Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

Ths-triết học-Vấn đề giáo dục đạo đức mới cho sinh viên ở nghệ an trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (646.07 KB, 135 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, giáo dục đạo đức
cho thanh niên, sinh viên là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng.
Thực hiện tốt giáo dục đạo đức cho sinh viên sẽ tạo cho họ khả năng lớn trong
việc vươn lên nắm vững đỉnh cao của nghề nghiệp, rèn luyện ý chí và bản lĩnh
chính trị, khoa học, giúp họ tìm ra phương pháp và cách thức để phục vụ xã
hội tốt hơn. Khi được trang bị hệ thống đạo đức mới sinh viên sẽ hiểu biết tốt
hơn về những giá trị truyền thống của dân tộc, biết tơn trọng lao động của
mình và của người khác. Từ đó, họ có ý chí, hồi bão cống hiến nhiều hơn.
Đây chính là động lực để sinh viên vươn tới những hoạt động cao đẹp, góp
phần xây dựng quan hệ xã hội văn minh, xây dựng nhân cách con người mới
Việt Nam khi bước vào thế kỷ XXI.
Nước ta sau hơn 20 năm đổi mới với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu thế tồn cầu hố, mở cửa, giao lưu
hội nhập thế giới đó và đang tác động lớn tới đời sống đạo đức sinh viên. Bối
cảnh đó, một mặt tạo ra nhiều cơ hội cho sinh viên học tập và phát triển, mặt
khác, nó cũng đem lại những nguy cơ thách thức lớn cho họ và xã hội. Trong
thời gian qua, sự xuất hiện lối sống thực dụng, buông thả, vị kỷ, chạy theo đồng
tiền, phai mờ lý tưởng, lãng quên truyền thống… cùng với các tệ nạn xã hội
đang có xu hướng du nhập vào nhà trường và ảnh hưởng xấu tới đạo đức của
sinh viên.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Hội Sinh viên Việt Nam lần thứ VIII đã
đánh giá: Bên cạnh những ưu điểm và thành tựu mà sinh viên đã đạt được thì
đang cịn có
Một bộ phận sinh viên chưa xác định được mục tiêu, động cơ
học tập đúng đắn, thiếu kiên trì, quyết tâm, chưa chăm chỉ học tập,


2


thiếu trung thực trong thi cử, kiểm tra, chưa thể hiện rõ ước mơ,
hồi bão, thụ động, thiếu ý chí vươn lên, ứng xử kém, tinh thần
trách nhiệm xã hội cịn hạn chế, có những biểu hiện chưa tốt về lối
sống, mắc tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật, một bộ phận sinh viên
cịn dễ bị lợi dụng, lơi kéo vào những hoạt động với mục đích xấu
[1, tr.3].
Do đó, hiện nay việc giáo dục đạo đức cho sinh viên càng trở nên bức
thiết hơn bao giờ hết.
Nghệ An là một tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ được gọi là mảnh đất địa linh
nhân kiệt, nơi đã sinh ra nhiều hiền tài làm rạng danh non sông đất nước. Đây
cũng là nơi nổi tiếng với nhiều truyền thống tốt đẹp: Cần cù, anh dũng, kiên
cường, hiếu học, thông minh, sáng tạo, có ý chí hồi bão vươn lên... Những
truyền thống này đã và đang được kế thừa và phát triển.
Tuy nhiên, dưới sự tác động của những điều kiện kinh tế - xã hội mới,
của cơ chế thị trường và việc mở rộng giao lưu quốc tế, những truyền thống
tốt đẹp đó đang có nguy cơ bị đe doạ bởi sự xuống cấp về đạo đức và lối sống
của một bộ phận trong thanh niên và sinh viên hiện nay. Với những hiện
tượng trên ở Nghệ An, mặc dù các chủ thể giáo dục đã có nhiều cố gắng trong
quá trình giáo dục đạo đức cho sinh viên nhưng do nhiều nguyên nhân khác
nhau đã làm cho hiệu quả giáo dục đạo đức chưa cao. Thậm chí ở một số nơi
còn xem nhẹ hoặc chưa thấy tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho
sinh viên trong bối cảnh hiện nay.
Trước thực trạng trên cùng với yêu cầu đổi mới của tỉnh Nghệ An và phát
huy truyền thống quê hương, đất nước việc giáo dục đạo đức mới cho sinh viên
ở Nghệ An hiện nay là yêu cầu cấp thiết. Vì lẽ đó tác giả đã chọn: “Vấn đề giáo
dục đạo đức mới cho sinh viên ở Nghệ An trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay" làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
chuyên ngành triết học của mình với mong muốn đóng góp phần nhỏ bé vào sự
nghiệp giáo dục của tỉnh nhà và sự nghiệp giáo dục chung của cả nước.



3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề đạo đức mới, giáo dục đạo đức trong thời gian qua đã được nhiều
tác giả quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau và nhiều cơng trình
đã được cơng bố. Tiêu biểu một số cơng trình sau:
- Các cơng trình đã in thành sách:
+ “Đạo đức mới” do GS Vũ Khiêu chủ biên (Nxb Khoa học xã hội,
1974). Trong tác phẩm này vấn đề đạo đức, đạo đức mới và giáo dục đạo đức
mới đã được làm sáng tỏ trên những nét cơ bản.
+ “Chủ động và tích cực xây dựng đạo đức mới” của Tương Lai (Nxb Sự
thật, 1983). Trong cuốn sách này, tuy cịn có những hạn chế nhất định nhưng
có thể coi đây là tài liệu tham khảo bổ ích về lĩnh vực đạo đức học.
+ “ Giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hố hiện đại hoá đất nước” của Ban tư tưởng - Văn hố Trung
ương (Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2004). Cuốn sách này đã đề cập một cách
hệ thống nội dung lý luận cũng như thực tiễn đạo đức xã hội của chủ nghĩa
Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, đã khái quát một cách cô
đọng những chuẩn mực, truyền thống giá trị đạo đức của dân tộc ta, những
nguyên tắc phương hướng và giải pháp xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên nhằm thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng Việt Nam.
+ “Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” của TS Trịnh Duy Huy (Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2009).
Cơng trình này tác giả đã tập trung xem xét tác động của kinh tế thị trường
đối với xã hội, chuẩn mực đạo đức hiện nay và thực trạng đạo đức ở nước ta,
từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị
trường đối với đời sống đạo đức xó hội.
- Các luận án, luận văn có liên quan đến đề tài:
+ “Giáo dục đạo đức với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của Trần Sỹ Phán, Luận án Tiến sĩ, 1999).



