Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tieu luan cao hoc tiểu luận tác phẩm kinh điển, tư tưởng dân chủ của rousseau trong tác phẩm bàn về khế ước xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.28 KB, 29 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau khi học mơn “ Các tác phẩm phi mác xít về chính trị” được
sự hướng dẫn của các thầy cô em nhận thấy tác phẩm “ Bàn về khế ước
xã hội” là một tác phẩm có giá trị về cả mặt thực tiễn lẫn lý luận. Tác
phẩm đề cập đến nhiều vấn đề chính trị như quyền tự do, binh đẳng, dân
chủ. Bàn về mơ hình nhà nước, các nhanh quyền lực: Lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
Với những lý do trên và mong muốn tìm hiểu về tư tưởng dân chủ
của Rousseau, chúng tôi chọn: Tư tưởng dân chủ của Rousseau trong
tác phẩm "Bàn về khế ước xã hội" làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của tiểu luận.
-

Mục đích nghiên cứu: Làm rõ tư tưởng dân chủ của Rousseau

trong tác phẩm "Bàn về khế ước xã hội", từ đó đưa ra nhận định về
những giá trị và hạn chế của tư tưởng này.
-

Nhiệm vụ nghiên cứu:

+ Phân tích bối cảnh và tiền đề lý luận ra đời tư tưởng dân chủ của
Rousseau trong tác phẩm "Bàn về khế ước xã hội".
+ Làm rõ nội dung cơ bản tư tưởng dân chủ của Rousseau trong
tác phẩm "Bàn về khế ước xã hội".
+ Bước đầu phân tích những giá trị và hạn chế của tư tưởng dân
chủ của Rousseau trong tác phẩm "Bàn về khế ước xã hội".
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của tiểu luận.



-

Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng dân chủ của Rousseau trong

tác phẩm "Bàn về khế ước xã hội".
-

Phạm vi nghiên cứu: Tiểu luận tập trung làm sáng tỏ một số

nội dung cơ bản nhất tư tưởng dân chủ của Rousseau trong tác phẩm
"Bàn về khế ước xã hội".
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của tiểu luận.
-

Cơ sở lý luận và phương pháp luận: Tiểu luận dựa trên quan

điểm phương pháp luận của Chủ nghĩa Marx – Lênin về con người, xã
hội và nhà nước...
-

Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận sử dụng các phương

pháp chủ yếu sau: phương pháp thống nhất lơgíc và lịch sử, phân tích và
tổng hợp, so sánh…
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu
luận gồm hai chương, 5 tiết.


CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU TIỂU SỬ J. ROUSSEAU


VÀ TÁC PHẨM “BÀN VỀ KHẾ ƯỚC XÃ HỘI”.

1.1 CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA J.J ROUSSEAU.

1.2 HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ TỔNG QUAN VỀ TÁC
PHẨM KHẾ ƯỚC XÃ HỘI.
1.2.1

Hoàn cảnh ra đời tác phẩm.

1.2.2

Tổng quan về tác phẩm “ Khế ước xã hội”.

CHƯƠNG II: NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG DÂN

CHỦ CỦA
JEAN JACQUES ROUSSEAU TRONG TÁC PHẨM
"BÀN VỀ KHẾ ƯỚC XÃ HỘI"
2.1. TƯ TƯỞNG VỀ CÁC QUYỀN CON NGƯỜI VÀ NHÀ
NƯỚC.

2.1.1 Tư tưởng của J. J. Rousseau về quyền tự do và bình đẳng
2.1.2 Nhà nước ra đời nhằm mục đích bảo đảm và thực hiện quyền
con người
2.2 BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC.


2.2.1. Quyền lực tối cao là thực hiện ý chí chung của nhân dân


2.2.2. Ý chí chung của nhân dân được cơng bố lên chính là luật
2.2.3. Lập pháp là đỉnh cao nhất của sức mạnh toàn dân
2.3. Biện pháp ngăn chặn nguy cơ chính phủ lạm quyền và
cướp quyền

2.4. Đánh giá tư tưởng dân chủ của J. J. Rousseau trong tác
phẩm "Bàn về khế ước xã hội"


B. PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I

GIỚI THIỆU TIỂU SỬ J. ROUSSEAU VÀ TÁC
PHẨM “BÀN VỀ KHẾ ƯỚC XÃ HỘI”.

1.1 CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA J.J ROUSSEAU.

Jean-Jacques Rousseau, phiên âm tiếng Việt là Giăng Giắc Rút-xô
(1712 – 1778), sinh tại Geneva, là một nhà triết học thuộc trào lưu Khai
sáng có ảnh hưởng lớn tới Cách mạng Pháp 1789, sự phát triển của lý
thuyết xã hội, và sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc.
Rouseau rời Geneva năm 1728 sau nhiều năm học việc nghề thư
ký và tới thủ đô Paris năm 1742. Là thư ký cho Đại sứ Pháp tại Venezia
từ 1743-1744. Sau đó ơng về Pháp và có năm con với Thérèse Levasseur
nhưng ông đều bỏ cho trại trẻ mồ côi nuôi. Trong thời gian này ông làm


bạn với Diderot và có đóng góp cho tập Bách khoa thư với các bài về âm

nhạc và quan trọng nhất là bài về kinh tế chính trị viết năm 1755.

