Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TÓM LƯỢT LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.99 KB, 26 trang )

Trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh

Đề Tài Số 5:
“ TÓM LƯỢT LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ”

GVHD:

Trương Minh Tuấn

Nhóm thực hiện: Nhóm 5
TP HCM, tháng 10 năm 2012

1


Nhóm thực hiện
STT
55

MSSV
33111023154

HỌ VÀ TÊN
Chu Thị Nhường

CHỮ KÝ

Trần Thị Thanh Thủy
Đặng Thị Thanh Hằng
Đinh Thị Khánh Dương


Nguyễn Thị Ngọc Quyên

MỞ ĐẦU
Ngày nay khi nền khoa học kỹ thuật công nghệ đã phát triển đến một mức độ
đỉnh cao , con người đã ứng dụng những thành tựu đó để phát triển làm giàu cho quốc
gia cho nhân loại từ việc sử dụng hàng hóa tự cung tự cấp ,hàng đổi hàng thời kỳ cổ
đại đến việc sử dụng đồng tiền làm vật trung gian trao đổi , hệ thống ngân hàng các
2


nước đặc biệt là Mỹ đã phát triển vượt bậc làm cho thị trường chứng khoán phát triển
như vũ bão.
Bên cạnh những thành tựu và thành quả đó thì nền kinh tế thế giới cũng đã trải qua rất
nhiều đợt biến động ,suy thoái và khủng hoảng như: Đại suy thoái năm 1930 Suy thoái
năm 1947, Suy thoái năm 1953 . Suy thoái năm 1958, Khủng hoảng dầu mỏ những
năm 1973, Suy thoái đầu những năm 1980, Suy thoái cuối thập kỷ 90 , Suy thoái đầu
năm 2000 và gần đây là suy thoái nền kinh tế Mỹ 2008 ,2009 đã ảnh hưởng lớn đến
nền kinh tế thế giới . Nằm trong luồng ảnh hưởng bởi làn sóng suy thối chung đó , rất
nhiều nước cũng rơi vào tình trạng nợ nần chồng chất đặc biệt là nợ của chính phủ hay
cịn gọi là nợ cơng , với mực đích tìm hiểu nợ cơng , tóm lược lý thuyết và phân tích
những tác động tích cực và tiêu cực đến sự phát triển kinh tế thế giới và đặc biệt là ở
Việt Nam, Các thành viên nhóm 5 đã lựa chọn đề tài “ Tóm lượt lý thuyết về mối quan
hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế”.
Qua đây chúng ta có thể biết được nợ cơng là gì, và hiểu thêm về ảnh hưởng của nó
đến sự tăng trưởng kinh tế thế giới cũng như kinh tế Việt Nam .

3


NỘI DUNG

I. Nợ cơng là gì ?
-Trước khi tìm hiểu về nợ công chúng ta cần hiểu một cách khái qt thế nào là
khu vực cơng và tài chính cơng
Khu vực cơng bao gồm khu vực chính phủ và các cơng ty cơng, các cơng ty có hai loại
hình chính là cơng ty tài chính ( ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại nhà
nước ) và công ty phi tài chính ( các doanh nghiệp nhà nước) .Trong khu vực cơng ,
chức năng chính phủ được xác định thơng qua cung cấp hàng hóa cơng và tái phân
phối thu nhập xã hội. Thứ hai, tài chính cơng chính là những hoạt động thu chi tiền tệ
của nhà nước nhằm thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước trong việc cung
cấp hàng hóa cơng cho xã hội .
Vậy nợ cơng là gì?
Hiện nay vẫn cịn nhiều quan niệm khác nhau về nợ công: Theo Ngân hàng Thế giới
(WB), nợ cơng là tồn bộ những khoản nợ của chính phủ và những khoản nợ được
chính phủ bảo lãnh. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công bao gồm nợ của khu
vực tài chính cơng và khu vực phi tài chính cơng. Tại hầu hết các nước trên thế giới, nợ
công được xác định bao gồm nợ của chính phủ và nợ được chính phủ bảo lãnh. Một số
nước, nợ cơng cịn bao gồm nợ của chính quyền địa phương (Bungari, Rumani, Việt
Nam…), nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận (Thái Lan, Macedonia…).
Theo Bách khoa toàn thư:Nợ chính phủ, cịn gọi là Nợ cơng hoặc Nợ quốc gia, là tổng
giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi
vay. Việc đi vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nên nói cách
khác, nợ chính phủ là thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình
dung quy mơ của nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu
phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Như vậy, quan niệm về nợ cơng
cũng cịn tùy thuộc vào thể chế kinh tế- chính trị của mỗi quốc gia.
Cần
phân
biệt
giữa
nợ

cơng

nợ
quốc
gia.
Nợ quốc gia là tồn bộ khoản nợ phải trả của một quốc gia, bao gồm hai bộ phận là nợ
của Nhà nước và nợ của tư nhân (doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân). Như vậy, nợ công
chỉ

một
bộ
phận
của
nợ
quốc
gia

thôi.
Luật Quản lý nợ công Việt Nam số 29/2009/QH12 có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 quy
định nợ cơng bao gồm: Nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền
địa phương, trong đó: Nợ chính phủ là khoản nợ được ký kết phát hành nhân danh Nhà
nước hoặc Chính phủ, các khoản nợ do Bộ Tài chính ký kết, phát hành hoặc ủy quyền
phát hành, khơng bao gồm các khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành
nhằm thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Nợ chính phủ bão lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay
trong nước, nước ngồi được Chính phủ bảo lãnh.
4


Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương ký kết phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
Nỗ lực kéo nền kinh tế thốt khỏi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009 với các
gói kích thích kinh tế, quốc hữu hóa các khoản nợ tư nhân, các chương trình giảm, giãn
thuế và tăng chi tiêu công đã để lại hậu quả là sự tăng lên một cách đáng kể khoản nợ
công của các quốc gia.
2. Đặc trưng của nợ công
- Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước. Khác với các
khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một khoản nợ mà Nhà nước (bao
gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả khoản nợ ấy.
- Trách nhiệm trả nợ của Nhà nước được thể hiện dưới hai góc độ trực tiếp và gián tiếp.
Trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là người vay và do đó, cơ
quan nhà nước ấy sẽ chịu trách nhiệm trả nợ khoản vay (ví dụ: Chính phủ Việt Nam
hoặc chính quyền địa phương). Gián tiếp là trong trường hợp cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đứng ra bảo lãnh để một chủ thể trong nước vay nợ, trong trường hợp bên
vay khơng trả được nợ thì trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra bảo lãnh (ví
dụ: Chính phủ bảo lãnh để Ngân hàng Phát triển Việt Nam vay vốn nước ngoài).
- Nợ cơng được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Việc quản lý nợ cơng địi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm đảm bảo hai mục
đích: một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và cao hơn nữa là
đảm bảo cán cân thanh tốn vĩ mơ và an ninh tài chính quốc gia; hai là, để đạt được
những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn. Bên cạnh đó, việc quản lý nợ cơng một
cách chặt chẽ cịn có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị và xã hội.
- Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh tế – xã
hội vì lợi ích chung. Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn
những lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của đất nước.
Bản chất kinh tế của nợ công: Nghiên cứu làm rõ bản chất kinh tế của nợ công và quan
điểm của kinh tế học về nợ công sẽ giúp các nhà làm luật xây dựng các quy định pháp
luật phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội nhằm đạt được hiệu quả trong sử dụng nợ
công ở Việt Nam. Chính phủ lạm thu thơng qua việc quyết định các khoản thuế.
Các nhà kinh tế học cổ điển như A.Smith, D.Ricardo, J.B.Say là những người khởi

xướng và ủng hộ triệt để nguyên tắc này trong quản lý tài chính cơng. Và chính vì thế,
các nhà kinh tế học cổ điển khơng đồng tình với việc Nhà nước có thể vay nợ để chi
tiêu.
3. Phân loại
Phân loại nợ cơng Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ cơng, mỗi tiêu chí có một ý
nghĩa khác nhau trong việc quản lý và sử dụng nợ cơng. Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý
của vốn vay thì nợ cơng gồm có hai loại: nợ trong nước và nợ nước ngồi.
5


