Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tóm tắt nghiên cứu văn bản thuyên thích sách mạnh tử ở việt nam từ đầu thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.03 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

LÊ THỊ HỒNG DUNG

NGHIÊN CỨU VĂN BẢN THUYÊN THÍCH
SÁCH MẠNH TỬ Ở VIỆT NAM
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVIII ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XX

Chun ngành: HÁN NƠM
MÃ SỐ: 922.01.04

TĨM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÁN NÔM

HÀ NỘI, 2021


Cơng trình được hồn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS NGUYỄN KIM SƠN
2. PGS.TS DƯƠNG TUẤN ANH

Phản biện 1:

GS.TS Trần Nho Thìn - Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân
văn-ĐHQG Hà Nội

Phản biện 2:

GS.TS Đinh Khắc Thuân - Viện Nghiên cứu Hán Nôm



Phản biện 3:

PGS.TS Lê Văn Toan - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
Trường họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm 2021


Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc Gia, Hà Nội
- Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo tồn và phát huy vốn văn hoá thành văn của dân tộc là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của người nghiên cứu Hán Nơm, việc tìm hiểu di sản văn hóa của cha ơng để lại là một
vấn đề có tính cấp thiết, cần được nghiên cứu. Trong đó, việc minh giải để làm sáng tỏ ý nghĩa
của văn bản và mục đích biên soạn của tác giả là một nhiệm vụ thiết yếu.
Trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam, việc tiếp nhận kinh điển của Trung Quốc
để làm tài liệu học tập và thi cử được các triều đại quan tâm. Nhà nước có thể mua hoặc khắc in
lại những tài liệu này. Những tài liệu này gồm có Tứ thư và Ngũ kinh được xem là tài liệu “gối
đầu” của sĩ tử. Ngoài những bộ sách của nhà nước cho phép khắc- in thì cịn có nhiều bản sách
khác được chép tay để phục vụ cho việc học. Bên cạnh đó, nhiều nhà Nho nổi tiếng hay chữ lại
dùng sở kiến của mình để biên soạn, chú giải, sắp xếp lại kinh điển để biên soạn sách phục vụ

khoa cử, giáo dục...
Trong quá trình tiếp thu kinh điển, các nhà Nho Việt Nam đã thể hiện sự lĩnh hội kinh điển
của bản thân qua các cách thức luận giải, thun thích kinh điển cịn được lưu lại trong nguồn
thư tịch Hán Nôm. Sách Mạnh Tử trong bộ Tứ thư là một trong những tài liệu không thể thiếu
trong quá trình học tập, thi cử và tu dưỡng đạo đức của người quân tử. Tùy vào từng giai đoạn
lịch sử, các nhà Nho Việt Nam đã lựa chọn cách thức biên soạn sách khác nhau. Đó có thể là
nhu cầu thể nghiệm khả năng lĩnh hội kinh điển của bản thân. Hoặc một số nhà Nho đã biên
soạn lại sách cho phù hợp với chương trình giáo dục mới. Từ đó mà đã sinh ra các cơng trình
biên soạn kinh điển mới ở nước ta do các nhà Nho uyên thâm biên soạn, chú giải, dịch chú. Quá
trình tiếp nhận và thông diễn kinh điển Nho gia đã hình thành một số lượng khơng nhỏ các văn
bản thảo luận về Tứ thư và Ngũ kinh, trong đó có văn bản thuyên thích sách Mạnh Tử. Hiện các
văn bản này được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Thư viện Quốc Gia hay Trung tâm
Lưu trữ Quốc gia IV....
Ngoài những văn bản thuần túy là sử dụng chữ Hán để tái cấu trúc nội dung kinh điển
hoặc dịch chú một phần hay toàn bộ kinh văn, các nhà Nho Việt Nam cịn sử dụng cả chữ Nơm
để phiên dịch kinh văn, nhằm mục đích truyền tải nghĩa lý kinh điển thơng qua ngơn ngữ của
người Việt. Có thể nói đây là những tác phẩm quan trọng, đánh dấu sự chủ động của các nhà
nho Việt, mang dấu ấn cá nhân và tính sáng tạo của người Việt. Chính vì lẽ đó, cần tập trung
nghiên cứu để có một góc nhìn trân trọng đối với các nhà nho Việt Nam thời bấy giờ.
Thế nhưng, cho đến nay chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ các văn
bản sách Mạnh Tử ở Việt Nam, đặc biệt là vấn đề thuyên thích, nghiên cứu đặc điểm các văn
bản cũng như giá trị học thuật của các văn bản đó. Vì vậy, Luận án lựa chọn đề tài “Nghiên cứu
văn bản thuyên thích sách Mạnh Tử ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX” nhằm
làm sáng tỏ các vấn đề trên.
Nghiên cứu học thuyết kinh điển Nho gia là một lĩnh vực không mới, hiện nay đã có nhiều
cơng trình chú trọng việc chú giải, bình giảng nghĩa lý của kinh điển như sách Tứ thư với Luận
ngữ của Khổng Tử, sách Mạnh Tử, Đại học, Trung dung được chú giải, thảo luận, bình chú...
trên rất nhiều nước, đặc biệt là ở Đơng Á, nổi bật với các nước Trung Quốc, Hàn Quốc. Các nhà
nghiên cứu dùng sở kiến của mình để luận bàn về kinh điển, với mục đích tìm về ngun nghĩa
của tác phẩm và nguyên ý của tác giả. Không ít cuộc tranh luận xảy ra với nhiều sự lý giải khác

nhau trên cùng một văn bản, cho thấy sức hấp dẫn trong địa hạt nghiên cứu kinh điển Nho gia.
Điều đó càng được khẳng định khi cùng với sự phát triển của thế giới hiện đại con người càng
cần tìm về những giá trị truyền thống. Học thuật kinh điển Nho gia không khi nào lỗi thời, mà ý
nghĩa kinh điển sẽ luôn được làm mới, được thể nghiệm vào muôn mặt cuộc sống cho đến bây
giờ và mai sau.
Luận án lựa chọn đề tài này phù hợp với xu hướng nghiên cứu thế giới hiện tại về cả phương
pháp và cách chọn đối tượng. Đối tượng chính của đề tài là những văn bản thuyên thích sách Mạnh
Tử, phù hợp với mã ngành Hán Nôm.


2

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận án lựa chọn đề tài “Nghiên cứu văn bản thuyên thích Sách Mạnh Tử ở Việt Nam
từ đầu thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX” nhằm mục đích khảo sát các văn bản thun thích
sách Mạnh Tử hiện cịn ở Việt Nam. Thống kê, phân loại các loại hình, nhóm văn bản thun
thích theo niên đại lịch sử. Bên cạnh đó, Luận án tập trung lý giải các phương pháp thuyên thích
của các nhà Nho Việt Nam trong việc tiếp nhận và nghiên cứu kinh điển nói chung và sách
Mạnh Tử nói riêng. Từ đó, đánh giá giá trị của từng văn bản sách Mạnh Tử đối với sĩ tử đương
thời và đối với nền văn hiến Việt Nam. Bên cạnh đó, Luận án cũng tìm hiểu phương pháp
thun thích của các nhà Nho Việt Nam đối với sách Mạnh Tử.
Luận án tiến hành khảo sát các văn bản thuyên thích sách Mạnh Tử, đưa ra những căn cứ
để đánh giá đặc điểm các văn bản thuyên thích cũng như giá trị học thuật của các văn bản này.
Thông qua việc tìm hiểu cách thức biên soạn sách Mạnh Tử của các nhà Nho Việt Nam, Luận
án khái quát những nét đặc trưng của quá trình tìm hiểu, tri nhận kinh điển sách Mạnh Tử nói
riêng và hoạt động thun thích kinh điển Nho gia ở Việt Nam nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1 Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những văn bản thuyên thích sách Mạnh Tử hiện còn ở
Việt Nam viết bằng chữ Hán, chữ Nơm. Trong đó, Luận án tập trung nghiên cứu 5 văn bản

chính là Tứ thư ước giải, Tứ thư tiết yếu, Tiểu học Tứ thư tiết lược, Sách Mạnh học bậccao
trung học giáo khoa, Trâu thư trích lục.
3.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận án với mã ngành nghiên cứu là Hán Nôm nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu
các văn bản do các nhà Nho Việt Nam biên soạn bằng chữ Hán, chữ Nôm; không bao gồm
các bản dịch sách Mạnh Tử sang chữ Quốc ngữ hay các văn bản sao chép, khắc in sách
Mạnh Tử của Trung Quốc.
4. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn của đề tài
Luận án đã nghiên cứu các văn bản thuyên thích sách Mạnh Tử trong dòng học thuật nghiên
cứu tư tưởng Nho gia chính thống, góp phần làm sáng tỏ con đường du nhập sách Mạnh Tử vào
Việt Nam. Luận án tiến hành thống kê đầy đủ các văn bản thuyên thích sách Mạnh Tử từ đầu thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XX hiện cịn ở Việt Nam. Từ đó, Luận án phân tích những nét đặc trưng trong
phương pháp thảo luận và tiếp nhận sách Mạnh Tử ở Việt Nam. Luận án tìm hiểu những vấn đề tư
tưởng của quá trình thun thích trên cơ sở giải mã văn bản, đặt tác phẩm trong sự chuyển biến tư
tưởng lịch sử xã hội, trong quá trình vận động tư tưởng Nho học giai đoạn thế kỷ XVIII đến đầu thế
kỷ XX ở Việt Nam nói riêng và trong dịng thảo luận kinh điển Nho gia ở Đơng Á nói chung.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài luận án, Luận án chủ yếu sử dụng các phương pháp sau:
phương pháp thư mục học, phương pháp nghiên cứu văn bản học, phương pháp thuyên thích.
Phương pháp thư mục học được Luận án sử dụng để khảo sát, thống kê các văn bản thun
thích sách Mạnh Tử hiện cịn ở Việt Nam. Sau khi khảo sát, Luận án tiến hành phân nhóm các văn
bản theo các tiêu chí khác nhau như văn tự, hình thức biên soạn và phạm vi thuyên thích.
Phương pháp văn bản học được sử dụng để triển khai chương 2 của Luận án, kết hợp với
phương pháp thư mục học. Luận án sử dụng phương pháp văn bản học để mô tả văn bản, phát
hiện các vấn đề văn bản học như niên đại, tác giả của văn bản (nếu có).
Phương pháp thun thích được luận án sử dụng chủ yếu trong chương 3 và chương 4 để
tìm hiểu mục đích biên soạn, dụng ý của tác giả khi tái cấu trúc chính văn sách Mạnh Tử, tóm
lược chính văn hay chú giải, diễn Nơm sách Mạnh Tử.
Ngoài ra, Luận án sử dụng các thao tác thống kê, so sánh, đối chiếu khi khảo sát tư liệu,
xử lý văn bản.

Nhìn chung, các phương pháp trên được vận dụng một cách linh hoạt và phối hợp với
nhau trong tồn bộ q trình thực hiện nhiệm vụ của luận án.