Năm 1754, Rousseau quay về Geneva và bắt đầu cho ra đời tác
phẩm Đối thoại về Nguồn gốc và Cơ sở của Sự Bất bình đẳng của Con
người năm 1755. Do viết nhiều tiểu thuyết đả kích tơn giáo, ơng buộc
phải rời sang Bern và Môtiers (Thụy Sĩ), nơi ông viết Đề án Hiến Pháp
cho đảo Corse và tiếp tục phải tị nạn với nhà triết học David Hume tại
Anh Quốc. Ông về Pháp năm 1767 và cưới Thérèse năm 1768, đến 1770
ơng trở về thủ đơ Paris. Ơng tiếp tục viết nhưng các tác phẩm chỉ được
xuất bản sau khi ơng qua đời vì xuất huyết não vào ngày 2 tháng 7 năm
1778.
Jean Jacques Rousseau sinh ngày 28/06/1712 trong một gia đình
thợ thủ cơng ở Geneve, thủ đơ của Thụy Sĩ. Mới sinh ra được 9 ngày thì
mẹ của ông qua đời. Cả cuộc đời cũng như sự nghiệp của ơng đã gặp rất
nhiều khó khăn và sóng gió.
Năm 1753, Rousseau viết luận văn “Về nguồn gốc bất bình đẳng”
trực tiếp phê phán chế độ tư hữu tài sản. Tư đó, Rousseau bước vào cuộc
đấu tranh chính trị.
Năm 1762, Rousseau viết “Bàn về khế ước xã hội’’. Tác phẩm
được đánh giá thuộc loại sách như Tuyên ngôn Đảng Cộng sản của K.
Marx, F. Engel ra đời năm 1848. Trong đó, Rousseau đã cơng khai tun
bố lập trường chính trị cấp tiến của ông - đấu tranh cho tự do, bình đẳng
và dân chủ, cho nền cộng hịa và chống lại chính thể quân chủ chuyên
chế.


Tháng 5 năm 1762, Rousseau viết “Emile hay là về giáo dục”. Tác
phẩm đưa ra một quan niệm mới về giáo dục: hãy để cho trẻ được phát
triển theo quy luật tự nhiên, không nên cưỡng chế con cái theo ý mình.
Quan điểm giáo dục này của ơng hồn tồn trái ngược với nền giáo dục

gị bó của chế độ phong kiến và Giáo hội đương thời. Bao trùm toàn bộ
quan điểm giáo dục này là nêu cao tinh thần dân chủ và tự do, hướng sự
nghiệp giáo dục vào việc đào tạo ra những công dân kiểu mới trong một
xã hội mới.
Có thể thấy, cuộc đời của Rousseau phần lớn thời gian ơng sống
trong nghèo khó. Với tinh thần độc lập suy nghĩ, ông ôm ấp lý tưởng tự
do, bình đẳng và dành hết thời gian cho những áng văn chương bênh vực
tự do, bình đẳng. Ơng mất vào ngày 2 tháng 7 năm 1778.

1.2 HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ TỔNG QUAN VỀ TÁC
PHẨM KHẾ ƯỚC XÃ HỘI.

1.2.1

Hoàn cảnh ra đời tác phẩm.

Vào thế kỷ XVIII, nước Pháp lâm vào tình trạng khủng hoảng tài
chính trầm trọng. Pháp cần nhiều tiền để duy trì bộ máy quan chức và
đại sứ ở nước ngồi trong khi đó ngân khố quốc gia trống rỗng vì những
chi phí xa hoa của cung đình, đặt ra nhiều thứ thuế khắc nghiệt lên người
dân. Đời sống của nhân dân rơi vào cảnh khốn đốn.


Nền công nghiệp của Pháp phát triển tản mạn, chủ yếu tập trung
vào những mặt hàng cao cấp cho một số ít khách hàng. Ngược lại, sản
xuất hàng hóa tiêu dùng thơng thường khơng phát triển vì số đơng người
dân sống trong cảnh bần hàn, sức mua khơng có. Cịn nơng nghiệp là
lĩnh vực kinh tế chính của Pháp thế kỷ XVIII, nhưng nhìn chung vẫn
mang tính lạc hậu. 22 triệu người (90% dân số) sống bằng nghề nông
nghiệp, công cụ và phương thức canh tác rất lạc hậu, 1/3 đất đai bị bỏ

hoang, năng suất hàng năm thấp.
Tóm lại, đời sống kinh tế của nước Pháp đầu thế kỷ XVIII phản
ánh sâu sắc nhiều mâu thuẫn lợi ích giữa các giai cấp trong xã hội. Đây
chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự bùng nổ của các cuộc
đấu tranh, các phong trào đòi quyền tự do, dân chủ cho con người.
Vào nửa đầu thế kỷ XVIII, nước Pháp trở thành vũ đài của cuộc
đấu tranh gay gắt giữa chế độ phong kiến đang trở nên lỗi thời và chủ
nghĩa tư bản đang hình thành và phát triển trong lịng nó. Nhờ sự phát
triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản Pháp đã
kịp trở thành một lực lượng nắm trong tay quyền lực kinh tế. Trong khi
đó, tồn bộ quyền lực chính trị vẫn tiếp tục nằm trong tay tầng lớp phong
kiến thống trị - tầng lớp đang trở thành ung nhọt sống ký sinh trên cơ thể
dân tộc Pháp. Triều đình phong kiến Pháp loại bỏ quyền bình đẳng của
con người trước luật. Phong trào phản phong ngày càng lớn mạnh nhằm
mục tiêu thủ tiêu quan hệ sản xuất phong kiến và thiết lập của chế độ xã
hội mới tư bản chủ nghĩa.
Những năm 40 của thế kỷ XVIII, chủ nghĩa duy vật của
Montesquieu, La


Mettrie, Diderot được hình thành mở đầu cho sự xuất hiện phong
trào Khai sáng Pháp. Họ đã dương cao ngọn cờ tư tưởng dân chủ, tư do,
bình đẳng, bác ái. Đứng trước hồn cảnh đó, u cầu cấp thiết là phải
xây dựng một xã hội, một chế độ bảo vệ quyền lợi cho con người, đấu
tranh chống lại các thế lực áp bức đó. Tư tưởng dân chủ của Rousseau đã
ra đời trong hoàn cảnh và điều kiện như thế.