+Nợ trong nước: là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức Việt Nam.
+ Nợ nước ngoài: là nợ cơng mà bên cho vay là Chính phủ nước ngồi, vùng lãnh thổ,
tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Việc phân loại này về mặt thơng tin sẽ giúp xác định chính xác hơn tình hình cán cân
thanh tốn quốc tế. Và ở một số khía cạnh, việc quản lý nợ nước ngồi còn nhằm đảm
bảo an ninh tiền tệ của Nhà nước Việt Nam, vì các khoản vay nước ngồi chủ yếu bằng
ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế khác. Theo phương
thức huy động vốn, thì nợ cơng có hai loại là nợ cơng từ thỏa thuận trực tiếp và nợ
công từ công cụ nợ. Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ
những thỏa thuận vay trực tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ
chức cho vay.
Những tác động của nợ công Như trên đã phân tích, nợ cơng vừa có nhiều tác động
tích cực nhưng cũng có một số tác động tiêu cực. Nhận biết những tác động tích cực và
tiêu cực nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực là điều hết sức cần thiết
trong xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý nợ công. Những tác động tích cực
chủ
yếu
của
nợ
cơng

bao
gồm:
- Nợ cơng làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn vốn để phát
triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước. Việt Nam đang
trong giai đoạn tăng tốc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, trong đó cơ sở hạ tầng là yếu tố có tính chất quyết định. Muốn phát triển cơ sở
hạ tầng nhanh chóng và đồng bộ, vốn là yếu tố quan trọng nhất. Với chính sách huy
động nợ công hợp lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước được giải quyết để đầu tư cơ sở hạ
tầng, từ đó gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
- Huy động nợ cơng góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân cư.
Một bộ phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc Nhà nước vay
nợ mà những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, đem lại hiệu quả kinh tế
cho
cả
khu
vực
công
lẫn
khu
vực
tư.
- Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế.
Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế – ngoại giao quan trọng của các
nước phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng như muốn hợp tác
kinh tế song phương.. Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, nợ công cũng gây ra
những tác động tiêu cực nhất định. Nợ công sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc
biệt là từ các khoản tài trợ ngồi nước. Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo, nợ
công sẽ tỏ ra kém hiệu quả và tình trạng tham nhũng, lãng phí sẽ tràn lan nếu thiếu cơ
chế giám sát chặt chẽ việc sử dụng và quản lý nợ công.
II. Sự tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế

1.Khái niệm:

6


Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản
lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mơ sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người
(PCI) trong một thời gian nhất định.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu
người trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng
của nền kinh tế. Tuy vậy ở một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên
mặc dù thu nhập bình quân đầu người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình
trạng nghèo khổ.
2.

Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế:

Mơ hình David Ricardo (1772-1823) với luận điểm cơ bản là đất đai sản xuất
nông nghiệp (R, Resources) là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Nhưng đất sản xuất
lại có giới hạn do đó người sản xuất phải mở rộng diện tích trên đất xấu hơn để sản
xuất, lợi nhuận của chủ đất thu được ngày càng giảm dẫn đến chí phí sản xuất lương
thực, thực phẩm cao, giá bán hàng hóa nong phẩm tăng, tiền lương danh nghĩa tăng và
lợi nhuận của nhà tư bản công nghiệp giảm. Mà lợi nhuận là nguồn tích lũy để mở rộng
đầu tư dẫn đến tăng trưởng. Như vậy, do giới hạn đất nông nghiệp dẫn đến xu hướng
giảm lợi nhuận của cả người sản xuất nông nghiệp và công nghiệp và ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế. Nhưng thực tế mức tăng trưởng ngày càng tăng cho thấy mơ hình
này khơng giải thích được nguồn gốc của tăng trưởng.
Mơ hình hai khu vực tăng trưởng kinh tế dựa vào sự tăng trưởng hai khu vực nơng
nghiệp và cơng nhiệp trong đó chú trọng yếu tố chính là lao động (L labor), yếu tố tăng
năng suất do đầu tư và khoa học kỹ thuật tác động lên hai khu vực kinh tế. Tiêu biểu

cho mô hình hai khu vực là mơ hình Lewis, Tân cổ điển và Harry T. Oshima.
Mơ hình Harrod-Domar nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố K,
capital) đưa vào sản xuất tăng lên.
Mơ hình Robert Solow (1956) với luận điểm cơ bản là việc tăng vốn sản xuất chỉ ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn mà không ảnh hưởng trong dài hạn, tăng
trưởng sẽ đạt trạng thái dừng. Một nền kinh tế có mức tiết kiệm cao hơn sẽ có mức sản
lượng cao hơn không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn (tăng trưởng
kinh tế bằng khơng (0)).
Mơ hình Kaldor tăng trưởng kinh tế phụ thuộc phát triển kỹ thuật hoặc trình độ cơng
nghệ.
Mơ hình Sung Sang Parknguồn gốc tăng trưởng là tăng cường vốn đầu tư quốc gia cho
đầu tư con người.
Mơ hình Tân cổ điển nguồn gốc của tăng trưởng tùy thuộc vào cách thức kết hợp hai
yếu tố đầu vào vốn(K) và lao động (L).

7


Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc
gia (GNP) hoặc quy mơ sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong
một thời gian nhất định.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu
người trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng
của nền kinh tế. Tuy vậy ở một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên
mặc dù thu nhập bình quân đầu người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình
trạng nghèo khổ.
3.Quan điểm của các nhà kinh tế học :
Bàn về sự tác động của nợ công đến nền kinh tế, vẫn tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau, trong đó có hai quan điểm chủ đạo: Quan điểm truyền thống, đại diện là
Keynes và Quan điểm của David Ricardo, một nhà kinh tế người Anh (1772-1832)

Quan điểm truyền thống, đại diện là Keynes cho rằng
Khi chính phủ vay nợ để bù đắp cho thâm hụt ngân sách do cắt giảm các nguồn thu từ
thuế trong khi mức chi tiêu công không thay đổi sẽ tác động đến hành vi tiêu dùng của
người dân. Cụ thể là làm mức tiêu dùng tăng, từ đó làm tăng tổng cầu về hàng hóa
và dịch vụ, tăng sản lượng, việc làm trong ngắn hạn. Tuy nhiên, về dài hạn lại
làm cho tiết kiệm quốc gia (national saving) giảm và kèm theo đó là những hệ lụy
khác.
Sơ lược một vài nghiên cứu trước đấy về ngưỡng nợ
Mehmet Caner và cộng sự (2010) nghiên cứu ngưỡng nợ công tại các quốc gia phát
triển và đang phát triển trong giai đoạn 1980-2008. Mẫu nghiên cứu của nhóm tác giả
này bao gồm 26 quốc gia phát triển và 75 quốc gia đang phát triển ở khắp các khu vực
trên thế giới. Bằng kỹ thuật hồi quy bình phương bé nhất của Hansen (2000) nghiên
cứu thực hiện đo lường mối quan hệ giữa tỷ lệ tăng trưởng GDP thực (GDP theo giá cố
định năm 2000) với các biến GDP thực bình qn đầu người, tỷ lệ nợ cơng so với GDP,
tỷ lệ lạm phát và độ mở nền kinh tế. Kết quả nghiên cứu tìm thấy ngưỡng nợ công trên
GDP đối với các quốc gia trong mẫu chung là 77,1% và với nhóm các quốc gia đang
phát triển là 64%. Nghiên cứu cũng đưa ra kết quả ước lượng đối với nhóm các quốc
gia trong mẫu chung với mỗi phần trăm tăng lên của tỷ lệ nợ công so với GDP khi vượt
quá ngưỡng nợ sẽ làm tỷ lệ tăng trưởng GDP giảm 0,0174 điểm phần trăm, còn nếu
dưới mức này mỗi phần trăm tỷ lệ nợ tăng lên sẽ làm tỷ lệ tăng trưởng GDP tăng tương
ứng 0,0653 điểm phần trăm. Đối với nhóm các quốc gia đang phát triển mỗi phần trăm
tăng lên của tỷ lệ nợ khi vượt quá ngưỡng nợ sẽ làm tỷ lệ tăng trưởng GDP giảm
0,0203 điểm phần trăm và nếu dưới ngưỡng nợ mỗi phần trăm tăng lên của tỷ lệ nợ sẽ
làm tỷ lệ tăng trưởng GDP tăng lên tương ứng 0,0739 điểm phần trăm.
Tokunbo và cộng sự (2007) nghiên cứu mối quan hệ thâm hụt ngân sách, nợ nước
ngoài và tăng trưởng kinh tế Nigeria. Ngồi giải thích mối liên hệ giữa thâm hụt ngân
8