4
+ “Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ
trẻ hiện nay ở Việt Nam” của Nguyễn Đình Quế (Luận văn thạc sĩ, 2000).
+ “ Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam
hiện nay” của Dỗn Thị Chín (Luận văn thạc sĩ, 2004).
+ “Đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt
Nam - Thực trạng và giải pháp” của Vũ Thanh Hương (Luận văn thạc sĩ, 2004).
+ Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng nhân cách
đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thị Thanh Hà (Luận văn
thạc sỹ, 2007).
+ “Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng đạo đức mới cho
thanh niên Bạc Liêu hiện nay” của Trần Tam Phương (Luận văn thạc sĩ,
2008).
- Các bài viết nghiên cứu về đạo đức và giáo dục đạo đức trong một số
tạp chí như:
+ “Tư tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên
trong điều kiện hiện nay” của Đồn Văn Khiêm (Tạp chí Triết học, số 2, 2001).
+ “ Vấn đề xây dựng đạo đức trong bối cảnh phát triển kinh tế thị
trường” của Đỗ Lan Hiền (Tạp chí Triết học, số 4, 2002).
+ “Kết hợp chặt chẽ giáo dục lý luận với xây dựng đạo đức mới của người
cán bộ quản lý” của Nguyễn Ngọc Long (Tạp chí Lý luận chính trị số 4, 2001).
+ “Đạo đức mới - đạo đức cách mạng từ các cách tiếp cận khác nhau”
của Trịnh Duy Huy (Tạp chí Triết học số 1, 2006).
+ “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thế hệ trẻ và giáo dục thế hệ trẻ” của Thái
Thanh Thuỷ (Thơng tin cơng tác Trường chính trị, số 1, 2006)
+ “ Về việc tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong xây dựng nền đạo đức mới
ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Văn Phúc (Tạp chí Triết học số 11, 2006).
+ “ Về tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức

mới” của Nguyễn Văn Phúc (Tạp chí Triết học số 3, 2007).


5
Nhìn chung, những cơng trình và bài viết nêu trên không chỉ đã đề cập
đến vấn đề đạo đức mới và giáo dục đạo đức trong điều kiện phát triển nền
kinh tế thị trường mà cịn góp phần hướng vào việc xây dựng và phát triển
đạo đức ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, vấn đề giáo dục đạo đức mới cho sinh
viên trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện
nay là vấn đề đang biến động phức tạp vì thế cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu .
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Qua khảo sát thực trạng giáo dục đạo đức mới cho sinh viên ở các
trường đại học, cao đẳng ở Nghệ An những năm gần đây, tỏc giả đưa ra những
giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
giáo dục đạo đức mới cho sinh viên ở Nghệ An trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận của đạo đức mới và tầm quan trọng, nội dung, yêu
cầu của việc giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc giáo dục đạo đức mới cho sinh viên
các trường đại học, cao đẳng ở Nghệ An trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng XHCN hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo
đức mới cho sinh viên ở Nghệ An hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức mới cho sinh

viên các trường đại học, cao đẳng ở Nghệ An trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN hiện nay.


6
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Sinh viên đang học tập tại các trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Nghệ An,
chủ yếu là sinh viên hệ chính quy.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
về đạo đức và giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói chung và sinh viên nói
riêng. Đồng thời, tác giả cịn kế thừa có chọn lọc những giá trị của các cơng
trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp với phương pháp lịch sử - lơgíc,
phân tích và tổng hợp. Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng các phương pháp khác:
So sánh, thống kê, khảo sát thực tế, để thực hiện mục đích, nhiệm vụ đặt ra.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề
giáo dục đạo đức mới cho sinh viên ở Nghệ An trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng và hiệu quả
giáo dục đạo đức mới cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Nghệ An
hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về
giáo dục đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên ở Nghệ An

nói riêng trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay.


7
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy, giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong các trường đại học, cao
đẳng đóng tại địa bàn tỉnh Nghệ An hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn gồm 2 chương, 4 tiết.


8
Chương 1
TẦM QUAN TRỌNG, NỘI DUNG VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN VIỆT NAM TRONG
ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY
1.1. ĐẠO ĐỨC MỚI VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY

1.1.1. Đạo đức mới - cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức
1.1.1.1. Đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Ngay từ buổi bình minh của lịch sử lồi người những quan niệm đạo đức
và những nguyên tắc đơn giản để điều chỉnh hành vi con người đã xuất hiện.
Cùng với sự phát triển của sản xuất, của các quan hệ xã hội, các nguyên tắc,
chuẩn mực, giá trị đạo đức… theo đó mà phát triển lên ngày càng đa dạng,
phong phú và phức tạp hơn. Đạo đức được nảy sinh, tồn tại, phát triển trong
đời sống hiện thực con người và phản ánh quá trình sống, hoạt động giao tiếp

của chính con người. Vì vậy, từ xưa đến nay nhân loại luôn quan tâm đến vấn
đề đạo đức và đạo đức đã trở thành một trong những nhu cầu cuộc sống của
con người.
Đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội và là kết quả của sự
phát triển lịch sử. Tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử với cách tiếp cận khác
nhau mà đạo đức được hiểu theo những nghĩa không giống nhau. Ở Phương
Đông những tư tưởng đạo đức xuất hiện rất sớm và được thể hiện trong các
học thuyết của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Các học thuyết này đã đề ra các
quy tắc, chuẩn mực về đạo làm người trong các mối quan hệ về vua tôi, cha
con, vợ chồng, anh em, bạn bè, tu thân dưỡng tâm …và đều lấy đạo đức làm
cơ sở cho việc đối nhân xử thế, tự rèn luyện mình, khuyên con người làm điều
thiện tránh điều ác. Ở Phương Tây khái niệm đạo đức được bắt nguồn từ chữ