Jean Jacques Rousseau sinh ngày 28/06/1712 trong một gia đình
thợ thủ công ở Geneve, thủ đô của Thụy Sĩ. Mới sinh ra được 9 ngày thì
mẹ của ơng qua đời. Cả cuộc đời cũng như sự nghiệp của ông đã gặp rất

nhiều khó khăn và sóng gió.
Năm 1753, Rousseau viết luận văn “Về nguồn gốc bất bình đẳng”
trực tiếp phê phán chế độ tư hữu tài sản. Tư đó, Rousseau bước vào cuộc
đấu tranh chính trị.
Năm 1762, Rousseau viết “Bàn về khế ước xã hội’’. Tác phẩm
được đánh giá thuộc loại sách như Tuyên ngôn Đảng Cộng sản của K.
Marx, F. Engel ra đời năm 1848. Trong đó, Rousseau đã cơng khai tun
bố lập trường chính trị cấp tiến của ơng - đấu tranh cho tự do, bình đẳng
và dân chủ, cho nền cộng hịa và chống lại chính thể qn chủ chuyên
chế.
Tháng 5 năm 1762, Rousseau viết “Emile hay là về giáo dục”. Tác
phẩm đưa ra một quan niệm mới về giáo dục: hãy để cho trẻ được phát
triển theo quy luật tự nhiên, không nên cưỡng chế con cái theo ý mình.
Quan điểm giáo dục này của ơng hồn tồn trái ngược với nền giáo dục
gị bó của chế độ phong kiến và Giáo hội đương thời. Bao trùm toàn bộ


quan điểm giáo dục này là nêu cao tinh thần dân chủ và tự do, hướng sự
nghiệp giáo dục vào việc đào tạo ra những công dân kiểu mới trong một
xã hội mới.
Có thể thấy, cuộc đời của Rousseau phần lớn thời gian ơng sống
trong nghèo khó. Với tinh thần độc lập suy nghĩ, ông ôm ấp lý tưởng tự
do, bình đẳng và dành hết thời gian cho những áng văn chương bênh vực
tự do, bình đẳng. Ơng mất vào ngày 2 tháng 7 năm 1778.
1.2.2. Tổng quan về tác phẩm "Bàn về khế ước xã hội"
Khế ước Xã hội gồm 4 quyển, mỗi quyển có từ mười tới mười lăm
chương. Trong lời mở đầu Rousseau viết: “Với bản chất con người như
ta biết, và với tính chất có thể xẩy ra của luật pháp, tơi muốn tìm xem
trong trật tự của một xã hội dân sự có thể có một luật lệ cai trị nào cho
chắc chắn và hợp tình hợp lý...” Trong cuộc hành trình này, Rousseau

cũng như các nhà tư tưởng trước ông như Thomas Hobbes và John
Locke đều bắt đầu từ nguyên thủy, nhận diện con người trong trạng thái
thiên nhiên của nó. Mở đầu chương thứ nhất Rousseau viết: “Con người
sinh ra được tự do, nhưng ở đâu nó cũng bị xiềng xích.” Đối với
Rousseau, tự do là điều kiện thiết yếu để con người là một con người.
Trong trạng thái thiên nhiên mỗi con người là chủ của chính mình,
nhưng từng cá nhân một không thể chống chỏi với thiên nhiên để tự tồn
mà phải cùng chung sống với nhau hầu có đủ sức để sống còn.
Từ xã hội sơ khai đầu tiên là gia đình, con người quần tụ lại thành
những cộng đồng lớn hơn, nhưng trong cộng đồng lớn hơn này cần phải
có luật lệ để điều hành trật tự sao cho phúc lợi và tự do của mỗi người
vẫn được bảo đảm. Câu hỏi được đặt ra là ai sẽ là “người” đặt ra những
luật lệ này khi mỗi cá nhân đều bình đẳng như nhau? Rousseau phủ nhận


mơ thức chính quyền qn chủ do Grotius và Hobbes đề ra, và lý giải
rằng một xã hội dân sự hợp lý, hợp tình chỉ có thể được tạo nên bởi sự
thỏa thuận của mọi người tham gia. Hay nói một cách khác bởi một khế
ước xã hội do mọi người cùng lập nên và mọi người phải tuân thủ.
Rousseau viết: “Cái mà con người mất đi khi chấp nhận khế ước xã hội
là sự tự do thiên nhiên và sự vô giới hạn trong những việc anh ta muốn
làm và muốn giữ khi chiếm được; bù lại cái mà anh ta nhận được là sự tự
do trong văn minh và quyền sở hữu chính đáng những gì mà anh ta có.”
“Người” có thẩm quyền làm ra luật để cai trị một cộng đồng lập nên bởi
khế ước xã hội, theo Rousseau, không ai khác hơn là tất cả mọi người
đồng trao quyền đó cho một con người nhân tạo gọi là “Hội đồng Tối
cao” (sovereign) bao gồm tất cả mọi người; con người nhân tạo này khi
được thành hình bởi khế ước xã hội có đời sống và ý chí riêng. Ý chí
riêng của con người nhân tạo này là ý chí của cả tập thể, gọi là “ý chí tập
thể” (general will) chỉ nhằm đạt tới cái tốt chung cho cả cộng đồng, chứ

khơng phải là ý chí của tất cả mọi thành viên (will of all) bao gồm ý chí
và quyền lợi riêng tư của mỗi thành viên khác hơn quyền lợi của tập thể.
Trong chương 6 (quyển I) luận về Khế ước xã hội, Rousseau đã
phân định con người nhân tạo thành nhiều loại khác nhau tùy theo trạng
thái hoạt động của tác nhân này, từ Cộng đồng dân chúng (city)– có lẽ
Rousseau theo các tác giả thời trước muốn nói đến các thị-quốc
(city-state) của Hy lạp; ngày nay thuật ngữ này khơng cịn được
dùng nữa, đến Cộng hịa (Republic) hay là Cơ cấu chính trị (body
politic), cho đến Hội đồng tối cao

khi hoạt động và Nhà nước (State)

khi khơng hoạt động. Chính Rousseau cũng thú nhận là cách phân định
như vậy dễ làm người đọc thời đó nhầm lẫn, chưa kể đến người đọc thời
nay khi các thuật ngữ trên đã được hiểu và định nghĩa khác đi rất nhiều.