sách với gia tăng nợ nước ngồi, nghiên cứu cịn tập trung vào phân tích mối quan hệ

giữa các biến bằng mơ hình định lượng trong giai đoạn phát triển kinh tế của Nigeria từ
năm 1970-2003. Các biến chính trong mơ hình định lượng là GDP theo giá cố định
năm 1994, tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP và độ mở nên kinh tế. Mơ hình nghiên cứu
được thể hiện như sau:
Y = α1 + α2ψ + α3 (ψ – ψ*) ∂ + α4OPEN + μ
Trong đó:
Y: GDP giá cố định năm 1994
ψ: Tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP
Ψ*: Ngưỡng nợ nước ngồi theo mơ hình đường cơng Laffer nợ
∂: biến giả, ∂ = 1 nếu ψ>ψ*,
∂ = 0 nếu ψ<ψ*
OPEN: độ mở nền kinh tế
μ: biến nhiễu trắng mơ hình hồi quy.
Bằng kỹ thuật hồi quy theo phương pháp bình phương bé nhất và kỹ thuật đồng liên
kết, nghiên cứu đã khẳng định tồn tại đường
cong Laffer nợ tại Nigeria. Ngưỡng nợ được tìm thấy ở mức 60% GDP. Dưới mức này
quan hệ giữa GDP và tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP là cùng chiều, độ lớn của hệ số
tương quan được tìm thấy với phương pháp bình phương bé nhất và đồng liên kết lần
lượt là +390,1358, +64,60308 và nếu nợ nước ngoài trên GDP vượt quá 60% sẽ tác
động tiêu cực đến GDP, độ lớn của hệ số tương quan được tìm thấy với phương pháp
bình phương bé nhất và đồng liên kết lần lượt là-779,9348, -374,2638
Ngoài ra, Catherine Pattillo và cộng sự (2002) nghiên cứu nợ nước ngoài và tăng
trưởng kinh tế. Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu cho 93 nước đang phát triển trong giai
đoạn 1969-1998. Qua nghiên cứu tác giả đã chứng minh rằng ảnh hưởng của nợ nước
ngoài tác động ngược chiều đến tăng trưởng GDP bình quân đầu người bắt đầu xuất
hiện tại khi hiện giá của nợ trên xuất khẩu là 160-170% và tỷ lệ nợ trên GDP là 3540%.
Để đạt được lợi ích từ việc sử dụng nợ nước ngồi đồng thời có thể giảm thiểu tác
động tiêu cực phát sinh:
- Phân tích đầy đủ lợi ích kinh tế và xã hội của tất cả các dự án được tài trợ bằng nợ.
Tài trợ bằng nợ chỉ nên thực hiện nếu dự án đảm bảo lợi nhuận tạo ra sẽ đảm đương

được thanh toán lãi vay và vốn gốc. Việc sử dụng vốn cũng phải được giám sát chặt
chẽ để làm cho đảm bảo vốn vay được sử dụng một cách có hiệu quả.
- Nếu Chính phủ phải bù đắp thâm hụt ngân sách thông qua vay nợ nước ngồi thì nên
phân tích tác động của vay nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế để hạn chế ảnh
hưởng của “debt overhang”.
9


- Trong trường hợp tìm thấy ở bất kỳ thời điểm nào vấn đề “debt overhang” thì giảm tỷ
lệ nợ nên là ưu tiên của Chính phủ. Cơng cụ chính cho Chính phủ để làm điều này là
ngân sách. Điều hành thặng dư ngân sách có tác dụng làm giảm tỷ lệ nợ. Công cụ gián
tiếp thứ hai là tốc độ tăng trưởng kinh tế. Theo Tokunbo và cộng sự (2007), nếu tăng
trưởng kinh tế với tốc độ cao hơn tỷ lệ lãi suất thực tế về nợ thì tỷ lệ nợ sẽ giảm
Khi chính phủ vay nợ để bù đắp cho thâm hụt ngân sách do cắt giảm các nguồn thu từ
thuế trong khi mức chi tiêu công không thay đổi sẽ tác động đến hành vi tiêu dùng của
người dân. Cụ thể là làm mức tiêu dùng tăng, từ đó làm tăng tổng cầu về hàng hóa
và dịch vụ, tăng sản lượng, việc làm trong ngắn hạn. Tuy nhiên, về dài hạn lại
làm cho tiết kiệm quốc gia (national saving) giảm và kèm theo đó là những hệ lụy
khác.
David Ricardo - Một nhà kinh tế người Anh (1772-1832) lại cho rằng mức thuế cắt
giảm được bù đắp bằng nợ chính phủ sẽ khơng có tác động đến tiêu dùng như quan
điểm về nợ truyền thống, kế cả trong ngắn hạn. Ngược lại, nó sẽ làm các khoản tiết
kiệm tư nhân tăng lên bởi người dân đang chuẩn bị cho mức thuế cao sẽ đến trong
tương lai để chi trả lãi và gốc cho các khoản nợ hiện tại.
Trong thực tế, hai quan điểm luôn tồn tại song hành. Vì vậy, để đưa ra nhận định quan
điểm nào phù hợp với từng thời điểm của quốc gia còn phải phụ thuộc vào nhân tố
quan trọng, đó là hành vi của người tiêu dùng.
Xét về mặt tích cực, Chính phủ các quốc gia có thể sử dụng nợ cơng như là một
công cụ để tài trợ vốn, đáp ứng nhu cầu đầu tư cho các dự án, cơng trình trọng điểm
quốc gia, khuyến khích phát triển sản xuất, kích thích tăng trưởng kinh tế. Giải pháp

tăng nợ công để bù đắp thâm hụt ngân sách do cắt giảm thuế có thể sẽ góp phần kích
thích tiêu dùng, tăng sản lượng, việc làm, tăng tổng sản phẩm quốc dân trong ngắn hạn.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trong dài hạn, một khoản nợ chính phủ lớn cũng là
nguyên nhân khiến cho lãi suất tăng, đầu tư giảm, tiết kiệm giảm và khuyến khích
luồng vốn từ nước ngồi chảy vào, từ đó làm cho sự tăng trưởng sản lượng tiềm năng
quốc gia chậm lại. Nợ công tăng cao, vượt quá giới hạn an toàn sẽ khiến cho nền kinh
tế dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép từ bên trong lẫn bên ngoài quốc gia. Cụ thể
những tác động này của nợ công đến nến kinh tế như sau:
Thứ nhất, nợ cơng lớn làm giảm tích lũy vốn tư nhân (private saving), dẫn
đến hiện tượng thoái lui đầu tư tư nhân
Khi chính phủ tăng vay nợ, đặc biệt là vay trong nước, lúc này mức tích lũy vốn tư
nhân sẽ được thay thế bởi tích lũy nợ chính phủ. Thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu
doanh nghiệp hay gửi tiết kiệm ngân hàng, dân chúng lại sở hữu trái phiếu chính phủ
làm cho cung về vốn giảm trong khi cầu tín dụng của chính phủ lại tăng lên, từ đó đẩy
lãi suất tăng, chi phí đầu tư tăng và có thể dẫn đến hiện tượng “thoái lui đầu tư” khu
vực tư nhân (crowding-out effect).
10