3

6. Đóng góp mới của Luận án
Luận án đã tìm hiểu, thống kê và giới thiệu nguồn tư liệu về các văn bản được các nhà biên
soạn về sách Mạnh Tử ở Việt Nam, đặc biệt là 5 văn bản là đối tượng nghiên cứu chính của Luận
án: Tứ thư ước giải (TTUG), Tứ thư tiết yếu (TTTY), Tiểu học Tứ thư tiết lược (THTTTL), Sách
Mạnh học bậc cao trung học giáo khoa (SMHBCTHGK), Trâu thư trích lục (TTTL).
Luận án đã tiến hành xử lý tư liệu để phân loại các văn bản thun thích sách Mạnh Tử
hiện cịn ở Việt Nam theo phương pháp thư mục học.
Luận án đã phân chia các cách thức thuyên thích sách Mạnh Tử ở Việt Nam và tiến hành
khảo sát, phân tích các văn bản đại diện cho các nhóm: đó là tóm lược chính văn sách Mạnh Tử,
tái cấu trúc chính văn sách Mạnh Tử, chú giải và dịch Nôm sách Mạnh Tử. Những đóng góp từ
kết quả nghiên cứu của Luận án có thể góp phần làm sáng tỏ hoạt động thuyên thích kinh điển
sách Mạnh Tử ở Việt Nam giai đoạn từ đầu thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục; Luận án chia làm 4 chương.
 Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Trong chương này Luận án tìm hiểu các phương pháp thuyên thích học, tình hình nghiên
cứu văn bản thun thích sách Mạnh Tử ở Trung Quốc và ở Việt Nam. Tìm hiểu các vấn đề mà
các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài đã đề cập đến, có những nội dung nào chưa
được bàn luận để định ra phương hướng triển khai cho đề tài.
Chương 2: Tìm hiểu các văn bản thuyên thích sách Mạnh Tử hiện còn ở Việt Nam từ đầu
thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX.
Trong chương 2, Luận án tiếp cận với các văn bản của các nhà nho Việt Nam đã biên
soạn, thuyên thích sách Mạnh Tử, tiến hành khảo sát các văn bản cụ thể, từ đó phân nhóm các
văn bản theo tiêu chí khác nhau. Đối với 5 văn bản chính được chọn làm đối tượng nghiên cứu

của đề tài, Luận án tập trung khảo sát các vấn đề văn bản học nổi bật của từng văn bản.
Chương 3: Nghiên cứu nhóm văn bản thun thích phần chính văn sách Mạnh Tử ở Việt Nam.
Trong chương 3, Luận án dựa trên đặc điểm của các văn bản tiến hành phân nhóm, đánh giá các
cách thức thun thích phần chính văn sách Mạnh Tử của các nhà Nho ở Việt Nam theo cách thức:
tóm lược chính văn, tái cấu trúc chính văn,
Chương 4: Nghiên cứu nhóm văn bản thun thích phần chú thích sách Mạnh Tử ở Việt Nam.
Chương 4 của Luận án tiến hành phân tích các đặc điểm của văn bản thuyên thích phần
chú thích sách Mạnh Tử ở Việt Nam về nguồn gốc văn bản chú giải, ngôn ngữ văn bản chú giải
và nội dung văn bản chú giải.

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Trong chương này, luận án giới thiệu một số vấn đề về khái niệm, phương pháp thuyên
thích học, khái qt tình hình nghiên cứu văn bản sách thun thích sách Mạnh Tử ở Trung
Quốc và ở Việt Nam, xác định các hướng tiếp cận đề tài mà luận án sẽ triển khai.
1.1 Giới thiệu về thuyên thích học
1.1.1 Giới thiệu về khái niệm thuyên thích học
Thuật ngữ thuyên thích học mới ra đời vào thế kỷ XVII. Theo nghiên cứu của GS. Trần
Văn Đoàn, người đầu tiên dịch thuật ngữ này từ tiếng phương Tây sang tiếng Trung Quốc thành
“thun thích học” là GS. Thẩm Thanh Tịng (Ðại học Quốc gia Chính Trị, Ðài Bắc, Đài Loan)
vào cuối những năm 1970. Sự ra đời của bộ mơn thun thích học đã manh nha từ thời cổ đại
Hy Lạp, nhưng thuật ngữ “thuyên thích học” mãi đến những năm 1990 mới được các học giả
Trung hoa đón nhận. Ở Việt Nam, những nghiên cứu về bộ mơn thun thích học cịn hạn chế.
Cơng trình đầy đủ và có tính tổng quát nhất hiện nay do nhà nghiên cứu Trần Văn Đoàn (Ðại
Học Quốc Gia Ðài Loan) hệ thống các bài giảng và cho ra đời tập sách có tựa đề: Thông diễn


4

học và khoa học xã hội nhân văn (Hermeneutics and The Social Sciences & Human Sciences).

Đây là cơng trình đầu tiên nghiên cứu một cách tổng quát về bộ môn thuyên thích học, giới
thiệu nguồn gốc, lịch sử phát triển cũng như các trường phái tranh luận về nội hàm của thông
diễn học. Thuật ngữ “Hermeneutics” được Gs. Trần Văn Đồn dịch ra là “thơng diễn học” hay
cũng chính là khái niệm “thun thích học” 詮釋學.
Thun thích học hay cịn được gọi là thơng diễn học, giải thích học ra đời từ thời cổ đại. Giải
thích học cổ điển Trung Quốc bắt nguồn từ thời đại Xuân Thu Chiến Quốc, trưởng thành trong thời
kỳ Tây Hán Đông Hán, trong tiến trình lịch sử hai ngàn năm của văn hóa Trung Hoa. Giải thích học
cổ điển đã chỉ dẫn cho giải thích kinh điển văn hóa, thúc đẩy trào lưu tư tưởng văn hóa hứng khởi,
ảnh hưởng đến diễn biến của truyền thống văn hóa. Bản thân “giải thích học” cũng đang không
ngừng phát triển, từng bước trưởng thành, từ người học hướng đến dân chúng, từ kỹ thuật nâng thành
lý luận, từ đó hình thành nên hệ thống lý luận lấy mục đích luận, văn bản luận, chủ thể luận, phương
pháp luận, hiệu quả luận làm trọng tâm, hình thành phẩm chất và phong cách độc đáo của mình.
Bên cạnh đó có bài dịch của Nguyễn Tuấn Cường trên website
“Thông diễn học: Phương pháp luận và Bản thể luận” do GS. Phan Đức Vinh 潘德荣 Đại học Hoa
Đông, Trung Quốc viết. Trong bài viết tác giả Phan Đức Vinh đã bàn về thông diễn học với tư cách
là phương pháp luận thông diễn và thông diễn học với tư cách bản thể luận. Ông đã đưa ra 4
nguyên tắc của thơng diễn học, đó là: ngun tắc về tính tự chủ, nguyên tắc về tính chỉnh thể,
nguyên tắc về tính hiện thực trong lí giải, nguyên tắc về sự hài hịa ý nghĩa của thơng diễn.
Ngồi ra, cịn có bài viết “ Thuyên thích học với nghiên cứu lịch sử” của tác giả Phạm
Ngọc Hường đã viết về khái niệm, các trường phái thuyên thích học (dựa trên nghiên cứu của
GS. Trần Văn Đồn) và thun thích học với nghiên cứu lịch sử”.
Thun thích học hay cịn được gọi là thơng diễn học, giải thích học. Theo các nhà nghiên
cứu giải thích học ra đời từ thời cổ đại, bắt nguồn từ thời Xuân Thu Chiến Quốc. Trong cuốn
“Giải thích học cổ điển Trung Quốc”, tác giả đã phân biệt: hình thái thực tiễn giải thích kinh
điển hiện nay chủ yếu có hai loại:
- Loại thứ nhất là hình thái giải thích kinh điển trong cuộc sống xã hội
- Loại thứ hai là hình thái giải thích kinh điển trong học thuật bao gồm: dẫn thích trong
văn, giải thuyết chuyên thiên và truyền thuật chuyên thư.
Trong đó truyền thuật chuyên thư là căn cứ theo nhu cầu trình bày giải thích học thuyết
nào đó hoặc xây dựng lý luận nào đó, mang theo kỳ vọng của thời đại, xuất phát từ tầm nhìn

văn hóa của mình, với hệ thống tác phẩm nổi tiếng chun mơn để trình bày giải thích kinh điển
chun mơn, thơng đạo từ “từ”, ghi chép sự việc, phát minh nghĩa lý, từ đó dẫn ra quan điểm
học thuật hoặc tư tưởng triết lý mới, đây chính là truyền thuật chun thư. Cổ nhân gọi nó là
“truyện”. “ Truyện” vừa là một loại hình thái thực tiễn, vừa là một thể thức quy phạm điển hình
của giải thích kinh điển. Sự ra đời của nó tất nhiên phải lấy kinh nghiệm của “dẫn thích trong
văn”, “giải thuyết chuyên thiên” làm nền tảng, để lấy làm gương nên muộn hơn hai hình thái
thực tiễn của giải thích kinh điển này. Trên thực tế, nó xuất hiện ở thời đại Chiến Quốc với điển
hình đầu tiên là Xuân Thu tả thị truyện và Chu dịch đại truyện.
Quách Thu Hiền cũng đã có bài viết “Toản yếu, tiết yếu kinh điển và đặc trưng thuyên
thích học Nho gia trong giáo dục tư học thế kỷ XVIII” đưa ra những thảo luận về đặc trưng
thuyên thích kinh điển Nho gia thế kỷ XVIII dựa trên sự nghiên cứu cụ thể về các văn bản toát
tiết yếu kinh điển trong giáo dục Tư học ở Việt Nam thế kỷ XVIII.
1.1.2 Phương pháp luận của giải thích kinh điển
Phương pháp luận của giải thích kinh điển mà kinh học cổ văn khởi xướng, vừa xuất phát
từ mục đích luận giải thích kinh điển của nó, cịn nhắm vào chỗ thiếu sót của phương pháp giải
thích kinh học kim văn. Tóm lại, nó có ba điểm quan trọng:
Đầu tiên, để giải thích kinh điển mà có thể “tồn nghĩa”, nhằm lý giải hồn chỉnh hệ thống
tư tưởng của tiên thánh.
Tiếp theo, để giải thích kinh điển mà có thể tìm tịi được “ngun ý”, nhằm lý giải được


5

chính xác hệ thống tư tưởng của tiên thánh, họ đã nỗ lực khởi xướng quan niệm “phải nói đúng
âm của nó, sau đó là tồn nghĩa”, họ đã nhiều lần tun bố giải thích ngơn ngữ là phương pháp
giải thích quan trọng nhất. Học giả Trịnh Huyền trong quá trình chú giải kinh điển đã xây dựng
nên phương pháp thanh huấn, phát triển phương pháp nghĩa huấn, sử dụng phương pháp hình
huấn, huấn thích từ ngữ, sắp xếp câu cú, hoặc tuần văn lập huấn, thiết lập một mô hình giải
thích mới, sáng lập pháp mơn, mở rộng con đường cho môn huấn hỗ học truyền thống. Các học
giả nhiều đời, đặc biệt là học giả Càn Gia đồng loạt vui mừng “học thuyết của Hứa Trịnh”, đều là sự

khẳng định và tán đồng phương pháp giải thích ngơn ngữ của Trịnh Huyền.
Cuối cùng, trên cơ sở dựa vào hướng dẫn của quan niệm “toàn kinh”, “toàn nghĩa”, các
nhà kinh học cổ văn tự giác thử nghiệm và khởi xướng phương pháp giải thích chứng minh cho
nhau của kinh thư. Giải thích bất kỳ một bộ kinh điển nào trong đó đều nên lấy “tồn kinh” làm
hệ thống tham chiếu để đạt được “toàn nghĩa”. Dưới sự hướng dẫn của kiểu lý luận giải thích
này, các nhà kinh học cổ văn mà đại diện là học giả Trịnh Huyền đã sáng tạo và xây dựng mơ
hình giải thích phong phú và đặc sắc.
1.1.3 Phương pháp luận của giải thích hiện đại
Hồ Thích tiên sinh đã lấy triết học chủ nghĩa thực nghiệm Âu Mỹ làm gương, đưa ra
phương pháp luận giải thích mới “chỉnh lý văn hóa vốn có”. Phương pháp luận giải thích mà
ơng đã khởi xướng có tinh thần cơ bản là “thái độ của quan niệm và thực nghiệm lịch sử”,
phương pháp cụ thể có ba cách như sau:
Thứ nhất là phương pháp lịch sử. “Phương pháp lịch sử” chính là vận dụng con mắt của lịch sử,
mượn sự khảo chứng chính xác, đặt nội dung tư tưởng của điển tịch văn hóa vào trong tiến trình lịch
sử để khảo sát, khơng những phải nêu rõ “theo đầu mối biến thiên cải cách, cịn phải tìm ra lý do thay
đổi và phát triển của nó”, từ đó “dung hịa xun suốt nội dung chính của mỗi bộ sách để tìm ra một
sự mạch lạc, diễn thành học thuyết có đầu mối trật tự”, thể hiện được ý nghĩa và giá trị chân thực của
nó, từ đó căn cứ vào hiệu quả và giá trị lịch sử để có phê bình đánh giá “khách quan.
Thứ hai, phương pháp so sánh. Hồ Thích tiên sinh đã từng chỉ ra trong cuốn Ý nghĩa trào
lưu tư tưởng mới: “Người nghiên cứu vấn đề không thể chuyên thảo luận về bản thân vấn đề,
phải suy nghĩ từ ý nghĩa của vấn đề. Tuy nhiên để tìm hiểu vấn đề thì không thể không dựa vào
rất nhiều tài liệu để so sánh trong học lý, vì thế sự truyền nhập học lý thường có thể giúp nghiên
cứu vấn đề.” Điều này đã tạo nên “phương pháp so sánh”.
Thứ ba, phương pháp chuyên sử. “Chỉnh lý quốc cố” mà Hồ Thích tiên sinh khởi xướng có nội
dung trọng tâm là giải thích lại điển tịch văn hóa cổ đại, nhưng nó đã khơng chỉ là giải thích lại từ ngữ
và đoạn câu, khơng chỉ là giải thích lại tư tưởng chun thư, thậm chí cũng khơng cịn chỉ là giải thích
lại lý luận của một học phái nào đó, mà là giải thích lại theo kiểu chuyên sử, vượt qua chuyên thư,
vượt qua học phái mà lấy xây dựng lại truyền thống văn hóa dân tộc làm điểm quy nạp
1.1.4 Đối tượng của thuyên thích học
Giải thích học cổ điển Trung Quốc bắt đầu nảy sinh từ giải thích kinh điển văn hóa cổ đại,

