Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bài tập lớn Đại cương Văn hóa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.07 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………………2
NỘI DUNG……………………………………………………………………………….3
I. Lý luận về gia đình và làng của người Việt…………………………………………….3
1. Gia đình và văn hóa gia đình…………………………………………………………...3
2. Làng và văn hóa
làng…………………………………………………………………...5
3. Mối quan hệ giữa gia đình và làng của người Việt……………………………………11
II. Liên hệ gia đình và làng của bản thân…………………………………………………
12
KẾT LUẬN………………………………………………………………………………
15
TÀI LIỆU THAM
KHẢO………………………………………………………………..16


MỞ ĐẦU
1. Mục đích chọn đề tài.
Phổ (Spectre) hay cơ cấu xã hội của các nhà nước, các dân tộc, các cộng đồng tuy đều dựa
trên ba nguyên lí cơ bản và thuộc vào các hình thái kinh tế xã hội nhất định tùy vào từng
giai đoạn lịch sử cụ thể mà có những đặc thù riêng.
Khi xem xét mơi trường xã hội Việt Nam, điều đầu tiên phải nhắc tới: Việt Nam là quốc
gia có vị thế địa chính trị, địa văn hóa đặc biệt, nằm ở giao điểm của các nền văn hóa lớn,
là cầu nối Đơng Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo.
Điều thứ hai, lịch sử Việt Nam là lịch sử đầu tranh chống xâm lược phương Bắc, mở rộng
bờ cõi về phương Nam.
Điều thứ ba, văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa thống nhất đa dạng. Đa dạng trước hết
là đa dạng tộc người (54 dân tộc). Từ lâu Việt Nam đã là một quốc gia có nhiều cộng
đồng sắc tộc với những đặc trưng văn hóa khác nhau. Và người Việt (Kinh) đóng vai trị
chủ thể. Văn hóa Việt Nam có truyền thống đa dạng trong văn hóa nhưng hướng tâm vào
văn hóa chủ thể – văn hóa Việt.


Điều thứ tư, văn hóa Việt Nam có đặc trưng văn hóa nơng nghiệp lúa nước, mang tính
chất tiểu nơng, duy tình với cơ cấu tỉnh (tương đối). Đây là một nền văn hóa của kinh tế
nơng nghiệp chủ yếu theo phương thức cổ truyền mang sắc thái tiến hóa (chữ dung của
Quang Đam).
Trong Văn hóa tổ chức cộng động, phổ xã hội Việt Nam có thể được vạch ra như sau:
Cá nhân – Gia đình – Họ hàng – Làng xóm – Vùng (miền, xứ) – Đất nước.
Nhà – Họ – Làng – Nước, có phân biệt mà cũng có hịa hợp, y như quang phổ, tuy phân
tích ra thì có bảy màu song chung lại nơi ánh sáng trắng. Trong tâm thức dân gian, làng
xóm như cái gia đình mở rộng và nước như một cái làng lớn, nên ngơn ngữ xã hội vẫn là
ngơn ngữ kiểu gia đình và xu thế chính của tâm lí người Việt là kéo xã hội về với gia
đình.
Hầu hết các nhà nghiên cứu khi đề cập tới cơ cấu xã hội Việt Nam cổ truyền đều đạt tới
một số điểm chung như sau: Xã hội Việt Nam là xã hội nông nghiệp, văn hóa Việt Nam là
nền văn hóa nơng nghiệp. Trong xã hội đó, gia đình (và gia đình mở rộng – tộc họ), làng
là đơn vị xã hội cơ sở, là hai yếu tố cơ bản chi phối toàn bộ hệ thống xã hội Việt Nam.
Đặc trưng của cơ cấu xã hội Việt Nam truyền thống là những gia đình tiểu nơng tring
những làng xã tiểu nơng.
Chính vì vậy, em chọn đề tài này nhằm mục đích nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn về gia đình
và làng của người Việt – hai yếu tố cơ bản chi phối hệ thống xã hội Việt Nam, từ đó đi sâu
hơn

2


NỘI DUNG
I. Lý luận về gia đình và làng của người Việt.
1. Gia đình và văn hóa gia đình.
1.1. Gia đình.