Xoay xở với vấn đề thâm hụt ngân sách và nhu cầu chi trả cho các khoản nợ công ngày
càng tăng cao, thị trường tài chính của các quốc gia Hy lạp, Italy, Tây Ban Nha đang
đứng trước những cơn sốt khi lãi suất trái phiếu chính phủ của các quốc gia này liên
tục tăng cao và đạt đến mức kỷ lục kể từ khi tham gia vào khu vực đồng tiền chung
Euro. Thời điểm tháng 8/2011, lãi suất trái phiếu Chính phủ Tây Ban Nha kỳ hạn 10
năm tăng lên tới 6,45%, tại Italy lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm cũng lên tới 6,18%
gần bằng lãi suất trái phiếu Chính phủ Hy Lạp (TPCP kỳ hạn 10 năm với lãi suất hơn
7,8%) tại thời điểm quốc gia này phải cầu cứu các khoản cứu trợ quốc tế bởi nguy cơ
vỡ nợ công.
Thứ hai, nợ công làm giảm tiết kiệm quốc gia (national saving)
Thu nhập quốc gia (Y) được xác định tương đương với tổng sản lượng quốc dân (GDP)

theo công thức: Y = C + S + T = C + I + G + NX = GDP (1)
Trong đó: Y: thu nhập quốc gia; C: Tiêu dùng tư nhân; S: tiết kiệm tư nhân; T: thuế trừ
đi các khoản thanh toán; I: ðầu tư nội địa, G: Chi tiêu của chính phủ, NX: Xuất khẩu
rịng.
Như vậy: S + (T-G) = I + NX (2) Hay: T- G = I + NX - S (3)
Phương trình (3) chỉ ra rằng, khi ngân sách nhà nước thâm hụt (T-G<0) tức I + NX < S,
như vậy, những khả năng có thể xảy ra là: Tiết kiệm tư nhân (S) tăng, đầu tư nội địa (I)
giảm và xuất khẩu rịng (NX) giảm. Khi chính phủ tăng vay nợ để bù đắp thâm hụt,
chúng ta lần lượt xem xét những khả năng này có thể xảy ra và sự tác động của nó đến
tiết kiệm quốc gia:
(1) Tiết kiệm tư nhân tăng (S): Trong thực tế, một số nhà kinh tế học lập luận rằng, tiết
kiệm tư nhân sẽ tăng chính xác bằng lượng giảm của tiết kiệm của chính phủ. Tuy
nhiên trong trường hợp này, chúng ta tạm thời giả định tiết kiệm tư nhân tăng ít hơn
phần tiết kiệm của chính phủ giảm, chính vì vậy mà tiết kiệm quốc gia giảm.
(2) Đầu tư nội địa giảm (I): Đầu tư nội địa giảm dẫn đến đầu ra là tổng vốn nội địa
giảm. Lượng vốn ít, lãi suất tăng, chi phí biên của sản phẩm trên mỗi đồng vốn sẽ cao
hơn, năng suất lao động sụt giảm, từ đó làm giảm mức lương và thu nhập trung bình
dẫn đến giảm tiết kiệm quốc gia.
(3) Xuất khẩu ròng giảm (NX): Khi chính phủ tăng vay nợ, lãi suất trong nước tăng
tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ nước ngoài đổ vào trong
nước tăng khiến cho tỷ giá hối đoái tăng, làm cho giá của hàng hóa sản xuất trong nước
đắt hơn hàng hóa nước ngoài, trở nên kém cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế, từ đó
giảm xuất khẩu rịng.
Xuất khẩu rịng giảm, đầu tư nước ngồi giảm có nghĩa rằng người dân nội địa sẽ sở
hữu ít vốn nước ngồi hơn. Trong trường hợp này, thu nhập người dân nội địa sẽ giảm,
tiết kiệm quốc gia giảm. Giảm xuất khẩu ròng cũng là một trong những nhân tố dẫn
đến thâm hụt cán cân thương mại.
11



Đặc biệt, khi thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân thương mại cùng xảy ra sẽ dẫn
đến hiện tượng “thâm hụt kép” gây tác động tiêu cực đến sự phát triển nền kinh tế.
Ví dụ : Hậu quả thiên tai đã khiến cho Chính phủ Nhật Bản phải tăng chi ngân sách để
tái thiết đất nước. Những khoản chi này sẽ làm trầm trọng thêm gánh nặng nợ công vốn
đã rất cao của Nhật Bản (95.000 tỷ Yên, tương đương 200% GDP năm 2010). Mặc dù
là quốc gia có truyền thống tiết kiệm nội địa cao, nhưng tỷ lệ này đang có xu hướng
ngày càng giảm đi: từ mức 10% tổng thu nhập quốc dân năm 1990 xuống 5% vào cuối
thập kỷ 90 và chỉ còn trên 2% vào năm 2009. Khi đối mặt với vấn đề thiếu vốn, Nhật
Bản có thể từ một nước xuất khẩu trở thành nước nhập khẩu vốn. Dịng vốn nước
ngồi đổ vào Nhật tăng khiến cho tỷ giá giữa đồng Yên và các đồng tiền khác tăng cao,
gây bất lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Có đến 40% doanh nghiệp Nhật Bản sẵn
sàng di dời cơ sở sản xuất để tránh tác động của sự tăng giá đồng Yên này, điều này
làm cho mạng lưới công nghiệp và sản xuất quốc gia bị tổn hại và đe dọa trực tiếp đến
việc làm, thu nhập của người dân.
Thâm hụt ngân sách của Nhật Bản ở mức cao (chiếm khoảng 7% GDP), nợ công ngày
càng tăng cùng tỷ lệ tiết kiệm dân cư có xu hướng giảm sẽ sớm dẫn đến nguy cơ làm
cho tiết kiệm quốc dân của Nhật Bản giảm, thậm chí có thể rơi vào trạng thái âm, cản
trở tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Việc căn cứ vào mức nợ cơng trên GDP để xác định tình trạng nợ cơng là hết sức quan
trọng, tuy nhiên, điều quan trọng không kém là phân tích "thực chất" nợ cơng. Đó là :
nợ chính phủ là vay nợ trong nước hay vay nợ nước ngoài; tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế, hay tình trạng "sức khoẻ" nói chung của nền kinh tế; lượng dự trữ quốc gia...
Chẳng hạn, hiện nay, dư luận đang lo ngại liệu Nhật Bản có thể trở thành "một Hy Lạp
thứ hai", thế nhưng, một số nhà phân tích, khi phân tích nợ cơng của Nhật Bản đã cho
thấy có sự khác biệt khá lớn giữa nợ công của nước này với nợ công của Hy Lạp, thể
hiện ở chỗ, 95% trái phiếu chính phủ của Nhật Bản do người dân nước này nắm giữ,
trong khi 70% nợ chính phủ Hy Lạp do người nước ngồi nắm giữ. Bên cạnh đó, Nhật
cịn tự chủ về tỉ giá hối đoái, dự trữ ngoại tệ của Nhật cũng ở mức rất cao (theo con số
mà Bộ Tài chính Nhật Bản cơng bố ngày 12-5, tính đến cuối tháng 4-2010, dự trữ quốc
gia của Nhật là 1.046,873 tỉ USD). Do vậy, nền kinh tế Nhật Bản, mặc dù ngồi nợ

