn
được. Lại nát hết cả lúa nữa chứ!” (Đỗ
Bích Thúy, 2013).
Ngơn ngữ đối thoại trong tiểu thuyết Đỗ
Bích Thúy thường ngắn gọn, có sự hồi đáp
đầy đủ, lượng thơng tin chỉ vừa đủ cho
những câu hỏi trước đó. Điều này phù hợp
với tính cách của người miền núi, ít nói,
trầm lặng. Đây là đoạn thoại giữa Chở và
Sáng trong tiểu thuyết Chúa đất:
- Biết chúa đất đang làm gì đấy khơng?
Chở lắc đầu:
- Không biết. Cũng không muốn biết.
- Làm cột hành quyết đấy.
- Hả? – Chở giật mình chồm dậy – Cột
hành quyết là cái gì?
- Là để treo những người mà chúa đất
muốn chết lên đấy.
- Treo cổ à?
Sáng lắc đầu:
- Khơng. Treo tay. Có hai cái lỗ tai, nhét
tay vào đấy. Người bị treo phải dang tay
thế này.

Sáng làm động tác dang tay ra” (Đỗ Bích
Thúy, 2015).
Với những câu nói nhiều lúc bị đứt quãng,

dồn dập, thái độ và tâm trạng của Chở biến
đổi liên tục, diễn ra với nhiều cung bậc
khác nhau: lúc thì tị mị, lúc thì lo lắng,
nghi ngờ, lúc thì hoảng sợ, sau đó lại trấn
an mình và cuối cùng là vui vẻ. Cịn tâm
trạng của Sáng có chút gì đó e ngại, lo lắng
và cũng tự trấn an bản thân bằng câu nói
“Chúa đất khơng biết đâu”.
Qua ngơn ngữ đối thoại, Đỗ Bích Thúy đã
làm nổi bật tính cách, giọng điệu riêng của
từng nhân vật. Tính cách con người Chở
và Sáng. Chở có phần sợ nhưng tính cách
của Chở mạnh mẽ nhiều hơn Sáng, trong
khi Sáng đang lo sợ thì Chở lại cương
quyết, đơn giản chỉ “chết là cùng thôi mà”.
Nếu như ban đầu Sáng chỉ mới có phần e
ngại nhưng sau khi nhìn thấy cặp chân thì
tâm trạng của Sáng đã khác đi rất nhiều.
Sáng lo lắng nhiều hơn và bắt đầu lo sợ,
thậm chí là cáu gắt. Chỉ qua một đoạn đối
thoại ngắn cả hai nhân vật đã tự bộc lộ tính
cách của mình, một Chở đầy mạnh mẽ,
quyết liệt cịn một Sáng thì lại yếu đuối, sợ
chết.
So với ba cuốn tiểu thuyết viết về miền
núi, thì ngơn ngữ đối thoại trong tiểu

thuyết Cửa hiệu giặt là xuất hiện dày đặc
hơn. Ngôn ngữ đối thoại bốp chát, tếu táo
được Đỗ Bích Thúy đưa vào trong tác
phẩm một cách tự nhiên. Chính vì vậy mà
đối với những người bằng vai lứa hoặc nhỏ
tuổi hơn, người miền Bắc thường xưng
mày – tao để thể hiện sự thân mật, gần gũi.
Bên cạnh đó, nét đặc trưng trong ngơn ngữ
giao tiếp của người miền Bắc đó là hệ
thống khẩu ngữ trong câu nói, tạo nên sắc
thái biểu cảm cho cách diễn đạt như:
“vầng”, “tao”, “mày”, “hử”, “cơ đấy”,
“nhá”, “khồng”... Đôi khi những ngôn ngữ
bốp chát cũng được nhà văn đưa vào trong
lời thoại một cách tự nhiên như: Tao đùa
mày đấy à, con ranh (lời Ụt vợ), phỉ phui
cái mồm mày (lời bà Miên), liệu liệu cái
mồm mày. Tao vã cho gãy răng giờ (lời
Lê), Đồ điên! Điên như chó điên (lời
Vinh), Ơ hay cái con này! Điên à (lời Tư)...
Bên cạnh đó, nhân vật cịn bộc lộ cảm xúc
qua những thán từ đặc biệt: ôi xời, chậc,
65


Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (2), 2017

đấy đấy, ối giời, đến tởm, ối giồi ôi, gớm
chết, chặc, ái chà, nói phét, à vâng, giời ạ,
ồi, sao giăng gì, quá điêu, cho chết... Hiện

tượng láy vần “iếc” trong lời nói: cửa hàng
cửa hiếc, chả tham thiếc gì sất, đồng tính
đồng tiếc, nhẽ nhiếc gì, thuốc thiếc gì...
nhằm mục đích phủ định, mỉa mai được
đem vào trong hội thoại. Các thành ngữ
với đặc tính cơ đọng, ngắn gọn và giàu
hình ảnh cũng xuất hiện trong tiểu thuyết
như: Mèo mù vớ cá rán (Một sự may mắn
tình cờ mang lại), nhìn gà hóa cuốc, con
dại cái mang (Khi người con mắc một lỗi
lầm gì đó thì người mẹ sẽ là người gánh
vác tội lỗi đó)... Ngơn ngữ đối thoại trong
tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là, nói như Lê
Thị Hường và Nguyễn Thị Thu Hà trong
bài viết Những vùng thẩm mỹ trong tiểu
thuyết Đỗ Bích Thúy: “Qua chuỗi hội thoại
tưởng như vụn vặt, không đầu không cuối
ấy, đời sống đô thị với vô vàn những câu
chuyện ngổn ngang chất chứa sự hỗn tạp
của cuộc đời thường dường như đang bày
ra trước mắt người đọc” (Lê Thị Hường,
Nguyễn Thị Thu Hà, 2015).
Có thể nói, bằng đối thoại, Đỗ Bích Thúy
đã khắc họa đời sống bên trong của nhân
vật một cách sống động, rõ nét nhưng
không đánh mất đi đặc trưng văn hóa vùng
miền. Mỗi nhân vật trong tiểu thuyết của
Đỗ Bích Thúy xuất hiện với một lối nói và
phát ngôn mang đặc trưng riêng. Qua lời
đối thoại, tâm lý, tính cách nhân vật với

những trạng thái tâm lý khác nhau được tác
giả mổ xẻ, phơi bày. Đồng thời, qua ngôn
ngữ đối thoại, nhân vật hiện lên một cách
sinh động, giúp ta có thể hình dung được
một cách đầy đủ về nhân vật mà đôi khi
không cần những chi tiết về ngoại hình hay
lai lịch xuất thân, thành phần xã hội.
Ngôn ngữ độc thoại
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì độc
thoại nội tâm là “Lời phát ngơn của nhân
vật nói với chính mình, thể hiện trực tiếp
q trình tâm lí nội tâm, mơ phỏng hoạt
động cảm xúc, suy nghĩ của con người
trong dịng chảy trực tiếp của nó” (Lê Bá
Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi,

2011). Trong tiểu thuyết của mình, Đỗ
Bích Thúy thường đẩy nhân vật vào những
cảnh ngộ, những tình huống trớ trêu trong
cuộc đời. Nhân vật trong tiểu thuyết đa
phần là những nhân vật mang bi kịch, số
phận với những nỗi niềm sâu kín khơng
được giải tỏa. Chính vì vậy, nhà văn dùng
độc thoại nội tâm để thơng qua đó nhân vật
dễ bộc lộ tâm trạng, suy nghĩ và ước muốn
của mình. Hầu hết các nhân vật trong tiểu
thuyết của chị ít nhiều đều mang đời sống
nội tâm. Đây là một thành công trong tiểu
thuyết cũng như truyện ngắn của Đỗ Bích
Thúy, chị đã rất khéo léo trong việc sử