3



Theo giáo trình Đại cương văn hóa Việt Nam của trường Đại học Kinh tế Quốc dân,
hình thái gia đình của người Việt chủ yếu là gia đình cơ bản (có từ một đến hai thế hệ –
cha mẹ và con gái) và gia đình cơ bản mở rộng (con cái đã trưởng thành lấy vợ sinh cháu,
ông bà chọn một trong những đứa con để ở cùng và trở thành gia đình có ba thế hệ).
Mặt khác, theo cuốn sách Cơ sở văn hóa Việt Nam do Trần Quốc Vượng làm chủ
biên, gia đình người Việt, trong đại đa số trường hợp là gia đình hạt nhân (bố mẹ và con
cái chưa trưởng thành). Ngồi ra cịn có hình thức gia đình nhỏ (bố mẹ và gia đình một
con trai, thường là con trai trưởng). Tuy vậy trong từng làng, một “gia đình nhỏ” chỉ là
thiểu số bên cạnh rất nhiều gia đình hạt nhân. Gia đình hạt nhân của người Việt là cơ cấu
kinh tế tự cung, tự cấp theo mơ hình Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
Ngay từ những thế kỷ đầu công nguyên, gia đình Việt Nam đã chuyển sang chế độ
phụ hệ, tuy vậy, những dấu vết của chế độ mẫu hệ vẫn còn khá đậm. Nhiều nhà nghiên
cứu cho rằng qua vai trị chủ sối của mình, Hai Bà Trưng có thể là những bà chủ nhà và
ông chồng (Thi Sách) không phải là ông chồng của chế độ phụ hệ. Ngay trong thế kỷ XX,
địa vị phụ nữ ở trong gia đình vẫn khơng phải là địa vị phụ thuộc hồn tồn. Có thể lấy ví
dụ như nhân vật chị Dậu trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố, chạy vạy khắp nơi để
nộp sưu cho chồng.
Như mọi hình thái gia đình khác, gia đình Việt Nam lấy tình cảm là mối liên hệ cơ
bản, lấy khơng khí hịa thuận trong gia đình làm cơ sở, Thuận vợ thuận chồng tát biển
Đơng cũng cạn. Mơ hình mẫu mực của một gia đình là ơng bà, cha mẹ làm gương về tư
cách đạo đức, còn con cháu phải hiếu thảo, lấy Trương thanh danh dĩ hiển phụ mẫu (nêu
cao danh phận của mình để làm vẻ vang cho bố mẹ) là lý tưởng sống.
Những ảnh hưởng của Nho giáo đối với gia đình người Việt khơng q nặng nề. Khi
bàn về tác động của Nho giáo đối với đời sống văn hóa gia đình, gia tộc người Việt, các
nhà nghiên cứu đều đi đến luận điểm chung: Nho giáo chỉ là lớp phủ bên ngồi và nếu
khơng đi sâu nghiên cứu các giá trị văn hóa truyền thống thì khó mà giải thích được
những đặc điểm cơ cấu nội tại của gia đình người Việt. Có giáo sư đã sử dụng hình ảnh
“vỏ Tàu, lõi Việt” để nêu bật đặc thù của gia đình Việt cổ truyền.

Thứ nhất, Nho giáo quan niệm cha, chồng là chúa tể trong nhà, phụ nữ phải tam
tịng tứ đức, nhưng thực tiễn trong gia đình Việt Nam lại là Lệnh ông không bằng cồng
bà, Trẻ cậy cha, già cậy con, con cái lớn có tiếng nói đáng kể trong gia đình.
Thứ hai, Nho giáo chủ trương con trưởng là người thừa kế gia sản, nhưng gia đình
Việt khi phân chia tài sản thì chia đều cho các con trai, thậm chí có địa phương con gái
cũng có phần trong tài sản chung của gia đình.
Thứ ba, các mơ típ tứ đại đồng đường, ngũ đại đồng đường rất hiếm. Dựng vợ gả
chồng cho con xong là ra ở riêng, hoặc ở chung nhưng ăn riêng, nhất là đối với con thứ.

