Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Các tác phẩm trọng tâm ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn Năm học 20222023

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.86 KB, 61 trang )

CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
(Nguyễn Dữ)
* Mở bài:
Trong vô số các nạn nhân của xã hội phong kiến, có một tầng lớp mà hết
thảy các nhà văn nhân đạo đều đau xót, trân trọng và tập trung viết về họ đó là
người phụ nữ. Trong số các tác phẩm viết về đề tài này, phải kể đến tác phẩm
“Chuyện người con gái Nam Xương” của tác giả Nguyễn Dữ. Tác giả đã nêu bật
được (vấn đề luận bàn)
1. Nhân vật Vũ Nương:
a. Phẩm chất, đức hạnh của Vũ Nương:
* Vũ Nương là người có dung nhan xinh đẹp:
- Ngay từ đầu truyện, Vũ Nương được giới thiệu là một người phụ nữ đẹp
người đẹp nết:
“Tính tình đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”
- Trương Sinh vì cảm mến cái dung hạnh ấy của Vũ Nương nên đã xin mẹ
trăm lạng vàng cưới nàng làm vợ
* Người vợ thủy chung, yêu thương chồng:
- Trong cuộc sống bình thường
+ Nàng hiểu tính chồng “có tính đa nghi” , “phòng ngừa quá mức” nên Vũ
Nương đã khéo léo cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn khn phép nên khơng
từng lúc nào vợ chồng xảy ra thất hịa
+ Nàng là người phụ nữ hiểu chồng, biết mình, người phụ nữ đức hạnh
 Tuy nhiên, ngay từ đó đã hé lộ mâu thuẫn tính cách giữa hai người
- Khi tiễn chồng đi lính:
+ Nàng khơng mong vinh hiển mà chỉ mong “bình n”.
+ Nàng thấy trước và cảm thơng những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải
chịu nơi chiến trận
+ Nàng khắc khoải nhớ nhung:
“Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trơng liễu rủ
bãi hoang, lại thổn thức tâm tình thương người đất thú”
 Mơ ước lớn nhất của nàng là gia đình yên ấm


- Khi xa chồng:
+ Vũ Nương nhớ thương chồng tha thiết:
“Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn,
mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời khơng thể nào ngăn được”


+ Ln thấy bóng hình chồng bên mình
+ Tiết hạnh ấy còn được khẳng định:
“… cách biệt ba năm, giữ trọn một tiết …”
 Người vợ hết sức thủy chung với chồng
* Vũ Nương là một người con dâu hiếu thảo:
- Thay Trương Sinh làm tròn bổn phận người con đối với gia đình nhà chồng:
chăm sóc, thuốc thang, lễ bái, dịu dàng khuyên lơn mẹ chồng
- Hiếu thảo giữ lễ với mẹ chồng đến nỗi trong lời trăng trối của bà mẹ chồng
còn viện cả trời xanh cho tiết sạch trong, cho tấm lòng hiếu thảo của Vũ Nương:
“ Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con chẳng phụ mẹ”
 Ghi nhận nhân cách và đánh giá công lao của Vũ Nương một các xác đáng
và khách quan nhất
- Khi mẹ chồng mất, nàng hết lời thương xót, ma chay, tế lễ chu đáo như đối
với cha mẹ đẻ của mình
 Vũ Nương là cơ con dâu hiếu thảo, hết lịng ven vén cho gia đình
* Vũ Nương là một người mẹ yêu thương con hết mực:
- Một mình sinh con, ni và dạy con khơn lớn khi chồng vắng nhà
- Hết lòng yêu thương con, hi sinh vì con, vừa là cha, vừa là mẹ. Lo cho con
thiếu thốn tình cảm của cha nên đã chỉ vào cái bóng của mình trên vách và bảo đó
là Cha Đản. Vũ Nương không chỉ chăm lo cho con về mặt vật chất mà cả về tinh
thần – một người mẹ tâm lý
- Lựa chọn cái chết ở cuối câu chuyện cũng là cách Vũ Nương bảo vệ con
khỏi những định kiến của xã hội cũ
 Vũ Nương là một người mẹ hết lòng yêu con

* Vũ Nương là người trọng nhân phẩm tình nghĩa:;
- Khi bị chồng nghi oan:
Lời thoại 1: Nàng phân trần để chồng hiểu rõ tấm lịng mình
+ Nàng nói đến thân phận mình, đến tình nghĩa vợ chồng:
“… Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà chàng…”
+ Nàng khẳng định tâm lòng chung thủy, trong trắng:
“Cách biệt ba năm giữ trọn một tiết”
+ Cầu xin chồng đừng nghi oan
 Nàng đã hết lòng hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ
Lời thoại 2: Khi bị đối xử bất công, nàng nói lên nỗi đau đớn thất vọng:
+ Hạnh phúc gia đình: thú vui nghi gia nghi thất – đã tan vỡ


+ Tình u khơng cịn: Bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao,
liễu tàn trước gió…
+ Cịn cả nỗi đau chờ chồng đến hóa đá cũng khơng có được:
“…đâu cịn có thể lên núi Vọng Phu kia được nữa”
 Vậy là cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì nữa đối với người vợ trẻ khao khát
yêu thương
Lời thoại 3: Cuối cùng nàng thất vọng tột cùng bởi vì cuộc hơn nhân khơng
cịn hàn gắn được nữa:
+ Nàng đành mượn dịng sơng q hương để giải tỏ tấm lịng trong trắng, để
minh oan cho mình
+ Nàng nói lời nguyện cầu xin thần sông chứng giám cho tiết sạch trong và
nỗi oan của mình
 Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng còn là hành động quyết liệt để bảo
vệ nhân phẩm
- Khi sống dưới thủy cung:
+ Nàng vẫn khao khát được trả lại danh dự (Nhờ Phan Lang nói với Trương
Sinh lập đàn giải oan)

+ Nàng vẫn rất nặng lòng với chồng con, quê hương đất nước (khao khát
được đồn tụ cùng gia đình)
+ Nàng là người trọng tình nghĩa (giữ trọn lời hứa với Linh Phi)
 Vũ Nương là người phụ nữ toàn diện, nhưng lại phải chết oan uổng
b. Nỗi oan khuất của Vũ Nương:
* Nguyên nhân trực tiếp:
- Chiếc bóng trên vách khiến bé Đản ngộ nhận đó là cha mình. Những lời nói
ngây dại của đứa trẻ lên ba đã làm thổi bùng cơn ghen trong lòng Trương Sinh
* Nguyên nhân sâu xa:
- Do cuộc hơn nhân bất bình đẳng, do tính cách của Trương Sinh
- Do cách cư xử hồ đồ, độc đốn, thái độ phũ phàng, ít học, ghen tng mù
qng, bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ
 Đối với Vũ Nương, Trương Sinh thiếu lòng tin, thiếu cả tình thương
- Do lễ giáo phong kiến hà khắc: chế độ nam quyền đã dung túng cho người
đàn ơng thói hay ghen, gia trưởng, phá tan hạnh phúc của người phụ nữ
- Trương Sinh là bạo chúa trong gia đình
 Cái chết của Vũ Nương có giá trị tố cáo xã hội phong kiến đương thời
2. Nhân vật Trương Sinh:
- Xuất thân: con nhà giàu nhưng ít học


