Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Tài liệu Phùng Khắc Khoan và Hung Dạo Vương ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.84 KB, 3 trang )

Phùng Khắc Khoan

Ngày xưa, vào đời Nhà Lê, ở làng Phùng Xá, đất Sơn Tây có một
thư sinh tên là Phùng Khắc Khoan. Tương truyền rằng Khoan là
anh em cùng mẹ khác cha với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Phùng Khắc Khoan lớn lên, được mẹ cho đi Hải Dương theo học
anh là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Về sau đổ tiến sĩ, giúp nhà Lê trung
hưng, làm được nhiều việc lớn. Đến khi nhà Lê khôi phục được
kinh thành Thăng Long, thì Phùng Khắc Khoan được cử đi sứ triều
Minh bên Tàu.


Khi đi sứ, vua Tàu phục tài văn thơ của ông làm cả một lúc 36
bài thơ. Vua Tàu phong Phùng Khắc Khoan làm Lưỡng Quốc
Trạng Nguyên. Khi ông trở về nước Việt, đi qua tỉnh Lạng Sơn,
ông gặp Liễu Hạnh Công Chúa hiện hình chơi trên đỉnh núi. Đôi
bên cùng đọc thơ xướng hoạ, rồi bà Chúa Liễu biến mất.


Tục truyền rằng công chúa Liễu Hạnh là con gái Ngọc Hoàng, tên
là Quỳnh Nương. Vì cô lỡ tay làm rơi vỡ chén ngọc ở thiên đình,
nên bị đày xuống trần gian, đầu thai làm người ở vào thời Hậu
Lê, ở nhà của Lê Thái Công, đất Vụ Bản, Nam Định. Họ Lê đặt tên
con gái là Giáng Tiên, lớn lên lấy chồng là Đào Lang. Sau 3 năm
vợ chồng chung sống, đến ngày mồng 3 tháng 3 thì Giáng Tiên
bay về trời.


Nhưng vì chưa hết hạn ở hạ giới, nên Ngọc Hoàng lại đày cô
xuống thế gian một lần nữa. Lần này, nàng công chúa Thượng
Giới đi cùng với 2 tiên nữ nữa là Quế Nương và Thị Nương xuống


ở miền Phố Cát, đất Thanh Hóa. Nàng thường ngao du sơn thuỷ,
hiện ra ở nhiều nơi, làm nhiều việc linh hiển, và được triều đình
phong sắc là công chúa Liễu Hạnh, được xếp vào hạng tứ bất tử
của Việt Nam, sau các Thần Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử.


Trong một cuộc du ngoạn, công chúa Liễu Hạnh đã gặp nhân sĩ
Phùng Khắc Khoan. Sau cuộc hoạ thơ cùng tiên nữ tài hoa, Phùng
Khắc Khoan đi trên đường thấy gỗ chất ngỗn ngang trên đường,
có chữ sắp là Liễu Hạnh và Phùng, thì đoán biết là ý tiên nữ
muốn ông đứng ra lập đền thờ bà.


Phùng Khắc Khoan còn gặp công chúa Liễu Hạnh hiện ra một lần
nữa, giữa lúc ông đang đi du thuyền chơi ở Hồ Tây, cùng hai
người bạn họ Ngô và họ Lý. Kẻ tiên người phàm đã cùng nhau
làm thơ xướng hoạ liên ngâm, và thơ hãy còn truyền đến nay.



Hưng Đạo Đại Vương

Ngày xưa, về đời nhà Trần, ở đất Nam Định, có An Sinh vương
phu nhân, chồng là anh ruột của vua Trần Thái Tôn. Một đêm, bà
nằm mơ thấy có một vị thiên thần tinh vàng tướng ngọc, tự xưng
là Thanh Tiên Đồng Tử, theo lệnh Ngọc Hoàng xuống đầu thai.


Sau đó bà thụ thai, đến lúc lâm bồn, có hào quang toả sáng rực
cả nhà, mùi hương thơm ngào ngạt. Bà hạ sinh ra một cậu bé

khôi ngô tuấn tú, đặt tên là Trần Quốc Tuấn. Trần Quốc Tuấn
thông minh rất sớm. Mới lên 5 tuổi đã biết làm thơ, có óc lãnh
đạo, thường bày trò chơi bát trận. Lớn lên, càng học giỏi, tinh
thông nhiều sách thánh hiền và cổ nhân, tinh thông lục thao tam
lược, văn võ toàn tài.


Thuở ấy, dân tộc Mông Cổ làm bá chủ toàn cõi Trung Hoa, tràn
chiếm một phần lớn Đông Âu, thâu tóm cả lục địa Á Châu. Thế
lực của quân Mông Cổ mạnh mẽ như vũ bão, cuồng phong. Vó
ngựa của quân Mông Cổ phi đến đâu, thì cỏ nơi ấy không mọc
đựơc nữa. Đại quân nhà Nguyên mạnh như bão, như lửa, đã tiến
về phương Nam của dân tộc Việt, tính thôn tính cả vùng Đông
Nam Á, để thực hiện mộng làm bá chủ toàn cầu của lãnh tụ Mông
Cổ: Thành Cát Tư Hãn.


Nước Nam bé nhỏ, như con châu chấu chống bánh xe khổng lồ ở
phương Bắc. Tuy nhiên, 3 lần quân Nguyên tràn sang đất Việt,
đều hoảng hồn quay về. Tướng Trần Quốc Tuấn đã thống suất
binh sĩ, cùng dân chúng một lòng cương quyết, đánh bật quân
ngoại xâm ra khỏi bờ cõi Việt. Quân Mông Cổ từng "trăm trận
trăm thắng", đã thảm bại kéo quân trở về. Họ rất nể sợ uy danh
của Trần Quốc Tuấn, không dám nhắc tên ông, chỉ gọi là Hưng
Đạo Vương.


Khi tướng nhà Nguyên là Thoát Hoan kéo quân sang đánh nước
Việt lần thứ 2, có mang theo một tỳ tướng tên là Bá Linh, tức
Phạm Nhan, có tài yêu thuật. Trần Hưng Đạo lập trận cửa cung

phá được, bắt sống Phạm Nhan. Kỳ lạ thay, binh sĩ Việt dùng
gươm chém thế nào Phạm Nhan cũng không chết. Trần Hưng
Đạo phải dùng Thần Kiếm mới giết được hắn.


Tục truyền rằng, khi tên yêu thuật Phạm Nhan chết đi, thường
hiện thành ma quỷ về phá rối đàn bà con gái. Dân chúng gọi là
"tà Phạm Nhan", phải nhờ đến uy linh của Hưng Đạo Vương mới
trừ khử được.


Về già, Trần Hưng Đạo trí sĩ ở Vạn Kiếp. Ông được vua tôn kính
phong làm Thái Sư Thượng Phụ Hưng Đạo Đại Vương, lập miếu
sinh từ ở Vạn Kiếp và khắc văn bia để ghi nhớ công đức của Ngài.
Hưng Đạo Vương đã soạn ra quyển Binh Thư Yếu Lược, và lập ra
cửa đồ cửu cung bát quái thần diệu vô cùng.


Ngoài 70 tuổi, Hưng Đạo Vương mất. Dân chúng ghi nhớ công
đức của Ngài, hàng năm đến ngày huý nhật 20.8, thiện nam tín
nữ đông đảo đi trảy hội Vạn Kiếp, lễ đền thờ Trần Hưng Đạo rất
đông. Ở nhiều nơi khác trong nước, dân chúng cũng lập đền thờ
Đức Thánh Trần để cậy uy linh của Ngài trừ tà ma.

×