cơng cao cịn đứng trước nhiều khó khăn khác nữa, nhưng vẫn được dự báo là khó có
thể trở thành mục tiêu tấn công của giới đầu cơ quốc tế.
Thứ ba, nợ công tạo áp lực gây ra lạm phát
Lạm phát được tạo ra do hai nguyên nhân chính: Do tổng cầu tăng lên hoặc do chi phí
đẩy. Chính phủ tăng vay nợ bằng phát hành trái phiếu, một mặt làm tiêu dùng của
chính phủ tăng lên, một mặt sẽ tạo áp lực đẩy lãi suất lên cao.
Khi tăng vay nợ trong nước, lãi suất tăng làm tăng chi phí đầu tư, tăng giá thành và giá
bán sản phẩm. Bên cạnh đó lãi suất tăng, người nắm giữ trái phiếu chính phủ cảm thấy
12


mình trở nên giàu có hơn và có thể tiêu dùng nhiều hơn. Tiêu dùng tư nhân tăng, chi
tiêu công của chính phủ tăng dẫn đến cầu hàng hóa, dịch vụ tăng, tạo áp lực lạm phát
trong ngắn hạn, từ đó tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng thực của nền kinh tế
(bằng tốc độ tăng trưởng danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát).
Khi chính phủ tăng vay nợ nước ngồi, một dịng ngoại tệ lớn sẽ chảy vào trong nước
có thể giảm sức ép cân đối ngoại tệ trong ngắn hạn. Về mặt dài hạn, áp lực trả nợ cả
gốc và lãi bằng ngoại tệ sẽ đẩy cầu ngoại tệ tăng lên, đồng nội tệ giảm giá làm tăng chi
phí đầu vào khi nhập khẩu nguyên liệu, máy móc, thiết bị... dẫn tới nguy cơ lạm phát.
Tỷ giá tăng làm chi phí thanh tốn nợ trở nên đắt đỏ hơn, nếu vượt quá sức chịu đựng
của ngân sách sẽ dẫn đến nguy cơ vỡ nợ.
Trong đó nợ nước ngoài chiếm tỷ trọng cao (chiếm 42,2% GDP trong năm 2010, 39%
GDP năm 2009). Theo Bộ Tài chính, tổng lượng tiền mà ngân sách phải trả các đối tác
nước ngoài năm 2010 là 1,67 tỉ USD (riêng tiền lãi và phí là hơn 616 triệu USD). Đặc
biệt, lãi vay và số khoản vay có lãi
suất cao (từ 6-10%) ngày càng tăng cao và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn (năm 2008:
925,49 triệu USD, năm 2009: 919,04 và năm 2010: 1.890,69 triệu USD)2 . Điều đáng
nói ở đây là nợ nước ngoài tăng nhưng dự trữ ngoại hối của Việt Nam lại giảm. Tỷ lệ
dự trữ ngoại hối của Việt Nam/tổng dư nợ ngắn hạn đã và đang sụt giảm với tốc độ rất
nhanh, từ mức 100 lần năm 2007 xuống còn 28 lần vào năm 2008, 3 lần vào năm 2009

và chỉ còn gấp khoảng 2 lần trong năm 2010. Vay nhiều hơn, lãi suất cao hơn, khả năng
tự tài trợ vốn trong nước lại thấp khiến rủi ro về thanh khoản của các khoản vay cao
hơn.
Bên cạnh đó, chất lượng đầu tư công kém hiệu quả vẫn luôn là vấn đề bất cập trong
công tác quản lý và điều hành ngân sách của Việt Nam. Nghị quyết 11 của Chính phủ
Việt Nam vẫn đang triển khai một cách quyết liệt để cắt giảm đầu tư công- một trong
những nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng trì trệ trong phát triển kinh tế và lạm
phát tăng cao hiện nay (dự báo khoảng 19% năm 2011 theo IMF).
Thứ tư, nợ cơng làm méo mó các hoạt động kinh tế, gây tổn thất phúc lợi xã
hội
Dù chính phủ lựa chọn phương án vay nợ trong nước hay vay nước ngoài thì đều có tác
động làm méo mó các hoạt động kinh tế, gây tổn thất phúc lợi xã hội Nếu vay nước
ngoài, nguồn để trả nợ cả gốc và lãi chỉ có thể lấy từ các khoản thu thuế. Người dân
phải chịu một khoản thuế cao hơn trong tương lai để trả lãi cho các đối tượng ngoài
quốc gia sẽ làm giảm thu nhập, giảm tiêu dùng... từ đó giảm chất lượng cuộc sống.
Vay trong nước có thể được coi là ít tác động hơn bởi lý do chính phủ nợ chính cơng
dân nước mình và cũng chính họ là người được hưởng thụ các lợi ích do các khoản chi
tiêu công tạo ra. Tuy nhiên, ngay cả khi một người bị đánh thuế để trả lãi cho chính họ
do đang sở hữu trái phiếu chính phủ thì vẫn có những tác động khiến cho các hoạt
13


động kinh tế của người đó bị bóp méo. Dù cho Chính phủ dùng loại thuế nào (thuế thu
nhập, thuế tiêu dùng, thuế tài sản…), đánh thuế dưới hình thức nào (trực tiếp, gián tiếp)
cũng sẽ dẫn đến những sai lệch trong các hoạt động kinh tế của một cá nhân như thay
đổi hành vi tiết kiệm, tiêu dùng, từ đó ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế vi mô, vĩ
mô khác như: sản xuất, việc làm... Bên cạnh đó, việc tăng thuế để trả lãi vơ hình chung
đã tạo ra sự phân phối lại thu nhập giữa những người nộp thuế và người sở hữu trái
phiếu chính phủ, theo đó người nộp thuế chắc chắn phải gánh chịu sự suy giảm về thu
nhập, tiêu dùng hoặc tiết kiệm.