- Tình tình:
+ Đa nghi, hay ghen, bảo thủ, độc đốn
+ Vũ phu, thiếu lịng bao dung, tình nghĩa
- Là người gây nên cái chết của Vũ Nương
- Xem xét đến cùng, Trương Sinh cũng chính là nạn nhân của xã hội phong
kiến đương thời
3. Những chi tiết đặc sắc:
a. Chi tiết cái bóng:
- Nó là đầu mối, là chi tiết thắt nút – mở nút của truyện, tạo nên sự bất ngờ và

tăng tính bi kịch cho truyện
- Đây là sự khái quát tấm lòng, sự ngộ nhận và sự hiểu lầm của các nhân vật:
+ Đối với bé Đản: tưởng cái bóng là cha của mình – sự ngộ nhận
+ Đối với Vũ Nương: vì nhớ thương chồng nên mới chỉ vào cái bóng và nghĩ
rằng Trương Sinh đang bên mình – khái qt tấm lịng
+ Đối với Trương Sinh: cái bóng là người tình của vợ - sự hiểu lầm
- Nó góp phần hồn thiện nhân cách Vũ Nương, đồng thời thể hiện rõ số phận
bi kịch của người phụ nữ dưới xã hội phong kiến đương thời
b. Chi tiết kì ảo:
- Vũ Nương tự tử nhưng được các tiên nữ cứu - Ở hiền gặp lành
- Phan Lang nằm mộng thả rùa mai xanh và đó là vợ của vua biển Nam Hải
nên khi chạy giặc đắm thuyền được Linh Phi cứu – Báo đáp công ơn
- Trương Sinh lập đàn giải oan ba ngày ba đêm bên bến sơng Hồng Giang,
Vũ Nương trên kiệu hoa nói vọng vào lời tạ từ rồi biến mất
 Thể hiện kết thúc có hậu, tơn vinh vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam luôn vị
tha, bao dung, nhân ái
- Tính bi kịch vẫn cịn tồn tại ngay trong cái lung linh kì ảo
* Kết bài:
Trải qua chiều dài của thời gian, trải qua những năm tháng hào hùng của dân
tộc, thế hệ chúng ta ngày nay được sống trong sự hòa nhập và đổi mới của đất
nước. Sẽ còn nhiều lắm những nỗi niềm của Nguyễn Dữ, những vẻ đẹp của Vũ
Nương cũng như những giá trị khác của tác phẩm “Chuyện người con gái Nam
Xương” mà em chưa có cơ hội trình bày. Tác phẩm đã khép lại nhưng hình tượng
nhân vật Vũ Nương sẽ cịn sống mãi trong bao trái tim độc giả. Từ đó, ta càng trân
trọng hơn những người phụ nữ, trân trọng thêm những người đang ngày ngày góp
phần cống hiến cho sự phát triển của đất nước nói riêng và tồn nhân loại nói
chung.


HỒNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ

(Nhóm các tác giả: Ngơ Gia văn phái)
* Mở bài:
Xây dựng một hình tượng nhân vật đã khó nhưng để hình tượng nhân vật đó
có sức lay động và chiếm trọn trái tim bạn đọc còn khó hơn. Ấy vậy mà nhóm các
tác giả Ngơ Gia văn phái đã làm được điều đó để nhân vật Nguyễn Huệ của họ đã
gây ấn tượng sâu đậm trong lịng độc giả qua tác phẩm “Hồng Lê nhất thống chí”
1. Hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ:
a. Nguyễn Huệ là một người hành động mạnh mẽ, quyết đoán:
- Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ ln ln là con người hành động
một cách xơng xáo, nhanh gọn, có chủ đích và rất quyết đốn
- Khi nghe tin giặc đánh chiến đến tận Thăng Long, mất cả một vùng đất đai
rộng lớn mà ông không hề nao núng, “định thân cầm quân đi ngay”
- Rồi chỉ trong vòng hơn một tháng, ông đã làm được nhiều việc lớn: lên ngơi
Hồng đế, đốc xuất đại binh ra Bắc, tuyển mộ binh lính, tổ chức duyệt binh, phủ dụ
tướng sĩ, định kế hoạch (hành quân, tiến đánh, sau chiến thắng)
b. Nguyễn Huệ là người có trí sáng suốt, nhạy bén
* Sáng suốt trong việc lên ngôi:
- Ngay khi mấy chục vạn quân Thanh hùng hổ kéo vào nước ta, thế giặc đang
mạnh, tình thế khẩn cấp, vận mệnh đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, Nguyễn Huệ
quyết định lên ngơi Hồng đế để chính danh vị, lấy niên hiệu là Quang Trung
- Việc lên ngơi đã được tính kĩ với mục đích thống nhất nội bộ, hội tụ anh tài
và quan trọng hơn là “để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”, được nhân dân
ủng hộ
* Sáng suốt trong việc nhận định tình hình địch và ta: (Lời phủ dụ quân lính
ở Nghệ An)
- Khẳng định chủ quyền dân tộc “đất nào sao ấy”, “người phương Bắc
không phải giống nòi ta, bụng dạ ắt khác”
- Lên án hành động xâm lược phi nghĩa của giặc, trái với đạo trời “từ đời Hán
đến nau, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải”
- Nhắc lại truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc: Trưng nữ vương,

Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, … để khích lệ quân sĩ dưới quyền
- Kêu gọi nhân dân “đồng tâm hiệp lực” và ra kỉ luật nghiêm “chớ quen thói
cũ, ăn ở hai lịng, nếu như việc phát giác sẽ bị giết ngay tức khắc, không tha một
ai”


 Lời phủ dụ như một lời hịch kích thích lòng yêu nước, truyền thống anh
hùng dân tộc
* Sáng suốt trong việc đốn xét bề tơi và dùng người:
- Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, qua lời nói của Quang Trung với Sở và Lân,
ta thấy rõ: Ông rất hiểu tình thế buộc phải rút quân của hai vị tướng này. Đúng ra
thì “qn thua chém tướng” nhưng ơng hiểu lịng họ, sức mình ít khơng thể địch
nổi qn đội hùng hổ nhà Thanh nên đành phải bỏ về Tam Điệp tập hợp. Vì vậy, Sở
và Lân khơng bị phạt mà cịn được khen.
- Đối với Ngơ Thì Nhậm, ông đánh giá rất cao và sử dụng như một vị quân sư
“đa mưu thúc trí”. Việc Lân và Sở rút chạy, Quang Trung cũng đoán là do Nhậm
chủ mưu, vừa là để bảo toàn lực lượng, vừa gây cho địch sự chủ quan. Do đó, ơng
đã tính đến việc dùng Nhậm là người biết dùng lời nói khéo léo để dẹp việc binh
đao.
 Là người hiểu tướng sĩ, ân uy rạch rịi
c. Nguyễn Huệ là người có tầm nhìn xa trơng rộng:
- Ơng ln tin ở mình, tin vào chính nghĩa của dân tộc. Lúc mới khởi binh
đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào, ông đã chắc thắng và dự kiến cả ngày
chiến thắng: “phương lược tiến đánh đã tính sẵn, bất quá mươi ngày là xong …”
- Đang ngồi trên lưng ngựa lo đánh giặc, Quang Trung đã bàn với Nhậm về
quyết sách ngoại giao và kế hoạch mười năm tới sau hịa bình: “chờ mười năm nữa
ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước ta giàu qn mạnh thì ta
có sợ gì chúng”  Ơng làm tất cả vì hịa bình và phát triển dân tộc
d. Nguyễn Huệ là bậc kì tài quân sự - có tài thao lược hơn người:
- Nhà vua thân chinh cầm quân, tổ chức chiến dịch với cuộc hành quân thần

tốc, nổi tiếng trong lịch sử
- Cuộc hành quân thần tốc ấy đến nay vẫn còn làm chúng ta ngạc nhiên:
+ Ngày 25 tháng Chạp, từ Phú Xuân (Huế), một tuần sau đã đến Tam Điệp
+ Đêm 30 tháng Chạp đã “lập tức lên đường” tiến ra Thăng Long (đi bộ)
+ Từ Tam Điệp trở ra vừa hành quân vừa đánh giặc, giữ bí mật bất ngờ
- Hành quân liên tục và gấp gáp nhưng quân đội của vua Quang Trung vẫn
chỉnh tề, dù cho quân đội đó khơng phải tồn lính thiện chiến nhưng dưới sự chỉ
huy tìa tình của ơng đã trở thành qn đội dũng mãnh, đánh đâu thắng đó
e. Hình ảnh vị vua lẫm liệt trong chiến trận:
- Vua Quang Trung thân chinh câm qn khơng chỉ trên danh nghĩa. Ơng làm
tổng chỉ huy chiến dịch thực sự
- Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy này, nghĩa quân Tây Sơn đánh
những trận thắng đẹp, thắng áp đảo kẻ thù