cũng trưởng thành trong giải thích kinh điển văn hóa cổ đại, đối tượng nghiên cứu của nó chủ yếu
là giải thích kinh điển văn hóa cổ đại. Thế nhưng, trong thời đại Xuân Thu Chiến Quốc, phạm vi
của kinh điển văn hóa cổ đại trong mắt người học rất rộng lớn, vừa bao gồm “Chu dịch”, “Kinh
thi”, “Thượng thư”, “Xuân Thu”, vừa gồm “Lão Tử”, “Mặc Tử”, “Trang Tử”, “Binh pháp” v.v…
Từ sau phong trào “độc tôn Nho thuật” ở đời Hán, kinh điển văn hóa trong mắt người học đã dần
trở nên nhỏ hẹp, chủ yếu chỉ có kinh điển Nho gia như “Ngũ kinh”, “Tứ thư”.
1.2 Tình hình nghiên cứu văn bản thun thích sách Mạnh Tử
1.2.1 Tình hình nghiên cứu văn bản thun thích sách Mạnh Tử ở Trung Quốc
Việc thuyên thích sách Mạnh Tử diễn ra ở nhiều nước trên thế giới, nhưng Luận án chỉ tập
trung vào tình hình nghiên cứu văn bản thuyên thích sách Mạnh Tử ở Trung Quốc và ở Việt
Nam. Bởi vì Trung Quốc chính là nơi phát tích của Nho giáo, là cái nơi của kinh điển Nho gia.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu kinh điển ở Trung Quốc diễn ra mạnh mẽ hơn bất kì nước nào
trong khu vực và trên thế giới.


6

Trong sách Nghiên cứu tư tưởng thuyên thích Mạnh Tử, tác giả Lý Khải 李凱  đã đánh
giá nhìn lại 20 năm nghiên cứu Mạnh học (tr.17) như sau:  
Từ những năm 90 của thế kỷ trước cho đến nay, nghiên cứu về Mạnh Tử học ln là đề tài
nóng trong lĩnh vực nghiên cứu Nho học, học giả trong và ngồi nước ln cố gắng thâm nhập
tìm hiểu các vấn đề nhân tính luận, tâm tính học cho đến tư tưởng chính trị. Bất luận là về chiều
sâu hay chiều rộng mà nói, nghiên cứu Mạnh Tử học thời kỳ này đều có sự tiến xa so với thời
trước, luận trứ nghiên cứu Mạnh Tử từ các góc độ khác nhau lần lượt ra đời, trong đó tiêu biểu
có Mạnh Tử tư tưởng sử luận 孟子思想史论 của Hoàng Tuấn Kiệt, Cách nhìn mới về đạo đức
Mạnh Tử và luân lý học của Kant 康德伦理学与孟子道德思考之重建 của Lý Minh Huy, 孟子
性 善 论 研 究 Nghiên cứu Mạnh Tử tính thiện luận ... của giáo sư Dương Trạch Ba, cho đến
Mạnh Tử và tư tưởng Trung Quốc thời kỳ đầu 孟子与早期中国思想 của Tín Quảng Lai…
Tập sách Mạnh Tử tư tưởng sử luận của Hồng Tuấn Kiệt gồm 3 tập, trong đó tập 1 giải
thích, phân tích tư tưởng Mạnh Tử, (quyển 2) tìm hiểu sự phát triển của thun thích Mạnh Tử

học trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, quyển 3 dự định phân tích sự phát triển của Mạnh Tử
học trong lịch sử tư tưởng Nhật Bản. Quyển 2 đã xuất bản, quyển 3 còn chưa xuất bản. Quyển
“Mạnh Tử tư tưởng sử luận” bản đầu tiên xuất bản năm 1999 (quyển 1), bao gồm hai phần là
Luận thuật thiên và Tập thích thiên, hai phần kết hợp với nhau, khơng thể tách rời. Các chương
Luận thuật thiên phân tích các phương diện tư tưởng Mạnh Tử, là cơ sở của phần Tập thích
thiên, tham khảo các quan điểm thuyên thích Mạnh Tử của các học giả Trung, Nhật, Hàn qua
các thời kỳ. Từ đó, Hồng Tuấn Kiệt đưa ra cái nhìn mới, chọn cái tinh hoa, bỏ chỗ vụn vặt,
đưa thêm ý kiến, thận trọng, cẩn thành thuyên thích. Do đó, phần Tập Thích chú là tài liệu cơng
phu, phát huy được nghĩa lý trong các thư tịch.
1.2.2 Tình hình nghiên cứu văn bản thuyên thích sách Mạnh Tử ở Việt Nam
Để khái quát tình hình nghiên cứu văn bản thuyên thích sách Mạnh Tử ở Việt Nam, Luận
án phân chia các cơng trình nghiên cứu sách Mạnh Tử ở Việt Nam theo các cơng trình thư mục
học, bản dịch sách Mạnh Tử, các bài viết, tham luận có nghiên cứu về sách Mạnh Tử
1.2.2.1. Các cơng trình thư mục học có ghi chép về sách Mạnh Tử
Theo Di sản Hán Nôm Việt Nam Thư mục đề yếu thống kê
STT
Tên văn bản
Ký hiệu
Tứ thư đại toàn [Tứ thư đại toàn dẫn giải]
AC.220/1-18
1
2
Tứ thư đại toàn [Tứ thư đại toàn dẫn giải]
AC.8/1-8
3
Tứ thư dẫn giải
AC.562/1-8
4
Tứ thư đoản thiên
A.1794

5
Tứ thư đoản thiên
A.1424
6
Tứ thư nhân vật bị khảo
AC.243/1
7
Tứ thư nhân vật bị khảo
A.439
8
Tứ thư sách lược
VHt.17
9
Tứ thư sách lược
VHv.2241
10
Tứ thư sách lược
VHv.900
11
Tứ thứ sách lược
VHv.391/1-2
12
Tứ thứ sách lược
VHv.901
13
Tứ thư tinh nghĩa
VHv.601/3-4-5
14
Tứ thư tinh nghĩa
VHv.444

15
Tứ thư tinh nghĩa
VHv.443
16
Tứ thư ước giải
AB.270/1-5
17
Tứ thư văn tuyển
VHv.341/1-4
1.2.2.2 Nghiên cứu, giới thiệu sách Mạnh Tử trong các bản dịch sách Mạnh Tử
Hiện nay, ở Việt Nam có một số bản dịch kinh điển sách Mạnh Tử đó là:
Học thuyết tính thiện của Mạnh Tử với việc giáo dục đạo đức ở nước ta hiện nay, Mạnh Tử tư


7

tưởng và sách lược, Mạnh Tử quốc văn giải thích, Mạnh Tử tinh hoa... Nội dung của cuốn sách
Học thuyết tính thiện của Mạnh Tử với việc giáo dục đạo đức ở nước ta hiện nay trình bày
những quan điểm và bản tính con người trong triết học Trung Quốc cổ đại, đặc biệt nghiên cứu
nội dung học thuyết tính thiện và phương pháp giáo hoá đạo đức con người trong triết học
Mạnh Tử cũng như đối với sự nghiệp giáo dục đạo đức con người Việt Nam hiện nay.
Tiểu kết chương 1
Tóm lại, chương 1 đã giới thiệu về khái niệm, phương pháp luận, đối tượng của thuyên
thích học và khái quát tình hình nghiên cứu các văn bản thun thích sách Mạnh Tử ở Trung
Quốc, Việt Nam. Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu sách Mạnh Tử ở Việt Nam mới thống
kê các sách luận giải về Tứ thư nói chung, chưa có cơng trình nào giới thiệu riêng các văn bản
thuyên thích, luận giải sách Mạnh Tử do các nhà nho Việt Nam biên soạn. Những nghiên cứu
về văn bản sách Mạnh Tử mới dừng lại khảo sát một số thiên trong sách Mạnh Tử, phân tích
cấu tạo chữ Nơm trong các thiên đó... Vì vậy hướng triển khai của đề tài là nghiên cứu các văn
bản sách Mạnh Tử theo các phương pháp thư mục học, văn bản học, thun thích học để tìm ra

những đặc điểm, giá trị học thuật của khối tư liệu này.
CHƯƠNG 2
TÌM HIỂU CÁC VĂN BẢN THUYÊN THÍCH SÁCH MẠNH TỬ
HIỆN CÒN Ở VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVIII ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XX
Chương này giới thiệu thông tin khái quát về các văn bản thuyên thích sách Mạnh Tử hiện
còn ở Việt Nam; tiến hành phân loại các văn bản thuyên thích sách Mạnh Tử theo các tiêu chí
như văn tự, hình thức biên soạn và mức độ thuyên thích... Đối với 5 văn bản được lựa chọn là
đối tượng nghiên cứu chính của đề tài, Luận án tiến hành khảo sát các vấn đề cụ thể như tác giả,
niên đại, truyền bản, bố cục văn bản... Việc thống kê và phân loại các văn bản thuyên thích sách
Mạnh Tử theo phương pháp thư mục học nhằm tiếp cận đầy đủ hơn với các văn bản thuyên
thích kinh điển sách Mạnh Tử ở Việt Nam.
2.1 Khảo sát thống kê các văn bản thuyên thích về sách Mạnh Tử ở Việt Nam
Trong các cơng trình nghiên cứu các văn bản luận giải về Tứ thư Ngũ kinh ở Việt Nam,
đáng chú ý nhất là cơng trình nghiên cứu của Trịnh Khắc Mạnh. Theo thống kê của nhà nghiên
cứu Trịnh Khắc Mạnh trong bài viết “Thư tịch Hán Nôm Việt Nam luận giải về Tứ thư và Ngũ
kinh hiện có ở Viện Nghiên cứu Hán Nơm” đăng ở tạp chí Hán Nôm số 1(68), năm 200, trang
33-43, tác giả đã bước đầu thống kê được 122 tác phẩm Hán Nôm Việt Nam luận giải về Tứ
thư và Ngũ kinh. Dựa vào sự thống kê của Trịnh Khắc Mạnh và qua khảo sát các văn bản cụ
thể, luận án thống kê được 21 văn bản có thun thích sách Mạnh Tử, trong đó có 17 văn bản
được lưu trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nơm. Có 5 văn bản thun thích tồn bộ chính văn sách
Mạnh Tử, có 16 văn bản chỉ luận giải một vài mục trong sách Mạnh Tử.