Để tránh nguy cơ vỡ nợ, sức ép cắt giảm nợ công đã buộc nhiều quốc gia Châu Âu
phải cam kết thực hiện hàng loạt các chính sách “thắt lưng buộc bụng” nhằm đổi lấy
các gói cứu trợ từ phía các tổ chức tài chính quốc tế, từ liên minh Châu Âu, IMF...
Trong khi Bồ Đào Nha phải cắt giảm chi tiêu công đến mức “không thể chịu đựng
được” nhằm mục đích kéo nợ cơng về số khơng trong vịng 05 năm tới, thì Hy Lạp
cũng đang phải đối diện với những chính sách hà khắc như: Cắt giảm các khoản
thưởng khu vực cơng, những người có thu nhập 3.000 Euro/tháng, cắt giảm 8% trợ cấp
và 3% chi tiêu cho khu vực công; không tăng lương cho khu vực công trong vòng 3
năm; chi trả tối đa 800 Euro cho khoản thưởng tháng 13 và 14 đối với những người về
hưu. Ngồi ra, để tăng nguồn thu cho ngân sách, Chính phủ Hy Lạp cũng phải nâng
thuế VAT, thuế đánh vào các mặt hàng xa xỉ và các mặt hàng không khuyến khích tiêu
dùng... Những chín sách này sẽ ảnh hưởng lớn lên một bộ phận khá lớn người dân Hy
Lạp, đặc biệt là những người nghèo- những người sẽ bị gánh chịu sự tổn thất phúc lợi
xã hội nặng nề mà nguyên nhân của nó xuất phát từ các khoản nợ cơng.
Chẳng hạn, để được nhận gói cứu trợ nhằm giải quyết khủng hoảng nợ, Chính phủ Hy
Lạp đã phải quyết định tăng nhiều loại thuế, từ thuế giá trị gia tăng đến thuế thu nhập,
thuế bất động sản; và đánh thuế vào nhiều sản phẩm như rượu, thuốc lá..., đồng thời
chấp nhận áp dụng các biện pháp cắt giảm chi tiêu mạnh tay. Để phản đối chính sách
này của chính phủ, các cuộc tổng đình cơng đã diễn ra, hàng chục ngàn người đã tham
gia biểu tình trên khắp đất nước Hy Lạp, nhất là tại thủ đô A-ten.
Năm 2001, Ác-hen-ti-na đã phải đối mặt với tình trạng rối loạn nghiêm trọng do các
làn sóng biểu tình khắp nơi phản ứng các biện pháp "thắt lưng buộc bụng", để rồi Tổng
thống Ác-hen-ti-na khi đó là ơng Féc-nan-đơ đơ la Rua đã phải từ chức, và 4 ngày sau
đó, người kế nhiệm là A-đơn-phơ Rơ-ri-get Saa phải tun bố tình trạng vỡ nợ quốc
gia, với khoản nợ 90 tỉ USD - mức nợ lớn nhất trong lịch sử đất nước này.
- Trong thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế tồn cầu mới thốt khỏi khủng hoảng, bắt
đầu có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế mà chính phủ các
nước đã chi ra trong những năm trước đây, thì việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm
giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng, thậm
chí có thể đẩy nền kinh tế vào "khủng hoảng kép". Nghiêm trọng hơn, việc tung ra các

gói kích thích kinh tế chính là một trong những nguyên nhân làm tăng nợ công của các
14


chính phủ, vậy nếu như khủng hoảng "tái xuất" thì liệu các chính phủ có cịn đủ khả
năng xoay xở, cứu vãn nền kinh tế của mình? Vấn đề đặt ra cho các chính phủ là phải
chèo lái để giải quyết được thâm hụt ngân sách nhưng không đẩy nền kinh tế trở lại
tình trạng suy thối, trong khi các biện pháp để giải quyết hai vấn đề này lại có tác
động khơng thuận chiều.
Khi nợ cơng liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo của các tổ
chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác, niềm tin của người
dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn cơng của
các thế lực đầu cơ quốc tế. Thí dụ, đối với Hy Lạp, khi tổ chức xếp hạng tín dụng
Standard & Poor's hạ bậc tín nhiệm đối với trái phiếu chính phủ của A-ten, các quỹ đầu
tư lớn lập tức bán ra loại trái phiếu này, đồng thời từ chối mua vào trong các đợt phát
hành tiếp theo. Nếu chính phủ muốn huy động tiền từ thị trường tài chính sẽ phải chấp
nhận chi phí vốn cao hơn và sau đó, rơi vào vịng xốy : tiếp tục bị tụt bậc tín nhiệm.
Việc đưa ra xếp hạng tín nhiệm trong thời điểm nhạy cảm, dễ tổn thương của nền kinh
tế có nguy cơ làm cho cuộc khủng hoảng thêm trầm trọng, có tác dụng như một "cú
huých", đẩy nền kinh tế lún sâu thêm vào khó khăn, bế tắc.
Việc căn cứ vào mức nợ công trên GDP để xác định tình trạng nợ cơng là hết sức quan
trọng, tuy nhiên, điều quan trọng khơng kém là phân tích "thực chất" nợ cơng. Đó là :
nợ chính phủ là vay nợ trong nước hay vay nợ nước ngoài; tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế, hay tình trạng "sức khoẻ" nói chung của nền kinh tế; lượng dự trữ quốc gia...
Chẳng hạn, hiện nay, dư luận đang lo ngại liệu Nhật Bản có thể trở thành "một Hy Lạp
thứ hai", thế nhưng, một số nhà phân tích, khi phân tích nợ cơng của Nhật Bản đã cho
thấy có sự khác biệt khá lớn giữa nợ công của nước này với nợ công của Hy Lạp, thể
hiện ở chỗ, 95% trái phiếu chính phủ của Nhật Bản do người dân nước này nắm giữ,
trong khi 70% nợ chính phủ Hy Lạp do người nước ngồi nắm giữ. Bên cạnh đó, Nhật
cịn tự chủ về tỉ giá hối đoái, dự trữ ngoại tệ của Nhật cũng ở mức rất cao (theo con số

mà Bộ Tài chính Nhật Bản cơng bố ngày 12-5, tính đến cuối tháng 4-2010, dự trữ quốc
gia của Nhật là 1.046,873 tỉ USD). Do vậy, nền kinh tế Nhật Bản, mặc dù ngồi nợ
cơng cao cịn đứng trước nhiều khó khăn khác nữa, nhưng vẫn được dự báo là khó có
thể trở thành mục tiêu tấn cơng của giới đầu cơ quốc tế.
Như vậy, việc đánh giá đúng nợ công và "thực chất" nợ công của một nền kinh
tế, một quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi
lẽ, nếu chỉ chú trọng vào con số tỉ lệ nợ công cao một cách thuần tuý sẽ gây nên hiệu
ứng tâm lý hoang mang, kích động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị
giới đầu cơ lợi dụng tấn công, dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến
bên bờ vực phá sản. Ngược lại, nếu n tâm với tỉ lệ nợ cơng cịn trong giới hạn an
tồn, mà khơng phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình thành
như thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thế nào...,
15


cũng sẽ dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách - "thắt lưng buộc
bụng" - tác động tiêu cực đến tăng trưởng.
Thứ năm, những tác động khác
Bên cạnh những tác động về mặt kinh tế, một quốc gia với khoản nợ cơng lớn có
thể phải đối mặt với những hệ quả khác do nó gây ra như: Làm thay đổi quy trình quản
lý Nhà nước do phải thay đổi chính sách tài chính quốc gia để trang trải các khoản nợ;
làm tổn hại đến hệ số tín nhiệm quốc gia; nguy cơ suy giảm chủ quyền, giảm sự độc
lập về chính trị hoặc khả năng lãnh đạo quốc gia... Các quốc gia phải chịu sức ép từ
phía chủ nợ và các tổ chức tài chính quốc tế về việc phải thắt chặt chi tiêu, tăng thuế,
giảm trợ cấp xã hội, và xa hơn nữa là những yêu cầu về cải cách thể chế, thay đổi bộ
máy quản lý, thay đổi các định hướng kinh tế... Ngoài ra, việc lệ thuộc quá nhiều vào
các khoản vay nợ nước ngoài cũng sẽ làm giảm vị thế của quốc gia trong các mối quan
hệ song phương, đa phương với các đối tác là các nước chủ nợ.
Dù cho mức nợ cơng có thể vẫn đang trong ngưỡng an tồn, chính phủ các quốc gia
vẫn khơng nên chủ quan mà cần phải quan tâm đến bản chất của khoản nợ, tránh nguy