Điểm quan trọng Rousseau muốn nhấn mạnh là khi khế ước xã hội được
lập thành, tức khắc nhà nước được khai sinh, và chủ quyền tối thượng
của nhà nước nằm trong tay nhân dân, những người lập nên nhà nước
này, chứ khơng nằm trong tay chính quyền (chương7, q. I). Các thành
viên của nhà nước trở thành công dân. Hội đồng tối cao, như đã trình
bày, chỉ là một khái niệm trừu tượng, phản ảnh ý chí tập thể qua luật
pháp. Ý chí tập thể, Rousseau lý giải trong Chương 4 (q. II), phải “mang
tính tổng quát trong mục đích cũng như trong bản chất, và phải phát xuất
từ tất cả để áp dụng cho tất cả.” Từ nhận định này, Rousseau kết luận là
không một ai, kể cả vị quân vương, có thể đứng trên pháp luật.
Tuy nhiên, Hội đồng tối cao chỉ là một tác nhân trừu tượng, cần có
một thực thể để làm luật và thi hành pháp luật. Rousseau nhấn mạnh là
cần có hai cơ quan tách biệt hoàn toàn để phụ trách hai nhiệm vụ này.

Chính quyền, cịn gọi là cơ quan hành pháp, là “cơ quan trung gian làm
nhiệm vụ truyền thông giữa người dân và Hội đồng tối cao, và thi hành
luật pháp cũng như bảo đảm tự do dân sự và chính trị.” Chính quyền,
hay người đứng đầu guồng máy chính quyền, do đó, chỉ là những nhân
viên thừa hành, có ăn lương, nhân danh Hội đồng tối cao sử dụng quyền
lực được trao cho để thi hành pháp luật. Quyền lực này có thể bị Hội
đồng tối cao giới hạn hay thu hồi bất cứ khi nào. Đó là trên lý thuyết,
trên thực tế, Rousseau nhận thấy có một vấn nạn là khi nắm giữ quyền
lực trong tay, chính quyền dễ có khuynh hướng lạm dụng quyền hành, và
khi chính quyền càng cần nhiều quyền lực để điều hành thì chủ quyền tối
thượng cũng cần có quyền lực tương đương để kềm chế chính quyền
khỏi lạm dụng quyền hành (chương 1, q. III). Thêm vào đó, quyền lập
pháp là quyền riêng biệt, chỉ có thể nằm trong tay của Hội đồng tối cao–
bao gồm tất cả mọi công dân mà chỉ nghĩ đến cái tốt chung cho cả tập


thể. Đó chính là vấn nạn vì để cho luật pháp thể hiện cái tốt chung cho cả
tập thể, quyền lợi riêng tư phải được gạt bỏ ra ngoài mỗi cá nhân.
Rousseau viết: “cần phải có một người có sự thơng minh siêu tuyệt để có
thể thấu hiểu những nhiệt tình của con người mà vẫn khơng bị ảnh
hưởng của thất tình, lục dục, một con người mà hạnh phúc độc lập với
con người nhưng lại quan tâm đến hạnh phúc của con người, một con
người mà sẵn sàng làm việc ở đời này cho kết quả ở đời sau” để làm luật,
và Rousseau kết luận, chỉ có Thượng đế mới là một con người như vậy.
Cả hai vấn nạn về quyền hành pháp và lập pháp Rousseau khơng có câu
trả lời, nhưng cả hai vấn nạn này sẽ được các nhà sáng lập ra Hiệp chúng
quốc Hoa kỳ giải quyết trong Luận cương về chế độ liên bang, khi soạn
thảo hiến pháp cho đất nước của họ.
Trong quyển III, Rousseau luận về các hình thức chính quyền. Khi
Hội đồng tối cao đặt chính quyền vào trong tay của tất cả cơng dân hay

đa số cơng dân thì chính quyền đó được gọi là dân chủ; khi chính quyền
nằm trong tay của một thiểu số, nghĩa là thường dân đông hơn quan
chức, chính quyền đó được gọi là q tộc; khi chính quyền nằm trong
tay một cá nhân, chính quyền đó được gọi là quân chủ, và cuối cùng là
chế độ hỗn hợp của các chế độ trên. Những thuật ngữ này
Rousseau dùng khác với nghĩa chúng ta hiểu ngày nay. Ơng cũng
phân tích các ưu và khuyết điểm của từng thể chế. Dân chủ, theo
Rousseau, chỉ thích hợp cho một nước nhỏ khi tất cả mọi người đều tham
gia nghị luận chính sách (nhận định này ngày nay khơng đúng nữa). Quý
tộc lại được chia làm ba loại: tự nhiên, bầu cử và gia truyền. Quý tộc tự
nhiên là hình thức chính quyền do các bậc trưởng lão điều hành, thích
hợp cho các dân tộc sơ khai (hình thức bộ lạc). Hình thức chính quyền
“q tộc” do bầu cử có nhiều ưu điểm, khi quần chúng bầu ra những


người có khả năng, kiến thức và kinh nghiệm. Hình thức này gần với thể
chế cộng hòa ngày nay. Quân chủ, theo Rousseau, không phải là chế độ
lý tưởng và tiềm ẩn nhiều hiểm nguy cho Chủ quyền tối thượng, trước
hết là quyền lợi riêng tư của nhà vua có thể không tương đồng với quyền
lợi của nhân dân, thứ đến là sự bổ nhiệm quan chức rất có thể khơng
được căn cứ trên tài năng mà trên tình cảm hoặc tư lợi của nhà vua, và
sau cùng là tính gia truyền khơng bảo đảm người kế vị có đủ tài đức của
một vị vua.
Con người nhân tạo "Hội đồng tối cao", hay Cơ cấu chính trị cũng
như một con người thường, có sinh và có diệt. Rousseau ví quyền lập
pháp như trái tim của nhà nước, quyền hành pháp là bộ óc điều khiển các
chi thể hoạt động. Khi bộ óc bị tê liệt, con người vẫn có thể còn sống dù
chỉ sống như thực vật, nhưng khi quả tim ngừng đập thì con người sẽ
chết. Cũng cùng một thể ấy, cơ cấu chính trị sẽ chết khi người dân thờ ơ
với nghĩa vụ công dân của họ nhất là trong lãnh vực lập pháp (chương