4


Tuy vậy, quan niệm trọng nam khinh nữ trong việc sinh con lại khá nặng nề. Khơng
có con trai là mối lo canh cánh của các cặp vợ chồng. Nhiều nhà chỉ vì sinh con gái liên
tiếp mà cứ phải đuổi theo cậu q tử cho bao giờ có con trai mới thôi “thập nữ viết vô”,
con gái là con người ta. Cho đến tận bây giờ, những người già khơng có con trai, phải
nương tựa tuổi già vào con rể, con gái vẫn có mặc cảm rất nặng nề. Ở rể vẫn bị khinh
thường.
Vì vấn đề danh phận trong làng, người Việt rất coi trọng gia phong, theo quy tắc
kim chỉ có đầu, kính trên nhường dưới, con cái phải vâng lời cha mẹ. Đặc biệt, những gia
đình chịu ảnh hưởng của Nho giáo, hay muốn chứng tỏ là gia đình có chữ lại càng coi
trọng chuyện gia phong, Cá không ăn muối cá ươn, con không nghe (cha) mẹ trăm đường
con hư. Đạo hiếu rất được coi trọng, gắn với công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ,
Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Dạy trẻ trong nhà
bằng roi vọt là chuyện rất phổ biến, Thương cho roi cho vọt. Thậm chí, có gia đình cịn có
cả cây roi gia phong, đặt trên bàn thờ để tỏ ra là nhà có gia phong, áp dụng cung cách dạy
con là nghiêm phụ từ mẫu thành cái cách bên đấm bên xoa, con cái tuy sợ nhưng khơng
có cảm giác bị bơ vơ hắt hủi, ảnh hưởng đến tâm lý trẻ nhỏ. Cách dạy con này cũng có
mặt tích cực. Con cái xuất than từ những gia đình theo lối dạy này thường trở thành
những người hữu ích, thậm chí nổi tiếng (Ví như Lê Q Đơn thời nhỏ rất hay bị đòn roi).

Sau này, khi nhớ lại thời trẻ con của mình, ít ai ốn bố đánh roi, lại cịn tự hào về chuyện
xuất than từ một gia đình nghiêm gia đạo.
1.1. Văn hóa gia đình.
Văn hóa gia đình là một mạch nguồn quan trọng. Có những gia đình nhiều đời có
người đỗ đạt cao, thậm chí “phụ tử đồng triều”. Cha mẹ truyền nghề cho con cái làm xuất
hện những gia đình có nghề gia truyền, như làm thuốc, thợ khéo, nghề gốm, nghề may,
nghề chế biến thực phẩm, quả bánh, nấu rượu và rất nhiều nghề thủ công khác. Các thế hệ
sau nối được nghề của tổ tiên thường rất tự hào, các bí quyết truyền nghề vừa là con
đường mưu sinh đảm bảo, vừa là sự kế tục gia đạo (Nhất nghệ tinh, nhất than vinh).
Nhiều gia đình vì sợ mất nghề mà khơng truyền dạy cho con gái.
Có một thời có người coi gia đình là di sản phong kiến, nên có thái độ coi thường
truyền thống gia đình và vai trị của gia đình đối với xã hội. Thái độ này ngày nay đã được
khắc phục.
Gia đình chính là mơi trường văn hóa – xã hội đầu tiên trong hành trình sống của
mỗi con người.
2. Làng và văn hóa làng.
Làng là hạt nhân văn hóa quan trọng nhất của tổ chức xã hội người Việt, là thành tố
đặc trưng và cũng độc đáp nhất trong tổng thể văn hóa Việt Nam. Nó đặc trưng cho văn