8

STT
1

Tên sách
Tứ thư đoản thiên 四書短篇,


2

Tứ thư ước giải
四書約解

3

Tứ thư sách lược 四書策略

4

Tứ thư tiết yếu 四書節要

5

Tứ thư tinh nghĩa 四書精義,

6

Tứ truyện nghĩa tuyển 四 傳 義
選 // Tứ truyện tinh nghĩa 四傳
精義,

7

Tiểu học Tứ thư tiết lược 小
學四書節略
Luận Mạnh sách đoạn 論孟策



8
9

Luận thuyết tập 論說集,

10

Dịch học khải mơng 易 學啟


Ký hiệu sách
Tác giả/người hiệu đính
2 bản in A.1794
và A.1424.
1
bản
in, Lê Q Đơn hiệu đính.
28*17,
AB.
270/1-5
hiện cịn 5 bản
viết tay
VHv.391/1-2
VHv.901
VHv.900,
VHv.2241
VHt.17

Số trang

Năm xuất bản
A.1794 có 314 trang và in năm Minh Mệnh
A.1424 có 150 trang.
thứ 19 (1838)
859 trang
Ức Văn Đường in
năm Minh Mệnh 20
(1839)
VHv.391/1-2 có 412
trang, VHv.901 có
168 trang, VHv.900

268
trang,
VHv.2241 có 160
trang, VHt.17 có 100
trang.
hiện có 1 bản in Bùi Huy Bích (1744 - 1802) 1300 trang
in năm Thành Thái
AC.226/1-4
soạn
thứ 7 (1895).
hiện cịn 3 bản
VHv.443 có 186
viết
tay
trang, VHv.444 có
VHv.443
203
trang


VHv.444

VHv.601/3-5 có 664
VHv.601/3-5
trang
hiện cịn 2 bản
(VHv.601/6 có 186
viết tay
trang và VHv.1151
VHv.601/6 và
có 98 trang).
VHv.1151
hiện cịn 1 bản Đồn Triển (1854 - 1919) biên 168 trang
viết tay A.2607 tập.
hiện còn 1 bản
158 trang
viết
tay
VHv.902
hiện còn 1 bản
82 trang
viết tay A.2856
hiện cịn 1 bản
có 128 trang
viết tay VHv.
1014

Văn tự
Chữ Hán

Chữ Hán,
có Nơm
Chữ Hán

Chữ Hán
Chữ Hán

Chữ Hán

Chữ Hán
Chữ Hán
Chữ Hán
Chữ Hán


9

11
12
13
14
15
16
17

Sách Mạnh học bậc cao
trung học giáo khoa
冊孟學堛高中學教科
Lữ trung tạp thuyết 旅 中 雜
說,. 2 bản viết (20 Q Thượng

và Hạ), 1 dẫn. Kí hiệu
Lịch triều sử kí văn tuyển 歷
朝史記文選
Tiểu học cú đậu 小學句讀. 1
bản viết
鄒書摘錄 Trâu thư trích lục

1 bản
AB.290.

viết, Ngô Giáp Đậu, Đốc học Nam 358 trang
Định.

A151,VHv.180
4
A121
VHv1015

560 trang
144 trang

Hồ Đắc Khải 胡得愷 biên tập. 97 trang
Nguyễn Duy Tích 阮 惟 勣 đề
tựa
Đại học tích nghĩa 大學晰義, hiện cịn 1 bản Lê Văn Ngữ (thế kỷ XIX) biên 116 trang
viết tay A.2594 soạn và viết tựa
Đế vương bảo giám: 帝王寶 1 bản viết, 174 Trần Duy Vôn 陳 維  hiệu Nhàn
tr, 20 x 15, 1 Vân Đình 閒雲亭  biên tập năm

mục

Bảo Đại 6 (1931).Nguyễn Thanh
lục. VHb.314
Tùng 阮 青 松  hiệu Bá Như 伯
如 sao chép.
Mạnh Tử tân ước
孟子新約

19

Trâu thư trích lục
kí hiệu H3
鄒書摘錄
Tứ thư nhân vật bị khảo 四書 kí hiệu H134
人物備考
Mạnh Tử tiết yếu
kí hiệu R180
孟子節要

21

A151, 150 trang, Chép năm Tự Đức Chữ Hán
VHv.1804,164 trang
10 (1857)

kí hiệu A.1142,

18

20


Bùi Huy Bích Lê triều Tướng
cơng, hiệu Tồn Ơng 存 翁
soạn và viết lời dẫn
Hồng Giáp Lê Đức Hiên, Lê
Đình Diên biên soạn
Trần Tuyển tuyển chú.

kí hiệu H73

năm Duy Tân Quý Chữ Nôm
Sửu (1913)

Chữ Hán

(1847-1883)

Chữ Hán

Năm Ất Mão, niên Chữ Hán
hiệu
Duy Tân
(1915).
năm 1927.
Chữ Hán
năm Bảo Đại 6 Chữ Hán
(1931).

132 tờ khổ in 20,5x Đây là bản khắc Chữ Hán
26.5cm
mộc bản đã được in

lại năm 2012
sách chỉ còn 29 tờ
Chữ Hán
chỉ còn 2 tờ

Chữ Hán

sách còn 150 trang

Chữ Hán


10

2.2 Giới thiệu những văn bản là đối tượng nghiên cứu chính của Luận án
2.2.1 Lý do lựa chọn các văn bản
Luận án lựa chọn 5 văn bản Mạnh Tử ước giải, Mạnh Tử tiết yếu, Tiểu học Tứ thư tiết lược, Sách
Mạnh học bậc cao trung học giáo khoa và Trâu thư trích lục làm đối tượng nghiên cứu chính. Bởi vì các
văn bản này ra đời ở các thời điểm khác nhau, nằm trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ XVIII đến đầu
thế kỷ XX. Dung lượng của các văn bản này tương đối lớn, thuyên thích đầy đủ các thiên trong sách
Mạnh Tử. (Tứ thư ước giải) có độ dài 916 trang, trong đó phần thuyên thích sách Mạnh Tử chiếm 248
trang, là văn bản thuyên thích sách Mạnh Tử viết bằng chữ Hán và Nơm. (Sách Mạnh học bậccao trung
học giáo khoa) có dung lượng 360 trang, viết bằng chữ Nôm. Tứ thư tiết yếu có dung lượng 1300 trang,
viết bằng chữ Hán. (Tiểu học tứ thư tiết lược) có độ dài 160 trang, viết bằng chữ Hán. Trâu thư trích lục
có độ dài 97 trang viết bằng chữ Hán. Còn các văn bản khác hầu như chỉ trích một số đoạn trong sách
Mạnh Tử để bình giải (như Luận Mạnh sách đoạn, Tứ thư đoản thiên...) nên không được lựa chọn làm
đối tượng để nghiên cứu. Ngoài ra, các văn bản được lựa chọn là sách giáo khoa được giảng dạy ở các
cấp học khác nhau để có sự đối sánh cần thiết. Như ở bậc tiểu học có văn bản Tiểu học Tứ thư tiết lược, ở
bậc trung học có văn bản Sách Mạnh học bậccao trung học giáo khoa. Đây là hai văn bản được giảng
dạy trong chương trình cải lương giáo dục khoa cử năm 1906-1919.

Hai văn bản Tứ thư ước giải, Tứ thư tiết yếu ra đời sớm hơn. Hai văn bản này đã được sử dụng
khá rộng rãi, được khắc in lại nhiều lần, thậm chí văn bản Tứ thư tiết yếu còn trở thành “tài liệu luyện
thi” cho các sĩ tử vào thời Tự Đức, Thành Thái.
Mặt khác, năm văn bản được lựa chọn mang tính vấn đề phù hợp với việc giải quyết các nội dung của
chương 3 và chương 4 mà Luận án sẽ triển khai. Đó là nghiên cứu đặc điểm các văn bản thuyên thích
chính văn sách Mạnh Tử theo phương pháp tóm lược chính văn, tái cấu trúc chính văn trong chương
3. Nghiên cứu đặc điểm các văn bản chú giải sách Mạnh Tử hiện còn ở Việt Nam về nguồn gốc văn
bản chú giải, đặc điểm ngôn ngữ chú giải và nội dung chú giải ở chương 4.
2.2.2 Tứ thư ước giải
Tác giả Tứ thư ước giải
Tứ thư ước giải (TTƯG) hiện được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nơm, kí hiệu là AB.
270/1-5, gồm có 916 trang. Hiện nay vẫn chưa biết tác giả của bộ sách này là ai. Căn cứ vào phần
khắc phía trên bên trái của bìa sách Diên Hà Bảng nhãn quan hiệu đính 延河榜眼官校訂 (Quan
Bảng nhãn ở Diên Hà hiệu đính) có thể biết được bộ sách này do Lê Q Đơn hiệu đính.
2.2.3 Tứ thư tiết yếu
Khảo sát tư liệu cho thấy hiện có 2 văn bản Mạnh Tử tiết yếu. Một văn bản được lưu giữ ở
Viện Nghiên cứu Hán Nôm và một văn bản được lưu giữ ở Thư viện Quốc gia Việt Nam. Văn bản
Mạnh Tử tiết yếu (tập 3, 4) trong bộ sách 4 quyển Tứ thư tiết yếu ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký
hiệu AC.226. Văn bản Mạnh Tử tiết yếu ở Thư viện Quốc gia Việt Nam ký hiệu R180. Văn bản R180
hiện chỉ còn 150 trang, ít hơn nhiều so với bản Mạnh Tử tiết yếu trong bộ Tứ thư tiết yếu gồm 1300
trang, nên luận án chọn bản Mạnh Tử tiết yếu ký hiệu AC.226 làm đối tượng để nghiên cứu.
2.2.4 Tiểu học Tứ thư tiết lược
小學四書節略(Tiểu học Tứ thư tiết lược) (THTTTL) ký hiệu A.2607 lưu trữ ở Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, là bộ sách dành cho bậc Tiểu học trong chương trình cải lương giáo dục chữ Hán ở Việt
Nam trong những năm đầu của thế kỷ XX. (THTTTL) gồm 2 quyển: quyển nhất gồm 37 tờ, quyển nhị
gồm 33 tờ. Mỗi tờ 2 mặt do Đoàn Triển phụng biên, Đỗ Văn Tâm nhuận chính, viết tay, tổng là 168
trang, khổ 27*15 cm.
2.2.5 Sách Mạnh học bậc cao trung học giáo khoa
Trong cuốn Di sản Hán Nôm Việt Nam- Thư mục đề yếu của Trần Nghĩa và F.GROS, văn bản
này đã được đề cập đến:

Sách Mạnh học bậccao trung học giáo khoa, Ngô Giáp Đậu, Đốc học Nam Định diễn Nôm
năm Duy Tân Quý Sửu (1913), một bản viết, 358 tr, 30x15,5, một tựa, AB.290.
Diễn Nơm sách Mạnh Tử có chú thích và lời bình.
Văn bản (SMHBCT) cũng đã được giới thiệu trong cuốn Tìm hiểu kho sách Hán Nơm của Trần
Văn Giáp:
(SMHBCT), Ngơ Giáp Đậu diễn Nơm, 358 tr, chữ viết, tồn Nơm, 1 tựa. Diễn Nơm chính văn


11

sách Mạnh Tử, có chú thích và bình luận các chương như luân lý, tu thân, văn học, chính trị…
Tác giả của (SMHBCT) là nhà nho Ngô Giáp Đậu, vấn đề này thể hiện trong bài tựa của chính
tác giả. Trong bài tựa dài 6 trang, ở cuối trang thứ 5 dòng thứ 9, và trang thứ 6 dòng thứ nhất, tác giả
viết: 南定督学碎羅吳甲豆號羅青淵謹爫排序 “Nam Định đốc học tôi là Ngô Giáp Đậu, hiệu là
Thanh Uyên, cẩn làm bài tựa”.
2.2.6 Trâu thư trích lục
Trâu thư trích lục ký hiệu A.1142 do tác giả Hồ Đắc Khải biên soạn, nhằm phục vụ chương
trình giáo dục cải lương khoa cử (1906-1919). Sách Trâu thư trích lục được giảng dạy ở bậc Ấu học.
Trâu thư trích lục ra đời vào khoảng năm Ất Mão, niên hiệu Duy Tân (1915 ).
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2, Luận án đã tiến hành thống kê và mơ tả các văn bản thun thích sách Mạnh
Tử hiện còn ở Việt Nam, với tổng số 17 văn bản hiện được lưu trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Từ
việc thống kê các văn bản, Luận án đánh giá một số đặc điểm của các văn bản thuyên thích sách
Mạnh Tử ở Việt Nam. Luận án đi sâu vào giới thiệu bố cục 5 văn bản được lựa chọn là đối tượng
nghiên cứu chính của Luận án, lý do lựa chọn các văn bản này. Trên cơ sở đó giải quyết vấn đề của
chương 3, chương 4 là nghiên cứu các văn bản thuyên thích chính văn sách Mạnh Tử và văn bản luận
giải phần dịch chú sách Mạnh Tử.
CHƯƠNG 3
NGHIÊN CỨU NHĨM VĂN BẢN THUN THÍCH PHẦN CHÍNH VĂN SÁCH MẠNH TỬ
Ở VIỆT NAM

