Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Ths triết học tư tưởng về chính quyền của john locke trong tác phẩm khảo luận thứ hai về chính quyền chính quyền dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.07 KB, 118 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau giai đoạn phát triển mạnh mẽ ở thời kỳ Hy - La cổ đại rồi lụi tàn
vào thời kỳ Trung cổ, các học thuyết về chính quyền chỉ thực sự phát triển rực
rỡ kể từ thời kỳ Phục hưng và đạt đến đỉnh cao vào thời kỳ Khai sáng ở Tây
Âu thế kỷ 17, 18. Những tư tưởng về chính quyền được khởi xướng trong thời
kỳ Khai sáng bởi các nhà tư tưởng lỗi lạc như John Locke, Montesquieu,
Rousseau, v.v … đã đưa ảnh hưởng của phong trào Khai sáng vượt ra khỏi
thời đại của họ. Tạo nên những chuẩn mực, giá trị làm nền tảng cho sự hình
thành và phát triển của hầu hết các hình thức nhà nước ở châu Âu và thế giới
hiện đại.
Trong bối cảnh chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân - một hình thức chính thể nhà nước chưa
có tiền lệ trong lịch sử - thì vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu trên tinh thần tiếp thu
có phê phán tinh hoa tư tưởng của nhân loại những tư tưởng triết học chính trị
về chính quyền của các nhà tư tưởng lỗi lạc phi Mác xít trong lịch sử - trong
đó có các triết gia thời kỳ Khai sáng - là việc làm cấp thiết, có ý nghĩa rất
quan trọng về lý luận lẫn thực tiễn.
Tìm hiểu tư tưởng chính quyền của John Locke trong tác phẩm Khảo
luận thứ hai về chính quyền - Chính quyền dân sự - một trong những tác
phẩm được xem là vĩ đại nhất của nền triết học chính trị và chính trị học nhân
loại - khơng đơn thuần chỉ nhằm nâng cao nhận thức vấn đề học thuật thuộc
lĩnh vực lịch sử triết học. Quan trọng hơn là thông qua đó, góp phần nâng cao
nhận thức và tìm phương hướng cho những vấn đề thực tiễn chính trị, xã hội
trong việc xây dựng chính quyền của dân, do dân và vì dân mà chúng ta đang
phấn đấu hiện nay. Đó là lý do chúng tơi chọn “Tư tưởng về chính quyền của
John Locke trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền - Chính quyền
dân sự làm đề tài nghiên cứu của luận văn.



2
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những thập kỷ trước đây, do những lý do chủ quan và khách
quan khác nhau, việc nghiên cứu các học thuyết tư sản nói chung và triết học
chính trị của John Locke nói riêng ở Việt Nam cịn khá khiêm tốn. Những tư
tưởng của John Locke nói chung bắt đầu được nhắc tới trong các Tân văn,
Tân thư cũng như trong các tài liệu sách báo du nhập vào Việt Nam đầu thế
kỷ XX. Tuy nhiên, cho đến nay, hầu như chưa có những tài liệu nghiên cứu cụ
thể và cơng phu (dưới góc độ triết học chính trị) tư tưởng về chính quyền của
John Locke.
Hiện nay, tư tưởng triết học nói chung, triết học chính trị nói riêng của
John Locke chủ yếu được trình bày một cách đại cương hoặc trích tuyển trong
một số tác phẩm lịch sử triết học hoặc lịch sử tưởng chính trị như: Tuyển tập
danh tác Triết học từ Plato đến Derrida (Forrest E.Baird, Nxb Văn hóa thơng
tin, 2006); Nhập mơn về Triết học (Samuel Enoch Stumpf & Donald C.Abel,
Nxb Tổng hợp Tp. HCM, 2004); Câu chuyện Triết học (Bryan Magee, Nxb
Thống kê, 2003); Lịch sử Triết học (Nxb Tư tưởng Văn hóa, 1991); Đại
cương lịch sử Triết học Phương Tây (Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh, Nguyễn
Anh Tuấn, Nxb Tổng hợp Tp. HCM, 2006); Lịch sử các tư tưởng chính trị
(Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Phân viện Báo chí và Tuyên
truyền, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001) …
Tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền - Chính quyền dân sự
của John Locke (bản dịch tiếng Việt) do Lê Tuấn Huy dịch và giới thiệu
(dịch theo bản tiếng Anh: John Locke, Two Treatises of Government
(Cambridge Text in History of Political Though), Cambridge University
Press 1960, 1967, 1988, 17 th printing 2005) là tác phẩm triết học đặc sắc và
nổi tiếng đầu tiên của John Locke lần đầu tiên chính thức xuất hiện ở Việt
Nam vào năm 2007 do nhà xuất bản Tri thức ấn hành. Đây là cơng trình
nghiên cứu và dịch thuật rất công phu về một tác phẩm cụ thể của John



3
Locke hiện nay. Ở tác phẩm này, trong lời giới thiệu tác phẩm hết sức sắc
sảo, dịch giả Lê Tuấn Huy đã cung cấp những tư liệu lịch sử rất quan trọng
về thân thế, sự nghiệp và hoàn cảnh ra đời của tư tưởng về chính quyền của
John Locke. Đây là tác phẩm gốc để luận văn nghiên cứu những tư tưởng
về chính quyền trong tác phẩm.
Trên các tạp chí Triết học, Luật học, Nhà nước và Pháp luật, Lý luận
chính trị, Nghiên cứu Con người … cũng có một số bài viết đề cập đến tư
tưởng quyền tự do của công dân, nhà nước pháp quyền, thân thế, sự nghiệp và
giá trị tư tưởng triết học của John Locke như: Một số tư tưởng triết học chính
trị của Gi.Lốccơ: Thực chất và ý nghĩa lịch sử (Đinh Ngọc Thạch, tạp chí
Triết học số 1, 2007); John Locke - Nhà tư tưởng lớn của phong trào khai
sáng (Phạm Văn Đức, tạp chí Triết học số 2, 2008); Locke và Triết lý về con
người (Lê Cơng Sự, tạp chí Nghiên cứu con người số 3, 2009).
Ngồi ra, tư tưởng về chính quyền của John Locke cũng được đề cập đến
một cách khái lược trong một số cơng trình chun khảo, luận văn, luận án liên
quan đến đề tài nghiên cứu, chẳng hạn tác phẩm: Sự hạn chế quyền lực nhà
nước (Nguyễn Đăng Dung, Nxb Đại học quốc gia, 2006); Tư tưởng phân chia
quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước (Nguyễn
Thị Hồi, Nxb Tư Pháp, Hà Nội, 2005); Triết học chính trị Montesquieu với việc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Lê Tuấn Huy, Luận
án Tiến sỹ Triết học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh,
2004); Góp phần nghiên cứu hiến pháp và nhà nước pháp quyền (Bùi Ngọc
Sơn, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005) … Tuy vậy, có thể nói việc đi sâu nghiên cứu
triết học chính trị của John Locke nói chung và tư tưởng về chính quyền của
John Locke trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền - Chính quyền dân
sự vẫn là mảng trống cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ.
Những cơng trình nghiên cứu kể trên dù đề cập đến tư tưởng của John
Locke dưới góc độ triết học, chính trị học, luật học, đạo đức học, xã hội học ở



4
các cấp độ khác nhau, chưa trực tiếp nghiên cứu sâu tư tưởng về chính quyền
thì vẫn là những tài liệu tham khảo hết sức có giá trị cho luận văn chúng tôi.
Do những điều kiện hạn chế về ngoại ngữ, chúng tôi chưa trực tiếp
nghiên cứu tác phẩm gốc Khảo luận thứ hai về chính quyền - Chính quyền
dân sự của John Locke cũng như các tài liệu liên quan bằng tiếng nước ngoài.
Luận văn chủ yếu dựa trên tư liệu đã được dịch ra tiếng Việt và những nghiên
cứu ở trên làm tư liệu tham khảo. Chính vì thế, những phân tích, đánh giá ở
trong luận văn khơng tránh khỏi những hạn chế nhất định.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là phân tích làm rõ những tư tưởng cơ bản về
chính quyền của John Locke trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính
quyền - Chính quyền dân sự, từ đó rút ra ý nghĩa đối với việc xây dựng chính
quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân lao động ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn tập trung vào những nhiệm
vụ sau:
- Phân tích chỉ rõ những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng
cho sự ra đời của tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền - Chính quyền
dân sự và tư tưởng về chính quyền của John Locke.
- Phân tích làm rõ tư tưởng cơ bản về chính quyền trong Khảo luận
thứ hai về chính quyền - Chính quyền dân sự của John Locke.
- Rút ra một số ý nghĩa đối với việc xây dựng chính quyền của nhân
dân lao động ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn này được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và dựa vào phương pháp luận mác xít nghiên

cứu lịch sử triết học.