11, q. III). Không những chỉ trong lĩnh vực lập pháp, “khi công dân
không cịn quan tâm đến việc phục vụ cơng ích nữa, và thích phục vụ
quốc gia bằng tiền hơn là chính bản thân họ, thì quốc gia đó sắp sửa tiêu
vong.” Nhưng làm thế nào để bảo đảm sự trường tồn của quốc gia, của
nhà nước, khi con người luôn đặt quyền lợi cá nhân lên trước quyền lợi
tập thể? Trong chương 8, quyển IV, Rousseau luận về một loại tôn giáo
của dân sự, khác với tơn giáo của tín ngưỡng. Tơn giáo của tín ngưỡng,
đặc biệt là Thiên Chúa giáo của Âu châu, không phù hợp với con người
dân sự, vì tơn giáo dạy con người u mến vương quốc trên trời, chứ
không phải đất nước dưới đất; dạy con người chịu đựng khổ đau, chứ
không dạy con người chống lại cường quyền (quan niệm này của
Rousseau gần với quan niệm Marxist về tơn giáo). Rousseau cho rằng đó


khơng phải là đức tính cơng dân, ơng đề nghị nhà nước phải đứng ra giáo
dục cơng dân về lịng yêu nước, về bổn phận, nghĩa vụ và đạo đức công
dân.
Khi đặt bút viết Khế ước Xã hội, Rousseau minh định là tìm xem
đâu là ngun lý chính đáng thiết lập nên nhà nước và chính quyền dân
sự. Nhà nước được lập nên bởi một khế ước do tất cả mọi người dân
đồng thuận, trao quyền lực chính trị cho chính quyền là những người
cơng bộc của dân để điều hành đất nước theo nguyện vọng và ý chí tập
thể. Quyền lực chính trị của chính quyền sẽ bị thu hồi bất kỳ lúc nào, nếu
chính quyền khơng làm đúng chức năng được nhân dân giao phó. Khế
ước Xã hội, do đó, được coi là bản họa đồ xây dựng một thể chế dân
chủ-cộng hòa hiểu theo nghĩa ngày nay, một chính quyền “của dân, do
dân và vì dân”. Những vấn nạn Rousseau nêu ra về vai trò tuyệt đối vô
tư của Lập pháp, về sự tiếm quyền của hành pháp đã được các nhà sáng
lập ra nước Mỹ giải quyết bằng nguyên tắc phân quyền và đại biểu dân
cử. Dĩ nhiên, khơng có chế độ nào có thể được coi là hồn hảo, nhưng

như Churchill đã nói: “Dân chủ khơng phải là một chế độ hồn hảo,
nhưng cịn khá hơn bất kỳ một chế độ nào đã từng có trong lịch sử loài
người,” và sau này Thủ tướng Nehru của Ấn độ cũng đồng tình: “Dân
chủ là một chế độ tốt vì mọi chế độ khác đều tệ hơn rất nhiều.” Nền tảng
tư tưởng chính trị của Rousseau, thể hiện trong Khế ước Xã hội–nhà
nước được thiết lập bởi một khế ước xã hội, quyền lực chính trị thuộc về
tồn dân, và nhận định về vai trị tơn giáo trong xã hội–đã tấn cơng thẳng
vào chế độ chính trị đương thời, và khiến cho tác phẩm này bị liệt vào
hàng các Tư tưởng Nguy hiểm và bị đốt tại Paris và Genève. Rousseau
phải lưu vong sang Anh sống dưới sự bảo bọc của David Hume (một
triết gia chủ trương thuyết công lợi). Năm 1767 Rousseau trở về Pháp và


mất năm vào năm 1778. Khế ước Xã hội đã từng bị đốt, nhưng khơng ai
có thể tiêu diệt được tư tưởng, và tư tưởng của Rousseau đã góp phần
khơng nhỏ vào cuộc Cách mạng Dân chủ Nhân quyền Pháp năm 1789,
sự hình thành Hiến pháp Hoa kỳ 1787, và Tuyên ngôn Quốc tế Nhân
quyền năm 1948.

CHƯƠNG II

NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ CỦA
JEAN JACQUES ROUSSEAU TRONG TÁC PHẨM
"BÀN VỀ KHẾ ƯỚC XÃ HỘI"
2.1. TƯ TƯỞNG VỀ CÁC QUYỀN CON NGƯỜI VÀ NHÀ
NƯỚC.

2.1.1 Tư tưởng của J. J. Rousseau về quyền tự do và bình đẳng
Theo Rousseau, bản chất con người là tự do, nhưng “Người ta sinh
ra là tự do, nhưng rồi đâu đâu con người cũng sống trong xiềng xích”.