9
Mos trong ngữ vựng Latinh, có nghĩa là lề thói. Moralis có nghĩa là thói quen.
Trong tiếng Hy Lạp cịn có khái niệm Ethicos có nghĩa là tập tục gắn thói
quen. Cả hai từ này đều chỉ đạo đức của xã hội và nói về tập tục, tập quán, lề
thói trong các quan hệ giao tiếp giữa con người với con người.
Chủ nghĩa duy tâm, thần học và tôn giáo coi đạo đức là những nguyên tắc
chuẩn mực do thần thánh tạo ra để răn dạy con người. Theo họ đạo đức là
biểu hiện của một sức mạnh siêu nhiên nào đó hoặc đạo đức như là những
năng lực “tiên thiên” của lý trí con người. Vì thế, họ cho rằng sự điều chỉnh
hành vi, cách ứng xử đạo đức của con người trong đời sống xã hội là do sự
sắp đặt, an bài của thượng đế, cái thiện, cái ác là hiện thân của đấng tối cao và
là quyền uy của chúa trời. Còn các nhà đạo đức học Phương Tây hiện đại lại
đi tìm cội nguồn và bản chất của đạo đức trong bản năng sinh vật hoặc trong
tâm lý cá nhân một cách cực đoan…
Như vậy, cho dù có những khác biệt về cách thức lý giải nhưng tất cả
những quan niệm trước Mác và ngồi mácxít đều nhìn nhận đạo đức như một

sức mạnh có trước tồn tại bên ngoài các quan hệ xã hội của con người, coi
đạo đức không phải là cái phản ánh cơ sở kinh tế - xã hội.
Đối lập với những quan điểm trên, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển
của đạo đức học, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng một học thuyết đạo đức
có tính khoa học và cách mạng. Hai ông đã gắn các quan hệ đạo đức với các
phương thức sản xuất và cho rằng đạo đức là sản phẩm của những điều kiện
sinh hoạt vật chất của xã hội, nó được nảy sinh do nhu cầu đời sống xã hội
“Xét cho đến cùng mọi học thuyết đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản
phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” [50, tr.137]. Quan hệ đạo
đức là biểu hiện của quan hệ vật chất xã hội và biến đổi theo đời sống vật chất
xã hội. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen thì con người bao giờ cũng gắn các quan
niệm đạo đức của mình với hiện thực: “Con người dù tự giác hay không tự
giác, rút cuộc đều rút ra những quan niệm đạo đức của mình từ những quan hệ


10
thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là từ những quan hệ
kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao đổi” [50, tr.136] .
Những quan niệm về đạo đức, thiện ác không phải nhất thành bất biến
mà chúng sẽ thay đổi trong tiến trình phát triển của xã hội lồi người. Khi
phương thức sản xuất thay đổi thì các quan niệm đạo đức sớm hay muộn sẽ thay
đổi theo. Ở mỗi thời đại khác nhau, các biểu tượng về đạo đức cũng có sự khác
nhau. Do đó, khơng thể nói đạo đức là cái gì nhất thành bất biến xa rời hiện thực
như một số lý thuyết của các nhà đạo đức học trước kia đã đề xuất. Trong Lời
tựa tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” C.Mác viết: “Phương
thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các q trình sinh hoạt xã hội, chính
trị và tinh thần nói chung. Khơng phải ý thức của con người quyết định tồn tại
của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” [49, tr.15].
Như vậy, khác với các quan niệm trước đó C.Mác đã nhìn nhận đạo đức
như một hình thái ý thức xã hội, cùng với các hình thái ý thức xã hội khác,

đạo đức chịu sự quy định của tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội. Nghĩa
là đạo đức phản ánh những địi hỏi của chính q trình phát triển xã hội và bị
chi phối bởi điều kiện kinh tế - xã hội. Nói cách khác, các chuẩn mực, nguyên
tắc đạo đức nhằm điều chỉnh hành vi của con người chung quy lại chính là sự
phản ánh những điều kiện tồn tại, lối sống, môi trường xã hội của con người.
Từ cách tiếp cận của đạo đức học mác xít ta có thể hiểu: Đạo đức là một
hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc chuẩn mực xã
hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ
với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân,
bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Từ định nghĩa trên cho thấy đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, thuộc
bộ phận của kiến trúc thượng tầng, phản ánh hiện thực đời sống xã hội. Vì
vậy, đạo đức không phải do “mệnh trời” sinh ra hay là biểu hiện của sức mạnh
siêu nhiên nào đó mà là sản phẩm của xã hội, sản phẩm tổng hợp của các yếu


11
tố khách quan và chủ quan của hoạt động thực tiễn con người. Đạo đức mang
bản chất xã hội và được thể hiện ở tính thời đại, tính dân tộc, tính giai cấp của
nó. Đạo đức điều chỉnh hành vi, lối ứng xử, phương thức hành động của mỗi
người trong quan hệ với xã hội và với những người khác thông qua một hệ
thống các giá trị. Việc điều chỉnh này được thực hiện bằng những chuẩn mực,
quy tắc, khuôn phép đạo đức phù hợp với từng thời điểm lịch sử, từng cộng
đồng người, từng giai cấp và dân tộc.
Với tư cách là một trong những hình thái ý thức xã hội đạo đức có những
đặc điểm khác so với một số phương thức điều chỉnh hoạt động của con
người. Nếu đạo đức được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của chính chủ thể
đạo đức và được đảm bảo bằng sự kiểm soát của lương tâm con người hoặc
bằng dư luận xã hội thì đối với pháp luật, việc đánh giá, giám sát và trừng
phạt những hành vi vi phạm đều dựa trên sự bắt buộc, cưỡng chế của các cơ

quan Nhà nước hoặc do các cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện. Do vậy, sự
điều chỉnh hành vi con người bằng dư luận xã hội, bằng lương tâm chỉ có
trong lĩnh vực đạo đức. So với phong tục, truyền thống thì đạo đức cũng khác
bởi vì phong tục, truyền thống được duy trì bởi sức mạnh của một trật tự đã
ổn định, cịn đạo đức có cơ sở tư tưởng dưới hình thức những quan niệm về
việc con người phải sống và cư xử như thế nào cho phù hợp.
Đạo đức là nội dung cốt yếu của tính cách con người và là cơ sở, nền
tảng để con người xây dựng lý tưởng sống, mục đích sống của mình. Nó có
vai trị rất quan trọng trong đời sống xã hội. Sự tồn tại của xã hội bao giờ
cũng cần đến đạo đức. Chính vì vậy, đạo đức luôn được xem là một mục tiêu
của mọi thời kỳ phát triển, mọi chế độ xã hội và của cả loài người. Khi xã hội
càng tiến bộ, càng phát triển thì nhân loại càng cần đến đạo đức. Điều đó
được thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, đạo đức là một trong những phương thức dùng để điều chỉnh
hành vi con người, hướng con người vươn tới cái chân, thiện, mỹ. Với tư cách