5


hóa Việt Nam ở trên mọi phương diện. Văn hóa sản xuất, văn hóa tổ chức cộng đồng, văn
hóa ứng xử, văn hóa nếp sống và cả văn hóa tinh thần. Tính cách Việt cũng có nội dung
chủ yếu là tính cách người nơng dân làng xã.
2.1. Làng, mơ típ tổ chức cộng đồng độc đáo.
Sống thành cộng đồng là biểu hiện đầu tiên cho tính xã hội của lồi người.
Làng Việt Nam là kết cấu xã hội nảy sinh một cách tự nhiên, tất yếu, hợp quy luật
từ phương thức sản xuất chính của người Việt là nghề trồng lúa nước bằng kỹ thuật thủ
công cổ truyền. Đây vừa là cơ sở làm nảy sinh làng xã như một thiết chế xã hội, vừa quy

định những nét riêng biệt của làng về quy mô, phong tục tập quán và đời sống văn hóa
tinh thần.
Hai nhân tố cơ bản trong tổng thể cơ sở ấy là “đất” và “nước”. “Đất” và “nước” đã
được thiêng hóa ngang nghĩa với Tổ quốc (Việt Nam là quốc gia duy nhất dùng hai từ này
để gọi thay cho Tổ quốc), hàm ý chỉ quốc gia dân tộc từ đây mà ra. Đất và nước là hai
nguồn sống của cả cộng đồng.
“Đất”: Quy mô, diện tích và điều kiện thổ nhưỡng là nhân tố quyết định quy mô
dân số và cây trồng vật nuôi.
“Nước”: Yếu tố tiên quyết cho sản xuất nông nghiệp, nhất nước nhì phân.
Vấn đề lịch sử làng là một vấn đề rất phức tạp, cần rất nhiều nguồn tư liệu. Theo
các nhà sử học, các làng đầu tiên chỉ có thể xuất hiện khi con người từ bỏ lối sống du
canh du cư và định cư một nơi có đủ ruộng đất canh tác và đủ trình độ nơng nghiệp để
canh tác lâu dài trên một vùng đất. Đó là giai đoạn cuối của thời tiền sử ở Việt Nam cách
ngày nay khoảng năm nghìn năm.
Nhiều nhà khoa học tán đồng quan điểm làng là một hằng số trong lịch sử Việt
Nam. Người Việt đã từng mất nước nhưng chưa bao giờ mất làng. Bọn thống trị ngoại
bang không thể phá vỡ văn hóa làng, nghề trồng lúa nước, vì thế mà chúng không thể phá
vỡ được thiết chế làng xã. Có lẽ rằng, chỉ khi nền nơng nghiệp Việt Nam chuyển hẳn sang
một nền nơng nghiệp hang hóa thì chừng đó cơ tầng cổ truyền của làng xã Việt Nam mới
biến đổi. Có thể q trình ấy đang diễn ra rồi.
2.2. Hai giềng mối (loại quan hệ) cơ bản của làng xã: Quan hệ dòng họ và quan hệ
cùng cư trú (láng giềng).
Quan hệ dòng họ: Khác với phương Tây, chế độ nguyên thủy tan rã đồng thời chế
độ chiếm hữu nô lệ ra đời, quan hệ huyết thống mất hẳn vai trị chi phối trong đời sống, ở
phương Đơng nói chung và Việt Nam nói riêng, quan hệ huyết thống dù mất vai trò quyết
định nhưng vẫn chi phối rất quan trọng đối với đời sống con người. Dòng họ và quan hệ
dòng họ vẫn tác động rất mạnh tới đời sống các làng xã.