cơ dẫn đến hiện tượng “thâm hụt kép” gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, nợ công vẫn thật sự cần thiết cho nền kinh tế mọi
quốc gia. Bài toán về nợ công vốn phức tạp và hiệu ứng của nó vẫn ln là khó lường,
chính vì vậy mỗi quốc gia cần phải đánh giá đúng quy mô, năng lực của mình để có thể
hấp thụ một luồng vốn tín dụng tương ứng, để từ đó chủ động nhận thức, kiểm soát,
quản lý việc vay- sử dụng nợ một cách hợp lý cả trong
ngắn hạn và dài hạn, đảm bảo khả năng thanh toán và xử lý các vấn đề phát sinh từ nợ
công một cách hiệu quả, giảm thiểu các tác động tiêu cực, giữ vững sự ổn định và phát
triển nền kinh tế.
4.Nợ công ở Việt Nam:
Việt Nam quan niệm, nợ cơng bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo
lãnh và nợ chính quyền địa phương. Theo định nghĩa này, tổng số dư nợ công đến cuối
năm 2009 của Việt Nam ước khoảng 44,7% GDP, trong đó nợ của Chính phủ là 35,4%
GDP, nợ được Chính phủ bảo lãnh là 7,9% GDP và nợ của chính quyền địa phương là
1,4% GDP.
Theo khái niệm này thì nợ công của Việt Nam hẹp hơn so với khái niệm phổ biến của
quốc tế. Theo Hệ thống quản lý nợ và phân tích tài chính của Hội nghị của LHQ về
thương mại và phát triển (UNCTAD), nợ cơng cịn bao gồm các nghĩa vụ nợ của ngân
hàng trung ương, các đơn vị trực thuộc chính phủ (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước)
ở tất cả các cấp chính quyền. Có lẽ đây là nguyên nhân làm cho số liệu về nợ công của
Việt Nam trong cơ sở dữ liệu của một số tổ chức quốc tế cao hơn hẳn so với số liệu của
Việt Nam.
16


Một xu thế rất đáng lo ngại là cũng trong giai đoạn 2001-2009, thâm hụt ngân sách (cả
trong và ngoài dự toán) tăng từ 2,8% GDP lên tới 9% GDP. Như vậy, trong khi nợ cơng
tăng liên tục thì ngân sách lại ngày càng trở nên thâm hụt. Điều này vi phạm một
nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ cơng bền vững, đó là nợ cơng ngày hơm nay phải
được tài trợ bằng thặng dư ngân sách ngày mai.

Hơn thế, thâm hụt ngân sách ở Việt Nam đã trở thành kinh niên và mức thâm hụt đã
vượt xa ngưỡng "báo động đỏ" 5% theo thông lệ quốc tế, khiến tính bền vững của nợ
cơng càng bị giảm sút. Trong khi đó, với nhu cầu tiếp tục đầu tư để phát triển, chắc
chắn nợ cơng của Việt Nam sẽ cịn tăng trong nhiều năm tới. Cụ thể là, với tỉ lệ tiết
kiệm nội địa chỉ khoảng 27% GDP trong khi mức đầu tư toàn xã hội mỗi năm khoảng
42% GDP thì Chính phủ sẽ phải tiếp tục đi vay rất nhiều (bên cạnh vốn đầu tư nước
ngoài) để bù đắp khoản thiếu hụt đầu tư.
Nếu nhìn vào một số dự án có thể đầu tư từ nay đến năm 2030 như đường sắt cao tốc
Bắc - Nam (56 tỉ USD), xây dựng thủ đô (60 tỉ USD), nhà máy điện hạt nhân ở Ninh
Thuận (hơn 10 tỉ USD)... Trong đó nguồn tài trợ chủ yếu là từ ngân sách và nợ cơng
có thể thấy nợ cơng sẽ tăng mỗi ngày.
Tác động của khủng hoảng nợ công ở châu Âu đối với Việt Nam
Thứ nhất, Xuất khẩu giảm : Cuộc khủng hoảng nợ châu Âu kéo theo một loạt
hệ quả tất yếu : tốc độ phục hồi kinh tế thế giới chậm lại, có thể theo hình chữ W thay
vì chữ V, đặc biệt khu vực châu Âu sẽ phải chứng kiến tình hình thất nghiệp và lạm
phát tăng cao, đồng Euro mất giá, tăng trưởng GDP giảm sút, làm cho thu nhập thực tế
người dân và cầu tiêu dùng với hàng nhập khẩu giảm mạnh.
Về vấn đề này , một số quan điểm cho rằng : hàng hóa giá rẻ là ưu thế của Việt Nam ,
do đó cuộc khủng hoảng nợ công sẽ giúp hướng người dân Châu Âu chuyển từ tiêu
dùng hàng hóa cao cấp và trung cấp sang hàng hóa do người Việt Nam sản xuất.Tuy
nhiên những số liệu tính tốn từ mơ hình ước lượng cho thấy, cuộc khủng hoảng nợ
cơng châu Âu sẽ có những tác động tiêu cực đến xuất khẩu và tăng trưởng GDP của
Việt Nam, với mức suy giảm khoảng 1,7% GDP trong năm 2010, cao thứ ba chỉ sau
Trung Quốc (2,8%) và Anh (1,9%).
Vì vậy, nếu khơng có những chính sách phản ứng kịp thời hỗ trợ xuất khẩu thì triển
vọng trung hạn đối với xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai , Lãi suất thấp ở các nước, trong khi ở Việt Nam lại cao sẽ bất lợi
về chi phí cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam.
Do lo ngại tác động tiêu cực từ khủng hoảng nợ công, nhiều ngân hàng trung ương các
nước phát triển vẫn duy trì mức lãi suất sàn thấp lịch sử nhằm kích thích sự phục hồi

kinh tế và chấp nhận lạm phát trong chừng mực nhất định. Lãi suất cơ bản tiệm cận 0%
ở hầu hết các nước : FED (Mỹ) : 0,25%; ECB (EU) : 1%; BOE (Anh) : 0,5%; Nhật
Bản 0,1%.Ngược lại ở Việt Nam, lãi suất huy động lẫn lãi suất cho vay vẫn đứng ở
17


mức cao. Các doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất khoảng 14-16%/năm với kỳ hạn
ngắn và khoảng 14,5-17%/năm với kỳ hạn trung, dài hạn.Nếu tính đến lạm phát ước
cho năm 2010 là dưới 10%, doanh nghiệp phải đạt mức tỉ suất lợi nhuận trên 24-27%,
là mức cao so với tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân của các ngành trong
năm 2009 (khoảng 20%).
Thứ ba, đầu tư trực tiếp nước ngồi giảm: Khủng hoảng nợ cơng châu Âu có
thể tạo ra tác động trái chiều hồn toàn với luồng vốn FDI trên phạm vi toàn cầu.
Trong những quốc gia có trình độ phát triển tương đương với các nước thuộc EU sẽ
hưởng lợi do nguồn vốn FDI dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia này khi nhà
đầu tư muốn tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc
gia châu Âu.
Ngược lại, các nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam lại hồn tồn khơng được
hưởng lợi từ việc dịch chuyển luồng vốn FDI khỏi châu Âu do sự chênh lệch q lớn
về trình độ cơng nghệ, trong khi luồng vốn từ các nhà đầu tư châu Âu vào các quốc
gia này giảm sút do cuộc khủng hoảng nợ. Thêm vào đó , Giá vàng bùng nổ :
Các nhà đầu tư trên thế giới đang tìm vàng như một nơi trú ẩn an toàn trước nguy cơ
cuộc khủng hoảng nợ châu Âu ngày một lan rộng, làm cho giá vàng trong thời gian qua
tăng mạnh, lên mức trên 1.300 USD/ounce. Điều này phản ánh nhu cầu về dự trữ an
toàn hơn so với đồng tiền giấy, sau khi nhiều cá nhân và tổ chức ở châu Âu, châu Á
đua nhau mua vàng, mua bạch kim và bạc.
Việc giá vàng tăng cùng với xu hướng tăng mạnh của đồng USD là điều ít khi xảy ra.
Rất có thể sẽ tăng tới một kỷ lục mới trong thời gian tới và tạo sự tách biệt hoàn toàn
giữa giá tài sản vàng và các tài sản khác. Điều này sẽ tác động xấu đến đầu tư toàn thế
giới và Việt Nam bởi một khi vàng chiếm tỉ trọng lớn trong danh mục đầu tư của các tổ