Từ việc bênh vực quyền sống, quyền tự do, bình đẳng của con người,


Rousseau đi đến tìm hiểu tình trạng bất bình đẳng và lý giải vì sao con
người trong quá trình tồn tại lại sống trong cảnh bất bình đẳng, trái với
quy luật tự nhiên, với bản chất tự nhiên của họ như vậy. Trong trạng thái
tự nhiên, mọi người đều bình đẳng, tư hữu và bất cơng xã hội lúc đó
chưa có. Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng giữa người và người,
Rousseau gắn bất bình đẳng xã hội với sự xuất hiện tư hữu nảy sinh
trong q trình hồn thiện công cụ sản xuất cũng như với những lầm lạc
của con người. Ở trạng thái dân sự - trạng thái mới về chất này, bản chất
tự do của con người tiếp nhận hình thức tha hố và ở dưới hình thức này
với tư cách “tồn tại khác” của mình, nó đánh mất tính tồn vẹn ban đầu,
bị phân chia ra thành các mặt đối lập: “thống trị” và “phục tùng”.
Rousseau đã nêu lên vấn đề thiết lập sự bình đẳng giữa người với người,
trước hết là về mặt chính trị, nêu ra nó với tư cách là một yêu cầu chung
của nhân loại. Nhà nước ra đời là để đảm bảo các quyền đó của con
người. Thơng qua việc thực hiện quyền chính trị, nhà nước mới thực sự
đảm bảo tính dân chủ, một nhà nước chính đáng cho con người
2.1.2 Nhà nước ra đời nhằm mục đích bảo đảm và thực hiện
quyền con người
Khế ước xã hội là giải pháp đã được Rousseau đưa ra hướng tới
việc xóa bỏ sự bất bình đẳng, bảo vệ các quyền lợi chính đáng cho con
người. Nhà nước cần phải được thiết lập trên cơ sở của khế ước xã hội,
phù hợp với ý chí của nhân dân và đảm bảo các quyền tự nhiên cho con
người. Khế ước xã hội giúp con người trở về với bản chất tự nhiên của
mình – tự do và bình đẳng. Luận giải vấn đề cơ bản mà khế ước xã hội
đặt ra, Rousseau viết: “Tìm ra một hình thức liên kết với nhau để dùng
sức mạnh chung mà bảo vệ mọi thành viên. Mỗi thành viên trong khi
khép mình vào tập thể, dùng sức mạnh tập thể, vẫn được tự do đầy đủ



như trước, vẫn chỉ tn theo chính bản thân mình”. Khế ước được coi là
sự thỏa thuận giữa những chủ thể bình đẳng với nhau chứ khơng phải
giữa nhà cầm quyền và thần dân. Rousseau cho rằng, quyền công dân
của con người chỉ xuất hiện khi hình thành xã hội cho nên con người
phải trao quyền hành lại cho cộng đồng khi liên kết với nhau để tổ chức
thành xã hội. Toàn thể thành viên trong cộng đồng xã hội sẽ trở thành
một tập thể chính trị với quyền hành tối thượng. Khế ước bác bỏ những
đặc quyền đặc lợi của bất cứ cá nhân nào, qua đó chống lại tư tưởng
phong kiến về đẳng cấp quý tộc hay chế độ vua quan theo kiểu cha
truyền con nối
Rousseau giải thích sự hình thành xã hội và nhà nước trên quan
điểm của thuyết quyền tự nhiên và thỏa thuận xã hội. Sự tự do và bình
đẳng của những người tham gia khế ước là cái bảo đảm sự liên kết nhân
dân vào một thực thể, và thực thể này không thể đi ngược với những
quyền lợi của từng cá nhân. Con người liên kết qua khế ước và từ bỏ
quyền tự do sống theo cảm xúc cá nhân. Khế ước xã hội giúp con người
chống lại những nguy cơ bị áp bức, bóc lột bởi những kẻ mạnh hơn. Nhà
nước ra đời trên cơ sở khế ước xã hội với mục đích, nhiệm vụ là bảo vệ
và bảo đảm các quyền tự do, bình đẳng đó.
2.2 BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC.
2.2.1. Quyền lực tối cao là thực hiện ý chí chung của nhân dân
Quyền lực tối cao hay chủ quyền tối cao chính là sự thực hiện ý
chí chung nhằm phục vụ lợi ích chung, tạo ra sự hài hịa về lợi ích và
đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của xã hội: "quyền lực tối cao được
thiết lập từ những cá thể thành viên hợp lại tạo ra nó, cho nên nó khơng
có và khơng thể có lợi ích nào trái ngược với các thành viên. Chủ quyền



tối cao là một con người tập thể. Quyền lực tối cao là quyền lực được
điều hành bằng ý chí chung của tất cả dân chúng. Do vậy cơ thể chính trị
có quyền lực tối cao có "quyền tuyệt đối đối với các thành viên của nó".
Hai đặc trưng của quyền lực tối cao
-

Tính khơng thể bị từ bỏ của quyền lực tối cao

-

Tính khơng thể phân chia được hay tính tồn vẹn của quyền

lực tối cao.
2.2.2. Ý chí chung của nhân dân được cơng bố lên chính là luật
Để có thể xây dựng được xã hội đảm bảo quyền lợi cho con người,
không thể thực hiện được bằng một hay một vài cá nhân riêng lẻ, mà
phải gắn với cả cộng đồng. Mỗi người đều có một ý chí có tính bản năng
của mình trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Sự tổng hợp của các ý chí riêng
biệt đó được Rousseau gọi là ý chí chung. Ý chí chung bao hàm trong nó
cả lý tính và sự cơng bằng. Nó là biểu hiện của những lợi ích chung, ln
khao khát phúc lợi chung, vì vậy nó ln ln là chính đáng hay có
chính nghĩa. Ý chí chung chính là tiền đề của khế ước xã hội, chỉ có thể
được thực hiện thông qua "các lực lượng nhà nước" nhất định với tư
cách là cơ quan quyền lực tối cao, thông qua chủ quyền tối cao hay
quyền lực tối cao. ý chí chung phản ánh lợi ích chung của cộng đồng và
về phần mình chính lợi ích chung của cộng đồng phải trở thành nền tảng
của luật pháp. Như vậy luật pháp phải được kết tinh từ ý chí của cộng
đồng. Ý chí chung là căn nguyên của luật pháp và là cơ sở để đo lường,
phân định những việc phải trái trong quan hệ giữa các thành viên xã hội.
Ý chí chung và khế ước xã hội là nền tảng không thể thiếu được cho sự

tồn tại và phát triển của một nhà nước chính đáng - một nhà nước dân
chủ.