- Khí thế đội quân làm cho kẻ thù khiếp vía, hình ảnh người anh hùng Nguyễn
Huệ cũng được khắc họa lẫm liệt: trong cảnh “khói tỏa mù trời, cách gang tấc
khơng thấy gì”, nổi bật hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc với tấm áo đỏ đã
sạm đen khói súng”
 Hình ảnh người anh hùng được khắc họa đậm nét với tính cách mạnh mẽ,
trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, tài dùng người như thần; là người tổ chức và linh hồn
của chiến công vĩ đại của dân tộc. Đây là hình ảnh người anh hùng chiến trận đẹp
nhất trong văn học trung đại
2. Sự thảm bại của quân xâm lược và số phận bi đát của bọn phản nước
hại dân Lê Chiêu Thống:
a. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh:
- Tướng: lúc quân Tây Sơn chưa đánh thì kiêu căng, tự mãn, chủ quan nhưng
khi quân Tây Sơn đánh đến thì sợ mất mật, ngựa khơng kịp đóng yến, người khơng
kịp mặc giáp… chuồn trước qua cầu phao rồi nhằm hướng Bắc mà chạy
- Quân: trước khi quân Tây Sơn đến thì mặc sức vui chơi nhưng khi lâm trận

thì ai nấy đều rụng rời sợ hãi, xin ra hàng hoặc bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên
nhau mà chết, đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn, khơng chảy được
nữa
- Cả đôi binh hùng tướng mạnh mấy chục vạ người quen diễu võ dương oai
giờ chỉ còn biết tháo chạy “đêm ngày thì gấp, khơng dám nghỉ ngơi”
 Số phận tất yếu của kẻ xâm lược
b. Số phận bi thảm của bọn phản nước hại dân:
- Lê Chiêu Thống cùng bề tơi trung thành của ơng đã vì lợi ích riêng của dòng
họ mà mù quáng, đem vận mệnh của dân tộc đặt vào tay kẻ thù xâm lược
- Họ không còn tư cách bậc quân vương mà phải chịu số phận nhục nhã của
kẻ cầu canh van xin và chịu chung số phận thảm hại của kẻ vong quốc
+ Lê Chiêu Thống cũng vội vã cùng kẻ thân tín chạy bán sống bán chết, chạy
“luôn mấy ngày không ăn”, cướp cả thuyền của dân để qua sông
+ Cuối cùng, khi sang đến Trung Quốc phải cạo đầu, tết tóc, ăn mặc giống
người Mãn Thanh và khi chết phải gửi gắm xương tàn nơi đất khách quê người.
* Kết bài:
Trải qua chiều dài của thời gian, trải qua những năm tháng hào hùng của dân
tộc, thế hệ chúng ta ngày nay được sống trong sự hòa nhập và đổi mới của đất
nước. Sẽ còn nhiều lắm những những vẻ đẹp của nhân vật Nguyễn Huệ cũng như
những giá trị khác của tác phẩm “Hồng Lê nhất thống chí” mà em chưa có cơ hội
trình bày. Tác phẩm đã khép lại nhưng hình tượng nhân vật Nguyễn Huệ sẽ cịn
sống mãi trong bao trái tim độc giả. Từ đó, ta càng trân trọng những giây phút độc
lập ngày hôm nay, trân trọng những giây phút được sống trong thời kì bình yên.




TRUYỆN KIỀU
(Đại thi hào Nguyễn Du)


Đoạn trích: CHỊ EM THÚY KIỀU
*Mở bài:
Nguyễn Du là con người có mắt nhìn xun 6 cõi, có tấm lịng nghĩ suốt
nghìn đời. Đó là lời nhận định của Mộng Liên Đường Chủ nhân – nhà phê bình
văn học nổi tiếng ở thế kỷ XIX đã thể hiện sự ngưỡng mộ, ngợi ca với tài năng của
Nguyễn Du – đại thi hào dân tộc và sự thành công của Truyện Kiều. Trong kiệt tác
“Đoạn trường Tân thanh”, tác giả Nguyễn Du như hóa thân vào nhân vật để diễn
tả những cảm xúc sâu thẳm nhất trong tâm hồn ngời phụ nữ tài hoa nhưng bạc
mệnh. Trích đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong số những minh chứng tiêu
biểu thể hiện điều này. Bằng ngịi bút nhân đạo, tấm lịng thương xót, cùng với sự
đồng cảm sâu sắc của mình, tác giả Nguyễn Du đã tái hiện thành công bức tranh
(vấn đề luận bàn)
1. Vẻ đẹp của Thúy Vân:
- Câu mở đầu vừa giới thiệu về Thúy Vân, vừa khái quát đặc điểm của các
nhân vật. Hai chữ “trang trọng” gợi vẻ đẹp cao sang, quý phái của Vân.
- Với bút pháp nghệ thuật ước lệ và phép nhân hóa, vẻ đẹp của Vân được so
sánh với những thứ đẹp nhất của thiên nhiên: trăng, hoa, tuyết, ngọc.
- Bằng thủ pháp liệt kê, chân dung Thúy Vân được miêu tả tồn vẹn: Khn
mặt đầy đặn, phúc hậu, sáng sủa như mặt trăng rằm; Lông mày sắc nét, đậm như
con ngài; Miệng cười tươi tắn như hoa nở, tiếng nói trong như ngọc; Mái tóc óng ả,
nhẹ hơn mây, da trắng mịn màng hơn tuyết.
- Chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách, số phận. Vân đẹp nhưng
tạo sự hài hòa êm đềm với xung quanh: “mây thua, tuyết nhường”. Điều đó dự báo
một tính cách ung dung điềm đạm, một cuộc đời bình n khơng sóng gió.
2. Vẻ đẹp và tài hoa của Thúy Kiều:
a. Vẻ đẹp nhan sắc của Thúy Kiều:
- Gợi tả vẻ đẹp Thúy Kiều, tác giả vẫn dùng những hình ảnh ước lệ: thu thủy,
xuân sơn, hoa liễu. Đặc biệt khác với Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ đặc tả đôi mắt
theo lối “điểm nhãn” – vẽ hồn chân dung.
- Hình ảnh “Làn thu thủy nét xuân sơn” là hình ảnh ước lệ, ẩn dụ, gợi đơi mắt

trong sáng long lanh linh hoạt như làn nước mùa thu, lông mày thanh tú như nét
núi mùa xuân. Đôi mắt và cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn, trí
tuệ.
- Vẻ đẹp của Kiều khơng được miêu tả trực tiếp mà thông qua sự ghen ghét
của thiên nhiên, quả thực đây và vẻ đẹp có chiều sâu – có sức cuốn hút lạ lùng.
b. Vẻ đẹp tài năng và tâm hồn của Thúy Kiều:


- Vẻ đẹp của Kiều ẩn chứa bên trong những phẩm chất cao quý, cái tài, cái
tình đặc biệt. Kiều là người thơng minh, đa tài:
“Thơng minh vốn sẵn tính trời”
- Tài năng của Kiều đạt đến mức lý tưởng theo quan niệm thẩm mỹ phong
kiến:
“Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”
- Tác giả đặc biệt đặc tả tài đàn – là sở trường, nghề riêng của nàng
“Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”
- Cung đàn của Kiều là tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm:
“Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
 Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc – tài – tình.
- Chân dung của Kiều là bức chân dung mang tính cách, số phận. Vẻ đẹp của
nàng khiến cho tạo hóa phải ghen ghét. Cuộc đời Kiều hẳn là cuộc đời hồng nhan
bạc mệnh.