5
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của phép biện chứng duy vật trong
nghiên cứu. Đồng thời phối hợp với các phương pháp khác như: phương pháp
lịch sử và lơgíc, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh, khái
quát hóa.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung phân tích các tư tưởng về chính quyền của John Locke
trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền - Chính quyền dân sự (dựa
theo bản dịch của Lê Tuấn Huy, do nhà xuất bản Tri thức phát hành năm 2007).
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung vào những nội dung tư tưởng cơ bản về chính
quyền của John Locke trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền Chính quyền dân sự. Ở trong luận văn này, những tư tưởng về chính quyền
của John Locke chủ yếu được xem xét từ góc độ triết học chính trị.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Từ việc nghiên cứu những tư tưởng cơ bản về chính quyền của John
Locke, có sự so sánh, đối chiếu với tư tưởng của một số nhà tưởng tiêu biểu
khác, luận văn đã chỉ ra những giá trị và hạn chế của tư tưởng Locke trong tác
phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền - Chính quyền dân sự. Do vậy, luận
văn có thể xem là cố gắng bước đầu nghiên cứu chuyên sâu về tác phẩm này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu về
lịch sử triết học phương Tây nói chung và các học thuyết triết học giai đoạn
Khai sáng nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 9 tiết.


6
Chương 1
NHỮNG TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ VÀ LÝ LUẬN CHO SỰ HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG VỀ CHÍNH QUYỀN CỦA JOHN LOCKE
1.1. KHÁI LƯỢC THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP VÀ TÁC PHẨM CỦA JOHN LOCKE

John Locke (1632 - 1704) sinh tại thành phố Wrington, Somerset, nước
Anh, trong một gia đình Thanh giáo khơng giàu có. Cha ơng là một luật sư có
khuynh hướng chính trị ủng hộ phe Nghị Viện chống lại Vua Charles I trong
cuộc nội chiến Anh.
Vào năm 1647, khi 15 tuổi, Locke vào học trường Westminster School
ở London, một trong những trường trung học tốt nhất nước Anh lúc bấy giờ
nhưng phương pháp giáo dục vẫn cịn mang nặng tính kinh viện của thời
trung cổ. Tại đây Locke rất say mê môn học ngữ văn Hy Lạp cổ đại, tiếng Do
Thái cổ và tiếng Ả Rập cổ. Năm 1652 ông nhập học trường Christ Church một trường đại học hàng đầu của Oxford, chuyên tâm nghiên cứu về triết học
và các khoa học khác như tốn, ngơn ngữ … Locke tốt nghiệp đại học năm
1656 và nhận học vị thạc sỹ văn chương năm 1658. Sau đó được bổ nhiệm
làm phụ giảng tiếng La tinh và Hy Lạp tại Oxford vào 1659. Vào đầu những
năm 1660, do ảnh hưởng của triết học Descartes cũng như sự phát triển của
khoa học tự nhiên ở Anh nên Locke bắt đầu nghiên cứu sâu các khoa học tự
nhiên. Niềm đam mê này đã đưa ông đến với y học và vào năm 1661, ông bắt
đầu theo học ngành này.
Lựa chọn này đem lại cơ hội cho Locke kết bạn với Bác sỹ David
Thomas. Từ mối quan hệ này, vào năm 1662, Locke được tiếp xúc và trở thành
bạn thân với Lord Ashley, tức Bá tước Shaftesbury, một trong những người giàu
có nhất nước Anh và rất có thế lực trong chính quyền đồng thời là lãnh tụ của

nhóm đối lập với Vua Charles II ở Nghị viện lúc bấy giờ. Năm 1667, Ashley mời
Locke đến London với tư cách là bác sỹ riêng, đồng thời là thư ký, người nghiên


7
cứu và phụ trách đặc vụ chính trị cho ơng. Từ đây, Locke bắt đầu tham gia vào
các vấn đề xã hội trên cương vị thư ký Ủy ban Thương mại và Thuộc địa của
Ashley. Đây là điều kiện thuận lợi giúp cho Locke có cơ hội đi nhiều nơi và gặp
rất nhiều nhà tư tưởng hàng đầu thời ấy. Mơi trường này đã góp phần củng cố và
phát triển những tư tưởng chính trị cấp tiến ở Locke.
Trong thời gian từ 1675 đến 1679, Locke đã sang Pháp để nghiên cứu
triết học René Descartes, Piere Gassendi và thiết lập quan hệ với những nhà
tư tưởng vĩ đại nhất thời bấy giờ.
Năm 1681, Bá tước Shaftesbury bị kết tội mưu phản và bị tống giam
(do Ashley cầm đầu cuộc vận động thông qua một dự luật nhằm loại trừ Quốc
Vương James II và ngăn chặn hồng đệ của ơng kế vị nhưng bị thất bại), sau
đó dù được tuyên trắng án và được tha bổng nhưng Shaftesbury cùng Đảng
Quê hương của ơng lại tiếp tục dính vào kế hoạch ám sát nhưng bất thành đối
với James II nên phải chạy trốn sang Hà Lan vì sợ nguy hiểm đến tính mạng
vào tháng 11 - 1682.
Khơng cịn có người bảo trợ, với vai trò là thư ký và cố vấn mật thiết
với Shaftesbury nên Locke cũng phải lưu vong sang Hà Lan để tránh sự tầm
nã của chính quyền James II. Tại Hà Lan, Locke là một trong những người cố
vấn trực tiếp cho William Orange (người Hà Lan và là con rể James II) trong
kế hoạch đưa ông ta lên ngơi Hồng đế nước Anh. Khi cuộc cách mạng 1688
thành công, James II bị lật đổ, Locke trở về nước cùng William Orange và
Mary - bây giờ đã là vua và hoàng hậu nước Anh.
Sau khi về nước, Locke tiếp tục làm việc trong chính quyền mới, nắm
giữ các chức vụ quan trọng như Ủy viên Tòa Phúc thẩm, Ủy viên Thương mại
và canh nông cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1700.