12
là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức bao gồm những nguyên tắc, chuẩn
mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi
ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ xã hội trong mối quan hệ giữa người
với người, giữa con người với tự nhiên.
Loài người đã tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi: pháp luật,
chính trị, tơn giáo, đạo đức, nghệ thuật… Trong đó, đạo đức là phương thức
điều chỉnh đặc biệt bởi nó điều chỉnh hành vi con người trên cơ sở tự nguyện
do chính chủ thể tiến hành. Sự điều chỉnh này thông qua các con đường bên
ngoài: các chuẩn mực đạo đức, nghĩa vụ đạo đức, dư luận xã hội… và các con
đường bên trong: sự hối thúc của lương tâm và danh dự. Trên cơ sở nhận thức
được các chuẩn mực, quy tắc, nghĩa vụ đạo đức… từ hoạt động thực tiễn và
qua giáo dục bản thân chủ thể đạo đức sẽ tự nguyện thực hiện, tự điều chỉnh

các hành vi đạo đức cho phù hợp với yêu cầu xã hội. Từ đó sẽ giúp họ nhận
thức và hành động theo cái chân, cái thiện, cái mỹ.
Thứ hai, đạo đức là nhu cầu, cội nguồn của hạnh phúc, nó sẽ góp phần
nhân đạo hố con người và xã hội lồi người. Q trình hoạt động sống của
con người là quá trình đấu tranh không ngừng để cải tạo tự nhiên, cải tạo xã
hội, chống lại những lực lượng cản trở sự phát triển xã hội. Đó cũng là q
trình để thoả mãn những nhu cầu của bản thân con người, đem lại cho con
người niềm vui, những cảm giác sung sướng. Nhưng không phải mọi sự thoả
mãn đều là hạnh phúc theo đúng nghĩa của nó, mà chỉ có sự thoả mãn những
nhu cầu đạo đức thì mới tạo nên hạnh phúc chân chính cho con người. Khi
thoả mãn những nhu cầu đạo đức sẽ làm cho con người thanh thản lương tâm,
tự hào về cuộc sống và những giá trị cao đẹp của nó. Từ đó, họ sẽ biết sống
thân ái, vì nhau, biết yêu thương chia sẻ lẫn nhau, giúp đỡ nhau… hướng tới
một cuộc sống tốt đẹp đầy nhân ái. Cũng từ đây, ý thức nghĩa vụ, lương tâm
trách nhiệm của con người được nâng cao, họ sẽ tích cực cống hiến nhiều hơn
để đem lại hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội. Một xã hội chỉ thực sự


13
có hạnh phúc khi mà ở đó con người biết sống thiện với nhau và biết hành
động vì nhau.
Như vậy, lý tưởng tối cao của đạo đức là hạnh phúc, muốn có hạnh phúc
thì con người cần phải biết đấu tranh chống lại cái ác, cái phi đạo đức, cái lạc
hậu, bảo thủ và phải không ngừng học tập, lao động, sáng tạo nhằm xây dựng
xã hội đẹp, văn minh cho thế hệ hơm nay và mai sau. Đây chính là nguồn gốc
hạnh phúc chân chính của con người.
Thứ ba, đạo đức góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội.
Đạo đức được nảy sinh từ các hoạt động kinh tế nhưng nó có sự tác động trở
lại kinh tế và có vai trị tích cực trong đời sống. Lịch sử đã chứng minh sự
phát triển kinh tế và tiến bộ của xã hội không thể thiếu vai trị của đạo đức.

Khi xã hội lồi người có giai cấp, có áp bức, bất cơng thì việc chiến đấu cho
cái thiện, đẩy lùi cái ác trở thành ước mơ, khát vọng, động lực kích thích, cổ
vũ nhân loại vươn lên. Lênin nói rằng: “Đạo đức giúp xã hội lồi người tiến
lên cao hơn, thốt khỏi ách bóc lột lao động” [43, tr.371].
Sự tác động của đạo đức đến các lĩnh vực hoạt động kinh tế nhiều hay ít
phụ thuộc vào những yếu tố: bản thân ý thức đạo đức tiến bộ hay lạc hậu; ý
thức đạo đức thâm nhập vào quần chúng nhiều hay ít; khả năng giai cấp cầm
quyền hiện thực hoá tư tưởng và ý thức đạo đức của mình đối với xã hội, đất
nước đến đâu. Nếu đạo đức tiến bộ thì nó sẽ có tác động thúc đẩy sự phát
triển kinh tế. Bởi vì đạo đức là nền tảng cho việc hồn thiện và phát triển
nhân cách cá nhân, đạo đức tiến bộ là điều kiện để con người loại bỏ những
cái thấp hèn, hướng tới cái chân, thiện, mỹ. Khi những giá trị đạo đức tốt đẹp
được hình thành, tính tích cực của người lao động được phát huy sẽ tạo điều
kiện thúc đẩy kinh tế phát triển. Đồng thời, họ tham gia tích cực vào cuộc đấu
tranh vì con người, chống lại thái độ vơ nhân đạo, chống lại đói nghèo, lạc
hậu, góp phần tạo ra những điều kiện nhất định để con người thực hiện nhu
cầu của mình. Chính hoạt động lao động sáng tạo và đấu tranh của con người


14
sẽ mang lại những giá trị đạo đức ngày càng tiến bộ, làm cho quan hệ giữa
người với người trở nên thân thiện hơn, xã hội sẽ phát triển hài hoà, lành
mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần. Đây chính là điều kiện thúc đẩy sự tiến bộ
xã hội. Trong thời đại ngày nay, đạo đức càng có vai trị quan trọng trong
cuộc đấu tranh vì hịa bình, dân chủ, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Đạo
đức đang tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh vì quyền con người, chống lại
chủ nghĩa vơ nhân đạo, bảo vệ mơi sinh, chống nghèo đói, tạo ra mọi khả
năng và điều kiện thuận lợi để con người thực hiện nhu cầu của mình.
Đối với sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay, đạo đức đã, đang và sẽ có
một vai trị vơ cùng to lớn, là động lực tinh thần của người cách mạng trong việc

xây dựng và phát triển đất nước. Muốn thực hiện sự nghiệp cách mạng địi hỏi
người cách mạng phải có đạo đức và phải không ngừng rèn luyện, tu dưỡng đạo
đức cách mạng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang…”
[58, tr.283]. Khi có đạo đức cách mạng thì sẽ chiến thắng được những thói hư,
tật xấu, những tiêu cực và chủ nghĩa cá nhân trong mỗi con người.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ mới, với sự tác động mạnh mẽ của
kinh tế thế giới trong điều kiện tồn cầu hố. Việc phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đạo đức đang trở thành mối quan
tâm đặc biệt của tồn xã hội. Đạo đức đóng vai trị quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Nó sẽ góp phần xác định, củng cố
định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế và điều tiết các quan hệ lợi ích
trong nền kinh tế đó. Đồng thời, sẽ hình thành nên những con người làm kinh
tế biết tuân thủ pháp luật và các chuẩn mực đạo đức. Trong nền kinh tế thị
trường các tiêu chuẩn đạo đức và các quan niệm về giá trị đạo đức là những
yếu tố cấu thành và là tiền đề nhân văn trong các hoạt động của chủ thể kinh
tế. Với các chủ thể thị trường khác nhau thì sẽ có quan niệm đạo đức khác
nhau dẫn đến phương thức cạnh tranh khác nhau. Vì vậy, khoảng cách giữa