Đoạn trích: KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
1. Tâm trạng nhớ thương Kim Trọng và cha mẹ của Kiều:
a. Nàng nhớ đến Kim Trọng trước:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ”

- Đặt nỗi nhớ người yêu lên trước, Kiều đã không giấu diếm nỗi niềm nhớ
thương da diết, mãnh liệt
+ Kiều “tưởng” như thấy lại được kì niệm đêm trăng với lời thề ngun lứa
đơi. Đó là kí ức hai người đã cùng uống chén rượu thề nguyền son sắt, một lòng
cùng nhau đến trọn đời. Vậy mà giờ đây mỗi người một ngả, cách biệt, chia xa.
+ Nàng hình dung về tình cảm và tâm trạng “rày trơng mai chờ” của chàng
Kim mà xót xa.
- Với tài năng sử dụng ngơn ngữ độc thoại và lời thơ như có nhịp thổn thức,
tác giả đã diễn tả nỗi nhớ khôn nguôi và cả sự xót xa, ân hận của Kiều:
“Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
- “Tấm son” là hình ảnh ẩn dụ cho tấm lòng son sắt, thủy chung của Kiều
nhưng giờ đây nó đã bị vùi dập, hoen ố, không biết đến báo giờ mới “gột rửa” cho
được
 Trong nỗi nhớ chàng Kim có cả nỗi đau vị xé tâm can.
b. Kiều nhớ đến cha mẹ:


- Khi nhớ về cha mẹ, nàng thấy “xót” khi tưởng tượng ở chốn quê nhà, cha mẹ
vẫn tựa cửa ngóng chờ tin tức người con gái yêu. Nghệ thuật đảo từ “xót” lên đầu
câu, nhấn mạnh đến nỗi đau xót tận tâm can, thương cha mẹ của Kiều.
- Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, cho thấy nàng day dứt khơn ngi và lo
lắng khơng biết ai sẽ chăm sóc cha mẹ thay nàng.
- Nàng tưởng tượng nơi quê nhà đã đổi thay, “gốc tử đã vừa người ôm” thời
gian trôi đi, cha mẹ ngày càng già yếu.
- Cụm từ “cách mấy nắng mưa” là một ẩn dụ vừa gợi sự xa cách bao mùa
mưa nắng, vừa gợi sự tàn phá của thời gian, của thiên nhiên với con người và cảnh
vật.
 Nhớ về cha mẹ, nàng luôn ân hận mình đã phụ cơng sinh thành ni dạy.
Nỗi nhớ thương của Kiều đã nói lên nhân cách đáng trân trọng của nàng.
2. Tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều thể hiện qua cái nhìn cảnh vật:

* Cảnh vật được nhìn qua con mắt Kiều gợi lên trong lịng nàng những nỗi
buồn da diết:
- Cách sử dụng ngôn ngữ độc thoại và điệp ngữ, tạo âm hưởng trầm buồn cho
đoạn thơ:
+ “Buồn trơng” có nghĩa là buồn mà nhìn ra xa trơng ngóng một cái gì đó mơ
hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại nhưng trông mà vô vọng.
+ Điệp ngữ “buồn trơng” kết hợp với các hình ảnh đứng sau đó, với các từ
láy, đã diễn tả nỗi buồn ngày càng tăng với nhiều sắc độ khác nhau. Nỗi buồn ấy
được tái hiện qua 4 cảnh:
“Buồn trông cửa bể chiều hơm
Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa”
 Cảnh chiều hôm muôn thủa đã gợi nỗi buồn, tác giả đã sử dụng một hình
ảnh đắt giá để thể hiện nội tâm nàng Kiều. Một cánh buồm nhỏ nhoi đơn đọc giữa
biển nước mênh mông trong ánh sáng le lói cuối ngày của mặt trời sắp tắt, con
thuyền vẫn lênh đênh trên mặt nước mỗi lúc một xa, chưa có bến bờ neo đậu; cũng
như Kiều cịn lệnh đênh giữa dòng đời, biết bao giờ mới được trở về sum họp,
đồn tụ với những người thân u.
“Buồn trơng ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu”
 Hình ảnh ẩn dụ “hoa trơi” gợi nỗi buồn lo da diết. Nhìn những cánh hoa lụi
tàn trơi man mác giữa dòng nước, Kiều càng lo cho thân phận lênh đênh, chìm nổi
khơng biết rồi sẽ đi về đâu, dập vùi ra sao. Câu hỏi tu từ nhấn mạnh nỗi băn khoăn,
thấp thỏm như một tiếng thở than
“Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”


 Đây là cảnh gợi liên tưởng đến cảnh ngày xn trong tiết Thanh minh
nhưng khơng cịn cái “xanh tận chân trời” mà thay vào đó là nội cỏ “rầu rầu”,
“xanh xanh” – héo úa, mù mịt, nhạt nhòa trải dài từ mặt đất đến chân mây. Cảnh ấy

gợi cho Kiều nỗi chán ngán, vơ vọng vì cuộc sống cơ quạnh và những chuỗi ngày
vô vị, tẻ nhạt không biết kéo dài đến bao giờ.
“Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
 Dường như nỗi buồn ngày càng lúc càng tăng, càng dồn dập. Thiên nhiên
dữ dội, cái âm thanh “ầm ầm tiếng sóng” chính là ẩn dụ chỉ âm thanh dữ dội của
cuộc đời phong ba bão táp, đã và đang đổ ập xuống đời nàng và còn tiếp tục đè
nặng lên kiếp người nhỏ bé ấy trong xã hội phong kiến cổ hủ. Tất cả là những đợt
sóng đang gầm rít trong lịng nàng. Kiều khơng chỉ buồn mà cịn lo sợ, kinh hãi
như rơi dần vào vực thẳm một cách bất lực.
* Cảnh được nhìn qua tâm trạng Kiều theo quy luật:
- Cảnh được nhìn theo quy luật:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
- Cảnh được nhìn từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh
đến động, diễn tả nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến bão
táp nội tâm.
- Nguyễn Du đã chọn các thể hiện “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”
thể hiện một nỗi buồn ôm trọn ba nỗi buồn, tạo nen một đoạn tuyệt bút, khắc họa
Thúy Kiều với thế giới nội tâm sâu thẳm và đầy bi kịch.
 Lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất vì nàng đã mắc lừa Sở
Khanh để rồi phải dấn thân vào cuộc đời: “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”
* Kết bài:
Trải qua chiều dài của thời gian, trải qua những năm tháng hào hùng của dân
tộc, thế hệ chúng ta ngày nay được sống trong sự hòa nhập và đổi mới của đất
nước. Sẽ còn nhiều lắm những nỗi niềm của Nguyễn Du, những vẻ đẹp về tài năng
và tâm hồn Thúy Kiều, cũng như những giá trị khác của tác phẩm “Kiều ở lầu
Ngưng Bích” mà em chưa có cơ hội trình bày. Tác phẩm đã khép lại nhưng hình
tượng nhân vật Thúy Kiều sẽ cịn sống mãi trong bao trái tim độc giả. Từ đó, ta
càng trân trọng hơn những số phận nhỏ nhoi, những con người luôn phải chịu

những điều tồi tệ của xã hội cũ.