Có thể nói, tố chất thơng minh cùng với sự đam mê nghiên cứu khoa
học không ngừng nghỉ trong suốt cuộc đời và kinh nghiệm thực tiễn hoạt
động chính trị phong phú đã giúp Locke đã đạt được những thành công rực rỡ


8
cả trong lĩnh vực nghiên cứu triết học và thực tiễn hoạt động chính trị. Đây là
một yếu tố rất quan trọng giúp cho Locke viết nên một loạt tác phẩm nổi tiếng
và hầu hết được công bố sau thời kỳ cách mạng 1688 như Luận về nhận thức
con người (An Essay Concerning Human Understanding, 1689), Hai khảo
luận về chính quyền (Two Treatises of Government, 1689), Thư bàn về sự
khoan dung (A Letter Concerning Toleration, 1689), Một số suy nghĩ về giáo
dục (Some Thoughts Concerning Education, 1693), Tính hợp lý của Thiên
Chúa giáo (The Reasonableness of Christianity, 1695).
Hai khảo luận về chính quyền bao gồm Khảo luận thứ nhất về chính
quyền được Locke viết ra để phê phán quan niệm “chính quyền thần thánh” của
lý thuyết gia chính trị Sir Robert Filmer (1588 - 1653) và Khảo luận thứ hai về
chính quyền, với tựa phụ là Luận về nguồn gốc, phạm vi và mục đích chân chính
của chính quyền dân sự, được dịch giả Lê Tuấn Huy làm rõ tựa đề khi dịch sang
tiếng Việt là Khảo luận thứ hai về chính quyền - Chính quyền dân sự.
Khảo luận thứ hai về chính quyền - Chính quyền dân sự được xem là
một trong những tác phẩm “vĩ đại nhất của nền triết học chính trị và chính trị
học nhân loại” [40, tr.5], một học thuyết về nhà nước được Locke viết ra để
phục vụ cho cuộc cách mạng lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế Anh 1688.
Tác phẩm này đã được xuất bản và tái bản nhiều lần ngay khi Locke cịn sống
và thời gian sau đó.
Chính mơi trường cấp tiến của gia đình, cùng với sự trải nghiệm những
hạn chế mang tính chất bảo thủ, kinh viện của chế độ phong kiến chuyên chế
trong hệ thống giáo dục mà Locke đã trải qua ở thời trung học và đại học,
cũng như từ sự trải nghiệm thực tiễn xã hội - chính trị đầy sơi động ở nước

Anh và Châu Âu vào thời Locke sống đã giúp ông viết nên những tư tưởng rất
có giá trị trong tác phẩm với một tinh thần cách mạng triệt để chống chế độ
quân chủ phong kiến chuyên chế cùng những hình thức chính thể phi lý tính
và phi nhân tính khác một cách không khoan nhượng.


9
1.2. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN
CỦA TƯ TƯỞNG VỀ CHÍNH QUYỀN CỦA JOHN LOCKE

Điều kiện kinh tế
Đến thế kỷ XVII, nước Anh là một trong những nước phát triển nhất
châu Âu khi ấy. Những phát minh mới về kỹ thuật liên tiếp ra đời, nhất là
những hình thức tổ chức mới trong lao động đã làm cho năng suất lao động
ngày càng tăng, tạo nên những thay đổi chóng mặt trong đời sống xã hội nói
chung và kinh tế nói riêng.
Cơng nghiệp nước Anh đã có bước tiến vượt bậc với sự xuất hiện
những công trường thủ công với hàng ngàn người lao động làm thuê thay thế
dần các phường, hội. Các ngành cơng nghiệp khai mỏ, đóng tàu, sản xuất đồ
gốm, kim khí và nhất là nghề dệt len dạ cũng cực kỳ phát triển. Đồng thời
xuất hiện những ngành sản xuất mới ra đời như bông, giấy, tơ lụa, thủy tinh,
xà phòng …
Thương nghiệp cũng đạt được nhiều thành tựu to lớn nhờ sự bành
trướng của ngành hàng hải. Thị trường dân tộc được hình thành, thương nhân
Anh mở rộng buôn bán với thị trường thế giới, thành lập những công ty
thương mại hoạt động từ Baltique đến châu Phi, từ Trung Quốc đến châu Mỹ.
Năm 1568, sở giao dịch của chính phủ Anh được thành lập và có một ảnh
hưởng rộng khắp châu Âu. Đến thời kỳ cách mạng tư sản Anh, sự lưu thông
về ngoại thương đã tăng gấp hai lần so với đầu thế kỷ XVII.
Mặc dù cơng - thương nghiệp đã có những bước phát triển đáng kể

nhưng nước Anh đầu thế kỷ XVII về cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp.
Trong số 5 triệu rưỡi cư dân, chỉ có 1/5 ở thành thị, cịn 4/5 ở nơng thơn.
Trong giai đoạn này đã có sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản vào nông thôn.
Thể hiện ở việc quý tộc và tư sản chiếm đoạt ruộng đất của nông dân để chăn
nuôi cừu do tác động của sự phát triển công nghiệp len dạ. Việc chuyển đồng
lúa thành đồng cỏ để chăn cừu, đem lại hai hậu quả: số người trắng tay bị


10
tước đoạt ruộng đất, nghĩa là bị tách khỏi tư liệu sản xuất ngày càng đông, trở
thành một đội quân lao động của nền cơng nghiệp; số tiền tích lũy nhờ việc
bán lông cừu ngày càng nhiều trở thành nguồn tư bản, bỏ vào kinh doanh
cơng thương nghiệp. Đó chính là q trình tích lũy ngun thủy, làm tiền đề
cho sự phát triển tư bản ở Anh. C.Mác viết: “… Cơ sở của tồn bộ q trình
tiến triển này chính là sự tước đoạt ruộng đất của nông dân chỉ được tiến hành
triệt để ở nước Anh thơi; vì vậy trong sự phác họa sau đây của chúng ta, tất
nhiên là nước Anh sẽ giữ một địa vị bậc nhất” [5, tr.762].
Như vậy, sự phát triển công - thương nghiệp tư bản chủ nghĩa là tiền đề làm
thay đổi bộ mặt nước Anh. Quan hệ sản xuất mới - tư bản chủ nghĩa dần dần hình
thành, tạo nên những yếu tố cách mạng trong lòng xã hội phong kiến đang tan rã.
Bối cảnh chính trị - xã hội
Đặc điểm của sự phát triển kinh tế có ảnh hưởng quyết định đến sự
phân bố lực lượng giữa các giai cấp trong xã hội vốn rất phức tạp ở nước Anh
lúc bấy giờ cũng như những xung đột về lợi ích và tư tưởng của giai cấp và
tầng lớp trên chính trường nước Anh khi ấy.
Hàng ngũ quý tộc Anh bị phân hóa làm hai bộ phận. Một là đại quý tộc,
chiếm địa vị cao trong xã hội, gắn liền vận mệnh với chế độ quân chủ chuyên
chế, bảo vệ trật tự phong kiến và được sự ủng hộ của phong kiến nước ngồi.
Đó là thế lực phản động nhất, ngoan cố chống đối cách mạng, trở thành đối
tượng của cách mạng tư sản Anh sau này.

Hai là trung và tiểu quý tộc, chuyển sang kinh doanh theo phương thức
tư bản chủ nghĩa, gọi là quý tộc mới, tức là quý tộc “tư sản hóa”, đây là một
tầng lớp đặc biệt gắn chặt quyền lợi với giai cấp tư sản. Sự liên minh giữa quý
tộc mới và tư sản trong cuộc đấu tranh cách mạng là một đặc điểm nổi bật ở
nước Anh giữa thế kỷ XVII.
Cũng tương tự như hàng ngũ quý tộc, thành phần giai cấp tư sản Anh
vào đầu thế kỷ XVII về cơ bản cũng không đồng nhất, được chia làm hai tầng