Chương 3 Luận án tập trung vào cách thức luận giải luận chính văn sách Mạnh Tử đó là tóm
lược chính văn và tái cấu trúc chính văn. Trong 5 văn bản được lựa chọn là đối tượng nghiên cứu
chính của luận án, có 2 văn bản được luận giải theo cách thức tóm lược chính văn là Tứ thư ước giải
và Tứ thư tiết yếu, 3 văn bản được biên soạn theo phương thức tái cấu trúc chính văn là Tiểu học Tứ
thư tiết lược và Sách Mạnh học bậc cao trung học giáo khoa, Trâu thư trích lục. Tóm lược chính văn
sách Mạnh Tử là cách làm giữ nguyên trật tự chính văn, cách sắp xếp các chương mục trong sách
Mạnh Tử. Tùy theo hồn cảnh ra đời và mục đích biên soạn của tác giả mà mức độ tóm lược có thể
khác nhau. Có văn bản sự lược bỏ chính văn diễn ra ở tất cả các thiên, nhưng có văn bản lại giữ
nguyên nội dung chính của chính văn, hầu như khơng có sự lược bỏ và ngồi ra cịn có sự bổ sung
các chú giải theo Tứ thư tập chú của Chu Hy hoặc Tứ thư đại toàn.
Tái cấu trúc chính văn sách Mạnh Tử là cách thức tác giả sắp xếp lại cấu trúc chính văn sách
Mạnh Tử, phân chia chính văn sách Mạnh Tử theo các chủ đề, không giữ nguyên thứ tự các chương
mục. Cách thức tái cấu trúc chính văn sách Mạnh Tử thể hiện được quan điểm, sự lĩnh hội và dụng ý
của tác giả đối với văn bản sách Mạnh Tử. Khi biên soạn sách Mạnh Tử, các tác giả đã lựa chọn
những câu kinh văn phù hợp để phân loại theo các chủ đề với mục đích làm sáng tỏ các chủ đề, nội
dung tư tưởng của sách Mạnh Tử. Đồng thời khi sắp xếp lại chính văn, các tác giả cũng có sự lược bỏ
chính văn. Như đối với văn bản Tiểu học tứ thư tiết lược, tác giả Đoàn Triển đã lược bỏ số lượng lớn
các câu kinh, chỉ giữ lại các câu cốt yếu cho phù hợp với mục đích biên soạn sách giảng dạy ở cấp
Tiểu học. Cách thức luận giải tái cấu trúc chính văn cũng thể hiện sự dụng công, sự am hiểu nghĩa lý
kinh điển của các tác giả. Mặt khác, có tác giả như Ngơ Giáp Đậu còn viện dẫn lịch sử nước Nam
theo lối dĩ sử chứng kinh nhằm làm sáng tỏ nghĩa lý kinh điển.
3.1 Tóm lược chính văn
Qua khảo sát các văn bản thun thích sách Mạnh Tử hiện cịn ở Việt Nam, Luận án nhận thấy
cách thức tóm lược chính văn là cách thuyên thích sách Mạnh Tử phổ biến. Tùy theo mục đích biên
soạn mà các tác giả có thể giữ nguyên nội dung chính văn, hay lược bỏ những đoạn mà tác giả cho
rằng không quá quan trọng, chỉ giữ lại những câu kinh mang ý nghĩa cốt lõi.
Tên chương

Câu bị lược bỏ


Phiên âm

Dịch nghĩa


Lương Huệ
Vương
chương cú
thượng 梁惠
王章句上

彼奪其民時,使不得耕耨以養
其父母,父母凍餓,兄弟妻子
離散

Lương Huệ
Vương
chương cú hạ
梁惠王章句


從流下而忘反,謂之流,從流
上而忘反謂之連,從獸無厭謂
之荒,樂酒無厭謂之亡.先王無
流連之樂,荒亡之行.惟君所行
也.
老而無妻曰鰥.老而無夫曰寡.老
而無子曰獨.幼而無父曰孤.鰥寡
獨孤
誅之,則不可勝誅;不誅,則

疾視其長上之死而不救,如之
何則可也?

Công
Tôn
sửu chương
cú thượng 公
孫丑章句上

既曰志至焉,氣次焉,又曰持
其志,無暴其氣者,何也? 
今夫蹶者,趨者,是氣也;而
反動其心. 

12
Bỉ đoạt kì dân thì, sử bất đắc
canh nậu dĩ dưỡng kì phụ mẫu,
phụ mẫu đống ngạ, huynh đệ thê
tử li tản
Tòng lưu hạ nhi vong phản, vị
chi lưu, tòng lưu thượng nhi
vong phản vị chi liên, tịng thú
vơ yếm vị chi hoang, lạc tửu vô
yếm vị chi vong. Tiên vương vô
lưu liên chi lạc, hoang vong chi
hành. Duy quân sở hành dã.
Lão nhi vô thê viết quan. Lão
nhi vô phu viết quả. Lão nhi vô
tử viết độc. Ấu nhi vô phụ viết
cô. Quan quả độc cô

Tru chi, tắc bất khả thắng tru;
bất tru, tắc tật thị kì trường
thượng chi tử nhi bất cứu, như
chi hà tắc khả dã ?
Kí viết chí chí n, khí thứ n,
hựu viết trì kì chí, vơ bạo kì khí
giả, hà dã ? Kim phu quệ giả, xu
giả, thị khí dã; nhi phản động kì
tâm.

率其子弟,攻其父母,自生民
以來,未有能濟者也.如此,則 Suất kì tử đệ, cơng kì phụ mẫu,
無敵於天下.無敵於天下者,天 tự sinh dân dĩ lai, vị hữu năng tế
giả dã. Như thử, tắc vô địch ư
吏也.然而不王者,未之有也.
thiên hạ. Vô địch ư thiên hạ giả,
thiên lại dã. Nhiên nhi bất
vương giả, vị chi hữu dã.
非所以內交於孺子之父母也,
非所以要譽於鄉黨朋友也,非
惡其聲而然也.
有是四端而自謂不能者,自賊
者也;謂其君不能者,賊其君
者也.

不仁, 不智, 無禮, 無義,人役也.
人役而恥為役, 由弓人而恥為弓,
矢人而恥為矢也. 如恥之,莫如
為仁.
仁者如射,射者正己而後發.發


Những nước ấy chiếm đoạt
thời vụ của dân họ, khiến
cho không được cày ruộng
giẫy cỏ để ni cha mẹ.
Cha mẹ họ bị đói rét; anh
em, vợ con phải lìa tan.
Bng thả xi dịng mà
qn trở lại, gọi là say sưa.
Bng thả ngược dịng mà
qn trở lại, gọi là rong
ruổi. Đuổi săn theo thú vật
không chán, gọi là phóng
túng. Vui say rượu chè
khơng chán, gọi là tàn hoại.
Các bậc tiên vương khơng
say sưa, rong ruổi và khơng
có hành vi phóng túng, tàn
hoại. Vua hãy mưu nghĩ về
hành động của mình.
Đã nói rằng tâm chí là bậc
nhất, khí lực là thứ yếu, lại
nói rằng giữ vững tâm chí,
và đừng làm hư hoại khí
lực, vậy nghĩa là làm sao?

Nay có người ngã nhào hay
chạy mau, đó là do khí lực;
trở lại tác động đến tâm.
Thống lĩnh con em đánh lại

cha mẹ, từ khi con người
sinh ra tới nay, chưa có ai
ủng hộ. Như thế, vua hẳn là
vơ địch trong thiên hạ.
Người vô địch trong thiên
Phi sở dĩ nội giao ư nhụ tử chi hạ là quan của Trời. Thế
phụ mẫu dã, phi sở dĩ yếu dự ư mà
hương đảng bằng hữu dã, phi ác khơng thịnh vượng (nên
kì thanh nhi nhiên dã.
nghiệp vương), chưa hề có
vậy!”
Hữu thị tứ đoan nhi tự vị bất Chẳng phải tại kết giao với
năng giả, tự tặc giả dã; vị kì cha mẹ đứa trẻ; chẳng phải
quân bất năng giả, tặc kì quân tại muốn
giả dã.
được bạn làng xóm khen
ngợi; chẳng phải tại ghét
tiếng xấu mà như vậy.
Có bốn đầu mối ấy, mà tự
bảo rằng mình khơng có
khả năng làm, đó là tự hại
mình vậy. Bảo vua khơng
có khả năng làm, đó là hại
vua vậy.
Bất nhân, bất trí, vơ lễ, vơ Chẳng có nhân, chẳng sáng
nghĩa, nhân dịch dã. Nhân dịch suốt, khơng có lễ, khơng có
nhi sỉ vi dịch, do cung nhân nhi nghĩa, là kẻ làm tay sai cho
sỉ vi cung, thỉ nhân nhi sỉ vi thỉ người. Kẻ làm tay sai mà
dã. Như sỉ chi, mạc như vi nhân. hổ thẹn trong phận sai
Nhân giả như xạ, xạ giả chính kỉ khiến, cũng như kẻ làm



而不中,不怨勝己者,反求諸
己而已矣.

13
nhi hậu phát. Phát nhi bất trung, cung mà hổ thẹn trong việc
bất oán thắng kỉ giả, phản cầu làm cung, kẻ làm tên mà hổ
chư kỉ nhi dĩ hĩ.
thẹn trong việc làm tên.
Như biết hổ thẹn, chẳng
bằng làm điều nhân. Người
làm điều nhân giống như
bắn cung. Người bắn cung
giữ thân
mình cho ngay ngắn rồi
mới bắn. Bắn mà khơng
trúng, thì khơng ốn kẻ
thắng mình; phải quay về
xét lại mình mà thôi.

Khảo sát văn bản Tứ thư tiết yếu cho thấy, khi thuyên thích sách Mạnh Tử tác giả Bùi Huy Bích
giữ nguyên trật tự, nội dung chính của kinh văn. Hiện tượng lược bỏ kinh văn trong các thiên chương
có diễn ra, nhưng chỉ lược bớt một vài câu trong từng đoạn, chứ khơng có sự tinh gọn hồn tồn như
trường hợp Tiểu học Tứ thư tiết lược. Tác giả Bùi Huy Bích cịn thêm vào phần “thử ngơn” ở đầu các
chương để tóm tắt nội dung chính của từng chương do chính tác giả tự tổng kết, lĩnh hội kinh điển.
Đối với (TTƯG) thì tác giả giữ ngun chính văn, nhưng có thêm phần giảng nghĩa kinh điển bằng
chữ Nơm. Có thể lý giải về sự khác biệt này dựa trên mục đích biên soạn và hồn cảnh ra đời của
từng tác phẩm.
Đối với văn bản Mạnh Tử ước giải, khảo sát của Luận án cho thấy văn bản này giữ nguyên nội

dung của chính văn sách Mạnh Tử, hồn tồn khơng có sự lược bỏ nào. Điều này diễn ra tương tự ở
các văn bản Luận ngữ, Đại học trong Tứ thư ước giải. Vậy sự tóm lược, ước giải nếu có thì có thể
giải thích rằng sự ước giải diễn ra với phần chú của kinh văn.
Đối với trường hợp văn bản Tiểu học Tứ thư tiết lược, Trâu thư trích lục sự tóm lược chính
văn diễn ra ở hầu hết các chương. Cách thức tóm lược chính văn và tái cấu trúc chính văn diễn ra
song song với nhau. Khi sắp xếp lại chính văn sách Mạnh Tử theo các chủ đề theo cách thức tái
cấu trúc chính văn, tác giả Đồn Triển đồng thời lược bỏ số lượng không nhỏ các câu kinh, với
tổng số 172/259 đoạn so với chính văn sách Mạnh Tử, tức là lược bỏ 87 đoạn chính văn. Trong
Trâu thư trích lục, tác giả Hồ Đắc Khải đã tóm lược chính văn, chỉ trích lục những câu kinh có ý
nghĩa cốt lõi. Sau khi tóm lược chính văn sách Mạnh Tử, văn bản Trâu thư trích lục chỉ cịn 97 trang.

Tên chương
Câu bị lược bỏ
(Cáo Tử chương cú “如使人之所欲莫甚 于
thượng. 10)
生,则凡可以得生者,
何不用也?使人之所恶
莫甚于死者,则凡可以
辟 患 者 , 何 不 为
也?...”!