2.2.3. Lập pháp là đỉnh cao nhất của sức mạnh toàn dân
Quyền lập pháp là nhiệm vụ cơ bản của quyền lực tối cao. Về thực
chất, quyền lập pháp là quyền làm ra luật, các bộ luật trên cơ sở khế ước
xã hội, phản ánh ý chí chung của tất cả những người dân. Rousseau
khẳng định rằng, “lập pháp là đỉnh cao nhất của sự hoàn thiện mà sức
mạnh tập thể có thể đạt tới”. Nhiệm vụ của cơ quan lập pháp là đưa ra
một hiến pháp và một hệ thống pháp luật với các bộ luật cho quốc gia.
Cơ quan lập pháp sẽ đề xuất việc thành lập chính phủ để thực thi vai trị
hành pháp. Vì thế quyền lập pháp chỉ có thể thuộc về nhân dân, chính
nhân dân có quyền giải quyết vấn đề về hình thức của chính phủ. Quyền
lực lập pháp mới là sự thể hiện trực tiếp nhất ý chí của nhân dân, của
quyền lực tối cao. Cơ quan lập pháp có hai mục tiêu chính phải cố gắng
để đạt được trong khi thi hành vai trị lập pháp: tự do và bình đẳng cho
con người. Đề cao quyền lập pháp, vai trò của người làm ra luật nhưng
thực chất chính là đề cao quyền tự do, bình đẳng của con người.
2.3. Biện pháp ngăn chặn nguy cơ chính phủ lạm quyền và
cướp quyền
Rousseau đề ra tư tưởng quyền lực trực tiếp của nhân dân, tính tối
cao của quyền lực nhân dân, từ đó ông đưa ra kết luận về sự không thể
chấp nhận việc đại diện nhân dân cản trở nhân dân thực hiện các quyền
của mình. Rousseau luận giải yếu tố quyết định của một chế độ xã hội
hợp pháp, hợp lý đó là quyền lực thuộc về nhân dân. Từ đó, ơng đưa ra
vấn đề: “Khi nào thì cơ chế chính trị quốc gia bị suy vong?”. Rousseau
giải đáp: “đó là khi chính phủ lạm quyền (…) lấn át quyền lực tối cao
của toàn dân, phá hoại mất khế ước xã hội”.



Theo ơng, chính phủ đóng vai trị khâu trung gian, cơ chế trung
gian giữa cơ quan quyền lực tối cao và cơng dân. Chính phủ do cơ quan
lập pháp đặt ra để thi hành các luật, giữ gìn quyền tự do dân sự cũng như
tự do chính trị. Rousseau đã tiên đoán và cảnh báo khả năng xuất hiện
xung đột giữa các bộ phận của hệ thống quan hệ đó. Ý chí cao nhất của
chính phủ phải là ý chí chung, phải là luật, đó là điểm quy tụ sức mạnh
cơng cộng của chính phủ. Tuy nhiên, nếu chính phủ hành động chun
quyền theo ý chí riêng của mình mạnh hơn cả ý chí của cơ quan quyền
lực tối cao bằng việc sử dụng lực lượng mình nắm trong tay, thì sẽ xuất
hiện nguy cơ lớn: "sự thống nhất xã hội sẽ tan rã, cơ thể chính trị sẽ lụi
tàn". Trong những tình huống xung đột giữa cơ quan hành pháp và cơ
quan lập pháp, giải pháp mà Rousseau đưa ra là "ln ln có thể sẵn
sàng hy sinh chính phủ vì nhân dân chứ khơng phải hy sinh nhân dân vì
chính phủ". Và một chính phủ tốt và hợp lý là chính phủ phải được xây
dựng trên cơ sở đảm bảo thực hiện ý chí chung của nhân dân, hay nói
cách khác, nhân dân đóng vai trị quyết định đối với hình thức chính phủ
phù hợp. Họ cũng là người có khả năng bãi miễn, loại bỏ chính phủ nếu
nó khơng cịn những yếu tố phù hợp và khơng có khả năng đảm bảo các
quyền chính trị cho con người.
Rousseau cũng thấy được xu hướng lạm quyền, thối hóa thậm chí
cướp quyền của quyền lực hành pháp là điều hồn tồn có thể xảy ra.
Ơng cho rằng, chính phủ cũng thường hay có xu hướng làm trái với
quyền lực tối cao và ý chí chung của tồn thể dân chúng. Muốn ngăn
chặn nguy cơ chính phủ lạm quyền và cướp quyền, thì phải áp dụng một
biện pháp là triệu tập hội nghị định kỳ tồn dân, trong đó cần bàn luận
hai câu hỏi:


"Một là: Tồn dân có muốn giữ ngun hình thức chính phủ hiện

hữu hay khơng?
Hai là: Nhân dân có vừa lòng với sự cai trị của những người hiện
đang được ủy thác khơng?".
Rousseau coi hội nghị tồn dân là dây cương cho cơ chế chính trị,
là bộ hãm hữu hiệu đối với chính phủ và là thời kỳ lo lắng của các thủ
tướng, các vị bộ trưởng trong nội các. Thơng qua ý chí chung của tồn
dân, đưa ra các các biện pháp khắc phục, các quyết sách quốc gia. Tư
tưởng này đã đưa Rousseau trở thành đại biểu nổi tiếng nhất của lý luận
về chế độ dân chủ trực tiếp. Rousseau ln đặt quyền lực nhân dân với
tính cách là quyền lực tối cao ở vị trí cao nhất, chi phối các quyền lực
khác. Nền tảng của tư tưởng chính trị này chính là việc khẳng định tính
tối thượng của ý chí chung của tồn dân và sự hiện thân của nó trong khế
ước xã hội; là nền tảng lý luận cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước tư sản.
2.4. Đánh giá tư tưởng dân chủ của J. J. Rousseau trong tác
phẩm "Bàn về khế ước xã hội"
Thứ nhất, Rousseau đã lên tiếng cơng kích mạnh mẽ thiết chế tư
hữu, bênh vực cho quyền tự do, bình đẳng của con người, coi đó là
những quyền tất yếu, là bản chất tự nhiên, hình thành khi con người sinh
ra và tồn tại trong cộng đồng. Theo ông, mục tiêu của chính quyền là bảo
vệ tự do, bình đẳng và công lý cho mọi người trong nhà nước. Rousseau
u cầu phải xóa bỏ sự bất bình đẳng, thiết lập một chế độ xã hội công
bằng cho tất cả mọi người.
Thứ hai, Rousseau đã lên tiếng bênh vực cho tư tưởng về một nhà
nước dân chủ đại diện cho ý chí chung của tồn thể nhân dân, tư tưởng