11
lớp. Tầng lớp trên gồm hàng trăm nhà đại công - thương nghiệp, nắm những
công ty độc quyền lớn được tự do kinh doanh, có nhiều đặc quyền đặc lợi. Vì
vậy, tầng lớp này gắn chặt số mệnh với chế độ phong kiến, chủ trương duy trì
nhà vua và chế độ phong kiến, chỉ đòi hỏi cải cách nhỏ để tăng thêm quyền
lực chính trị và ưu thế kinh tế mà thôi.
Tầng lớp đông đảo trong giai cấp tư sản là những thương nhân tự do,
chủ các công trường thủ cơng, những người kinh doanh ở thuộc địa. Họ có
thái độ chống lại nhà vua vì những biện pháp duy trì phường hội, chế độ độc
quyền thương mại của triều đình ngăn cản sự phát triển kinh tế cơng thương
nghiệp của họ. Vì vậy, họ trở thành tầng lớp tư sản tích cực trong cuộc đấu
tranh chống phong kiến, trở thành lực lượng đại biểu cho phương thức sản
xuất mới chống lại phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu.
Nông dân Anh cũng bị phân hóa thành những tầng lớp khác nhau: Nông
dân tự do, nông dân tá điền, cố nơng. Tá điền có số lượng đơng nhất, chiếm
khoảng 60 đến 75% nông dân. Bộ phận cùng cực nhất trong nơng thơn Anh là
những người cố nơng, có khoảng 40 vạn người. Họ chịu hai tầng áp bức của
quý tộc phong kiến và tư sản. Do đó, họ có thái độ kiên quyết và đóng một vai
trị đáng kể trong những cuộc khởi nghĩa nông dân suốt thế kỷ XVI - đầu thế
kỷ XVII và trong cuộc cách mạng tư sản Anh sau này.
Cùng với sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa, phong trào cải

cách tôn giáo cũng góp phần tạo nên những chuyển biến mới trong đời sống
văn hóa, tinh thần và xã hội ở nước Anh. Thanh giáo ra đời và xâm nhập vào
nước Anh, trở thành đối trọng với tôn giáo cũ là Anh giáo - vốn được sử dụng
như công cụ thống trị tinh thần của giai cấp phong kiến, với người đứng đầu
giáo hội là vua Anh. Giáo lý Thanh giáo đòi hỏi sinh hoạt tơn giáo phải đơn
giản hóa, loại bỏ những nghi lễ phiền tối, đặt niềm tin ở chính bên trong con
người chứ không phải bằng nghi thức tôn giáo bên ngồi. Điều đó thể hiện
tính chất tiến bộ của Thanh giáo so với Anh giáo và phù hợp với yêu cầu của


12
giai cấp tư sản là dành nhiều thời gian và tiền bạc cho việc phát triển kinh
doanh. Những người cánh tả trong Thanh giáo, còn gọi là phái độc lập chủ
trương khơng thừa nhận một quyền lực nào khác ngồi “quyền thiêng liêng
của Thượng đế”, khơng gắn mình vào một mệnh lệnh nào nếu nó mâu thuẫn
với “chân lý tự nhiên”. Điều này đã đưa đến những mâu thuẫn không thể điều
hịa giữa những tín đồ Thanh giáo - đại biểu cho hệ tư tưởng cấp tiến với Cơ
đốc giáo - đại diện cho hệ tư tưởng bảo thủ, vốn được chính quyền qn chủ
chun chế hậu thuẫn. Trong hồn cảnh nước Anh, một trong những nước đầu
tiên đang trong quá trình tan rã của chế độ phong kiến, ảnh hưởng của thời kỳ
trung cổ cịn nặng nề thì những tư tưởng mới khơng biểu hiện hồn tồn thuần
túy, cơng khai, mà phải khốc một bộ áo tơn giáo. Đó là lý do vì sao ta thấy
trong học thuyết của Locke và hầu hết các nhà khai sáng Anh cũng như ở
châu Âu đều “ẩn hiện” hình ảnh của Thượng Đế nhưng rất khác với thời kỳ
trung cổ, hình ảnh Thượng đế của thời kỳ khai sáng luôn tượng trưng cho lý
tính, nhân tính và tự do của con người.
Cơ cấu xã hội - giai cấp phức tạp như vậy đã có sự tác động mạnh mẽ
đến cơ cấu quyền lực và sự xung đột về lợi ích và quyền lực trong chính
quyền nước Anh. Mặc dù Nghị viện ở Anh được thành lập từ thế kỷ XIII,
nhưng cho đến trước cách mạng 1688, nước Anh vẫn là quốc gia phong kiến

quân chủ chuyên chế, về cơ bản vua nắm trong tay mọi cơ quan cao cấp cai trị
đất nước. Vua có quyền kiểm tra các hoạt động xét xử, hành pháp. Vua còn là
người đứng đầu giáo hội Anh, nắm trong tay cả vương quyền lẫn thần quyền.
Năm 1603, Nữ hồng Elisabeth chết, khơng có con nối ngơi, chấm dứt thời kỳ
thống trị của Vương triều Tudors. Người kế vị là James I mở đầu triều đại
Stuart ở nước Anh. Sau khi lên ngôi, James I (1566-1625) và tiếp theo là
Charles I (1600-1649) đại diện cho quyền lợi của quý tộc phong kiến chống
lại quyền lợi của giai cấp tư sản, quý tộc mới và quần chúng nhân dân, thi
hành chế độ độc quyền trong sản xuất, ngoại thương và một phần nội thương;


13
đặt ra những quy chế rất chặt chẽ để kiểm sốt các ngành cơng nghiệp; đàn áp
và trục xuất tín đồ Thanh giáo, không đếm xỉa đến khát vọng của giai cấp tư
sản muốn tự do kinh doanh và muốn khẳng định vị thế của mình. Do đó mâu
thuẫn giữa nhà vua và thế lực tư sản quý tộc mới, giai cấp tư sản và nhân dân
lao động diễn ra ngày càng gay gắt. Những cuộc đấu tranh tranh giành quyền
lực giữa nhà vua với tư sản cũng diễn ra quyết liệt trong nghị viện. Lúc này ở
nghị viện hầu hết các đại biểu là tư sản hoặc quý tộc mới (quý tộc tư sản hóa).
Nên về thực chất, nghị viện là dinh lũy chính trị của giai cấp tư sản. Cuộc đấu
tranh đó đã châm ngịi cho những cuộc đấu tranh của quần chúng mà đỉnh
điểm là sự bùng nổ của cuộc cách mạng tư sản Anh.
Quá trình cách mạng ở Anh diễn ra qua hai cuộc nội chiến: cuộc nội
chiến lần thứ nhất (1642 - 1646) và cuộc nội chiến lần hai (1648). Ngày
22/8/1642, vua Charles I chính thức tuyên chiến với lực lượng cách mạng
(lực lượng tư sản tiến bộ và toàn thể quần chúng nhân dân). Lúc này xuất
phát từ những quyền lợi khác nhau, nội bộ nghị viện phân hóa thành hai
phái: Phái trưởng lão chiếm đa số, đại diện cho tầng lớp đại tư sản, chủ
trương thỏa hiệp với nhà vua, coi chiến tranh là phương tiện để ép vua phải
nhượng bộ một số quyền lợi. Phái độc lập chiếm thiểu số trong nghị viện,

đại diện cho quyền lợi của tầng lớp tư sản bậc trung, được sự ủng hộ của
đông đảo quần chúng nhân dân, có thái độ kiên quyết với nhà vua hơn.
Thái độ đối với chiến tranh và cuộc tranh giành quyền lãnh đạo trong nội
bộ giai cấp tư sản có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình diễn biến của nội
chiến cách mạng.
Lúc đầu quân đội nghị viện liên tiếp bị thất bại. Nhưng sau đó do được
cải tổ lại nhanh chóng phản cơng thắng lợi dưới sự chỉ huy của Cromwell
(1599 - 1658) - một lãnh tụ xuất sắc của phái độc lập và là lãnh tụ của cách
mạng tư sản. Năm 1646, Charles I bị bắt, cuộc nội chiến lần I kết thúc. Sau
cuộc nội chiến lần thứ I, phái độc lập khống chế được nghị viện, nhưng lại