15
cái xấu và cái tốt, giữa cái thiện và cái ác là hết sức mong manh. Nếu người
nào thiếu bản lĩnh, thiếu kiến thức văn hoá và lương tâm nghề nghiệp thì khó
mà giữ được khoảng cách đó. Cho nên, kinh tế thị trường đòi hỏi con người
phải năng động, sáng tạo, có lịng trung thành, tận tâm với cơng việc, biết tôn
trọng kỷ cương, tuân thủ pháp luật.
Nhiệm vụ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
huy mọi tiềm lực, tiềm năng của con người, đất nước và tăng cường ý thức
trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo của người lao động. Từ đó, góp phần
hồn thiện nền văn hố mới, con người mới XHCN. Điều này sẽ là động lực

để xây dựng thành cơng CNXH và thực hiện mục tiêu vì sự tự do, dân chủ,
bình đẳng của con người, vì sự tiến bộ xã hội. Do đó, những giá trị đạo đức
mới được phát triển mạnh trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN sẽ
góp phần củng cố quan hệ sản xuất XHCN, củng cố, xây dựng Đảng, Nhà
nước trong sạch vững mạnh. Đồng thời, nó cịn góp phần điều hoà các quan
hệ riêng - chung, cá nhân - tập thể - xã hội, điều hồ lợi ích giữa các thành
viên, tầng lớp, giai cấp trong xã hội, làm giảm sự phân hoá giàu nghèo và
những tiêu cực khác của nền kinh tế thị trường.
Có thể khẳng định rằng: giữa đạo đức và nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại với nhau.
Trong đó, nhất là đạo đức mới trở thành một động lực để thúc đẩy nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển vì hạnh phúc của con người.
Chính vì vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường để cả xã hội hướng tới những
giá trị chân, thiện, mỹ thì cần phải có sự quan tâm đặc biệt trong việc định
hướng và giáo dục đạo đức. Đã đến lúc chúng ta cần phải chú trọng xây dựng
một môi trường kinh doanh trong sạch, lành mạnh hướng tới những giá trị
nhân văn, nhân bản, đảm bảo sự phát triển hài hoà, toàn diện của kinh tế và xã
hội trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.


16
Như vậy, sự ra đời, tồn tại và phát triển của đạo đức gắn liền với sự tồn
tại và phát triển của con người. Là một phương thức đặc biệt để nhận thức
cuộc sống và điều chỉnh hành vi con người nên trong mọi thời đại, mọi chế độ
chính trị khác nhau, lồi người ln cần đến đạo đức. Cho dù ở Phương Đông
hay Phương Tây, cổ đại hay hiện đại không lúc nào và không bao giờ đạo đức
lại vắng bóng và thiếu sự hiện diện của mình trong đời sống xã hội. Nó là một
trong những phương thức cơ bản để điều chỉnh hành vi của con người, là cội
nguồn của hạnh phúc và là động cơ, sức mạnh để chống lại cái ác, góp phần
thúc đẩy tiến bộ xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế.

1.1.1.2. Đạo đức mới và quá trình hình thành đạo đức mới
Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức phản ánh tồn tại xã hội. Do vậy,
mỗi khi tồn tại xã hội thay đổi, sớm hay muộn ý thức đạo đức cũng phải thay
đổi theo.
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ do lực lượng sản xuất hết sức thấp kém,
mọi người đều làm chung, hưởng chung, nhu cầu con người thấp. Trong điều
kiện đó, các quan hệ đạo đức cũng hết sức đơn giản, nó được thể hiện thơng qua
các quan hệ xã hội trên cơ sở phong tục, tập qn, thói quen, kinh nghiệm…
Khi xã hội chiếm hữu nơ lệ ra đời, chế độ tư hữu xuất hiện, loài người có
sự phân chia giai cấp. Điều này đã tạo ra sự khác biệt về vai trò, địa vị của
từng cá nhân trong cuộc sống. Từ đó bắt đầu hình thành nền đạo đức phức tạp
hơn. Đó là đạo đức của những người bóc lột và bị bóc lột. Các nền đạo đức
của chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến tuy có những vai trị, vị trí
nhất định trong quá trình phát triển của nhân loại nhưng trong các xã hội này
đạo đức đều mang tính giai cấp rõ rệt giữa kẻ thống trị và người bị trị. Vì vậy,
những chuẩn mực quy tắc đạo đức được xây dựng trên cơ sở sự áp bức, bóc
lột, nơ dịch và bất bình đẳng giữa người với người.
Chế độ tư bản ra đời, quan hệ hàng hoá, tiền tệ phát triển và thâm nhập
rộng rãi vào tất cả các mặt của đời sống xã hội. Từ đây, mở ra những quan hệ


17
kinh tế mới, xố bỏ những xiềng xích của chế độ nơng nơ và tình trạng cát cứ
của phong kiến, tạo điều kiện mở rộng thị trường trong nước và thế giới.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra năng suất lao động cao, thúc
đẩy khoa học kỹ thuật phát triển làm cho đời sống xã hội có nhiều biến đổi.
Sự thay đổi về kinh tế của CNTB đã kéo theo sự biến đổi về hệ thống đạo đức
của xã hội. Trong xã hội tư bản, quyền con người được mở rộng hơn, cá nhân
được giải phóng khỏi mọi áp bức của xã hội phong kiến và giáo hội Thiên
Chúa Giáo. Chủ nghĩa cá nhân được đề cao, trở thành nguyên tắc đạo đức cơ

