Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu Bên trong kiến trúc Core của Intel (Phần 1) docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.62 KB, 7 trang )

Bên trong kiến trúc Core của Intel (Phần 1)

Kiến trúc Core của Intel đã xuất hiện vào năm 2006, đây là kiến trúc
được sử dụng trên tất cả các CPU mới vào thời điểm này của Intel như
Merom, Conroe và Woodcrest. Kiến trúc mới này được xây dựng trên
kiến trúc của Pentium M và có thêm một số tính năng mới. Trong
hướng dẫn này chúng tôi sẽ giới thiệu cho các bạn về kiến trúc Core này
của Intel nhằm trang bị thêm cho các bạn một số kiến thức về phần
cứng máy tính.

Thứ đầu tiên mà bạn cần phải lưu ý đó là phần tên, kiến trúc Core không có
liên quan gì với các CPU Core Solo và Core Duo của Intel. Core Single là
một CPU Pentium M được sản xuất ở công nghệ 65 nm, còn các CPU Core
Duo – trước đây được gọi là Yonah – là loại CPU dual-core công nghệ 65
nm dựa trên kiến trúc của Pentium M.

Pentium M được xây dựng trên kiến trúc thế hệ thứ 6 của Intel, kiến trúc này
cũng được sử dụng trong các CPU Pentium Pro, Pentium II, Pentium III và
các CPU trước đây của Celeron chứ không phải trên Pentium 4 như bạn vẫn
nghĩ, ý tưởng ban đầu được nhắm đến các máy tính di động. Nếu bạn có thể
nghĩ Pentium M là một Pentium III nâng cao thì cũng có thể nghĩ kiến trúc
Core là một Pentium M nâng cao.

Tuy vậy để có thể đọc được hướng dẫn này bạn cần phải đọc hai hướng dẫn
khác mà chúng tôi đã giới thiệu cho các bạn đó là Tìm hiểu cách làm việc
của CPU và Bên trong kiến trúc Pentium M. Hướng dẫn đầu tiên chúng
tôi giới thiệu một cách cơ bản về cách làm việc của CPU còn trên hướng dẫn
thứ hai là giới thiệu về cách Pentium M làm việc như thế nào. Trong hướng
dẫn này chúng tôi thừa nhận rằng bạn đã có những kiến thức ở trong cả hai
hướng dẫn trên. Cũng rất tốt với các bạn đã có kiến thức am hiểu nữa về
kiến trúc Pentium 4, vì các bạn có thể so sánh giữa hai kiến trúc với nhau


nhằm hiểu sâu hơn về hai kiểu kiến trúc này.

Kiến trúc Core sử dụng cấu trúc 14 tầng. Cấu trúc này là một danh sách tất
cả các tầng mà một chỉ lệnh được cho phải trải qua khi thực thi hoàn tất.
Intel đã không tiết lộ cấu trúc của Pentium M và chính vì vậy cho tới nay họ
vẫn chưa công bố những chỉ dẫn của mỗi tầng trong kiến trúc Core. Do đó
chúng tôi cũng không thể cung cấp nhiều thông tin chi tiết hơn. Pentium III
đã sử dụng cấu trúc 11 tầng, Pentium 4 ban đầu có 20 tầng và các CPU
Pentium 4 mới hơn dựa trên lõi “Prescott” được biết có đến 31 tầng.

Bây giờ chúng ta hãy nói về một số điểm khác trong kiến trúc Core của
Pentium M.

Cache nhớ và khối tìm nạp

Hãy nhớ rằng Cache nhớ là bộ nhớ tốc độ cao (SRAM) được nhúng vào bên
trong CPU, sử dụng để lưu dữ liệu mà CPU có thể cần đến. Nếu dữ liệu
được yêu cầu bởi CPU không có trong Cache nhớ thì nó sẽ phải truy cập vào
bộ nhớ RAM chính, điều này sẽ làm giảm tốc độ của CPU vì bộ nhớ RAM
được truy vập bằng sử dụng tốc độ clock ngoài của CPU. Ví dụ, trên một
CPU 3,2GHz, Cache nhớ được truy cập ở tốc độ 3,2GHz nhưng bộ nhớ
RAM chính chỉ được truy cập ở tốc độ clock 800MHz.

Kiến trúc Core được tạo bằng việc có khái niệm multi-core, nghĩa là có
nhiều chip trên một đóng gói. Trên Pentium D, phiên bản dual-core của
Pentium 4, mỗi core đều có Cache nhớ L2 của riêng nó. Vấn đề với hai
Cache riêng ở đây là tại một thời điểm nào đó khi một lõi này sử dụng hết
Cache nhớ trong khi lõi kia lại không sử dụng hết hiệu suất trên Cache nhớ
L2 của riêng nó. Khi xảy ra điều này thì lõi đầu tiên phải truy cập và lấy dữ
liệu từ bộ nhớ RAM chính, thậm chí Cache nhớ L2 của lõi thứ hai là hoàn

toàn trống rỗng mà lẽ ra có thể được sử dụng để lưu dữ liệu, tránh tình trạng
lõi phải truy cập trực tiếp vào bộ nhớ RAM chính.

Đối với kiến trúc Core, vấn đề này đã được giải quyết. Cache nhớ L2 được
chia sẻ, có nghĩa là cả hai lõi đều có thể sử dụng Cache nhớ L2 một cách
chung nhau, cấu hình động sẽ được thực hiện cho mỗi Cache. Ví dụ với một
CPU có 2 MB L2 cache, một lõi có thể đang sử dụng 1,5MB còn lõi kia sử
dụng 512 KB (0.5 MB), ngược lại với tỷ lệ chia cố định 50-50 như đã được
sử dụng trước đây trong các CPU dual-core.