14
tiếp tục chủ trương thương lượng với vua để hợp pháp hóa chính quyền tư sản
do họ nắm giữ và không đáp ứng các yêu cầu của quần chúng nhân dân.
Trong lúc phái trưởng lão và sau đó là phái độc lập tìm cách thương
lượng với nhà vua để tìm một giải pháp trung hịa thì Charles I vẫn ngoan cố
và tìm cách phục hồi chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến. Sau khi trốn
khỏi nhà giam, Charles I tập hợp lực lượng phản kích lại lực lượng cách
mạng. Cuộc nội chiến lần thứ 2 bùng nổ. Quân đội do Cromwell chỉ huy đánh
bại quân đội nhà vua, đến tháng 8-1648 cuộc nội chiến kết thúc, Charles I lại
bị bắt.
Trước áp lực của quần chúng nhân dân, ngày 23/12/1648, nghị viện
trong tay phái độc lập thông qua sắc lệnh xét xử nhà vua. Ngày 30/1/1649
Charles I đã bị xử tử, đánh dấu sự sụp đổ của chế độ quân chủ chuyên chế
phong kiến.
Ngày 19/5/1649, trước sức mạnh đấu tranh của quần chúng, nền cộng
hịa được tun bố chính thức thành lập. Hạ nghị viện nắm quyền lập pháp.
Thượng nghị viện bị giải tán. Quyền hành pháp được giao cho nội các do nghị
viện bầu ra. Những người của phái độc lập chiếm ưu thế trong chính quyền

nhà nước tư sản. Tuy nhiên chính thể Cộng hịa nghị viện ở Anh chỉ tồn tại
trong một thời gian ngắn.
Bởi vì sau khi cuộc nội chiến cách mạng kết thúc, phong trào đấu tranh
của quần chúng nhân dân tiếp tục bùng phát mạnh mẽ, địi chính quyền tư sản
phải thực hiện lời hứa với quần chúng cách mạng. Hoảng sợ trước phong trào
đấu tranh của quần chúng, giai cấp tư sản một mặt tiến hành đàn áp phong trào
đấu tranh của quần chúng, mặt khác sẵn sàng thủ tiêu nền cộng hòa để xây dựng
một chính quyền có “bàn tay sắt” vừa đủ sức mạnh trấn áp phong trào trong
nước, vừa có khả năng chiến thắng những quốc gia cạnh tranh bên ngồi.
Năm 1653, Cromwell và hội đồng sỹ quan của ơng ta đưa ra một văn
bản có tính lập hiến, có tên gọi là “công cụ điều hành”. Theo văn bản này,


15
những cơng dân phải có thu nhập hàng năm từ 200 bảng mới có đủ tư cách cử
tri bầu hạ nghị viện. Quy định này loại phần đông nhân dân ra khỏi chế độ
bầu cử. Văn bản đó tước quyền lập pháp, quyền thu thuế của nghị viện và tập
trung vào quan bảo hộ - tức Cromwell. Cromwell mang danh nhà bảo hộ nhưng
thực tế đã trở thành kẻ độc tài nắm mọi quyền hành, vừa là tổng tư lệnh qn đội
và hải qn, vừa có tồn quyền kiểm tra tài chính và tịa án, quyết định chính
sách đối nội và đối ngoại, ban hành luật lệ... Cromwell nắm trong tay một lực
lượng quân đội hùng mạnh làm công cụ chun chính tư sản. Như vậy, nền
cộng hịa đã bị thủ tiêu, được thay thế bằng nền bảo hộ độc tài.
Tuy vậy, phương cách này cũng khơng cứu được chính quyền tư sản
thốt khỏi những khó khăn ngày càng trầm trọng. Làn sóng căm phẫn của
quần chúng nhân dân vẫn khơng ngừng bùng lên và lan khắp tồn quốc, cơng
thương nghiệp bị đình trệ, kinh tế suy thối trầm trọng. Tình hình trên làm
cho đại tư sản và quý tộc mới có khuynh hướng bảo hồng khơng tin tưởng ở
sức mạnh của chính quyền bảo hộ và muốn thay thế bằng một chính thể khác
nên tìm cách phục hồi chế độ quân chủ. Năm 1660 Charles II (con Charles I)

được lực lượng bảo hồng đưa về nước Anh, lên ngơi vua, triều đại Stuart hồi
phục. Năm 1685, Charles II chết, em là James II lên nối ngôi nhưng chỉ cai trị
được ba năm. Các vị vua này đều không muốn nằm trong khn khổ của
chính thể qn chủ nghị viện, mà từng bước tìm cách khơi phục chế độ qn
chủ chuyên chế phong kiến, đe dọa địa vị và quyền lợi của giai cấp tư sản.
Điều mà giai cấp tư sản và quý tộc mới mong muốn là có một chính quyền
quân chủ mạnh mẽ đảm bảo cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Thực tế
hoạt động của vương triều Stuart chứng tỏ rằng các vua chúa không hề có ý
muốn bảo vệ tài sản và địa vị chính trị của giai cấp tư sản và quý tộc mới. Do
đó, những đại biểu của giai cấp tư sản và quý tộc mới trong hai đảng Whig
(tiền thân của đảng Bảo thủ, gồm chủ ngân hàng, thương nhân, chủ đồn điền
…) và đảng Tory (tiền thân của đảng Tự do gồm các đại địa chủ) đã hợp tác


16
với nhau bằng cách lật đổ James II, đưa một người khác dễ sai khiến hơn lên
thay thế là Wilhelm Orange (1650 - 1702). Đầu tháng 11-1688, Wilhelm
Orange với sự ủng hộ của giai cấp tư sản đã lật đổ James II, lên ngôi vua, lấy
danh hiệu là Wilhelm III. Để đảm bảo chắc chắn mọi quyền lợi của giai cấp tư
sản và quý tộc mới, tháng 2 - 1689, Nghị viện thông qua Đạo luật về quyền
hành. Đạo luật này đã hạn chế quyền lực của nhà vua, ngăn chặn mọi khả
năng phục hồi chế độ quân chủ chuyên chế và chuyển sang chế độ quân chủ
lập hiến. Thực chất chính quyền chuyển từ tay nhà vua sang tay Nghị viện
gồm đại biểu của giai cấp tư sản và đại địa chủ giàu có.
Thực tiễn nước Anh trải qua chế độ quân chủ chuyên chế rồi cộng hòa
nghị viện và cả chế độ bảo hộ độc tài ngay trước cuộc cách mạng 1688 đã
cung cấp những dữ liệu lịch sử cụ thể và sinh động cho J. Locke - một chứng
nhân đồng thời cũng là một chủ thể tích cực tham gia và tạo ra các sự kiện
lịch sử ấy - viết nên những chương rất sống động và xác thực trong tác phẩm.
Tiền đề lý luận

Như C.Mác và Ph. Ăngghen đã nhận định “khơng có các cơ sở của nền
văn minh Hy Lạp và đế chế La Mã thì khơng có châu Âu hiện đại” [49, tr.254].
Có thể nói, những tư tưởng triết học chính trị phương Tây từ cổ đại đến hiện
đại đều khởi nguồn từ Athens (thế kỷ 7- 4 TCN) - một thành bang Hy Lạp cổ
đại, nơi khai sinh nền dân chủ (dân chủ trực tiếp) sớm nhất trong lịch sử loài
người và từ nền Cộng hịa Rome (509 - 31TCN). Chính từ tư tưởng của
những nhà triết học vĩ đại vào thời cổ đại như Socrate, Platon, Aristotle mới
hình thành nên tên tuổi nổi bật của những nhà triết học thời kỳ Phục hưng như
Niccolo Machiavelli và của thời kỳ Khai sáng như Ph. Bacon, R. Descartes, T.
Hobbes, … Tất cả những nhà triết học này đã thực sự trở thành nguồn cảm
hứng, tiền đề lý luận cho các nhà các triết học thuộc các thế hệ sau, trong đó
có J.Locke kế thừa để khai mở những con đường mới trong việc nghiên cứu
triết học nói chung và triết học chính trị nói riêng.