bản của hệ tư tưởng và luân lý tư sản. Đạo đức tư sản thừa nhận sự tự trị và
những quyền tuyệt đối của các cá nhân trong xã hội, đem cá nhân đối lập với
tập thể, đối lập với xã hội. Điều này thúc đẩy sự phát triển con người về mặt
cá nhân một cách cực đoan, trở thành chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, vị lợi. Với lẽ
sống: mỗi người vì mình, Chúa vì tất cả, lợi nhuận là cái đáng quý nhất. Quan
hệ đạo đức trong xã hội TBCN bị chi phối bởi tính vạn năng của đồng tiền.
Cũng từ đây, xã hội tư bản đã làm nảy sinh ra một lớp người sống xa hoa trên
sự đau khổ của người khác, đó là thái độ của những kẻ vơ tâm về đạo đức.
Với lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền và những ham muốn bản năng
thấp hèn…làm cho quan hệ giữa người với người trở nên lạnh lùng, tàn nhẫn.
Nhân cách con người ngày càng bị tha hoá.
Như vậy, CNTB tuy đã tạo ra những thành tựu to lớn trong sự phát triển
về kinh tế, kỹ thuật, xã hội nhưng lại gây ra khơng ít những hậu quả tiêu cực,
nhất là sự sa đoạ về đạo đức. Những tiêu cực và mâu thuẫn trong nền đạo đức
của xã hội tư bản cần phải được khắc phục, xoá bỏ bởi sự ra đời của một nền
đạo đức mới tiến bộ hơn.
Trên cơ sở nắm vững quy luật vận động và phát triển của đạo đức C.Mác
- Ph.Ăngghen đã dự báo về sự xuất hiện của một nền đạo đức mới, đạo đức
cộng sản chủ nghĩa. Đó là nền “đạo đức thực sự có tính người, đứng trên
những đối lập giai cấp và trên mọi hồi ức về những đối lập ấy” [50, tr.137].


18
Đạo đức cộng sản - đạo đức mới bắt nguồn từ đạo đức cách mạng của
giai cấp vô sản. Về mặt lịch sử, đạo đức mới này tồn tại và phát triển trước
khi có CNXH, nó được hình thành từ cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản cách
mạng chống giai cấp tư sản (hoặc địa chủ, phong kiến ở một số nước) nhằm
thiết lập địa vị thống trị chính trị của mình. Chính nội dung của cuộc đấu
tranh này quy định sự phát triển nội dung của đạo đức cộng sản. Khi cách
mạng XHCN thắng lợi thì đạo đức cộng sản dần dần sẽ trở thành đạo đức thống

trị. Sứ mệnh của đạo đức cộng sản là góp phần thủ tiêu tận gốc sự bóc lột và áp
bức dưới bất kỳ hình thức nào. Vì vậy, nó tiêu biểu cho lợi ích của giai cấp vơ
sản, của tồn thể quần chúng lao động và bao hàm rất nhiều nhân tố đạo đức
chung của loài người. Nền đạo đức này sẽ được xây dựng trong tương lai cùng
với quá trình xây dựng xã hội mới. Khi nói về triển vọng to lớn của đạo đức mới
Ph.Ăngghen đã viết: “thứ đạo đức hiện nay đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại,
biểu hiện cho lợi ích của tương lai, tức là đạo đức vô sản, - là thứ đạo đức có một
số lượng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn một sự tồn tại lâu dài” [50, tr.136].
Đạo đức cộng sản chủ nghĩa là đạo đức của giai cấp vô sản cách mạng,
phản ánh những lợi ích căn bản của giai cấp vơ sản trong cuộc đấu tranh tự
giải phóng mình và giải phóng nhân loại thốt khỏi mọi áp bức, bất cơng, đem
lại hạnh phúc chân chính cho con người.
Sự nghiệp xây dựng đạo đức mới, đạo đức cộng sản là q trình lâu dài,
phức tạp, mang tính tự giác. Thắng lợi của giai cấp vô sản chỉ là cơ sở, nền
tảng đầu tiên cho sự xác lập đạo đức đó. Bởi đạo đức mới khơng phải là sản
phẩm tự phát mà là kết quả của quá trình giáo dục và tự giáo dục. Nhờ giáo
dục mà đạo đức mới dần dần được phát triển và hoàn thiện trong ý thức cá
nhân và ý thức xã hội, trở thành yếu tố phổ biến, thống trị trong đời sống xã
hội. Quá trình giáo dục đạo đức cộng sản là quá trình giáo dục tổng hợp, có sự
thống nhất chặt chẽ giữa học và hành, giữa lý luận và thực tiễn để hình thành
nên thế giới quan cao đẹp cùng với hoạt động thực tiễn phong phú.


19
Đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử V.I.Lênin đã khẳng
định đạo đức cộng sản là đạo đức phục vụ lợi ích đấu tranh giai cấp của giai
cấp vô sản. Người cho rằng: “Đạo đức cộng sản là đạo đức phục vụ cuộc đấu
tranh ấy, là đạo đức nhằm đoàn kết những người lao động chống mọi sự bóc lột,
chống mọi chế độ tư hữu nhỏ, vì chế độ tư hữu nhỏ trao cho một cá nhân thành
quả lao động do toàn thể xã hội sáng tạo ra” [43, tr.369]. Vì vậy, đối với một

người cộng sản “tất cả đạo đức là nằm trong cái kỷ luật đồn kết keo sơn đó và
trong cuộc đấu tranh tự giác của quần chúng chống bọn bóc lột” [43, tr.371].
V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng: “Cơ sở của đạo đức cộng sản là cuộc đấu tranh để
củng cố và hoàn thành công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản” [43, tr.372].
Do đó, tính chất và nội dung của đạo đức mới, đạo đức cộng sản bị quy định
bởi yêu cầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Để xây dựng nền đạo đức mới chúng ta cần phải tích cực đấu tranh với
những quan điểm đạo đức lạc hậu, phản động đang ngăn cản quá trình phát
triển lịch sử. Theo Lênin thì cần phải đấu tranh chống lại những thứ đạo đức
xuất phát từ những quan niệm ở ngoài nhân loại, ở ngoài giai cấp “Tất cả
những thứ đạo đức, xuất phát từ những quan niệm ở ngoài nhân loại, ở ngoài
giai cấp, chúng ta đều bác bỏ. Chúng ta nói rằng đấy chỉ là lừa bịp, dối trá,
nhồi sọ cơng nhân và nơng dân để mưu lợi ích riêng cho bọn địa chủ và bọn
tư sản” [43, tr.367]. Tuy nhiên, khi xây dựng đạo đức mới Lênin đã không
xem nhẹ những nhân tố tiến bộ của đạo đức nhân loại, bởi đạo đức cộng sản
khơng thể hình thành trên mảnh đất trống khơng mà nó phải kế thừa những
thành tựu đạo đức của xã hội trước và khắc phục những hạn chế đạo đức của
xã hội trước đó. Chính nền đạo đức này đã kế thừa, lĩnh hội và phát triển được
tất cả mọi nét đặc sắc của đạo đức, những gì ưu tú đã được sáng tạo trong lịch
sử hàng ngàn năm của những người lao động. Đạo đức mới bao hàm những
chuẩn mực cơ bản và là sự tổng kết lịch sử phát triển đạo đức của những
người lao động. Vì vậy, nó là đỉnh cao của đạo đức xã hội.