ĐỒNG CHÍ
(Chính Hữu)
* Mở bài:
Chiến tranh đã đi qua nhưng mỗi khi nhắc lại ta vẫn không thể nào quên được
bao kí ức về những năm tháng gian lao mà đẽ của dân tộc. Trang sử vàng của đất
nước được bắt đầu từ những đơi tay của những người lính. Họ có thể là những
người nơng dân, những trí thức, những người có địa vị trong xã hội … Những con
người khác nhau với cuộc sống khác nhau nhưng khi xảy ra chiến tranh, họ sẵn
sàng đi theo tiếng gọi con tim, gác lại luôn công việc để lên đường cứu nước. Hình
ảnh người lính có lẽ được khắc họa đẹp nhất, chân thực nhất qua bài thơ “Đồng
chí” của tác giả “Chính Hữu”
1. Cơ sở hình thành tình đồng chí:
a. Chung hồn cảnh xuất thân (tương đồng về cảnh ngộ):
- Xuất thân: nông dân, từ những vùng quê khác nhau:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
+ Lời thơ giản dị  giới thiệu về quê hương “anh” và “tôi”
+ Sử dụng sáng tạo thành ngữ: “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” 
khó canh tác, nghèo khổ.
 Đó là cơ sở đồng cảm giai cấp của những người lính
- Trước ngày nhập ngũ, họ vẫn còn là những con người xa lạ:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
+ “Anh” và “tôi” từ chỗ đứng đầu tách biệt mỗi dòng thơ, đến đây đã xuất
hiện trên cùng một dịng thơ, trở thành “đơi”, hai người chẳng thể tách rời kết hợp
với từ “xa lạ”  Vì tham gia chiến đấu nên họ mới quen nhau.
 Chính sợi dây tình cảm giai cấp đã kết nối họ trở thành đồng chí, đồng đội

b. Chung lí tưởng, chung nhiệm vụ:
- Tình đồng chí cịn là sự gắn kết trọn vẹn cả về lý chí lẫn lý tưởng và mục
đích cao cả:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
- Đây là hình ảnh ẩn dụ, sóng đơi hai vế câu miêu tả chân thực cuộc đời người
lính.
 Điểm chung lớn nhất giữa những người lính, cội nguồn sức mạnh là: chung
nhiệm vụ, lý tưởng chiến đấu.
c. Cùng chung những khó khăn, thiếu thốn:


- Tình đồng chí cịn được nảy nở bền chặt trong sự chan hịa chia sẻ mọi khó
khăn thiếu thốn thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến:
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”
+ “chung chăn”: chung khắc nghiệt, chung hơi ấm để vượt qua cái lạnh.
+ “đôi tri kỷ”: đơi bạn tâm tình thân thiết, hiểu bạn như hiểu mình.
 Sự hịa nhập của những người chiến sĩ, từ “xa lạ” trở thành “tri kỷ”.
*Câu thơ đặc biệt:
“Đồng chí”
- Hình thức: Câu thơ ngắn nhất có hai chữ và dấu chấm cảm. Là câu đặc biệt
nhưng mang hình thức của câu cảm thán
- Nội dung:
+ Là đòn gánh, điểm chốt nối hai đầu những câu thơ đồ sộ, nâng ý đoạn trước,
mở ra ý đoạn sau
+ Là kết tinh cao độ của tình bạn, tình người, nổi bật chủ đề cả bài thơ: Tình
đồng chí cao đẹp
 Điểm sáng của bài thơ.
2. Những biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí:
a. Đồng chí cịn là sự cảm thơng sâu xa những tâm tư, nỗi lòng của nhau:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà khơng mặc kệ gió lung lay”
- Những người lính sẵn sàng hi sinh tất cả vì Tổ quốc: “ruộng nương, gian
nhà”  Tài sản lớn nhất cả đời họ phấn đấu
- Cách sử dụng từ ngữ giản dị, mộc mạc: “mặc kệ” hi sinh quyền lợi cá nhân,
ra đi mà không dửng dưng vô tình.
“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
- Hình ảnh vừa là hình ảnh hốn dụ, vừa là hình ảnh nhân hóa  Nỗi nhớ hai
chiều.
 Sự đồng cảm, sự thấu hiểu khiến người chiến sĩ an ủi chia sẻ với nhau tất cả
những tâm tư để chiến thắng kẻ thù.
b. Đồng chí, đó là sự cảm thơng cho những khó khăn gian khổ mà các
anh đã phải trải qua trong đời sống:
- Bức tranh hiện thực đời sống khó khăn của người lính:
“Anh với tơi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai quần tơi có vài mảnh vá


Miện cười buốt giá chân không giày”
+ Thiếu quân trang, quân dụng.
+ Sốt rét rừng ghê gớm.
- Cách viết các hình ảnh sóng đơi, bút pháp lãng mạn, đối lập với những khó
khăn là “miệng cười” ấm tình đồng đội, tinh thần lạc quan.
 Người lính chung nhau mọi gian khổ, thấu hiểu và sẻ chia.
c. Hình ảnh cơ đọng, làm nên sức mạnh của người lính:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
- Đó là những cử chỉ cảm động, chứa chan tình cảm chân thành
- Những bàn tay nắm lấy bàn tay truyền cho nhau hơi ấm của tình yêu thương,
của sự gắn kết trong suốt trường kì kháng chiến
- Có lẽ khơng ngơn ngữ nào diễn tả cho hết tình đồng chí thiêng liêng như cái

bắt tau ấy
 Những bàn tay không lời nhưng ẩn chứa bao ý nghĩa, quyết tâm chiến đấu
3. Biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
- Bức tượng đài sừng sững về tình đồng chí. Trên nền thiên nhiên khắc nghiệt
đối lập với chân dung những người lính đứng cạnh nhau, phục kích giặc.
- Từ “chờ”: chủ động, hiên ngang, sẵn sàng phục kích giặc  người lĩnh vẫn
bình thản, lãng mạn bên thềm cuộc chiến đấu.
- Hình ảnh “đầu súng trăng treo”: điểm nhãn của phần ba, điểm sáng của toàn
bài:
+ Tả thực: trăng là người bạn, treo trên đầu ngọn súng.
+ Liên tưởng: Súng là hình ảnh tượng trưng cho chiến tranh, trăng tượng
trưng cho hịa bình, vừa mang ý nghĩa hiện thực vừa lãng mạng. Tâm hồn người
lính: chiến sĩ và thi sĩ.
* Kết bài:
Trải qua chiều dài của thời gian, trải qua những năm tháng hào hùng của dân
tộc, thế hệ chúng ta ngày nay được sống trong sự hòa nhập và đổi mới của đất
nước. Sẽ cịn nhiều lắm những giá trị được tìm thấy trong tác phẩm mà em chưa có
cơ hội trình bày. Tác phẩm đã khép lại nhưng hình tượng người lính xuất thân từ
nơng dân sẽ cịn sống mãi trong bao trái tim độc giả. Từ đó, ta hãy ra sức thi đua
học tập, phấn đấu để xây dựng Tổ quốc, không phụ những công lao cứu nước của
những người lính chiến tranh.



BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHƠNG KÍNH
(Phạm Tiến Duật)
* Mở bài:

Chiến tranh đã đi qua nhưng mỗi khi nhắc lại ta vẫn khơng thể nào qn được
bao kí ức về những năm tháng gian lao mà đẽ của dân tộc. Trang sử vàng của đất
nước được bắt đầu từ những đơi tay của những người lính. Họ có thể là những
người nơng dân, những trí thức, những người có địa vị trong xã hội … Những con
người khác nhau với cuộc sống khác nhau nhưng khi xảy ra chiến tranh, họ sẵn
sàng đi theo tiếng gọi con tim, gác lại ln cơng việc để lên đường cứu nước. Hình
ảnh người lính có lẽ được khắc họa đẹp nhất, chân thực nhất qua tác phẩm “Bài
thơ về tiểu đội xe khơng kính” của tác giả “Phạm Tiến Duật”
1. Hình ảnh những chiếc xe khơng kính.
- Tứ thơ xe khơng kính là một hình ảnh độc đáo và ít thấy trong thơ và nó rất khác
với những hình ảnh xe cộ đã từng có trong thơ ca trước đó. Thơng thường hình ảnh
xe trong thơ ca thường được miêu tả theo cách “mĩ lệ hóa” hoặc “tượng trưng”.
- Ở bài thơ này, hình ảnh chiếc xe khơng kính là một hình ảnh hồn tồn có
thực trong chiến tranh được tác giả miêu tả cụ thể, chi tiết và rất thực.
- Tác giả giải thích ngun nhân cũng rất thực:
“Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính.
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”.
- Bom đạn khốc liệt của chiến tranh làm cho những chiếc xe ấy khơng có
kính.
Cái hình ảnh thực này được diễn tả bằng hai câu thơ rất gần với văn xi lại
có giọng thản nhiên pha chút ngang tàng, đọc lên nghe rất thú vị. Ba chữ “không”
đi liền nhau với hai nốt nhấn “Bom giật, bom rung” biểu lộ chất lính trong cách
nói phóng khống hồn nhiên. Như vậy tác giả đi từ hiện thực khốc liệt, những
chiếc xe vận tải bị bom Mỹ tàn phá để xây dựng lên một hình tượng thơ độc đáo và
nhiều ý nghĩa
2. Hình ảnh người chiến sỹ lái xe :
- Tác giả miêu tả những chiếc xe không kính nhằm làm nổi rõ hình ảnh những
người chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những điều kiện phương tiện vật chất
tối thiểu lại là một cơ hội để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức
mạnh tinh thần lớn lao của họ. Những phẩm chất cao đẹp ấy được khắc hoạ 1 cách

cụ thể và gợi cảm ở 14 câu thơ tiếp theo.
a. Trước hết là sự ung dung, bình tĩnh giữa chiến trường hiểm nguy.
- Những câu thơ tả thực, chính xác đến từng chi tiết. Khơng có kính chắn gió,
bảo hiểm, xe lại chạy nhanh nên người lái phải đối mặt với bao khó khăn nguy
hiểm: nào là “gió vào xoa mắt đắng”, nào là “con đường chạy thẳng vào tim”, rồi
“sao trời”, rồi “cánh chim” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa- rơi rụng, va đập,


quăng ném.... vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. Dường như chính nhà thơ
cũng đang cầm lái, hay ngồi trong buồng lái của những chiếc xe khơng kính nên
câu chữ mới sinh động và cụ thể, đầy ấn tượng, gợi cảm giác chân thực đến thế.
- Cảm giác, ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách. Song người chiến sĩ không
run sợ, hoảng hốt, trái lại tư thế các anh vấn hiên ngang, tinh thần các anh vẫn
vững vàng.... “ung dung.... nhìn thẳng. Hai câu thơ “ung dung.... thẳng” đã nhấn
mạnh tư thế ngồi lái tuyệt đẹp của người chiến sĩ trên những chiếc xe khơng kính.
Hai chữ “ta ngồi” với điệp từ “nhìn” cho ta thấy cái tư thế ung dung, thong thả,
khoan thai, bình tĩnh, tự tin của người làm chủ, chiến thắng hồn cảnh. Bầu khơng
khí căng thẳng với “Bom giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn
hướng về phía trước của một con người luôn coi thường hiểm nguy. Nhịp thơ 2/2/2
với những dấu phẩy ngắt khiến âm điệu câu thơ trở nên chậm rãi, như diễn tả thái
độ thản nhiên đàng hoàng. Với tư thế ấy, họ đã biến những nguy hiểm trở ngại trên
đường thành niềm vui thích. Chỉ có những người lính lái xe với kinh nghiệm chiến
trường dày dạn, từng trải mới có được thái độ, tư thế như vậy.
Vậy đấy, hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn gian khổ mà những
người chiến sĩ lái xe TSơn đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên
ngang bình tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm gan góc chuyển hàng ra
tiền tuyến. Khơng có kính chắn gió, bảo hiểm, đồn xe vẫn lăn bánh bình thường.
Lời thơ nhẹ nhõm, trơi chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường.
b. Những người lính trẻ rất yêu đời lạc quan, bất chấp khó khăn, coi
thường gian khổ.

- Nếu như hai khổ trên là những cảm giác về những khó khăn thử thách dù
sao cũng vẫn mơ hồ thì đến đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là
“bụi phun tóc trắng” và “mưa tn xối xả” (gió, bụi, mưa tượng trưng cho gian
khổ thử thách ở đời). Trên con đường chi viện cho miền Nam ruột thịt,những
người lính đã nếm trải đủ mùi gian khổ.
+ Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn khơng nao núng. Các anh càng
bình tĩnh, dũng cảm hơn. “mưa tuôn, mưa xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, dữ đội
nhưng đối với họ tất cả chỉ “chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận tâm, chúng lại như đem
lại niềm vui cho người lính.Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm
lạc quan sôi nổi: “không có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì”
vang lên như một thách thức, một chấp nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ
cứng cỏi. Dường như gian khổ hiểm nguy của chiến tranh chưa làm mảy may ảnh
hưởng đến tinh thần của họ, trái lại họ xem đây là một dịp để thử sức mình như
người xưa xem hoạn nạn khó khăn để chứng tỏ chí làm trai.
+ Sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt
gian khổ hiểm nguy:”Chưa cần rửa.... khô mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn cân
đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7
tiếng cuối đoạn có đến 6 thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khơ mau thơi” gợi cảm
giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi
18 - 20 hồ trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc - nhìn


nhau mặt lấm cười ha ha” ... ý thơ rộn rã, sơi động như sự sơi động hối hả của
đồn xe trên đường đi tới.
(Nếu chúng ta quen đọc, hoặc u thích nhưng vần thơ trau chuốt, mượt mà
thì lần đầu tiên đọc những vần thơ này, có thể cảm thấy hơi gợn, ít chất thơ.
Nhưng càng đọc thì lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì nghịch ngợm,
lính tráng. Ta nghe như họ đương cười đùa, teeos táo với nhau vậy. Có lẽ với
những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn, là một người lính thực thụ
đã giúp Phạm tiến Duật đưa hiện thực đời sống vào thơ ca - một hiện thực bộn bề,

một hiện thực thô tháp, trần trụi, không hề trau chuốt, giọt rũa. Đấy phải chăng
chính là nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ gần gũi với lời
nói hàng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính cách ngang tàng của những anh lính trẻ
hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó cũng là một nét rất ấn tượng của người lính lái xe
Trường Sơn. Cái cười sảng khối vơ tư, khác với cái cười buốt giá trong bài thơ
“Đồng chí”, nụ cười hồn nhiên ấy rất hiếm khi gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ
cười ngạo nghễ của những con người luôn luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.)
c. Tình đồng chí, đồng đội gắn bó, yêu thương.
- Sau mỗi trận mưa bom bão đạn cùng với những chiếc xe bị tàn phá nặng nề
hơn, họ lại gặp nhau trong những phút dừng chân ngắn ngủi. Hình tượng người
chiến sĩ lái xe thêm một nét đẹp nữa về tâm hồn và tình cảm. Đấy là tình cảm gắn
bó, chia sẻ ngọt bùi của những chàng trai vui vẻ, sôi nổi, yêu đời. Cái bắt tay độc
đáo là biểu hiện đẹp đẽ ấm lịng của tình đồng chí, đồng đội đầy mộc mạc nhưng
thấm thía : “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”, cái bắt tay thay cho lời nói. Chỉ có
những người lính, những chiếc xe thời chống Mĩ mới có thể có những cái bắt tay
ấy, một chi tiết nhỏ nhưng mang dấu ấn của cả một thời đại hào hùng.
- Lúc cắm trại, các anh trị chuyện, ăn uống, nghỉ ngơi thoải mái, xuềnh
xồng, nhường nhịn nhau như anh em ruột thịt.: chung bát,chung đũa, mắc võng
chơng chênh... chỉ trong một thống chốc. Để rồi lại tiếp tục hành quân”Lại đi lại
đi trời xanh thêm”. Trong tâm hồn họ, trời như xanh thêm chứa chan hi vọng lạc
quan dào dạt. Câu thơ bay bay, phơi phới, thật lãng mạn, thật mộng mơ. Điệp từ
“lại đi” được lặp lại hai lần gợi tả nhịp sống chiến đấu và hành qn của tiểu đội xe
khơng kính mà khơng một sức mạnh đạn bom nào có thể ngăn cản nổi. Sự sống
khơng chỉ tồn tại mà cịn tồn tại trong một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang – tư thế của
người chiến thắng.
d. Khổ cuối dựng lên hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ và thú vị
làm nổi bật sự khốc liệt trong chiến tranh nhưng cũng làm nổi bật ý chí chiến đấu,
quyết tâm sắt đá, tình cảm sâu đậm với miền Nam ruột thịt.
+ Hai câu đầu dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do
đường trường gây ra: những chiếc xe bị hư hỏng nhiều hơn “khơng kính, khơng