17
Socrate (469 - 399 TCN), nhà triết học đã tạo nên “bước ngoặt lịch sử
vĩ đại” đối với Triết học Hy - La cổ đại, được xem “là người đầu tiên trong
lịch sử tư tưởng chính trị châu Âu đã hình thành quan điểm về quan hệ khế
ước giữa nhà nước và cơng dân của mình” [34, tr.120].
Socrate cho rằng luật pháp chính là nền tảng của nhà nước. Ơng kịch
liệt phê phán nền bạo chính, coi đó là chế độ khơng có pháp luật, độc đốn và
dã man. Theo Socrate, khi đã trở thành thành viên của nhà nước, công dân
mới thực sự tham gia khế ước với nhà nước và có nhiệm vụ tơn trọng các trật
tự và quy định của nó. “Sự trung thành tuyệt đối của công dân đối với nhà
nước - thành thị và luật pháp của mình là xuất phát điểm trong tồn bộ quan
điểm chính trị - xã hội của Socrates” [34, tr.120].
Từ việc vận dụng những quan điểm đạo đức duy lý vào chính trị,
Socrate đã phản đối nền dân chủ Athens và cơ cấu của Hội nghị công dân bao
gồm cả các thành phần mà ông cho là thấp kém (nông dân, tiểu thương …).

Điều này phản ánh một chủ trương nhằm duy lý hóa nhà nước, trao quyền
điều hành quốc gia vào tay những người xứng đáng, có tri thức, có năng lực.
Platon (427 - 347TCN) là người có ba tác phẩm trực tiếp liên quan đến
triết học chính trị: Chính khách (Statesmen), Luật pháp (Laws, 360 TCN),
Nền cộng hịa (Republic, 360 TCN). Platon là một trong những nhà triết học
đầu tiên đưa ra quan điểm về nguồn gốc tự nhiên của nhà nước. Trong tác
phẩm Nền cộng hịa, thơng qua cuộc đối thoại giữa Thrasymachus và Socrate
- người thầy nổi tiếng của ông, Platon cho rằng nhà nước phát sinh từ những
nhu cầu của loài người. Trong cuộc sống, con người luôn tồn tại các nhu cầu
cơ bản là lương thực, quần áo và chỗ ở. Không một cá nhân nào có thể tự một
mình thỏa mãn được tất cả những nhu cầu ấy, vì vậy nhà nước đầu tiên sẽ
gồm nhiều cá nhân kết hợp với nhau để giúp nhau đáp ứng các nhu cầu này.
Cái lợi của việc tạo ra một xã hội là các cá nhân có thể chun mơn hóa trong
lĩnh vực của mình, lĩnh vực mà họ có tài năng nhất.


18
Platon phê phán gay gắt nền dân chủ Athens, cho rằng nó khơng dẹp bỏ
được tình trạng vơ trật tự, bởi quyền lực nhà nước khơng dựa trên lí trí mà
trên số đơng ngu đần, thất học, dẫn đến tình trạng phân tán quyền lực và xé
nhỏ luật pháp.
Platon chủ trương xây dựng một nhà nước lý tưởng tuyệt đối, đó là
“chính thể q tộc dân chủ” và gắn nhà nước lý tưởng với quyền tối thượng
của pháp luật, mọi công dân trong nhà nước đều phải tuân thủ, phục tùng
pháp luật. Pháp luật được xem là phương tiện hữu hiệu nhất để đảm bảo cho
xã hội phát triển trong trật tự ổn định, đảm bảo tự do cá nhân đồng thời hạn
chế sự tùy tiện của nhà cầm quyền.
Platon cho rằng có hai nguyên nhân có thể dẫn đến cách mạng thay thế
chính quyền này bằng chính quyền khác. Thứ nhất là từ tình trạng chiến tranh
bắt nguồn từ lòng tham của con người. Thứ hai là sự tự đào thải của chính các

quốc gia khi nó trở nên bất chính: “Tất cả những chính thể quốc gia đều có
khuynh hướng tự đào thải khi đi vào con đường quá khích. Chính thể quý tộc
tự đào thải khi thu hẹp số người nắm giữ quyền hành, chính thể dân chủ tự
đào thải vì lịng tham giành giật danh lợi” [80, tr.23].
Platon cũng đã mở ra một vấn đề cơ bản trong triết học chính trị khi đi
tìm một phương pháp chọn lựa những người đủ phẩm chất, năng lực để lãnh
đạo, quản lý đất nước có hiệu quả. Trong học thuyết của mình, ơng ln quan
tâm đến vấn đề đạo đức, tri thức và lý tưởng cho nhà cai trị. Ơng ln nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc loại bỏ những kẻ bất tài, bịp bợm ra khỏi chính
quyền, chọn lựa những người tài năng và đức độ để trao quyền lãnh đạo.
Platon khuyên nhà cầm quyền phải biết khước từ đúng lúc những tham vọng
của mình để hướng tới chân lý và chính nghĩa.
Aristotle (384 - 322 TCN) trong tác phẩm Chính trị cũng đã cho rằng
quốc gia là một loại cộng đồng được thiết lập là nhằm một lợi ích nào đó, bởi
lồi người ln ln muốn hành động nhằm đạt được điều mà họ nghĩ là tốt.


19
Aristotle giải thích rằng có nhiều loại cộng đồng nhưng nhà nước là cộng
đồng cao nhất và bao trùm mọi cộng đồng khác. Hai cộng đồng đầu tiên của
loài người là sự kết hợp giữa nam và nữ và sự kết hợp giữa người cai trị tự
nhiên và nô lệ tự nhiên. Về cộng đồng thứ hai, Aristotle cho rằng một số
người vì đặc tính thơng minh của họ được thiên nhiên định cho họ quyền cai
trị và một số người khác vì khả năng thể chất và tinh thần được thiên nhiên
đặt định cho họ thực hiện kế hoạch của người cai trị. Sự kết hợp giữa người
đàn ông và người đàn bà tạo nên gia đình và nhiều gia đình tạo nên các làng.
Nhà nước được hình thành khi các làng tập hợp lại để tạo điều kiện thuận lợi
hơn trong việc cung cấp các nhu cầu của cuộc sống để con người khơng
những được sống mà cịn có thể sống tốt hơn. Như vậy, rõ ràng nhà nước
(polis) là một tạo vật của tự nhiên và con người tự bản tính là một động vật

chính trị (politikon).
Aristotle cũng được xem là người đầu tiên có ý tưởng phân loại quyền
lực khi phân tách quyền lực nhà nước ra thành ba bộ phận: cơ quan tư vấn
pháp lý cho hoạt động nhà nước; tịa thị chính và cơ quan xét xử. Aristotle là
người đặc biệt coi trọng vai trò của pháp luật đối với sự tồn tại của nhà nước.
Trong quan niệm của Aristotle, pháp luật đồng nhất với sự công bằng, ở nhà
nước nào không cai quản bằng pháp luật thì khơng có kỷ cương nhà nước. Theo
ông, pháp luật bộc lộ rõ bản chất của nhà nước, bởi lẽ các quyền chung của công
dân được thể chế bằng pháp luật, nhiệm vụ của pháp luật chính là “trợ giúp” các
công dân thỏa mãn quyền lợi của mình. Tuy nhiên, trong quan niệm Aristotle
khơng có sự bình đẳng chính trị cho mọi cơng dân trong xã hội.
Một dấu ấn cổ đại khác mà các nhà triết học chính trị khơng thể bỏ qua
là nền Cộng hịa Rome (509 - 31 TCN). Khác với nền dân chủ Athens, cơ cấu
chính trị Rome lại có sự dung hợp giữa những yếu tố của một nền quân chủ
kép - một chính thể quý tộc và một nền dân chủ. Nền cộng hịa này đưa ra
một hình mẫu chính thể đã đi vào kinh điển, như những hình thức thể chế phổ