6



Nhiều làng hay tiểu vùng có tên gọi gắn liền với một tộc nào đó như Đặng Xá, Ngơ
Xá, Phùng Xá,… đặc biệt ở các vùng Thạch Thất, Phú Thọ, Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Phú
Xuyên. Đó là dấu vết của hai trường hợp từng tồn tại trong quá khứ: làng chỉ có một họ
(rất hiếm) và họ đó có nhân khẩu áp đảo trong làng.
Thành viên những dòng họ lớn trong làng mặc nhiên có địa vị nhỉnh hơn thành viên
của các họ nhỏ hơn và càng hơn nhiều những người khơng có họ hang hay những người
dân ngụ cư. Chỉ là hiểu ngầm, và các đối tượng lép vế thường tự ý thức về điều đó.
Tuy nhiên, quan hệ dịng họ vẫn xếp sau quan hệ lận cư, vì quan hệ này được thừa
pnhận là quan hệ quan phương, được vương pháp và lệ làng bảo vệ. Thân phận pháp lý
của người nông dân trong làng vẫn là giềng mối chính. Bất kì là ai, dù là thành viên
những dòng họ lớn cũng đều phải thực hiện những nghĩa vụ của người dân cũng như
hưởng quyền lợi. Quan hệ dòng họ chỉ tác động đến những điều này theo xu hướng ưu ái
hơn với những dòng họ lớn. Ngay cả hai người trong cùng một dòng họ, quan hệ lận cư
vẫn là chủ yếu.
Trong thực tế, quan hệ đan chéo lẫn nhau giữa dòng họ và đời sống dân sự trong
làng rất phong phú, muôn màu muôn vẻ, không có một điển chế, mơ hình nào.
Lợi ích tối cao của làng là sự ổn định đời sống cư dân, giữ gìn những phong tục, tập
quán, nhất là những thuần phong mỹ tục và các giá trị văn hóa truyền thống vẫn lặng lẽ
điều chỉnh hành vi của mỗi thành viên trong làng xã. Nguyên tắc hòa cả làng vẫn chi phối
mọi ứng xử của người dân.
2.3. Các thiết chế và thể chế chính trị xã hội trong làng.
2.3.1. Các thiết chế chính trị xã hội trong làng.
Bản than làng là một thiết chế không đơn giản và đồng nhất, mà bao chứa bên trong
rất nhiều những tổ chức thiết chế nhỏ hơn.
Tuy nhiên quan trọng nhất là thiết chế quyền lực. Quyền lực ở làng xã vừa là quyền
lực chính trị mà nhà nước trao cho, lại vừa là quyền lực tự quản của nền dân chủ cơng xã.
Đó là vật chứng cho mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và làng xã, trong đó làng
xã vẫn giữ được tính độc lập tương đối.
Bộ phận lý dịch là cơ quan hành pháp thấp nhất trong bộ máy chính quyền truyền

thống: Lý trưởng (xã trưởng) – Phó lý – Trương tuần (phụ trách an ninh) – Một vài
chức vụ khác (Trưởng bạ, một dạng trợ lý cho lý trưởng về đất và ruộng). Lực lượng bán
vũ trang của làng là đội ngũ tuần phiên – vừa là bạo lực nhà nước, vừa là lực lượng tự vệ.
Điều đặc biệt của bộ máy này là bộ máy dân cử.
Đối trọng với bộ phận lý dịch là nhóm kỳ mục: Ơng tiên chỉ – Ơng thứ chỉ, những
người có học vấn, đức vọng trong làng, được dân làng suy tôn; và nhóm kỳ lão rất có