Khối tiền tìm nạp được chia sẻ giữa các lõi, nghĩa là nếu hệ thống Cache nhớ
đã nạp một khối dữ liệu để được sử dụng bởi lõi đầu tiên thì lõi thứ hai cũng
có thể sử dụng dữ liệu đã được nạp trên Cache này rồi. Trong các kiến trúc
trước, nếu lõi thứ hai cần dữ liệu giống như dữ liệu đã được nạp vào Cache
của lõi đầu tiên thì nó vẫn phải truy cập thông qua bus ngoài (điều đó khiến
CPU làm việc ở tốc độ clock ngoài, có tốc độ clock thấp hơn tốc độ clock
trong) hoặc thậm chí lấy dữ liệu cần thiết trực tiếp từ bộ nhớ RAM của hệ
thống.

Intel cũng đã cải thiện khối tiền tìm nạp của CPU, đưa ra các mẫu theo cách
mà CPU hiện đang lấy dữ liệu từ bộ nhớ để đoán thử dữ liệu mà CPU sẽ tìm
nạp tiếp theo là gì và nạp nó vào Cache nhớ trước khi CPU yêu cầu. Ví dụ,
nếu CPU đã nạp dữ liệu từ địa chỉ 1, sau đó yêu cầu dữ liệu trên địa chỉ 3 và
sau đó yêu cầu tiếp dữ liệu trên địa chỉ 5 thì khối tiền tìm nạp sẽ đoán rằng
chương trình sẽ nạp dữ liệu từ địa chỉ 7 và nó sẽ nạp từ địa chỉ này ra Cache
nhớ trước khi CPU yêu cầu đến nó. Quả thực ý tưởng này không có gì mới
mẻ và tất cả các CPU từ Pentium Pro sẽ dụng một số kiểu dự đoán để cung
cấp Cache nhớ L2. Trên kiến trúc Core, Intel đã có một chút nâng cao về
tính năng này bằng cách tạo ra một khối tiền tìm nạp tìm kiếm các mẫu trong
dữ liệu tìm nạp thay vì các bộ chỉ thị tĩnh của dữ liệu mà CPU sẽ yêu cầu

tiếp theo.

Bộ giải mã chỉ lệnh: Macro-Fusion

Một khái niệm mới được giới thiệu trong kiến trúc Core đó là macro-fusion.
Macro-fusion là khả năng gắn (joining) hai chỉ lệnh x86 vào thành một chỉ
lệnh micro-op. Cách làm này có thể cải thiện được hiệu suất của CPU và tiêu
tốn ít năng lượng của CPU hơn vì nó sẽ chỉ thực thi một chỉ lệnh micro-op
thay vì hai.

Mặc dù vậy cơ chế này lại bị hạn chế đối với các chỉ lệnh so sánh và các chỉ
lệnh rẽ nhánh có điều kiện (có nghĩa là các chỉ lệnh CMP và TEST và Jcc).
Ví dụ, chúng ta hãy xem đoạn chương trình dưới đây:

load eax, [mem1]
cmp eax, [mem2]
jne target

Đoạn chương trình này sẽ thực hiện nạp thanh ghi 32 bit EAX bằng dữ liệu
được chứa trong vị trí nhớ 1, so sách giá trị của nó với dữ liệu có trong vị trí
nhớ 2 và nếu chúng khác nhau thì (jne = jump if not equal), thì chương trình
sẽ truy cập vào địa chỉ “target”, còn nếu bằng nhau thì chương trình sẽ tiếp
tục trên vị trí hiện hành.

Với macro-fusion, các chỉ lệnh so sánh (cmp) và rẽ nhánh (jne) sẽ được hợp
nhất vào một chỉ lệnh micro-op. Chính vì vậy sau khi chuyển qua bộ giải mã
chỉ lệnh, phần chương trình này sẽ giống như dưới đây:

load eax, [mem1]
cmp eax, [mem2] + jne target


Như những gì thấy ở trên, chúng ta đã lưu một chỉ lệnh. Càng ít chỉ lệnh
được thực thi thì máy tính của bạn sẽ thực hiện việc thực thi nhiệm vụ nhanh
hơn và tốn ít công suất tiêu thụ hơn.

Bộ giải mã chỉ lệnh có trên kiến trúc Core có thể giải mã 4 chỉ lệnh trên một
chu kỳ clock, trong khi đó ở các CPU trước như Pentium M và Pentium 4 thì
chỉ có thể giải mã được đến 3.

Ở đây bộ giải mã chỉ lệnh của kiến trúc Core kéo đến 5 chỉ lệnh mỗi lần vào
hàng đợi chỉ lệnh, thậm chí nó còn có thể giải mã đến 4 chỉ lệnh trên một
chu kỳ clock. Chính vì vậy nếu hai trong số 5 chỉ lệnh được nối thành một
thì bộ giải mã vẫn có thể giải mã bốn chỉ lệnh trên một chu kỳ clock. Và nó
sẽ ở chế độ nhàn rỗi cục bộ bất cứ khi nào macro-fusion xảy ra, nghĩa là bộ
giải mã sẽ chỉ cung cấp ba chỉ lệnh nối micro-op ở đầu ra của nó trong khi
có khả năng cung cấp đến bốn.

Trong hình 1 bên dưới bạn có thể thấy những thông tin tóm tắt mà chúng tôi
đã giải thích ở trên.

Hình 1: Khối tìm nạp và bộ giải mã chỉ lệnh trong kiến trúc Core

×