20
biến khác sau này, đó là thể chế hỗn hợp. Trong quan niệm của hầu hết các
triết gia sau này, thể chế nhà nước của Rome thường được đánh giá cao hơn
thể chế ở Athens.
Thời kỳ Trung cổ cũng đã để lại một số thành tựu về triết học chính trị
khá nổi bật, mặc dù đặc trưng của triết học trong thời kỳ này là kinh viện. Do
nhiệm vụ chính của triết học là chứng minh về mặt bản thể cho sự tồn tại của
Thượng đế, xây dựng và củng cố cơ sở lý luận cho sự hợp nhất thần quyền và
thế quyền để phục vụ cho sự bành trướng của Giáo hội La Mã cùng chế độ
quân chủ chuyên chế phong kiến nên các nhà thần học cũng đã buộc phải bàn
đến nhà nước và pháp luật ở những góc độ nhất định. Tiêu biểu nhất là
Thomas Aquinas (1225 - 1274), người có hệ thống siêu hình học được thừa

nhận như học thuyết chính thức của giáo hội. Thomas chia ra thành luật tự
nhiên và luật thành văn. Sự kết hợp giữa chúng tạo thành bốn loại luật khác
nhau, thứ nhất là Luật vĩnh cửu (thần luật tự nhiên): trí tuệ của chúa tạo nên
trật tự của tồn thế giới. Thứ hai là Luật tự nhiên (nhân luật tự nhiên): sự phản
chiếu luật vĩnh cửu bằng lí trí con người, gồm quy luật bảo tồn dòng giống và
quan hệ chung sống của con người. Thứ ba là Nhân luật (nhân luật thành
văn): sự phản ánh những đòi hỏi của luật tự nhiên, là pháp luật nhà nước hiện
hành, rút ra từ trí tuệ của Chúa, mọi sự phản kháng lại luật này đều là trọng
tội. Thứ tư là Thần luật (thần luật thành văn): kinh Cựu ước và Tân ước để
hướng dẫn con người đạt đến chân lý và công bằng.
Theo Thomas Aquinas, nhân luật không được phản luật tự nhiên, tức
nhà cầm quyền không được cấm thần dân sống, hôn nhân, sinh đẻ. Theo quan
điểm này, chúa phong kiến không được giết nông nô như quan hệ chủ nơ - nơ
lệ trước đây. Có thể xem đây là một quan điểm tích cực trong học thuyết nhà
nước tơn giáo - phong kiến của nhà thần học này.
Thời kỳ phục hưng là thời kỳ mà triết học, khoa học cũng như văn học
nghệ thuật thực sự có những bước phát triển mạnh mẽ mang tính “bứt phá”,


21
trên cơ sở khôi phục những giá trị khoa học và nhân văn của Hy - La cổ đại
sau suốt một ngàn năm bị giam hãm bởi “đêm trường trung cổ”. Hòa trong sự
phát triển của dòng chảy nhân văn đó, triết học chính trị thời kỳ này đã để lại
dấn ấn nổi bật với tên tuổi của Niccolo Machiavelli (1469 - 1527).
Niccolo Machiavelli là người khai mở một hướng tiếp cận chính trị phi
chuẩn mực, chống lại những ảnh hưởng của truyền thống Cơ đốc giáo, chống
lại chế độ phong kiến. Ông là người đầu tiên nghiên cứu khách quan chính trị
học và phương thức cầm quyền như chúng thể hiện trong thực tế. Trong số
những tác phẩm của Machiavelli thì Qn Vương (The Prince), được cơng bố
sớm nhất (vào năm 1513) và giữ vị trí quan trọng nhất.

Trong quan niệm về nhà nước, Machiavelli cho rằng, nhà nước là do
con người lập ra, chứ không phải sự sáng tạo của chúa. Nhà nước xuất hiện từ
nhu cầu của con người vì lợi ích chung. Mục đích của nhà nước là đảm bảo
cho mọi người đều được an toàn và tự do sử dụng tài sản của mình.
Khi xem xét tính ưu việt của các hình thức nhà nước, Machiavelli cho
rằng, nhà nước cộng hịa có nhiều ưu điểm hơn các hình thức nhà nước khác. Vì
nó đáp ứng đầy đủ hơn những địi hỏi về quyền bình đẳng và tự do cho nhân
dân, nghĩa là nó thủ tiêu các đặc quyền của nhà nước quân chủ phong kiến.
Machiavelli cũng đã chỉ ra quy luật phát triển, thay thế lẫn nhau của các
hình thức nhà nước. Theo ơng, nhà nước quân chủ là hình thức nhà nước đầu
tiên và khi hình thức nhà nước này trở thành một thứ được kế thừa thì con
cháu của những người đứng đầu nhà nước ngày càng rời xa công lý, đạo đức
của cha ơng để chìm đắm vào trong cuộc sống xa hoa. Do vậy, họ đã sớm trở
thành những kẻ áp bức nhân dân. Kết quả là nhà nước quân chủ dần trở thành
một nền bạo chính và do vậy, cách duy nhất để chống lại nhà nước quân chủ
là tiêu diệt “tên bạo chúa”:
Việc chuyển giao chính quyền theo thừa kế là sự mở đầu
cho chế độ bạo tàn. Sau khi lật đổ nền bạo chính sẽ bắt đầu chế độ


22
q tộc, sau đó dần dần chuyển thành tập đồn thống trị, chế độ sẽ
có số phận như nền bạo chính. Rồi nhân dân sẽ thiết lập chính
quyền nhân dân, thế là vịng ln chuyển các hình thức nhà nước
lại lặp từ đầu [42, tr.205].
Trong quan niệm về vai trò của nhân dân, Machiavelli cho rằng: “điều
cần thiết cho một vị vua chúa là được lòng dân”, “một đấng vua chúa can đảm
và có khả năng lãnh đạo, biết cách gìn giữ an ninh trật tự trong xứ sở sẽ chẳng
bao giờ hối tiếc đã xây dựng, củng cố an ninh cho mình trên lịng thương mến
của nhân dân” [42, tr.206]. Đề cao vai trò của nhân dân trong mối quan hệ với

nhà nước, ơng cịn cho rằng “nhân dân cao hơn quân vương”, bởi nhân dân
lựa chọn quan chức tốt hơn nhà vua và “nhân dân bao giờ cũng thơng minh
hơn, kiên định hơn và có lý trí hơn nhà vua”. Với quan niệm này, ông khuyên
các bậc vua chúa muốn được lịng dân thì phải tránh khơng làm dân oán ghét,
phải biết quý trọng người tài, cất nhắc những người giỏi và bảo trợ cho người
dân trong các ngành nghề … Nếu khơng như thế thì ngay cả thành lũy kiên cố
cũng không cứu được một ông vua đã bị dân chúng căm ghét.
Mặc dù đề cao vai trị của nhân dân, nhưng Machiavelli vẫn cho rằng:
“khơng nên trao cho nhân dân quyền hạn quá mức”. Do vậy, khi đặt vấn đề
“nên làm cho dân yêu hay làm cho dân sợ”, ơng khẳng định: “u và sợ khó
có thể đi đôi với nhau” và “nếu buộc phải lựa chọn, thì tốt hơn nên làm cho
dân sợ hơn là làm cho dân yêu”. Bởi theo ông, con người vốn “bản chất vô
ơn, nông cạn, giả dối, chỉ biết lo tránh hiểm nguy, tham lam”. Chính vì vậy,
ơng đề cao việc sử dụng vũ lực trong cai trị dân chúng. Một vị vua muốn giữ
yên nơi đất mới thì cần phải giành được quyền uy, hoặc bằng vũ lực, hoặc
bằng thủ đoạn, phải làm cho dân vừa mến, vừa sợ, phải đổi mới trật tự và nề
nếp cũ một cách vừa nghiêm khắc, vừa hịa hỗn.
Về mối quan hệ giữa đạo đức và chính trị, Machiavelli cho rằng đạo
đức và chính trị là hai lĩnh vực khác nhau, trong chính trị khơng cần có đạo