7


trọng lượng trong các công việc chung của làng, do truyền thống tôn trọng người già
(trọng xi).
Làng gồm nhiều giáp, một khái niệm cho đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi về nội
hàm. Trong làng còn những tổ chức dân gian khác như hội tư văn, các hội nghề nghiệp
như hội nuôi chim, hội gà chọi, các hội thợ (ngõa, mộc), phường bát âm…
2.3.1. Các đặc trưng của thể chế làng xã.
Đặc trưng thứ nhất: chủ nghĩa tập thể. Có thể nhận thấy rằng trong truyền thống
cộng đồng Việt Nam, ít thấy những quan hệ trực tiếp giữa cá nhân với các cộng đồng lớn
mà thường là quan hệ trách nhiệm giữa các cộng đồng. Bởi vậy, một cá nhân bình thường
chỉ có vai trị trong khn khổ gia đình họ thơi, cịn ra đến cộng đồng lớn, cá nhân ln bị
tan biến trong đó. Để duy trì những quan hệ cộng đồng, cá nhân phải hịa mình vào tập
thể và ngược lại cơ chế quản lý làng xã phải được tổ chức sao cho đảm bảo quyền bình
đẳng giữa các cá nhân. Do tính cộng đồng cao, nhiều nhà học giả cho rằng cộng đồng
làng xã Việt Nam đã nảy sinh truyền thống dân chủ làng xã.
Đặc trưng thứ hai: thể chế làng xã khó chấp nhận những cái mới và khơng có khả
năng tự biến đổi trước sự biến động của hoàn cảnh xã hội. Cái được gọi là truyền thống
dân chủ làng xã, về thực chất, là tính chất cơng xã – thị tộc cịn được lưu tồn từ thời
nguyên thủy; và cũng chỉ tồn tại ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành làng xã; cịn sau
đó, làng vận hành theo những ngun tắc mặc định và cứng nhắc. Độ vênh giữa lệ làng
“bất di bất dịch” với đời sống vật chất và nội tâm của cá thể “luôn biến động” theo chiều

hướng ngày một giãn rộng, tới độ, để duy trì sự tồn tại của mình, lệ làng bóp nghẹt mọi
tiềm năng sáng tạo, mọi ý thức về cái tôi của chủ thể. Bởi vậy, không nên đánh giá cao
những yếu tố tương tự dân chủ của làng xã, vì cùng thời gian, chúng đã chuyển hóa thành
mặt đối lập.
Đặc trưng thứ ba: tính tự quản, thể hiển ở: việc các thành viên giám sát lẫn nhau trở
thành một yêu cầu tự nhiên và là biện pháp quan trọng để duy trì kỷ cương. Có thể nhận
thấy tính tự quản vận hành như thế nào thông qua kết cấu quản trị của làng xã. Bộ máy
này gồm hai cơ quan: quyết nghị và chấp hành. Tất cả các dân đinh trong làng xã đều có
thể trực tiếp tham gia vào giải quyết các cơng việc của làng xã kể cả một số công việc của
nhà nước trung ương. Tính tự quản cịn được thể hiện rất rõ trong mối quan hệ giữa làng
xã với chính quyền trung ương. Theo nguyên tắc, vua hay triều đinh không giao dịch trực
tiếp với dân trong làng xã, do vậy, nhà nước quản lý làng xã phải thông qua đại diện của
làng xã.
Phải thừa nhận rằng, tính tự quản của làng xã dễ dàng biến thái thành tính tự trị.
Lịch sử Việt Nam đã cho thấy, làng xã tự quản theo “lệ” mà khơng dựa vào “luật” của
chính quyền trung ương với địa phương tạo cơ hội cho các hoạt động tùy tiện của đội ngũ

8


“quản trị viên” biến chất, đẻ ra tầng lớp cường hào nhiễu sách nhân dân dẫn đến những bi
kịch khốn quẫn của người nơng dân. Nhìn chung, trong dịng chảy lịch sử, làng xã Việt
Nam nổi lên như những ốc đảo tự trị.
Đặc trưng thứ tư: chủ nghĩa cục bộ địa phương – phép vua thua lệ làng. Trong
không gian làng xã, pháp luật bị đẩy xuống hàng thứ yếu và mọi vấn đề phát sinh đều có
thể quy về “giải quyết nội bộ”.
2.4. Văn hóa làng.
Văn hóa làng là một bộ phận rất căn bản của văn hóa Việt Nam. Văn hóa làng tạo
nên căn tính của con người Việt, có sức bền rất dai dẳng đọc lại trong tính cách của mỗi
con người, ngay cả khi người đó khơng cịn sinh sống trong khung cảnh làng xã nữa.