20
Đạo đức cộng sản là sản phẩm của nền sản xuất xã hội mới, mang tính
nhân văn sâu sắc với tư tưởng cốt lõi: Tất cả vì con người, tơn trọng con
người, thương yêu con người, giải phóng con người, tạo mọi điều kiện để con
người được phát triển tự do và toàn diện trong mối quan hệ hài hoà giữa cá
nhân và tập thể, cộng đồng và xã hội. Đạo đức này gắn với sứ mệnh lịch sử

toàn thế giới của giai cấp vơ sản đó là đấu tranh xoá bỏ mọi sự khác biệt và
đối kháng giai cấp để xây dựng nên một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đây chính là nguồn sức mạnh thúc đẩy sự phát triển của tiến bộ xã hội.
Như vậy, đạo đức cộng sản là khái niệm hoàn toàn mới trong lịch sử xã
hội, nó đối lập với đạo đức của giai cấp tư sản và giai cấp bóc lột khác. Đồng
thời, nó cũng khác với đạo đức của người sản xuất nhỏ. Theo V.I.Lênin, xét
về bản chất, đạo đức mới “là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn
bóc lột và góp phần đồn kết tất cả những người lao động chung quanh giai
cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản” [43,
tr.369]. Đạo đức mới là chuẩn mực của những người cộng sản về chân, thiện,
mỹ nhằm điều chỉnh hành vi ứng xử của những người cộng sản với nhau, với
tổ chức và với nhân dân lao động.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và lý luận về đạo
đức nói riêng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
nhiều cống hiến trong việc phát triển những tư tưởng đạo đức mới. Tư tưởng đạo
đức cách mạng cùng tấm gương đạo đức trong sáng của Người có vị trí đặc biệt
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới - XHCN ở nước ta hiện nay.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là hệ thống những luận điểm chuẩn
mực đạo đức có tính khoa học, thấm đượm tính nhân văn cao cả. Tư tưởng
đạo đức đó được xây dựng trên nền tảng tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác
- Lênin, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam kết hợp chặt chẽ
với những tinh hoa đạo đức của nhân loại. Đạo đức đó của Người là đạo đức
mới - đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh ln coi đạo đức mới - đạo đức cách


21
mạng là “gốc” là “nền tảng” của người cách mạng và cho rằng: Người cách
mạng có đạo đức cách mạng thì sẽ “gặp thuận lợi và thành cơng cũng vẫn giữ
tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn,… lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt
chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu,

không kiêu ngạo, khơng hủ hố” [58, tr.284]. Vì thế, trong suốt q trình hoạt
động cách mạng của mình Hồ Chí Minh ln quan tâm đến vấn đề đạo đức và
giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên, thanh niên, nhân dân ta.
Hồ Chí Minh nói nhiều về tính phổ biến và tầm quan trọng của đạo đức. Đạo
đức tồn tại, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, từ sinh hoạt hằng
ngày đến những công việc lớn lao của cách mạng như chính trị, kinh tế, văn
hố…, từ quan hệ xã hội, đồn thể đến quan hệ gia đình và thái độ đối với bản
thân. Đạo đức, nhất là đạo đức cách mạng là cội nguồn của sức mạnh để đấu
tranh và lao động hết mình vì nhân dân. Người quan niệm rằng: “Đạo đức
cách mạng. Đạo đức đó khơng phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới,
đạo đức vĩ đại, nó khơng phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung
của Đảng, của dân tộc, của loài người” [56, tr.252].
Đạo đức cách mạng là đạo đức chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc, vì sự tiến bộ của nhân loại, vì tự do hạnh phúc của mỗi người.
Mục đích cuối cùng của nó là góp phần giải phóng triệt để con người, trước hết
là giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động thốt khỏi mọi áp bức, bất công
trong xã hội. Do vậy, đạo đức cách mạng là đạo đức trong hành động cải tạo xã
hội, khẳng định phẩm chất cao quý của người lao động trong sự nghiệp đấu
tranh tự giải phóng mình. Đạo đức đó được đánh giá qua hiệu quả đóng góp cho
xã hội chứ không chỉ dừng lại ở tu thân, ở những lời giáo huấn hay cầu nguyện.
Đạo đức mới - đạo đức cách mạng theo quan niệm của Hồ Chí Minh hồn
tồn khác với đạo đức cũ, đạo đức của chế độ phong kiến. Người cho rằng:
Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên
trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất đầu


22
ngẩng lên trời. Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm,
chính nhưng khơng bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo
để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm,

chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho
nước, cho dân [57, tr.320-321].
Đạo đức mà Hồ Chí Minh hướng tới là đạo đức cách mạng, đạo đức
giai cấp công nhân, thực hiện cần, kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư, thực hành
nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, chống quan liêu, tham ơ, lãng phí. Đạo đức đó
cịn phải gắn liền với tài năng. Người hay nói đến đức và tài, hồng và chuyên
để chỉ quan hệ khăng khít giữa rèn luyện đạo đức và tài năng. Có đạo đức mà
khơng có tài năng chẳng khác gì ông bụt ngồi trong chùa. Có tài năng mà
không có đạo đức sẽ gây hại cho xã hội và tập thể. Vì vậy, người cán bộ chân
chính phải là người vừa có đức vừa có tài, giỏi về chun mơn, giỏi về cách
thức, phương pháp, biết vận dụng kiến thức đó vào hoạt động thực tiễn làm
cho ích nước lợi nhà.
Hồ Chí Minh cho rằng để có đạo đức cách mạng thì phải qua rèn luyện,
đấu tranh gian khổ với bản thân mới đạt được, cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong. Để rèn luyện đạo đức cách mạng Người đã
nêu ra 3 nguyên tắc cơ bản: Nói đi đơi với làm, nêu gương bằng những hành
động thực tế; xây đi đơi với chống, trong đó xây là yếu tố quan trọng nhất;
phải tu dưỡng suốt đời, phải bền bỉ và có quyết tâm cao. Tóm lại, đạo đức
cách mạng theo Hồ Chí Minh là:
Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là
điều chủ chốt nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực
hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng.