23
đức. Nguyên tắc trong hoạt động chính trị là “mục đích biện minh cho
phương tiện”, trong chính trị khơng có chỗ đứng cho đạo đức. Machiavelli là
người đầu tiên xác định đối tượng của triết học chính trị là vấn đề quyền lực
trong một xã hội cụ thể.
Mặc dù những quan điểm của Machiavelli cịn có những hạn chế mang
tính thời đại, nhưng khơng vì thế tính “cách mạng” trong học thuyết của ơng
trở nên mờ nhạt. Đó chính là chủ nghĩa yêu nước và khuynh hướng chống
giáo hội, chống phong kiến. Học thuyết chính trị của ơng mang ý nghĩa tiến

bộ đối với thời đại vì nó đã tạo thêm sức mạnh cho các lực lượng tiến bộ xã
hội chống lại giai cấp phong kiến và giáo hội Thiên chúa giáo.
Học thuyết chính trị của Machiavelli là học thuyết chính trị đầu tiên
thốt khỏi thần học, bởi cơ sở lập luận của ơng hồn tồn dựa trên “lực
lượng thế tục” và “nhân tố con người”. Do vậy, nó khiến cho qn quyền
hồn tồn thốt khỏi tầm kiểm sốt của thần quyền. Vì vậy, Quân vương là
tác phẩm “đánh dấu sự kết thúc cuối cùng của tư tưởng chính trị thần học
trung thế kỷ và mở đầu cho tư tưởng chính trị thế tục cận đại” [55, tr.39].
C.Mác cho rằng “Kể từ Machiavelli thì sức mạnh đã được miêu tả là cơ sở
của quyền; do đó, quan điểm lý luận về chính trị đã được giải phóng khỏi
đạo đức, và khơng có cái gì khác được chấp nhận ngồi cái định đề là sự
nghiên cứu chính trị một cách độc lập [46, tr.463].
Những tư tưởng tiến bộ, hợp lý về chính trị và quyền lực chứa đựng
trong Quân vương đã được phát triển mạnh ở những góc độ khác nhau, vào giai
đoạn các cuộc cách mạng tư sản sau này bởi Hobbes, Locke, Montesquieu …
Bước sang thời kỳ cận đại, đặc trưng “chủ nghĩa duy lý” của văn hóa
châu Âu thời kỳ này cùng với tiến trình của những cuộc cách mạng tư sản vào
thế kỷ XVII ở nước Anh đã mở ra một đường hướng mới trong triết học chính
trị đó là sự phê phán gay gắt trực tiếp hay gián tiếp nền chuyên chế phong
kiến và khẳng định những quyền tự nhiên của con người, đưa ra những học


24
thuyết nhằm xây dựng những hình thức chính thể hợp lý tính và nhân tính.
Người mở đầu đường hướng này và cũng là người có ảnh hưởng khơng nhỏ
tới tư tưởng triết học chính trị của Locke là nhà triết học duy vật Thomas
Hobbes (1588 - 1679).
Năm 1640, Thomas Hobbes công bố tác phẩm Những thành tố của luật
tự nhiên và luật chính trị. Năm 1651 ơng đã cơng bố hai tác phẩm lớn là
Công dân (The Citizens) và đặc biệt là Thủy quái (Leviathan).

Hobbes là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “trạng thái tự nhiên” để chỉ
trạng thái của đời sống con người trước khi xã hội dân sự và chính quyền
được hình thành.
Theo Hobbes, con người là một thể thống nhất giữa tính tự nhiên và
tính xã hội. Theo bản tính tự nhiên, con người là bình đẳng, nhưng trong trạng
thái dân sự con người lại thể hiện bản tính độc ác. Họ đấu tranh với nhau để
sinh tồn khiến cho hoàn cảnh sống trở nên bi đát. Con người tự bản tính là ích
kỷ cá nhân, ln tìm cách bảo tồn sự sống của riêng mình và tìm cách gia tăng
lợi ích riêng trên mọi phương tiện. Mọi người trong trạng thái tự nhiên đều có
ý muốn làm hại người khác, và hậu quả là đời sống liên tục là một cuộc chiến
của mọi người chống lại mọi người. Vì khơng có luật pháp nên khơng có cái
gọi là “cơng lý” hay “bất cơng” - mỗi người tự do làm điều mình nghĩ là có
lợi cho bản thân mình, “trong trạng thái tự nhiên, cái có lợi là cái đúng”.
Chính tính ích kỷ, tư lợi đã đẩy con người đến trạng thái chiến tranh, chống
lại nhau, đưa đến tình trạng hỗn loạn trong xã hội.
Hobbes cho rằng, cách duy nhất để con người thoát khỏi trạng thái tự
nhiên và đạt được hịa bình, để bảo vệ tính mạng và cuộc sống của mình là tập
hợp nhau lại trong một khế ước xã hội và thỏa thuận chuyển nhượng một số
quyền cho một quyền lực chung.
Bằng việc chuyển nhượng quyền của mình cho một quyền lực chung,
con người khi rời bỏ trạng thái tự nhiên sẽ đảm bảo rằng “trong những vấn đề


25
thiết yếu liên quan đến hịa bình và sự tự vệ, chỉ có một ý chí chung của mọi
người”. Như vậy, khế ước xã hội đã đưa xã hội chuyển từ trạng thái tự nhiên
sang trạng thái có nhà nước. Nhà nước là kết quả của sự thỏa thuận của nhân
dân thông qua khế ước xã hội.
Hobbes quan niệm trong đời sống xã hội luôn tồn tại một luật mặc định
là luật tự nhiên. Luật tự nhiên hay “quy luật tự nhiên (Lex naturalis) là quy

định hay quy tắc chung được con người phát hiện ra. Theo đó, con người bị
cấm làm những gì có hại cho cuộc sống của nó hay tước mất phương tiện tự
vệ của nó, và cấm được bỏ qua những gì mà nó coi là phương tiện tốt nhất để
giữ gìn cuộc sống của nó” [34, tr.383]. Luật tự nhiên cơ bản là tìm kiếm hịa
bình và chuẩn bị cho chiến tranh. Từ luật tự nhiên này Hobbes rút ra một kết
luận: vì tình trạng chiến tranh diễn ra trong trạng thái tự nhiên xuất phát từ
quyền tự do tuyệt đối của mỗi người, mỗi người có quyền làm bất cứ điều gì
mình muốn, nên để đạt được hịa bình, mỗi người phải từ bỏ hoặc chuyển
nhượng một số quyền nhất định cho người khác - tức là cho nhà nước.
Tuy nhiên, luật tự nhiên cũng cấm chúng ta chuyển nhượng tất cả mọi
quyền của con người cho nhà nước. Sự bảo tồn mạng sống địi hỏi chúng ta
quyền kháng cự lại những ai tìm cách làm hại thân thể hay lấy mất mạng sống
chúng ta.
Khi nhà nước xuất hiện, cộng đồng loài người từ giai đoạn tự nhiên đã
thực hiện bước chuyển sang giai đoạn xã hội công dân. Trong xã hội, nhà
nước - “Con Thủy quái”, nắm trọn quyền lực tối cao và bất khả phân, do mọi
cơng dân đã chuyển giao tồn bộ quyền tự nhiên của mình vào nó. Nó sẽ làm
giảm đi những khát vọng tự nhiên thái quá của con người nhằm giữ cho cuộc
sống yên ổn. Nó cũng phải trừng phạt một cách cơng minh, cịn cơng dân thì
có nghĩa vụ phải phục tùng mọi mệnh lệnh của nó. Tơn giáo là cần thiết để
khun răn mọi người tuân thủ chuẩn mực và pháp luật, và nhà thờ cũng phải
tuân thủ nhà nước chứ không phải ngược lại.


×