Trước hết là văn hóa sản xuất. Nghề trồng lúa nước với kết cấu làng xã tạo nên một
tập hợp các giá trị văn hóa rất phong phú, liên quan đến một trong những kế mưu sinh chủ
yếu. Những kiến thức về chọn giống, về thời vụ, về làm đất, bón phân, tưới nước, những
kiến thức về thời tiết nắng mưa và ứng xử tình huống; những kiến thức về thời vụ là cả
một kho tang kinh nghiệm được đúc kết trong những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ như:
Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm; Lúa chiêm lấp ló đầu
bờ, nghe thấy tiếng sấm mở cờ kéo lên; Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống; Trồng tre
đất sỏi, trồng tỏi đất bồi. Ở những làng có nghề phụ, thậm chí được coi là làng nghề cũng
rất ít người bỏ hẳn nghề nông. Tùy nghề của từng làng, những kinh nghiệm tri thức trong
nghề lại tạo ra những mảng folklore rất hay, vừa là kinh nghiệm trong sản xuất, vừa là bộ
phận văn hóa tinh thần rất phong phú. Văn hóa sản xuất tạo ra mn vẻ cho văn hóa vật
chất ở các làng. Có nhiều sản vậy mang tên làng, đó vừa là văn hóa vật chất, vừa là văn
hóa tinh thần của cư dân trong làng.
Khung cảnh làng xã Việt Nam được tạo dựng từ những điều kiện thiên nhiên (địa
hình, thủy văn, sinh quyền) kết hợp với lối ứng xử hài hịa với thiên nhiên và các quan
niệm tín ngưỡng tôn giáo của cư dân Việt. Lũy tre bao bọc quanh làng vừa là nguồn
nguyên liệu chủ yếu để làm các vật dụng, nội thất trong nhà, vừa là hệ thống phịng thủ rất
hữu hiệu khơng chỉ chống được những tốn cướp mà cịn cả những tốn qn viễn chinh
nhà nghề của Pháp. Làng thường có 4 cổng: đơng, tây, nam, bắc, trong đó cổng đi từ
đường lớn (quan lộ – đường cái quan) thường được coi là cổng chính. Bản thân cổng
làng đã là một cơng trình văn hóa và khơng cổng làng nào hồn tồn giống với cổng làng
nào. Cổng thường được xây bằng vôi, mặt bên trên là tên làng, thường là tên tự, bằng chữ
Hán, hai bên là đôi câu đối do một bậc đại khoa hay một tài tử văn nhân nào đó dâng tặng.
Cổng làng được coi là biểu tượng của quê hương, phản ánh lý tưởng và chiều sâu của văn
hóa cộng đồng. Phía sau cổng làng là một nếp làng, một nếp sống cộng đồng đã được
hình thành từ rất lâu.

9



Các cơng trình quan trọng của làng là đình làng, giếng nước và đường làng. Đình là
cơng trình quan trọng nhất, được coi là thể diện của làng. Đình vừa là nơi thờ thành hoàng
làng, vừa là trụ sở hội họp của làng. Làng thường có một hoặc một vài giếng nước chung,
đường kính 10 – 30m, được quây bằng tường gạch, có bậc dẫn xuống để dân làng gánh
nước.

Đường làng thường được lát bằng gạch xếp nghiêng hoặc lát đá núi. Phải mất nhiều thập
kỷ mới có được những con đường lát gạch, lát đá khắp làng, chúng tạo nên cả một mê
cung. Tùy theo tín ngưỡng của dân làng, làng cịn có các miếu thờ những vị thần khác
nhau, nằm rải rác trong làng. Nghĩa trang của làng là mộ đất cao ráo cách làng thường
không quá một cây số. Làng thường phân cho mỗi họ một khu. Mỗi làng hoặc một vài
làng thường có một ngơi chùa thờ Phật. Khác với đình là cơng trình riêng của làng, chùa
thờ Phật dù là chùa do một làng dựng lên không bao giờ là của riêng một làng nào. Chùa
thường tọa lạc ở một khu đất cao, hoặc một ngọn đồi, ngọn núi, Chùa làng cảnh bụt nước