mui, khơng đèn, thùng xe có xước...” và biết bao chiến sĩ đã dũng cảm hi sinh.
Điệp ngữ “khơng có” nhắc lại 3 lần như nhân lên 3 lần thử thách khốc liệt.


Hai dòng thơ ngắt làm 4 khúc như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu đầy
chông gai, bom đạn.... Ấy vậy mà những chiếc xe như những chiến sĩ kiên cường
vượt lên trên bom đạn, hăm hở lao ra tiền tuyến với một tình cảm thiêng liêng:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước. Chỉ cần trong xe có một trái tim”
+ Hai câu cuối âm điệu đối chọi mà trôi chảy, êm ru. Hình ảnh đậm nét. Vậy
là đồn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra
tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì Miền Nam”, vì cuộc chiến đấu
giành độc lập thống nhất đất nước đang vẫy gọi.
+ Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh hùng của
người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cường, giầu bản
lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Phải chăng chính trái tim con người đã cầm
lái? Tình u Tổ Quốc, tình u thương đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khổ
đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vận tải vượt khó khăn gian khổ, ln lạc
quan, bình tĩnh nắm chắc tay lái, nhìn thật đúng hướng để đưa đồn xe khẩn trương
tới đích?
+ Ẩn sau ý nghĩa trái tim cầm lái, câu thơ còn muốn hướng người đọc về một
chân lí của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ
khí, là cơng cụ... mà là con người- con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý
chí kiên cường dũng cảm, niềm lạc quan và một niềm tin vững chắc.
Có thể nói, bài thơ hay nhất là câu thơ cuối cùng này. Nó là nhãn tự, là con
mắt của bài thơ, bật sáng chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong
thơ.
(Tơ đậm những cái khơng để làm nổi bật cái có… nổi bật chân lí của thời đại,
bom đạn, chiến tranh có thể làm méo mó những chiếc xe, huỷ hoại những giá trị
vật chất nhưng không thể bẻ gẫy được những giá trị tinh thần cao đẹp….để rồi một
nước nhỏ như Việt Nam đã chiến thắng một cường quốc lớn…. Phải chăng đó là

câu trả lời …?)
* Kết bài:
Trải qua chiều dài của thời gian, trải qua những năm tháng hào hùng của dân
tộc, thế hệ chúng ta ngày nay được sống trong sự hòa nhập và đổi mới của đất
nước. Sẽ còn nhiều lắm những nỗi niềm của Phạm Tiến Duật, những vẻ đẹp của
hình tượng người lính cũng như những giá trị khác của tác phẩm “Bài thơ về tiểu
đội xe không kính” mà em chưa có cơ hội trình bày. Tác phẩm đã khép lại nhưng
hình tượng nhân vật người lính sẽ còn sống mãi trong bao trái tim độc giả. Từ đó,
mỗi chúng ta hãy tự nhắc nhở bản thân hãy học tập, rèn luyện, góp cơng xây dựng
Tổ quốc để khơng phụ những vất vả, khó khăn mà những người lính đã phải chịu
trong thời kì giải phóng đất nước.


ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
(Huy Cận)
* Mở bài:
Nếu văn học là một con tàu thì chắc chắn nó sẽ lăn bánh trên đường ray lịch
sử. Hành trình ấy đã trở thành quy luật. Lịch sử vận động thì văn học khơng thể
tĩnh tại. Trước thời cuộc đầy những biến thiên dữ dội, nhà văn sẽ là kẻ lạc đường
nếu cố tình lái con tàu chệch hướng và chấm mãi ngòi bút của mình tại một điểm.
Nhìn lại văn học giai đoạn sau 1945, chúng ta thấy rõ được vai trò phản ánh hiện
thực của văn học thơng qua tác phẩm “Đồn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
1. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hồng hơn:
a. Khung cảnh trời biển:
- Mở đầu bài thơ là một hình ảnh so sánh gợi lên khung cảnh thiên nhiên huy
hoàng tráng lệ:
“Mặt trời xuống biển như hịn lửa”
- Và liền sau đó là sự liên tưởng độc đáo: vũ trụ được hình dung như một ngôi
nhà lớn vào đêm và màn đêm buông xuống là một cánh của khổng lồ và những con
sóng là then cài của. Thiên nhiên như dọn dẹp chuẩn bị nghỉ ngơi (tắt lửa, cài then,

sập cửa)
 Đoàn thuyền ra khơi đi trên biển như là đi trong ngôi nhà của mình.
b. Đồn thuyền ra khơi:
- Ngược lại với thiên nhiên bắt đầu trạng thái nghỉ ngơi thì con người lại bắt
đầu lao động với khí thế rất hào hứng:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
- Sự đối lập về hình ảnh và nhạc điệu trong hai câu thơ nói lên khí thế và nhiệt
tình của người lao động
+ Câu thơ khiến ta hình dung ra cả một đồn thuyền, chứ khơng phải một con
thuyền đơn độc ra khơi
+ Đoàn thuyền “lại” ra khơi, phụ từ “lại” vừa gợi sự đối lập, vừa gợi tư thế
chủ động của con người và cho biết công việc ra khơi đánh bắt cá vẫn diễn ra
thường xuyên, lặp đi lặp lại. Mặc dù vật, khí thế vẫn hăm hở, náo nức, cất lên
thành khúc hát
+ Tác giả đã tạo ra một hình ảnh khỏe, lạ, lãng mạn mà rất thực từ sự gắn kết
của ba sự vật, hiện tượng: cánh buồm, gió khơi và câu hát
- Với nghệ thuật chuyển đổi cảm giác “câu hát căng buồm”, ta thấy tâm tư
người lao động như gửi gắm vào lời hát: phấn khởi, say mê với công việc. Tất cả
nói lên khí thế phơi phới, mạnh mẽ của đoàn thuyền và niềm vui, sức mạnh của
người lao động làm chủ biển khơi, làm chủ cuộc đời


- Câu hát là niềm vui, là sự phấn chấn của người lao động như có một sức
mạnh vật chất để cùng với gió khơi làm thổi căng cánh buồm đẩy con thuyền lướt
nhanh ra khơi. Và đó cũng là tiếng hát của con người đi chinh phục tự nhiên
- Lời ca của người lao động có “mn luồng sáng” giữa biển đêm (khổ 2)
+ Nghệ thuật so sánh “cá như đồn”, “bạc” thể hiện sự giàu có của biển cả
+ Nghệ thuật nhân hóa tinh tế: “dệt”, ca ngợi biển cả khơng chỉ giàu mà cịn
đẹp.