chức thì cũng đồng nghĩa với việc các danh mục khác như cổ phiếu, trái phiếu sẽ bị
giảm mạnh. Như vậy, luồng vốn đầu tư gián tiếp càng trở nên hạn chế.
Thứ tư là , Bảo hiểm rủi ro tín dụng (CDS) xu hướng tăng lên; Vấn đề Hy
Lạp đang làm cho các nhà đầu tư trên thế giới càng trở nên thận trọng hơn với các quốc
gia có vấn nạn tương tự : 3 số liệu cảnh báo bao gồm : nợ quá nhiều, thể hiện ở tỉ lệ nợ
trên GDP cao; chi tiêu quá mức, thể hiện ở mức thâm hụt ngân sách lớn so với GDP;
và tốc độ tăng trưởng GDP sụt giảm.
Hệ quả là Việt Nam với tỉ lệ nợ cao, thâm hụt ngân sách triển miên đang bị các tổ chức
tài chính quốc tế xếp vào mục rủi ro cao, với mức CDS là 263, xếp ngay trên Hy Lạp
(321) và Iceland (466). Điều này sẽ là một cản trở rất lớn trong việc thu hút các luồng
vốn đầu tư gián tiếp, trực tiếp và cho vay từ nước ngồi.
Thứ năm là, Biến động tỉ giá hối đối sẽ rất khó lường : Khủng hoảng nợ châu Âu cũng
tạo ra những biến động khó lường về tỉ giá. Đồng USD và đặc biệt là đồng Yên sẽ tiếp
tục đà tăng mạnh so với đồng Euro do tính an tồn từ phía các đồng tiền này. Từ khi
18


cuộc khủng hoảng có dấu hiệu nghiêm trọng, đồng Euro mất giá tương đối so với
USD. Trong tháng 6, tỉ giá USD/Euro chỉ còn 1,19, rất thấp so với mức xấp xỉ 1,4 của
đầu tháng 3, do đó sẽ tạo ra những rủi ro nhất định trong việc vay, trả ngoại tệ cho các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng như cho hoạt động ngoại hối của các ngân hàng
thương mại.
Với cơ cấu nợ công của Việt Nam nghiêng về nợ nước ngồi nhiều thì ảnh hưởng của tỉ
giá tới khả năng hồn trả vốn khi quản lý nợ cơng là cao, bởi lẽ :
+ Về thời hạn, khi đa số các khoản vay nước ngoài là vay trung và dài hạn
thì rủi ro tín dụng và rủi ro tỉ giá là cao
+ Rủi ro kép với mức chênh lệch lãi suất được đánh giá theo lãi suất thị trường. Nếu
như chênh lệch lãi suất quá lớn giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế để
thực hiện cân bằng tài khoản vốn có thể gia tăng mức độ đơla hoá và tạo áp lực lên tỉ
giá;

+ Khả năng kiềm chế lạm phát, khi tính tốn tỉ giá thực và sức mua ngang giá của tiền
đồng vào từng thời kỳ. Vì vậy, giữa số vốn vay và số vốn trả nợ khi đáo hạn vốn vay
nước ngoài sẽ chịu tác động của tỉ giá rất lớn, nếu như sử dụng và quản lý vốn vay
khơng có hiệu quả.
Nếu chỉ nhìn vào các số liệu được công bố về nợ công thì hiện nay sức ép về nợ cơng
của Việt Nam chưa phải là đáng ngại với phần lớn là vốn vay trung dài hạn, lãi suất
thấp, vốn vay ODA nhiều, vốn vay có lãi suất cố định chiếm phần lớn. Song, điều này
cũng khơng nói lên rằng mức độ nợ công của chúng ta hiện nay là vẫn ở ngưỡng an
toàn trong điều kiện số liệu thống kê chưa sát thực và cơ sở tính tốn chưa chuẩn mực.
Vấn đề quan trọng trong quản lý nợ công là nguồn vốn dùng để trả nợ thế nào và việc
sử dụng nợ công ra sao? Điều đáng quan ngại hơn là vấn đề sử dụng nợ công ở Việt
Nam. Chúng ta đã từng biết bài học quản lý vốn ODA của PMU 18 và hệ quả của nó.
Mục tiêu sử dụng vốn ODA là đầu tư vào cơ sở hạ tầng với thời hạn dài, hoàn vốn lâu,
quản lý vốn qua nhiều cấp. Mặt khác, cơ chế quản lý nợ công của Việt Nam còn chồng
chéo giữa nhiều cơ quan chức năng, khả năng quản lý nợ, nhất là của chính quyền địa
phương và vốn vay được Chính phủ bảo lãnh, cịn nhiều bất cập. Vì vậy, nếu khơng
xem xét quản lý nợ cơng nghiêm túc thì tác động của nó tới nền kinh tế mai sau sẽ
không phải là nhỏ, nhất là kinh tế Việt Nam được đánh giá là có độ mở cao trên thế
giới.

19


Kết luận
Qua những phân tích và nhận xét về những ưu và nhược điểm của nợ công ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng ta có thể
kết luận rằng về mặt ưu điểm nợ cơng có thể được sử dụng như là một công cụ để tài
trợ vốn, đáp ứng nhu cầu đầu tư cho các dự án, cơng trình trọng điểm quốc gia, khuyến
khích phát triển sản xuất, kích thích tăng trưởng kinh tế.
Giải pháp tăng nợ công để bù đắp thâm hụt ngân sách do cắt giảm thuế có thể sẽ

góp phần kích thích tiêu dùng, tăng sản lượng, việc làm, tăng tổng sản phẩm quốc dân
trong ngắn hạn, tuy nhiên nếu nợ công ở mức cho phép và các quốc gia có thể kiểm
sốt, quản lý tốt được nguồn nợ, và luôn đảm bảo khả năng chi trả thì nợ cơng có tác
động tích cực đến nền kinh tế,nhưng khi nợ công vượt mức giới hạn cho phép, đặc biệt
trong dài hạn, một khoản nợ chính phủ lớn cũng là nguyên nhân khiến cho lãi suất
tăng, đầu tư giảm, tiết kiệm giảm và khuyến khích luồng vốn từ nước ngồi chảy vào,
từ đó làm cho sự tăng trưởng sản lượng tiềm năng quốc gia chậm lại. Nợ công tăng
20


cao, vượt quá giới hạn an toàn sẽ khiến cho nền kinh tế dễ bị tổn thương và chịu nhiều
sức ép từ bên trong lẫn bên ngồi quốc gia.
Qua đó cho thấy mỗi quốc gia cần phải đánh giá đúng quy mơ, năng lực của
mình để có thể hấp thụ một luồng vốn tín dụng tương ứng, để từ đó chủ động nhận
thức, kiểm soát, quản lý việc vay- sử dụng nợ một cách hợp lý cả trongngắn hạn và dài
hạn, đảm bảo khả năng thanh toán và xử lý các vấn đề phát sinh từ nợ công một cách
hiệu quả, giảm thiểu các tác động tiêu cực, giữ vững sự ổn định và phát triển nền kinh
tế.

21


IV. Tài liệu tham khảo
1.- GS.TS Ngô Thế Chi “Nợ cơng và những tác động của nó đến nền kinh tế”,
NXB Học viện tài chính
2.Lê Thị Minh Ngọc ´Nợ cơng – sự tác động đến tăng trưởng kinh tế vầ gánh
nặng của thế hệ tương lai “ NXB Học viện Ngân Hàng
3. Nguyễn Hữu Tuấn : “ Mối quan hệ nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế
Việt Nam “
4. Từ Website:


-

5. Từ Website :

-

6. TừWebsite:

- (Bộ Tư pháp)

7. Từ Website: - (Sở ngoại vụ Tp Đà Nẵng)

22


23


24


25


×