Tiểu học Tứ thư tiết lược
魚,我所欲也;熊掌,亦我所欲也.二者
不可得兼,舍魚而取熊掌者也生,亦我
所欲也;義,亦我所欲也.二者不可得
兼,舍生而取義者也.生亦我所欲,所欲
有甚於生者,故不為苟得也;死亦我所
惡,所惡有甚於死者,故患有所不辭也.
魚與熊掌皆美味,而熊掌尤美也)


3.2 Tái cấu trúc chính văn
Thuyên thích kinh điển bằng cách thức tái cấu trúc chính văn là một trong những cách thức
được các nhà nho Việt Nam lựa chọn, như trong các văn bản Luận ngữ ngu án, Luận ngữ tiết yếu.
3.2.1 Tái cấu trúc chính văn trong Tiểu học Tứ thư tiết lược
Tác giả Đoàn Triển kết hợp sử dụng hai phương pháp để biên soạn sách Tiểu học Tứ thư tiết
lược, đó là tóm lược chính văn và tái cấu trúc chính văn.
Tiểu học Tứ thư tiết lược do Đoàn Triển phụng biên, Đỗ Văn Tâm nhuận chính. Từ bối cảnh
xuất hiện, cũng như người phụng biên và phụng nhuận chính cho thấy, đây là bộ sách được các thành


14

viên trong Hội đồng tu thư của chương trình cải lương giáo dục khoa cử chữ Hán 1906-1913 có tính
chất nhà nước thực hiện. Đây cũng là bộ sách chính thức cho phần giáo qui chữ Hán, thuộc phạm trù
kinh điển Nho học được áp dụng cho cấp Tiểu học của chương trình này.
Trong Tiểu học Tứ thư tiết lược, tác giả Đoàn Triển đã sử dụng phương pháp tái cấu trúc chính
văn để sắp xếp chính văn sách Mạnh Tử theo hệ thống các chủ đề. Đồng thời sử dụng phương pháp
tóm lược chính văn trong việc chọn lọc các câu kinh, rút gọn đáng kể dung lượng của chính văn sách
Mạnh Tử.
Dựa vào bố cục phần sách Mạnh Tử trong Tiểu học Tứ thư tiết lược, có thể thấy được tác giả
Đoàn Triển đã sử dụng phương pháp tái cấu trúc chính văn khi biên soạn sách. Đồn Triển đã phân
chia sách Mạnh Tử sắp xếp các mục theo thứ tự sau với tổng số 172 chương:
Mục

Số đoạn/chương

Nhân nghĩa 仁義

(6 chương)


Tâm 心 (12)

12

Tính 性 (4)

4

Đạo 道 (6),

6

Tu thân 修身 (28)

28

Giáo nhân 教人 (5)

5

Thủ hữu 取友 (7)

7

Quân thần 君臣 (10)

10

Phụ tử 父子 (6)


6

Vương đạo 王道 (7)

7

Vương chính 王政 (9)

9

Đắc dân 得民 (10),

10

Tự cường 自彊 (11)

11

Tự nhiệm 自任 (8)

8

Tự trọng 自重 (8)

8

Từ thụ 辭受 (1)

1


Khứ tựu 去就 (8)

8

Luận nhân 論人 (6)

6

Cổ thánh 古聖 (3)

3

Quân tử 君子 (6),

6

Dị đồng 異同 (4),

4

Tang lễ 喪禮 (2)

2

Thí dụ 譬喻 (5)
5
Đồn Triển đã lựa chọn và tiết lược 172 đoạn trên tổng số 259 đoạn kinh văn sách Mạnh Tử.
Dung lượng của phần sách Mạnh Tử chiếm 66/168 trang của sách Tiểu học Tứ thư tiết lược. Như vậy,
có thể thấy dung lượng cuốn sách đã được rút gọn rất nhiều.
3.2.2 Tái cấu trúc chính văn trong Sách Mạnh học bậc cao trung học giáo khoa

Văn bản Sách Mạnh học bậc cao trung học giáo khoa được phân chia thành các mục cụ thể.
Ngoài bài Tựa và phần Phụ luận, tác giả chia nội dung chính ra thành năm mục, trong mỗi mục lại
chia thành các điều khác nhau.


15

Tên mục
Bài tựa
Mục thứ nhất:
Luân lý có 7 điều
Mục thứ hai:
Tu thân có 33 điều

Số trang
Tr 1 đến tr 6 (6 trang)
Tr 7 đến tr 47
(41 trang)
Tr 48 đến tr 120.
(73 trang)

Mục thứ ba:
Việc học có bảy điều
Mục thứ tư: Chính trị

Tr 121 đến tr186
(66 trang)
Tr 187 đến tr 318
(132 trang)


Mục thứ năm:
Sinh bình thầy Mạnh
Phụ luận

Tr 319 đến tr 351
(33 trang)
Tr 352 đến tr 360
(9 trang)

Nội dung chính các mục
Việc vua tôi, cha con, bè bạn, vợ chồng, anh
em, đơn ln, bội ln
Tâm tính, lương q, lễ trọng, minh thiện thành
thân, lạc thiện vong thế, tôn đức lạc nghĩa, thiện
ngôn thiện đạo, phản kỷ, ngôn, hành, việc cư xử,
bắt chước điều phải, việc sinh tử, biết thẹn, muốn
tiếng khen tốt, bắt chước điều phải, tự lập, đại
nhân, việc đại trượng phu, quốc lạc, biện việc
thiện lợi, việc thị tài, sự hiếu cao, thanh văn, việc
đã phiên (cầu phú quý lợi đạt), biện việc nội
ngoại…
Việc học, việc dùng người khác đạo, bàn việc
đạo thống, việc giao tế, sĩ chỉ.
Căn bản các sự chính trị, nghĩa lý, việc tranh
cạnh, việc truyền tập, việc học vấn, lời nghị
luận
Việc hiền học, việc giao tế, việc bình luận
Văn học, chính sự

Xem xét cấu trúc của văn bản Sách Mạnh học bậccao trung học giáo khoa có thể nhận thấy nội

dung mà tác giả Ngơ Giáp Đậu đặc biệt chú trọng là Mục Chính trị có 132/360 trang (tức 66 tờ), thứ
hai là mục Tu thân có 73 trang (tức 34 tờ). Trong mục Tu thân lại chia ra nhiều tiểu mục như tâm
tính, lương quý, lễ trọng, minh thiện thành thân, lạc thiện vong thế, tôn đức lạc nghĩa, thiện ngôn
thiện đạo, phản kỷ, ngơn, hành... Để có thể phân chia chính văn sách Mạnh Tử theo các mục như
trên, các nhà Nho như Ngô Giáp Đậu phải hiểu rất sâu sắc nghĩa lý kinh điển sách Mạnh Tử. Việc lựa
chọn, quy loại các đoạn trong chính văn sách Mạnh Tử theo các chủ đề khác nhau cần có sự dụng tâm
của tác giả khi biên soạn sách.
3.2.3 Tái cấu trúc chính văn trong Trâu thư trích lục
Trâu thư trích lục được tác giả Hồ Đắc Khải biên soạn kết hợp đồng thời hai cách thức tóm
lược chính văn và tái cấu trúc chính văn. Tác giả đã sắp xếp lại chính văn theo 5 mục chính: Bàn về
chuyện học hỏi, Luân lý cương thường, Vấn đáp về chính trị, Xử kỷ tiếp vật, Những câu nói mẫu mực
về đạo đức.

Tên mục

Số trang

Bài tựa

2

Học vấn lược đàm thiên đệ nhất.
(Thiên 1: Bàn qua về học vấn).
Cương thường luân lí thiên đệ nhị.

16 trang, 25
câu, 92 dịng
16 trang, 29

Nội dung chính các mục

Lý do biên soạn sách, ý nghĩa,
mục đích của sách
Bàn về việc học vấn, cái học của
người quân tử
Bàn về luân lý cương thường, đạo


16

(Thiên 2: Luân lí cương thường).
Chính trị vấn đáp thiên đệ tam. (Thiên 3:
Hỏi đáp về chính trị).
Xử kỷ tiếp vật thiên đệ tứ. (Thiên 4: Xử kỷ
tiếp vật ).
Đạo học vấn cách ngôn thiên đệ ngũ.
(Thiên 5: Những câu cách ngơn về học vấn).

câu, 93 dịng.
21 trang, 38
câu, 126 dòng
28 trang, 46
câu. 163 dòng
8 trang, 16
câu, 46 dòng

đức của con người
Bàn về việc làm chính trị giữa
Mạnh Tử và Lương Huệ Vương

3.3 Phiên dịch chính văn

Khảo sát các văn bản thuyên thích sách Mạnh Tử ở Việt Nam cho thấy các nhà Nho Việt Nam
khá linh hoạt khi phiên dịch chính văn. Các nhà Nho có thể dịch theo lối trực dịch (dịch theo từng
chữ), hay cùng một đoạn chính văn khi dịch lại tách thành hai đoạn; có trường hợp dịch tóm lược ý
chính và cũng có trường hợp dịch mà có sự mở rộng, giải thích thêm.
Tiểu kết chương 3
Trong chương 3, Luận án đã tiến hành tìm hiểu các văn bản thun thích chính văn sách Mạnh
Tử với cách thức cơ bản là tóm tắt chính văn và tái cấu trúc chính văn. Đây là cách thức thuyên
thích kinh điển cơ bản mà các nhà nho Việt Nam sử dụng khi tiếp cận kinh điển Nho gia. Các nhà
nho Việt Nam có thể giữ nguyên trật tự chính văn, lược bỏ bớt các phần chú, truyện, sớ hay có thể
thêm vào kiến giải của cá nhân. Mặt khác, họ cũng có thể lựa chọn cách biên soạn sách khác, đó là
sắp xếp chính văn phân chia theo các mục, các chủ đề. Nhìn chung, các nhà nho Việt Nam khi
thun thích kinh điển khơng chú trọng về việc giải âm mà chú trọng đến việc luận giải nghĩa lý kinh
điển. Hệ thống kinh văn theo các chủ đề cũng nhằm mục đích làm sáng tỏ các nội dung, ý nghĩa kinh
điển mà sách Mạnh Tử đề cập đến. Tùy đối tượng tiếp nhận là bậc Tiểu học hay Trung học hay tùy
theo mục đích biên soạn của từng tác giả mà mức độ tiết yếu, ước giải, tiết lược có thể khác nhau.
Khơng thể phủ nhận tính sáng tạo, sự am hiểu nghĩa lý kinh điển của các nhà nho Việt Nam khi đã
dụng công tái cấu trúc, tóm lược chính văn sách Mạnh Tử. Điều này phần nào thể hiện được tính chủ
động của các nhà nho Việt Nam trên con đường tri nhận kinh điển Nho gia.
CHƯƠNG 4
NGHIÊN CỨU NHĨM VĂN BẢN THUN THÍCH PHẦN CHÚ THÍCH
SÁCH MẠNH TỬ Ở VIỆT NAM
Chương này Luận án tiến hành khảo sát các văn bản thuyên thích phần chú sách Mạnh Tử, tìm
hiểu các phần chú thích trong các văn bản thuyên thích sách Mạnh Tử dựa trên văn bản chú giải nào
của Trung Quốc, đặc điểm ngôn ngữ trong các phần chú giải và nội dung đáng chú ý trong phần dịch
chú. Trong chương này, Luận án sử dụng phương pháp định tính kết hợp với phương pháp định
lượng để khảo sát 5 văn bản đã được chọn làm đối tượng nghiên cứu chính của Luận án là Mạnh Tử
ước giải, Mạnh Tử tiết yếu, Tiểu học Tứ thư tiết lược, Sách Mạnh học bậc cao trung học giáo khoa và
Trâu thư trích lục. Phương pháp định tính được sử dụng khi khảo sát một số thiên cụ thể trong văn
bản, từ đó tìm ra các đặc điểm đáng chú ý của các văn bản chú thích sách Mạnh Tử hiện cịn ở Việt
Nam theo phương pháp định lượng.

4.1 Nguồn gốc văn bản chú giải
Qua khảo sát 5 văn bản trên, Luận án nhận thấy các văn bản này chú thích dựa theo Tứ thư tập
chú của Chu Hy hoặc Tứ thư đại toàn. Cụ thể phần chú giải trong văn bản Tứ thư tiết yếu, Mạnh Tử
ước giải dựa theo Tứ thư đại toàn. Phần chú giải trong Trâu thư trích lục, Tiểu học Tứ thư tiết lược
và Sách Mạnh học bậc cao trung học giáo khoa dựa theo Mạnh Tử tập chú của Chu Hy. Luận án đưa
ra một vài ví dụ để minh họa cho nhận định này. Bản để so sánh đối chiếu phần chú giải là Tứ thư
chương cú tập chú do Trung Hoa thư cục phát hành năm 1983 và Tứ thư đại toàn thời Minh.
4.1.1 Nguồn gốc văn bản chú giải trong Mạnh Tử ước giải
So sánh phần chú giải sách Mạnh Tử trong Tứ thư ước giải với Tứ thư tập chú của Chu Hy, có
thể thấy tác giả Tứ thư ước giải đã dựa vào Tứ thư tập chú để chú giải chính văn sách Mạnh Tử.