23
Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước
lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lịng hết sức phục vụ nhân dân. Vì
đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc.
Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, ln ln dùng tự phê

bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến cơng tác của mình
và cùng đồng chí mình tiến bộ…
Người cách mạng phải thật thấy rõ điều đó và đứng vững trên
lập trường giai cấp cơng nhân, để hết lịng hết sức đấu tranh cho chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, cho giai cấp cơng nhân và cho
tồn thể nhân dân lao động. Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung
thành với Đảng, với nhân dân [58, tr.285].
Tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh được hình thành và phát
triển gắn liền với thực tiễn cách mạng Việt Nam, đồng thời thể hiện sự phê
phán, kế thừa, chọn lọc tinh hoa truyền thống đạo đức dân tộc và đạo đức
nhân loại. Để xây dựng đạo đức mới Người chủ trương cần có sự kế thừa có
chọn lọc và đổi mới từ các nội dung của đạo đức cũ (đạo đức phong kiến, đạo
đức tư sản, đạo đức tơn giáo). Hồ Chí Minh đã từng khẳng định:
Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo Giê Su có ưu điểm là lịng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng.
Chủ nghĩa Tơn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với
điều kiện nước ta…
Tơi cố gắng làm người học trị nhỏ của các vị ấy…
Trên cơ sở nắm vững phép biện chứng duy vật và thực tiễn cách mạng
nước nhà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biết kế thừa những yếu tố tích cực, hợp lý
của hệ thống đạo đức trước đó, kết hợp đạo đức truyền thống dân tộc với đạo
đức hiện đại góp phần hình thành nên lý luận về đạo đức mới ở Việt Nam.
Nội dung của đạo đức đó thể hiện ở: Tinh thần yêu nước (trung với nước hiếu


24
với dân); tinh thần lao động cần cù, tự giác, sáng tạo; có ý thức học tập rèn
luyện vươn lên; chủ nghĩa tập thể; chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa
quốc tế; chủ nghĩa nhân đạo XHCN… Từ những nội dung cơ bản đó tuỳ vào

yêu cầu trong mỗi giai đoạn khác nhau của cách mạng mà chúng ta cần bổ
sung, phát triển, cụ thể hoá nội dung đạo đức cho phù hợp.
Như vậy, đạo đức mới - đạo đức cách mạng mà Hồ Chí Minh khởi xướng
và cùng Đảng ta xây dựng xét về tính giai cấp và mục đích nó thống nhất với
đạo đức vơ sản, đạo đức cộng sản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đạo đức mới là đạo đức gắn liền với lợi ích của giai cấp công nhân và
quần chúng nhân dân lao động. Đạo đức đó khơng chỉ được thể hiện ở tinh
thần anh dũng chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
và con người mà cịn thể hiện ở trong lao động cần cù, sáng tạo xây dựng xã
hội mới, trong tình thương u đồn kết thân ái giữa giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Chính vì thế, đạo đức mới là sự phản ánh thực tiễn cuộc
đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân, nhân dân lao động.
Từ sự phân tích trên chúng ta có thể hiểu:
Đạo đức mới là đạo đức của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động tiến bộ, phản ánh thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, là tổng hoà các phẩm chất chính
trị và phẩm chất đạo đức tạo nên nền tảng nhân cách của con người
mới, nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng cải
tạo xã hội cũ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội [32, tr.80].
Bắt nguồn từ đạo đức cách mạng của giai cấp cơng nhân, đạo đức mới
chính là sự biểu hiện của đạo đức cách mạng trong giai đoạn xây dựng và
phát triển xã hội mới. So với tất cả các nền đạo đức đã có trước đây thì đạo
đức mới có bước phát triển về chất. Điều đó được biểu hiện ở tính cách mạng
và khoa học của nó. Tính cách mạng và khoa học của đạo đức mới được thể


25
hiện ở sự kế thừa có phê phán chọn lọc những giá trị đạo đức trong các thời
đại trước (trong đó nó chứa đựng tất cả những nội dung tốt đẹp nhất của các

nền đạo đức mà nhân loại đã trải qua); ở sự phản ánh sáng tạo thực tiễn cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; ở chỗ nó ln được bổ
sung, phát triển cho phù hợp với yêu cầu của cách mạng trong từng giai đoạn,
nó hồn tồn khơng cố định, khơng mang tính giáo điều. Đạo đức mới cịn có
chức năng chỉ đạo hành vi con người trong hoạt động cải tạo xã hội, là công
cụ để phá huỷ xã hội cũ của giai cấp bóc lột để sáng lập ra xã hội mới của
những người vô sản và nhân dân lao động tiến bộ.
Sự khác biệt của đạo đức mới so với đạo đức cũ khơng phải ở hình thức
ngơn ngữ mà ở nội dung của nó. Nội dung của đạo đức mới được thể hiện ở
những nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa tập thể là cơ sở của đạo đức mới.
Chủ nghĩa tập thể là sự thống nhất tự giác giữa các cá nhân vì những lý
tưởng cao quý của con người. Đó là sự thống nhất của tình đồng chí, tinh thần
trách nhiệm, thái độ tơn trọng, tinh thần hợp tác, tương trợ và tận tình chăm
sóc lẫn nhau, nhằm bảo đảm cho các cá nhân phát triển cao nhất, phục vụ lợi
ích xã hội. Chủ nghĩa tập thể là kết quả của sự phát triển hợp quy luật của lịch
sử loài người. Dưới CNXH, chủ nghĩa tập thể trở thành quan hệ xã hội phổ
biến được thể hiện trong mọi quan hệ xã hội và trong mọi hình thức của đời
sống xã hội. Trong đó biểu hiện quan hệ mới giữa cá nhân và xã hội, lợi ích cá
nhân và lợi ích xã hội có sự kết hợp hài hoà, thống nhất với nhau.
Chủ nghĩa tập thể là nguyên tắc, là cơ sở khoa học và là trung tâm của
đạo đức mới. Ở đây, con người không chỉ nghĩ và hành động vì mình mà cịn
vì người khác với một tinh thần, thái độ, trách nhiệm cao thực hiện mục tiêu
chung phù hợp với sự tiến bộ xã hội. Vì thế, nó là cơ sở của chủ nghĩa nhân
đạo cao nhất. Chỉ có sống trong tập thể cá nhân mới có điều kiện phát huy hết
năng lực của mình để thực hiện những mục đích nhất định. Do đó, chủ nghĩa


×