10


non tiên. Sinh hoạt ở đình do đàn ơng làm chủ, đàn bà khơng có vai trị gì, thậm chí bị
cấm tham dự, còn sinh hoạt ở chùa lại do phụ nữ đảm nhiệm.
Văn hóa tinh thần của làng được thể hiện qua các sinh hoạt tơn giáo, tín ngưỡng, lễ
hội, những sinh hoạt âm nhạc như hát cửa đình, hát quan họ, những sinh hoạt âm nhạc
như hát cửa đình, hát quan họ, những chiếu chèo, hát tuồng (hát bội), hát giao duyên, rối
nước, những trò chơi và thể thao như đấu vật, chọi gà, chơi đu, chơi quay, kéo co, đi cà
kheo, bịt mắt bắt dê, bắt vịt trong ao đình. Đặc biệt là đời sống làng xã với lịch sử hàng
ngàn năm chính là một mơi trường cho sự nảy sinh ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ, thành ngữ,
một kho tàng văn hóa folklore vơ cùng phong phú. Thơng qua việc nghiên cứu kho tàng
văn hóa dân gian đồ sộ này, ta có thể hình dung ra những nét cơ bản của văn hóa Việt
Nam nói chung về tất cả các bình diện, từ quan niệm về thế giới quan, về tư tưởng, tâm
lý, các hoạt động văn hóa sản xuất cho tới đối nhân xử thế, quan niệm về nhân sinh các

cung bậc tình cảm, có thể nói, khơng thiếu khía cạnh nào.
2.5. Tâm lý làng.
Sự tồn tại lâu bền hàng nghìn năm của làng xã đã làm nảy sinh một loại hình tâm lý
đặc thù, đó là tâm lý làng xã. Nó có những ưu điểm nổi trội, là mạch nguồn khơng đứt
góp phần tạo nên những giá trị truyền thống quý giá trong bản sắc Việt Nam, nhưng nó
cũng có những khía cạnh tiêu cực khơng cịn phù hợp với đời sống hiện tại, cần phải khắc
phục.
Giá trị quý báu nhất của tâm lý làng xã là lòng nhân ái, một sản phẩm tinh thần tinh
túy của cư dân nông nghiệp, lại được tôi luyện trong đời sống của một dân tộc phải
thường xuyên chống giặc ngoại xâm và chống đỡ thiên tai, có quá nhiều trải nghiệm về
những đau khổ do chúng gây ra, nên rất trân trọng sinh mạng và hạnh phúc trần gian. Chữ
Nhân trong Nho học cũng mang nội dung nhân ái. Nhan ái Việt Nam đã đạt đến đỉnh cao
thương người như thể thương thân. Thương yêu con người, thông cảm sẻ chia với những
số phận không may, Ăn mày là ai, Ăn mày là ta, đói cơm rách áo thành ra ăn mày. Thậm
chí, họ bỏ qua lỗi lầm của cả những kẻ phản bội, Đánh kẻ chạy đi không ai đánh người
chạy lại. Trong bối cảnh thế giới ngày hôm nay, long nhân ái không bao giờ là cũ.
Giá trị thứ hai là tính cộng đồng cao, đặt lợi ích của cộng đồng lên trên lợi ích cá
nhân. Bối cảnh làng xã và những kinh nghiệm lịch sử đã hun đúc nên giá trị này, sống nhờ
làng, đó là sự thật hiển nhiên. Làng cho đất, cho nước, là chỗ dựa cho đời sống cá nhân,
ban cho họ danh dự và niềm tự hào. Làng là nơi chơn rau cắt rốn, có mộ phần của ơng bà
tổ tiên, là quê cha đất tổ. Lợi ích của làng phải được bảo vệ thì mỗi người mới có cuộc
sống n bình. Từ tính cộng đồng làng đến trách nhiệm với đất nước chỉ là sự mở rộng,
phát triển tự nhiên. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có cội nguồn từ văn hóa làng. Tuy vậy,
mặt trái của dạng tâm lý này là xem nhẹ lợi ích cá nhân.

11


12




×