dụng nghệ thuật độc thoại nội tâm, giúp
nhà văn đi sâu vào tâm lí, ước muốn và suy
tư của nhân vật.
Trong Bóng của cây sồi, Kim mang những
nội tâm dằn vặt, đau đớn và đầy trăn trở
trong suy nghĩ. Chính vì vậy mà độc thoại
của Kim nhiều khi xuất hiện với một loạt
những câu hỏi tu từ đầy nghi ngờ và chất
vấn: “Giờ Phù còn bảo Kim kể lại sự việc
thế nào nữa ư? Có biết Kim đang cố gạt đi
khơng? Mà biết kể gì?... Nhưng giờ thì
sao? Phù cũng chỉ coi Kim như bất kỳ
người nào trong làng, còn tò mò muốn biết
Kim đã bị làm nhục cụ thể ra sao. Biết để
rồi nhìn thấy là nhổ nước bọt như người ta
đã từng làm như vậy với Kim phải
khơng?” (Đỗ Bích Thúy, 2006). Kim nhận
thấy, Phù cũng như người dân Lao Chải ở
đây đang từng ngày coi thường và nhổ
nước bọt vào mặt cô. Qua đây, người đọc
có thể thấy rõ được tâm trạng của Kim đầy
đau đớn và căm giận Phù. Cịn Phù với
hình ảnh của Kim trở đi trở lại trong hồi ức
và trong suy nghĩ của anh. Có lúc là mùi
quả bướng chín nẫu từ cơ thể Kim, một
mảng cổ bị ánh trăng nhuộm thành màu
xanh, hai bờ vai trịn đầy nóng hổi dưới lớp
áo mỏng ướt sũng. Có lúc là gương mặt
Kim với lồng ngực phập phồng trong đêm
ngồi cửa sơng. Nhưng ám ảnh nhất là

đường chỉ trắng khâu trên tấm váy đen của
Kim lúc mờ mịt, lúc hiển hiện lên trong
đầu Phù. Qua tìm hiểu tác phẩm, chúng tơi
thống kê được tần suất xuất hiện của
66


Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (2), 2017

những hình ảnh đã ám ảnh Phù suốt cả
cuộc đời như sau: “ánh trăng” xuất hiện 5
lần, “bờ vai” 5 lần, “ánh mắt” 4 lần, “mảng
cổ” 2 lần, “gương mặt” 2 lần, “cái eo lưng”
2 lần, “ngón tay đầy gân xanh” 2 lần, “lồng
ngực” 1 lần, “nước mắt” 1 lần. Như vậy,
có thể nói, hình ảnh của Kim ln thường
trực trong suy nghĩ của Phù, những hình
ảnh của Kim gợi về khiến Phù dằn vặt, tiếc
nuối.
Từ khi Chúng mất, Mai trong tiểu thuyết
Cánh chim kiêu hãnh nhận thấy mọi run
rẩy, xúc động trước những người đàn ông
khác đã khơng cịn. Suy nghĩ và tình cảm
của Mai chỉ dành cho Chúng và con. Bên
cạnh nhân vật Mai, bằng độc thoại nội tâm,
tác giả đã để cho Sinh bộc lộ tâm trạng lo
lắng và đau đớn trước cái chết cận kề của
Mai, lịng Sinh cất lên những tiếng gọi
khơng nên lời: “Mai có nghe thấy
khơng?... Mai có nghe thấy khơng?... Mai

có cịn cơ hội hưởng tất cả những điều đó
nữa không?... Tại sao lại là Mai chứ không
phải một thằng con trai nào đó cường
tráng, vâm váp? Tại sao khơng phải là Sinh
đây hứng trọn một viên đạn vào lưng thay
cho Mai?... Mai ơi?” (Đỗ Bích Thúy,
2013). Những dịng độc thoại nội tâm của
Sinh như những dịng kí ức miên man chảy
giữa quá khứ và thực tại. Sinh - chàng trai
đáng thương với một tình yêu đơn phương
dành cho Mai, giờ đang đau đớn tột cùng
trước nỗi đau mất đi người con gái anh
yêu.
So với hai cuốn Bóng của cây sồi và Cánh
chim kiêu hãnh thì độc thoại nội tâm xuất
hiện trong tiểu thuyết Chúa đất với tần
suất nhiều hơn, hầu như những dòng nội
tâm của các nhân vật đều mang tâm trạng
hoảng sợ, cơ đơn, thậm chí thất vọng. Mỗi
nhân vật, mỗi thân phận đều mang những
nỗi niềm khác nhau. Đó là nỗi niềm của
một người phụ nữ bất hạnh mang tình yêu
chung thủy (bà Cả), là nỗi niềm của cô gái
đã bất chấp cái chết để thỏa mãn ước muốn
“làm đàn bà thật sự” (Vàng Chở), là nỗi
niềm của cơ gái khi bị bắt ép làm vợ người
mình khơng u (Xính), là nỗi niềm của