 Cảnh ra khơi huy hồng đầy khí thế hứa hẹn
2. Đồn thuyền đánh cá giữa khung cảnh trời biển ban đêm:
a. Cảnh đoàn thuyền đánh cá lướt sóng ra khơi, tìm luồng cá:
- Qua bút pháp phóng đại, khoa trường, ta thấy cnahr đồn thuyền lướt sóng
ra khơi, tìm luồng cá, bủa lưới vây giăng mang vẻ đẹp vừa hùng tráng vừa thơ
mộng
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
- Con thuyền được vây bọc trong thiên nhiên có gió làm bánh lái, trăng làm
cánh buồm. Như vậy, con thuyền nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con
thuyền kì vĩ khổng lị hịa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên vũ trụ
- Chủ nhân của con thuyền – người đánh cá cũng trong tư thế làm chủ, trung
tâm, sánh ngang tầm trời đất
 Thuyền và người hịa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên
- Con người khơng chỉ hịa nhập mà con nổi bật ở vị trí trung tâm vũ trụ
+ Động từ “lướt” cho thấy những con thuyền băng băng lướt sóng, thể hiện
khí thế của người lao động khẩn trương
+ Những con người lao động, ra tận khơi xa dị bụng biển tìm luồng cá với thế
trận bủa vây điệp trùng:
“Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
+ Ngư dân làm việc với lòng dũng cảm hăng say và trí tuệ nghề nghiệp, với
tâm hồn phơi phới – thể hiện tư thế của con người lao động đi chinh phục thiên
nhiên
- Bằng những hình ảnh vừa thực vừa ảo, lung linh qua cách liệt kê, ta thấy
biển giàu đẹp như một bức tranh sơn mài lộng lẫy điểm tô cho bức tranh lao động
rực rỡ, tươi vui: Cá nhụ, cá chim … nước Hạ Long
+ Biển khơng chỉ giàu mà cịn đẹp. Vẻ đẹp đó hịa cùng với màu sắc của
mn lồi cá trên biển. Huy Cận sử dụng một loạt các tính từ chỉ màu sắc: lấp lánh,



đen hồng, vàng chóe, … tất cả tạo nên một bức tranh sơn mài nên thơ và đầy lãng
mạn
+ Những con cá song giống như ngọn đuốc đen hồng đang lao đi trong luồng
nước dưới ánh lấp lánh quả là hỉnh ảnh ẩn dụ độc đáo. Tuy nhiên hình ảnh “Cái
đi em quẫy trăng vàng chóe”, lại là hình ảnh đẹp nhất. Ánh trăng in xuống mật
nước, những con cá quẫy đi như ánh trăng tan ra, vàng hóe lan nhanh trên mặt
biển.
+ Câu thơ “Đêm thơ: sao lùa nước Hạ Long” là hình ảnh nhân hóa đẹp. Đêm
được miêu tả như một sinh vật đại dương. Tiếng thở của biển đêm chính là ánh sao
lùa sóng nước. Đây chính là một sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ Huy Cận tạo nên
một bức tranh hịa nhịp kì diệu giữa thiên nhiên và con người lao động
b. Người đánh cá làm việc giữa bao la biển trời và tiếng hát:
- Với cách nhân hóa kì diệu, lời thơ dõng dạc, nhịp thơ như khúc hát say mê,
thiên nhiên cũng góp nhạc với con người, thiên nhiên như giúp con người lao
động:;
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”
Trăng soi bóng nước, sóng xơ bóng trăng trong nước gõ vào mạn thuyền, tạo
nên nhịp trăng để lùa cá vào lưới. Thiên nhiên và con người cùng một nhịp lao
động
 Công việc đánh cá nặng nhọc đã thành bài ca đầy niềm vui, vừa hùng tráng
vừa thơ mộng
- Nghệ thuật so sánh cho ta thấy con người chinh phục thiên nhiên nhưng đầy
lòng biết ơn người mẹ thiên nhiên, gợi sự ưu ái giao hòa của con người với biển cả
quê hương:
“Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buồi nào”
c. Sao mờ, đêm tàn cũng là lúc lười kịp trời sáng:
- Cảnh kéo lưới, bắt cá được miêu tả vừa chân thực, vừa lãng mạn:

“Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đơng
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
- Con người lao động đang bền bỉ dẻo dai với sức lực dồi dào “kéo xoăn tay”
+ Họ là trung tâm của cảnh lao động được khắc họa với những nét tạo hình
gân guốc, chắc khỏe
+ Họ kéo “chùm cá nặng” những mẻ cá trĩu nặng cá bạc, cá vàng


- Màu hồng của bình minh làm ấm bức tranh lao động. Chữ lóe gợi sự nhảy
nhót của cá mắc trong lưới vừa gợi ánh bình minh lên
 Cơng việc nhịp nhàng với sự vận hành của vũ trụ
3. Đoàn thuyền đánh cá trở về trong bình minh:
- Cảnh trở về đầy khí thế và niềm vui:
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đồn thuyền chạy đua cùng mặt trời”
+ Nghệ thuật đầu cuối tương ứng: câu đầu khổ thơ cuối lặp lại câu cuối khổ
thơ đầu như một điệp khúc của khúc ca. Như vật, câu hát đã theo suốt cuộc hành
trình của người dân chài với niềm lạc quan tin tưởng và vui sướng. Điều này nhấn
mạnh niềm vui lao động làm giàu đẹp quê hương của người dân chài
+ Đoàn thuyền trở về trong câu hát phấn khởi với những khoang thuyền đầy
ắp cá với tư thế hào hùng, khẩn trương: “chạy đua cùng mặt trời”, giành lấy thời
gian, tranh thủ thời gian để lao động. Đoàn thuyền ở đây sánh ngang cùng vũ trụ,
là hình ảnh hốn dụ để chỉ người ngư dân trong tư thế sóng ngang cùng vũ trụ
+ Trong cuộc chạy đua này, con người đã chiến thắng. Khi “Mặt trời đội biển
nhô màu mới” thì đồn thuyền đã trở về bến.
“Mắt cá huy hồng mn dặm phơi”
+ “Mặt trời đội biển” là hình ảnh nhân hóa vẻ đẹp ngày mới như một huyền
thoại rực rỡ. Ở đây ta bắt gặp một hình ảnh mặt trời khác, không phải mặt trời của
thiên nhiên mà là của muôn vàn mắt cá lấp lánh trong buổi bình minh. Ý thơ phảng

phất khơng khí thần thoại, bản anh hùng ca lao động.
+ Câu kết đã diễn tả ánh mặt trời đã điểm tô cho thành quả lao động thêm rực
rỡ, muôn mắt cá như muôn mặt trời tỏa sáng huy hồng, góp phần làm đẹp thêm
trời biển quê hương. Đó làm niềm vui chiến thắng, niềm vui đủ đầy khi được mùa
tơm cá, niềm vinh quang bình dị của con người lao động.
 Thuyền và người luôn nổi bật giữa vũ trụ và niềm vui chiến thắng cũng
mang tầm vóc lớn lao.
* Kết bài:
Trải qua chiều dài của thời gian, trải qua những năm tháng hào hùng của dân
tộc, thế hệ chúng ta ngày nay được sống trong sự hòa nhập và đổi mới của đất
nước. Sẽ cịn nhiều lắm những giá trị được tìm thấy trong tác phẩm mà em chưa có
cơ hội trình bày. Tác phẩm đã khép lại nhưng hình tượng những người nơng dân
hăng hái tham gia xây dựng xã hội chủ nghĩa sẽ còn sống mãi trong bao trái tim
độc giả. Từ đó, ta hãy ra sức thi đua học tập, phấn đấu để xây dựng Tổ quốc, góp
phần đổi mới đất nước, phát triển nhân loại


×