về chủ quyền nhân dân, về quyền lực tối cao thông qua quan niệm về
khế ước xã hội, nhất là quan niệm về nguồn gốc tự nhiên của nhà nước
cho rằng, nhà nước là kết quả thỏa thuận giữa con người với con người

nhằm bảo đảm các quyền và hạnh phúc của mình. Tất cả mọi mơ hình,
hình thức chính phủ đều phải đặt ý chí chung này là tiêu chí đầu tiên và
cao nhất, tức là phải đảm bảo được các quyền tất yếu cho con người
đồng thời bảo vệ cho các quyền đó.
Thứ ba, Rousseau đã đưa ra được tư tưởng rất tiến bộ về khả năng
thực hiện một cuộc cách mạng và luận giải về quyền của quần chúng
nhân dân trong việc lật đổ chính phủ, khi nó trở nên thối hóa, lạm
quyền, cướp quyền, vi phạm và xóa bỏ khế ước xã hội.
Tuy nhiên, do khơng thể vượt qua khn khổ của thời đại mình, tư
tưởng chính trị và tư tưởng dân chủ của Rousseau cịn có những hạn chế:
-

Tư tưởng dân chủ của Rousseau cũng không tránh khỏi những

hạn chế do yếu tố lịch sử. chế độ dân chủ trực trực tiếp của Rousseau chỉ
có thể thực hiện ở quốc gia có phạm vi lãnh thổ nhỏ; hoặc khi phân tích
các nguyên nhân dẫn đến sở hữu tư nhân, sự phụ thuộc của hình thức
chính phủ vào điều kiện địa lý hay quy mô dân số, v.v...
-

Một số quan niệm của Rousseau chưa thể đạt tới quan niệm

duy vật về lịch sử trong ý nghĩa đích thực của nó, vẫn cịn mang tính
chất duy tâm, chẳng hạn khi cho rằng nhà nước và pháp luật chỉ là kết
quả của sự thỏa thuận xã hội, chứ khơng phải được hình thành trên cơ sở
của các mối quan hệ kinh tế, các quan hệ sản xuất xã hội; hay quan điểm
không chú ý đến việc nâng cao đời sống của dân nghèo bởi vì có lẽ ơng
thấy nhiều người tuy nghèo nhưng vẫn có thể sống trong sạch. Rousseau



quan tâm đến sự bình đẳng về đạo đức nhiều hơn là bình đẳng về kinh tế
cho con người.
-

Rousseau quan niệm sự hình thành nhà nước trên cơ sở khế

ước xã hội, đặc biệt ơng đề cao vai trị của ý chí chung - đại diện cho lợi
ích của tập thể, cộng đồng, là nền tảng không thể thiếu cho sự tồn tại và
phát triển của một nhà nước chính đáng, hợp pháp. Nhưng thực tế, trong
quá trình hình thành và phát triển của nhà nước, người ta có thể nảy sinh
những thủ đoạn lợi dụng số đơng, núp bóng tập thể, “ý chí chung” để
mưu cầu lợi ích cá nhân. Khi đó, “ý chí chung” sẽ trở thành cơng cụ,
phương tiện cho một lực lượng trong xã hội lợi dụng để chống lại quyền
và lợi ích chung của tập thể.
-

Khi lập luận về cách thức mỗi cá nhân tham gia vào khế ước

xã hội, Rousseau cho rằng: con người phải từ bỏ cả tài sản cá nhân để
vận chuyển vào tay nhà nước. Từ đó, nhà nước sẽ đảm bảo quyền bình
đẳng và cơng bằng cho mọi người bằng việc chia đều các sản phẩm trong
xã hội. Theo Rousseau, chỉ có lợi ích chung mới có thể đảm bảo cho sự
hoà hợp của đời sống cộng đồng. Tuy nhiên, quan điểm này của ông sẽ
dễ dẫn đến tâm lý ỷ lại của một số thành viên khi tham gia khế ước. Mỗi
cá nhân sẽ không thấy được trách nhiệm của mình trong đời sống tập thể,
đặc biệt là lao động sản xuất. Đồng thời không tạo cơ hội để phát huy
được những khả năng, yếu tố cá nhân của từng thành viên trong cộng
đồng. Điều này sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội.



C. KẾT LUẬN
Tư tưởng dân chủ của Rousseau trong tác phẩm "Bàn về khế ước
xã hội" có ảnh hưởng và giá trị lịch sử lớn lao, thể hiện qua sự tác động
đến thành công của cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1789. Rousseau
muốn cải tạo xã hội một cách hồn tồn. Ơng nâng cao giá trị tự do, bình
đẳng nhưng cũng đồng thời lo ngại sự lạm dụng quyền tự do để lo cho
quyền lợi riêng tư có thể băng hoại xã hội. Theo ông, mặc dầu xã hội có
nhiều bất cơng, con người vẫn cần đến xã hội để làm điểm tựa xây dựng
một xã hội tốt đẹp hơn. Ông tin rằng trong một xã hội lý tưởng, quyền tự


×