17
Chu Hy chú
1.孟子見梁惠王.梁惠王,魏侯罃也.都大
梁,僭稱王,溢曰惠.史記:「惠王三十
五年,卑禮厚幣以招賢者,而孟軻至梁.
王曰:叟不遠千里而來,亦將有以利吾
國乎?叟,長老之稱.王所謂利,蓋富國
彊兵之類

2.孟子對曰:王何必曰利?亦有仁義而
已矣.仁者,心之德、愛之理.義者,心
之制、事之宜也.此二句乃一章之大指,
下文乃詳言之.後多放此
3. 王曰 何以 利吾 國 ? 大夫 曰何 以 利 吾
家?士庶人曰何以利吾身?上下交征利
而國危矣.萬乘之國弒其君者,必千乘之
家;千乘之國弒其君者,必百乘之家.萬
取千焉,千取百焉,不為不多矣.苟為後

義而先利,不奪不饜.乘,去聲.饜,於
豔反.此言求利之害,以明上文何必曰利
之意也.征,取也.上取乎下,下取乎
上,故曰交征.國危,謂將有弒奪之禍.
乘,車數也.萬乘之國者,天子畿內地方
千里,出車萬乘.千乘之家者,天子之公
卿采地方百里,出車千乘也.千乘之國,
諸侯之國.百乘之家,諸侯之大夫也.
弒,下殺上也.饜,足也.言臣之於君,
每十分而取其一分,亦已多矣.若又以義
為後而以利為先,則不弒其君而盡奪
之,其心未肯以為足也.

Phần chú thích
giống nhau
叟,長老之稱,

孟子見梁惠王翁孟子囉眜𤤰惠王坦梁 孟子
指富國彊兵之類
姓孟名軻字子輿鄒人受業於子思見是因其
厚幣之招而往見之惠王是魏侯名罃建都大
梁僣稱王是魏
王曰叟𤤰惠王浪翁𦓅箕叟長老之稱是尊之
之不遠千里而來拯礙賒𠦳琰麻吏謂目鄒至
梁不遠千里而來亦將有以利吾國乎𠃣侯固
默利渃些丕喂利指富國彊兵之類
孟子對曰翁孟子疎浪王何必曰利𤤰牢乙浪 仁者心之德愛之理
羅利 何必是決其不可意利是人欲之私亦 義者心之制事之宜
有仁義而已矣𠃣固道仁義麻渚丕仁義是天
理之公仁者心之德愛之理義者心之制事之

宜而已矣者見此外別無可言意
王曰何以利吾國翁孟子浪𤤰浪牢默利渃些 - 上 取 乎 下 , 下 取
王曰設詞 大夫曰何以利吾家官大夫浪牢 乎上,故曰交征.國
默利茹些士庶人曰何以利吾身几士庶人浪 危,謂將有弒奪之
牢默利命些上下交征利而國危矣𨕭𠁑都𥙩 禍
事利麻渃巍丕 上指惠王下指大夫士庶人 - 萬 乘 之 國 是 天 子
交征是上取下下取上意國危謂將有弒奪之 畿內地方千里內車
禍萬乘之國弒其君者,必千乘之家蒸渃閍 萬乘弒是下殺上君
具車弒所𤤰意乙蒸茹𠦳具車乘去聲下同乘 指天子千乘之家是
車數也萬乘之國是天子畿內地方千里內車 天子之公卿采地方
萬乘弒是下殺上君指天子千乘之家是天子 百里出車千乘
之公卿采地方百里出車千乘千乘之國弒其
君者,必百乘之家蒸渃𠦳具車弒所𤤰意乙
蒸茹𤾓具車千乘之國是諸侯之國君指諸侯
百乘之家是諸侯之大夫萬取千焉,千取百
焉閍時𥙩特𠦳丕𠦳時𥙩特𤾓丕萬取千千取
百皆是十分取一之制不為不多矣渚𥙩爫羅
拯𡗉 丕
不為見分所當安意苟為後義而
先利油𥙩義爫𨍦麻𥙩利爫𨎠 後義以義為緩
先利以利為急不奪不饜拯劫時𢚸拯堵饜於
豔反餍足也奪是弒上而奪其利不饜是心不

Tứ thư ước giải chú

Quan sát ba ví dụ trên có thể thấy mặc dù tác giả Tứ thư ước giải khi chú giải chính văn
sách Mạnh Tử đã dựa theo Tứ thư tập chú của Chu Hy, nhưng cách trích dẫn chú giải khá linh hoạt.
Đó là bỏ phần chú âm, chỉ chú giải những câu theo tác giả là cần giải thích thêm. Như trong đoạn 1,
Chu Hy chỉ chú “ 叟,長老之稱 ” nhưng tác giả Mạnh Tử ước giải chú “ 叟,長老之稱 是尊之”
Tẩu, trưởng giả chi xưng thị tôn chi (Tẩu, là cách gọi bậc trưởng lão thể hiện sự tơn trọng), tức là có

thêm phần giải thích về ý nghĩa của cách xưng hô này thể hiện sự tôn trọng. Còn trong phần chú giải
“ 利指富國彊兵之類 ” Lợi chỉ phú quốc cường binh chi loại (lợi chỉ nước giàu binh mạnh), tác giả
bỏ phần Chu Hy chú “王所謂利”, không nhắc lại đây là lời của vua Lương Huệ Vương nói.
4.1.2 Nguồn gốc văn bản chú giải trong Tứ thư tiết yếu
Khảo sát văn bản Tứ thư tiết yếu của Bùi Huy Bích cho thấy tác giả chú thích chính văn sách
Mạnh Tử dựa theo Tứ thư đại toàn.
Trong văn bản Tứ thư tiết yếu tác giả đã viết phần Tiểu chú ở phần trên của trang sách với cỡ
chữ nhỏ bằng 1/3 cỡ chữ chính văn. Phần Tiểu chú này do tác giả tự biên soạn dựa trên những hiểu
biết của bản thân về sách Mạnh Tử. Luận án đã thống kê trong văn bản Tứ thư tiết yếu phần Mạnh Tử
tổng có 224 đoạn Tiểu chú của tác giả.
4.1.3 Nguồn gốc văn bản chú giải trong Tiểu học Tứ thư tiết lược
Khảo sát văn bản Tiểu học Tứ thư tiết lược cho thấy tác giả Đoàn Triển khi biên soạn sách đã
dựa vào Tứ thư tập chú của Chu Hy. Mặc dù lược bỏ số lượng khá lớn các câu kinh văn nhưng tác giả


18

vẫn vận dụng chú giải của Chu Hy trong những trường hợp tác giả cho rằng cần phải chú giải. Có thể
xem một số ví dụ sau để nhận xét cách thức chú giải của tác giả:
Mục
Nhân
nghĩa

Tiểu học Tứ thư tiết lược
魚,我所欲也;熊掌,亦我所欲也。二
者不可得兼,舍魚而取熊掌者也。生,亦
我所欲也;義,亦我所欲也。二者不可得
兼,舍生而取義者也。生亦我所欲,所欲
有甚於生者,故不為苟得也;死亦我所
惡,所惡有甚於死者,故患有所不辭也。

魚與熊掌皆美味,而熊掌尤美也。
仁,人之安宅也;義,人之正路也。正
路謂天理當行,無人欲之邪曲。曠安宅
而弗居,舍正路而弗由,哀哉!
觀水有術,必觀其瀾.日月有明,容光
必照焉.流水之為物也,不盈科不行;
君子之志於道也,不成章不達.瀾,水
之湍急處.觀水之瀾,則知其源之有
本;觀日月於容光之隙無不照,則知其
明之有本.此章言聖人之道大而有本,
學之者必以其漸,乃能至也.

Tứ thư tập chú

Phần chú thích
giống nhau
魚與熊掌皆美
味,而熊掌尤
美也。

正路謂天理當
行,無人欲之
邪曲
觀水有術,必觀其瀾.日月有明,容光 此 章 言 聖 人 之
必照焉.此言道之有本也.瀾,水之湍急 道 大 而 有 本 ,
處也.明者,光之體;光者,明之用也. 學 之 者 必 以 其
觀水之瀾,則知其源之有本矣;觀日 漸 , 乃 能 至
月於容光之隙無不照,則知其明之有 也”.
本矣.流水之為物也,不盈科不行;君
子之志於道也,不成章不達.」言學當

以漸,乃能至也.成章,所積者厚,而
文章外見也.達者,足於此而通於彼也.
此章言聖人之道大而有本,學之者必
以其漸,乃能至也.

4.1.4 Nguồn gốc văn bản chú giải trong Sách Mạnh học bậc cao trung học giáo khoa
Khảo sát văn bản Sách Mạnh học bậccao trung học giáo khoa cho thấy tác giả Ngơ Giáp Đậu
khi chú giải chính văn sách Mạnh Tử đã dựa theo Tứ thư tập chú của Chu Hy. Trong 5 văn bản Luận
án lựa chọn làm đối tượng chính để khảo sát có 4 văn bản chú giải dựa theo Tứ thư tập chú của Chu
Hy, một văn bản chú giải dựa theo Tứ thư đại tồn. Điều này có thể lý giải được vì tùy từng thời
điểm lịch sử mà ảnh hưởng của Tứ thư đại toàn hay Tứ thư tập chú với các trước tác của các nhà Nho
Việt Nam có qui mơ, mức độ khác nhau. Ba văn bản Trâu thư trích lục, Tiểu học Tứ thư tiết lược và
Sách Mạnh học bậccao trung học giáo khoa được biên soạn để làm tư liệu giảng dạy trong chương
trình cải lương giáo dục ở Việt Nam 1906-1919. Giai đoạn này chế độ khoa cử đã thối trào, các sĩ tử
đi thi khơng cần phải thuộc lòng kinh điển và chú, truyện, sớ như giai đoạn trước. Với ảnh hưởng sâu
rộng của nền giáo dục phương Tây, việc học tập kinh điển lúc này chỉ hướng đến mục đích nắm được
nghĩa lý cơ bản, tinh thần cốt lõi của kinh điển Nho gia. Đó cũng là giai đoạn quá độ từ chế độ cựu
học chuyển sang Tân học.
Đối với văn bản Sách Mạnh học bậc cao trung học giáo khoa Ngô Giáp Đậu vừa chú giải dựa
trên Tứ thư tập chú của Chu Hy, vừa đưa ra các kiến giải của chính tác giả.
Sách Mạnh học bậc cao
trung học giáo khoa
Việc luân lý
Việc cha con
Ngài Vạn Chương hỏi rằng:
Ơng Thuấn đi ra ngồi
ruộng gọi trời mà gào khóc.
Cớ sao gào khóc thế?

Mạnh Tử

tập chú

Phần lược bỏ

Phần chú về âm đọc,
号,平声。舜往于
Vạn chương 田,耕历山时也。仁
chương cú
覆闵下,谓之旻天。
thượng
号泣于旻天,呼天而
(chương 1)
泣也。事见虞书大禹
谟篇。怨慕,怨己之
不得其亲而思慕也

Phần chú giải dựa theo Chu Hy/
Phần tác giả bổ sung.
Tóm lược chương 1 (theo chú của
Chu Hy)
Chương này nói ơng Thuấn chẳng lấy
những điều người ai muốn làm điều
vui mình, mà lấy chẳng bằng lịng cha
mẹ làm lo, mình chẳng phải ơng thánh
nhân hết tính, ai hay thế được. (theo
tập chú của Chu Hy)
Chu Hy chú:
“此章言舜不以得众人之所欲为己
乐,而以不顺乎亲之心为己忧。非
圣人之尽性,其孰能之?



19
“Ơng Định Cơng nước Đằng Tận
tâm 桃应,孟子弟子也。
mất….”
chương cú 其意以为舜虽爱父,
thượng (
而不可以私害公;皋
chương 35
陶虽执法,而不可以
刑天子之父。故设此
问,以观圣贤用心之
所极,非以为真有此
事也

Chương này là nói rõ lịng hiếu ơng
Thuấn, để dựng làm chuẩn đích đạo
làm con.