chàng trai quyết chống lại cái ác để giành
lấy tình yêu, hạnh phúc lứa đôi (Vàng), là

nỗi niềm của chàng trai chọn cái chết để
mang lại hạnh phúc cho người khác (Pó),
là nỗi niềm của thằng trai đê tiện, sợ chết
(Sáng), là nỗi niềm của một kẻ độc ác
mang tâm tính xấu xa (chúa Đà)...
Với tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là, nhân vật
trong tiểu thuyết Đỗ Bích Thúy có đời
sống nội tâm phong phú. Bà Minh là một
nhân vật mang đời sống nội tâm rõ nét
nhất. Cịn Trinh, kể từ khi mẹ mất, cơ trở
nên trầm lặng và ưu tư hơn.
Bên cạnh ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ
độc thoại nội tâm cũng là thứ ngôn ngữ
giàu chất thơ, đậm suy tư và chất chứa tâm
trạng, nỗi buồn của nhân vật. Việc sử dụng
ngôn ngữ độc thoại nội tâm giúp nhà văn
đi sâu vào khám phá thế giới bên trong của
nhân vật. Thông qua độc thoại nội tâm,
những suy tư, trăn trở, những cảm xúc dấu
kín của nhân vật dần dần được phơi bày ra
trước mắt người đọc. Độc thoại nội tâm là
tiếng nói cất lên, vọng lên từ chính nội tâm
nhân vật, là những âm hưởng của cảm xúc
được dội lên từ bên trong. Đỗ Bích Thúy
đã rất thành cơng trong việc khắc họa đời
sống nội tâm của nhân vật. Có thể nói,
bằng ngơn ngữ đối thoại và độc thoại thì
tâm lý, tính cách, phẩm chất, tâm trạng của
nhân vật được hiện lên một cách rõ nét.
KẾT LUẬN

Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu
hiện mang tính đặc trưng của văn học.
Nhưng khơng phải bất cứ ngôn ngữ nào
cũng là ngôn ngữ của văn học. Chỉ trong
ngôn ngữ đời sống được trau dồi, mài dũa
kỹ mới chuyển tải được một cách nghệ
thuật cuộc sống hàng ngày. Và mỗi nhà
văn có phong cách đều để lại một dấu ấn
riêng về ngôn ngữ trên văn đàn. Tiểu
thuyết Đỗ Bích Thúy càng đọc càng bị lơi
cuốn, càng đọc càng say. Chị đã biết chọn
cho mình một lối ngôn ngữ rất riêng, rất
độc đáo, đậm chất vùng miền. Đỗ Bích
Thúy đã lựa chọn ngơn ngữ thể hiện mình
bằng ngơn từ giản dị, mộc mạc, trong sáng,
67


Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (2), 2017

xen lẫn xót xa thương cảm đầy trữ tình, sâu

lắng và thấm đượm tình người.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
THÁI PHAN VÀNG ANH (2008), “Ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại”, Tạp chí sơng Hương, (237).
HÀ MINH ĐỨC (1999), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
LÊ BÁ HÁN, TRẦN ĐÌNH SỬ, NGUYỄN KHẮC PHI (2011), Từ điển thuật ngữ văn
học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

LÊ THỊ HƯỜNG, NGUYỄN THỊ THU HÀ (2015), “Những vùng thẩm mỹ trong tiểu
thuyết Đỗ Bích Thúy”, Nguồn: tckhgd.huce.vn, cập nhật ngày 12/06/2015.
ĐỖ BÍCH THÚY (2006), Bóng của cây sồi, NXB Tổng hợp, TP. Hồ Chí Minh.
ĐỖ BÍCH THÚY (2013), Cánh chim kiêu hãnh, NXB Tổng hợp, TP. Hồ Chí Minh.
ĐỖ BÍCH THÚY (2014), Cửa hiệu giặt là, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
ĐỖ BÍCH THÚY (2015), chúa đất, nxb phụ nữ, Hà Nội.

68



×