Tác giả thêm vào phần tởng kết
chương:
“Chương này trọng về ý tang cha mẹ,
定公,文公父也。然
thì người con vẫn phải hết lịng
Đằng Văn 友,世子之傅也。大 mình”.
故,大丧也。事,谓
Cơng
chương cú 丧礼
thượng. 2)

Ngươi Công Tôn Sửu hỏi Cáo
Tử 弁,音盘。高子,齐 Suốt chương này chỉ lấy lỗi nhỏ,
rằng: Tôi nghe Cao Tử có chương cú 人也。小弁,小雅篇 chẳng nên oán làm chủ nghĩa.
nói: “Truyện, thơ Tiểu Bàn hạ (3)
Tác giả theo chú của Chu Hy: [Ông
名 (bỏ phần chú âm,
là thơ tiểu nhân…
U vương nhà Chu, lấy bà Thân Hậu,
nhân danh)
sinh thái tử là Nghi Cữu, sau lấy
nàng( Bao Tự) sinh thằng Bá Phục,
mà truất Thân Hậu, bỏ Nghi Cữu,
Nghi Cữu là ra bài thơ ấy nói lòng
mình thương khổ]
Chu Hy chú:
周幽王娶申后,生太子宜臼;又得
褒 姒 , 生伯 服 , 而 黜 申后 、 废 宜
臼。于是宜臼之傅为作此诗,以叙
其哀痛迫切之情也
Ngươi Công Tôn Sửu hỏi Ly
rằng:
“Ngươi
Khuông chương
Chương suốt cả nước đều hạ (30)
bảo là bất hiếu….

lâu 匡章,齐人。通国, Phần khái quát đại ý chương lấy ý
cú 尽 一 国 之 人 也 。 礼 theo chú của Chu Hy. “此章之旨,于
众所恶而必察焉
貌,敬之也

此章之旨,于众所恶 Chương này thì thấy ý nhiều người
ghét thì mình phái xét lại.
而必察焉,可以见圣
贤至公至仁之心矣。
杨氏曰:“章子之
行,孟子非取之也,
特哀其志而不与之绝
耳.

Quan sát các đoạn chú giải trên có thể thấy khi chú giải chính văn sách Mạnh Tử nhà nho Ngô
Giáp Đậu đã lĩnh hội chú giải trong Tứ thư tập chú của Chu Hy. Tác giả hầu như lược bỏ hết các
phần chú âm, địa danh, nhân danh mà chỉ lựa chọn những câu chú giải mang tính khái quát nội dung
của từng chương để làm sáng tỏ nghĩa lý kinh văn sách Mạnh Tử. Nhưng việc chú giải theo Tập chú
của Chu Hy khơng phải là hồn tồn rập khn, mà tác giả còn bổ sung nhận xét, đánh giá về ý nghĩa
kinh điển theo suy nghĩ của bản thân tác giả. Cách thức chú giải cũng rất linh hoạt, có thể tách
chương thành từng đoạn nhỏ để chú giải, hay lược bỏ những phần chú âm, chú giải địa danh nhân
danh. Bên cạnh đó tác giả cịn đem lịch sử nước Nam luận bàn nhằm làm sáng tỏ nghĩa lý kinh điển.
4.2 Ngôn ngữ trong văn bản chú giải
Khảo sát ngôn ngữ trong các văn bản chú giải sách Mạnh Tử, Luận án không luận bàn về phiên
dịch học thuần túy mà bàn đến ngôn ngữ với tư cách là một công cụ hỗ trợ giải kinh, đọc hiểu kinh
điển. Khi chú giải chính văn sách Mạnh Tử, chủ yếu các tác giả vẫn sử dụng văn ngôn, nhưng ở một
số trường hợp có xu hướng bạch thoại hóa. Như trong văn bản Mạnh Tử ước giải, ngôn ngữ bạch
thoại thể hiện rõ trong việc tác giả sử dụng cấu trúc chữ “是” thay thế cho cấu trúc có chữ “...者”, “...


20

也”, “者...也”, cụ thể trong thiên Cáo Tử và Lương Huệ Vương, Luận án đã thống kê một số trường
hợp sau:
Số

tờ
10b
10b
10a
13a
1b

Kinh văn

Phiên âm

若犬馬之與
我不同類也

Nhược khuyển
mã chi dữ ngã
bất đồng loại dã
Dịch Nha tiên
đắc ngã khẩu chi
sở thị giả dã
Thánh nhân dữ
ngã đồng loại
giả
Kỳ hiếu ố dữ
nhân tương cận
dã giả cơ hy
Vạn thặng chi
quốc thí kì qn
giả, tất thiên
thặng chi gia

Vạn thặng chi
quốc thí kì qn
giả, tất thiên
thặng chi gia
Vạn thặng chi
quốc thí kì qn
giả, tất thiên
thặng chi gia
Thiên thặng chi
quốc thí kì quân
giả, tất bách
thặng chi gia

易牙先得我
口之所耆者

聖人與我同
類者。
其好惡與人
相近也者幾

萬乘之國弒
其君者,必
千乘之家

1b

萬乘之國弒
其君者,必
千乘之家


1b

萬乘之國弒
其君者,必
千乘之家

2a

千乘之國弒
其君者,必
百乘之家

Dịch cấu trúc giả/ …
dã -> thị …dã/ thị
不同類是人與物之分

Phiên âm
Bất đồng loại thị nhân dữ vật chi
phân

先得是先得其滋味之


Tiên đắc thị tiên đắc kỳ tư vị chi
nghi

聖人亦人耳其性之善
無不同也


Thánh nhân diệc nhân nhĩ kỳ tính
chi thiện vơ bất đồng dã.

相近是一念好惡之良
心與人相同意幾希不
多也
萬乘之國是天子
畿內地方

Tương cận thị nhất niệm hiếu ố
chi lương tâm dữ nhân tương
đồng ý cơ hy bất đa dã.
Vạn thặng chi quốc thị thiên tử ki
nội địa phương [ thiênLương Huệ
Vương thượng]

弒是下殺上

Thí thị hạ sát thượng

千里之家是天子
之公卿采地方百
里出車千乘

Thiên lí chi gia thị thiên tử chi
cơng khanh thái địa phương bách
lí xuất xa thiên thặng

千 乘 之 國 是諸 侯
之國


Thiên thặng chi quốc thị chư hầu
chi quốc

Để giúp người đọc hiểu rõ nội dung chính văn, khi dịch chú tác giả Tứ thư ước giải đã
dùng kết cấu chữ “thị” 是 nhằm bạch thoại hóa văn ngơn, hiện tượng này có thể bắt gặp trong sách
Đại học, Trung dung của bộ Tứ thư ước giải.
Đặc điểm chữ Nôm được sử dụng trong các văn bản chú giải
Trong bài viết Khảo sát hệ thống từ cổ trong bản giải âm Khóa hư lục AB 367 của hịa thượng
Phúc Điền, Trần Trọng Dương có quan niệm về từ cổ như sau: “Từ cổ là những loại từ mờ nghĩa
trong các văn bản Nôm, người hiện nay không thể hiểu được nếu không sử dụng các loại từ điển để
tra cứu, hoặc không đối chiếu với nguyên tác Hán văn (với những trường hợp giải âm, giải nghĩa).
Các từ mờ nghĩa này có thể có nguồn gốc khác nhau (Việt, Hán, hay Hán- Việt).
Trong Mạnh Tử ước giải có sự xuất hiện của một số hư từ tiếng Việt cổ.
Như trong thiên Vạn Chương của Mạnh Tử ước giải, có số lượng hư từ lớn với tần số xuất hiện
nhiều. Việc chuyển dịch các hư từ trong Hán văn sang chữ Nơm có nhiều điểm đáng chú ý. Những hư
từ được chuyển sang chữ Nơm có một bộ phận là từ cổ, khơng cịn được sử dụng trong tiếng Việt
hiện đại. Các hư từ cổ này xuất hiện với tần số lớn, tạo nên một hệ thống ngôn ngữ mang đặc trưng
của giai đoạn thế kỷ XVII. Theo thống kê của tác giả Đặng Thị Hồng Thủy trong thiên Vạn Chương


21

của văn bản Mạnh Tử ước giải có 19 hư từ với tần số xuất hiện là 1125 lượt. Đó là các hư từ:“chưng,
há, hằng, mặc, thửa, vậy, ấy, bèn, vả, chẳng, ru, bui, chăng, khá, dường, bằng, rằng, thay”. Trong 19
hư từ này, có những hư từ hiện nay khơng cịn dùng nữa như: “chưng, thửa, bui”. Nghiên cứu sự xuất
hiện của các hư từ và xác định được tương đối chính xác thời điểm xuất hiện của nó có thể làm căn
cứ để nghiên cứu trình độ diễn đạt và phát triển của ngôn ngữ.



22

4.3 Nội dung chú giải trong các văn bản thuyên thích sách Mạnh Tử
4.3.1 Nội dung kinh học
Trong các nội dung, phạm trù kinh điển mà học thuyết Nho gia đề cập tới, có hai nội dung cốt
lõi được các nhà nho Việt Nam chú trọng khi biên soạn sách đó là Tu thân, Chính trị. Bởi vì theo
quan điểm của các nhà nho người quân tử phải tu thân để tham gia các cơng việc phị vua giúp nước,
tu dưỡng để đạt đến “nội thánh ngoại vương”. Ở giai đoạn nào, các nhà nho cũng khuyến khích kẻ sĩ
học tập thành tài và đem tài năng của mình giúp ích cho đất nước. Hai nội dung cốt lõi này ảnh
hưởng sâu sắc đến tư tưởng các nhà nho Việt Nam khi biên soạn sách. Điều này thể hiện rõ trong các
văn bản (SMHBCTHGK), (THTTTL) và Trâu thư trích lục. Khi sắp xếp lại chính văn sách Mạnh Tử
các tác giả đã dành cho hai mục Tu thân và Chính trị dung lượng lớn hơn các mục khác. Trong
(SMHBCTHGK) mục Tu thân có 82/360 trang (từ trang 48 đến trang 120), mục Chính trị có 131/360
trang (từ trang 187 đến trang 318), chiếm dung lượng lớn của văn bản.
Trong văn bản (THTTTL) mục Tu thân 修身 có 28 đoạn, nhiều hơn các mục khác như Tự
cường, Tự nhiệm chỉ có 8 đoạn. Trong văn bản Trâu thư trích lục mục Cương thường luân lý 綱常倫
理 có 16 trang, 29 câu, 93 dịng; mục Chính trị vấn đáp 政治問答 có 21 trang, 38 câu, 126 dòng đều
chiếm số câu tương đối lớn.
4.3.2 Nội dung lịch sử
Trong 5 văn bản thuyên thích sách Mạnh Tử được chọn làm đối tượng nghiên cứu chính của
Luận án, văn bản Sách Mạnh học bậccao trung học giáo khoa là văn bản có viện dẫn sử nước Nam
để luận bàn nghĩa lý kinh điển. Mặc dù phương pháp “dĩ sử chứng kinh” không phải là phương pháp
mới, nhưng đây là một trong số ít văn bản thun thích sách Mạnh Tử có sử dụng phương pháp này.
Bên cạnh việc sử dụng chữ Nôm để thông diễn kinh điển, việc xen lẫn những đoạn luận bàn làm rõ
nghĩa lý chính văn sách Mạnh Tử bằng những câu chuyện, sự kiện lịch sử nước Nam đã khiến cho
Sách Mạnh học bậccao trung học giáo khoa mang tinh thần tự tôn dân tộc sâu sắc.
Trong bài tựa, Ngô Giáp Đậu đã nói mục đích của ơng khi sử dụng phương pháp “dĩ sử chứng
kinh” là “đem lịch sử nước Nam phụ bàn vào để bạn bè xem cho tiện đấy thôi”. Những vấn đề lịch sử
được đặt ra bàn luận để làm sáng tỏ nghĩa lý kinh điển đã đem lại những hiệu quả nhất định. Học kinh
điển không phải chỉ là sách vở lý thuyết chung chung, mà điều quan trọng là phải biết vận dụng vào thực

tế. Các ông vua phong kiến biến đạo Khổng thành một công cụ thống trị, nhưng mặt khác họ lại đang vi
phạm những nguyên lý đạo đức rường cột của Nho gia. Ngô Giáp Đậu đã thẳng thắn phê phán:
“Nước Nam ta ông Tông nhà Trần, dụ người đánh bạc mưu lấy tiền của, bắt nhà tước vương
tước hầu lên, mỗi cách trò chơi, lúc nhà nước nhàn hạ an vui trễ biếng, thì ở mình cịn có thanh
minh gì nữa. Ông Trần Nhật Duật, ông Trương Hán Siêu, công nghiệp rỡ ràng, là bậc người tôi lõi
nhà, Trần Nhật Duật thì ở nhà khơng ngày nào chẳng hát xướng ăn yến, Hán Siêu thì hay với người
trung quan, kẻ man do, cùng quen thuộc, so với ông Tề Cảnh Công lưu liên hoang vong ngươi Nhạc
Chính Tử vì ăn uống, theo ngươi Tử Ngao, cách học sửa mình chẳng chính, người thánh hiền cũng
cố chẳng khỏi ư?” .


×