Tóm tắt cuộc đời hoạt động Cách mạng của Người
THỜI THƠ ẤU VÀ THANH NIÊN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
(1890-1911)
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 nǎm 1890 tại quê ngoại làng Hoàng Trù,
xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nhà nho.
Thân phụ Chủ tịch Hồ Chí Minh là ơng Nguyễn Sinh Sắc, sinh nǎm 1862 tại Kim
Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ nhưng ông sớm có ý chí tự lập,
thơng minh, ham học.
Nǎm 1901 Nguyễn Sinh Sắc thi Hội và đậu Phó bảng. Tuy đỗ cao nhưng ông vẫn
sống rất thanh bạch, khiêm tốn, ghét thói xu nịnh, cam phận của các quan lại trong
triều đình Huế. Ơng chỉ làm quan trong một thời gian ngắn và sau đó sống bằng nghề
dạy học, bắt mạch bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Ông đã đi nhiều nơi, liên lạc
với những người yêu nước, tuyên truyền đồn kết, kêu gọi nhân dân sống có tình
nghĩa thủy chung. Tư tưởng yêu nước tiến bộ, nhân cách cao thượng của ông đã ảnh
hưởng rất sâu sắc đến những người con. Ông qua đời tại thị xã Cao Lãnh (Đồng
Tháp) vào nǎm 1929, thọ 67 tuổi.
Thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh là bà Hồng Thị Loan sinh nǎm 1868 trong một gia
đình nho học. Bà là một phụ nữ thơng minh, cần cù chịu khó, thương u chồng con
và giàu lòng nhân ái. Bằng nghề làm ruộng và dệt vải bà đã hết lòng chǎm lo cho
chồng và các con. Cuộc đời của bà tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại hình ảnh về một
phụ nữ Việt Nam sống có tình nghĩa và có ảnh hưởng rất lớn tới tư cách của các con
mình. Bà Hồng Thị Loan qua đời tại Huế nǎm 1901, lúc 33 tuổi.
Chị gái Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn Thị Thanh, sinh nǎm 1884. Chị đã tham gia
nhiều phong trào yêu nước, nhiều lần bị thực dân Pháp và triều đình phong kiến bắt
giam. Nguyễn Thị Thanh qua đời tại quê hương nǎm 1954, thọ 70 tuổi.
Anh trai Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Khiêm, sinh nǎm 1888. Từ tuổi thanh
niên, Nguyễn Sinh Khiêm đã đi nhiều nơi truyền thụ kiến thức, mở mang vǎn hoá. Do
tham gia các hoạt động yêu nước chống thực dân và phong kiến nên Nguyễn Sinh
Khiêm đã từng bị tù đày nhiều nǎm. Nguyễn Sinh Khiêm qua đời nǎm 1950, thọ 62
tuổi.
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TIẾP NHẬN CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
VÀ KHẲNG ĐỊNH CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
(1911-1920)
Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam do Nguyễn A'i Quốc gửi đến Hội nghị Véc-xây
(Versailles)
Ngày 5 tháng 6 nǎm 1911, với bí danh Vǎn Ba, Nguyễn Tất Thành(1) nhận làm phụ
bếp cho tàu Amiran Latusơ Tơrêvin (Amiral Latouche Tréville) của hãng Nǎm sao,
rời Sài Gịn đi Mác-xây (Marseille) Pháp, bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu
nước. Từ nǎm 1911 đến nǎm 1920, Nguyễn Tất Thành đã đến nhiều nước ở châu Âu,
châu Phi , châu Mỹ, nghiên cứu và học hỏi để quyết định con đường Cứu nước.
Cuối nǎm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp. ở đây anh được biết ở nước
Nga V.I Lênin đã lãnh đạo cách mạng thành công, sáng lập Nhà nước công nông đầu
tiên trên thếgiới, bảo vệ quyền lợi của đại đa số nhân dân lao động. Tin vui ấy đã cổ
vũ lòng hǎng hái của Nguyễn Tất Thành.
Nǎm 1918, chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc. Nǎm 1919 các nước đế quốc
thắng trận họp Hội nghị Véc-xây (Versailles). Nhân dịp này thay mặt những người
Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn A’i Quốc (tên mới của Nguyễn Tất Thành) đã
gửi tới Hội nghị bản yêu sách đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam.
Tháng 7 nǎm 1920 qua báo Nhân đạo (L’Humanité) Pháp, Nguyễn A’i Quốc được
đọc Luận cương của V.I Lê nin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Sau này nhớ lại
niềm sung sướng khi đọc Luận cương của V. I Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Luận cương của V. I Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng
biết bao! Tơi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to
lên nhu đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ.!
Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta.”
Nguyễn A'i Quốc phát biểu tại Đại hội XVIII Đảng Xã hội Pháp họp tại thành phố
Tours nǎm 1920
Nguyễn A’i Quốc là đại biểu duy nhất của nhân dân Đông Dương tham dự Đại hội lần
thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tua (Tours). Tại Đại hội này Anh đã
cùng với những nhà hoạt động chính trị và vǎn hố nổi tiếng của Pháp như: Macxen
Casanh (Marcel Cachin), Pôn Vayǎng Cutưyariê (Paul Vaillant Couturier)… bảo vệ
chủ nghĩa Mác, chống lại những người cơ hội. Trên diễn đàn của Đại hội, Nguyễn A’i
Quốc đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Đông Dương, kêu gọi giai cấp công nhân
và nhân dân Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và nhân dân các
thuộc địa khác. Người đề nghị: “Đảng xã hội cần phải hoạt động một cách thiết thực
để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức … Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội
trong tất cả các nước thuộc địa. Chúng tôi thấyrằng việc Đảng xã hội gia nhập Quốc
tế thứ ba có nghĩa là Đảng hứa một cách cụ thể là từ nay Đảng sẽ đánh giá đúng tầm
quan trọng của vấn đề thuộc địa“. Cũng tại Đại hội này Người đã bỏ phiếu tán thành
Quốc tế cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Sau Đại hội Tua, người cộng sản Việt Nam đầu tiên Nguyễn A’i Quốc bắt tay ngay
vào hoạt động nhằm đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân các thuộc địa đấu tranh
chống áp bức, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐẤU TRANH BẢO VỆ VÀ VẬN DỤNG SÁNG TẠO
ĐƯỜNG LỐI CỦA V.I LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ THUỘC ĐỊA
(1920-1924)
Bìa sách "Bản án chế độ thực dân Pháp"
Nǎm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp
thành lập Hội liên hiệp thuộc địa nhằm tổ chức và lãnh đạo phong trào cách mạng
giải phóng dân tộc Điều lệ của Hội nêu rõ: “Mục đích của Hội là tập hợp và hướng
dẫn cho mọi người dân các xử thuộc địa hiện sống trên đất Pháp để soi sáng cho
những người dân ở thuộc địa về tình hình mọi mặt ở nước Pháp nhằm mục đích đồn
kết họ; thảo luận và nghiên cứu tất cả những vấn đề chính trị và kinh tế của thuộc
địa”. Tuyên ngôn của Hội kêu gọi nhân dân thuộc địa đồn kết đấu tranh tự giải
phóng và nhấn mạnh “Vận dụng công thức của Các Mác chúng tơi xin nói với anh em
rằng, cơng cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực của bản thân
anh em. Hội liên hiệp thuộc địa thành lập chính là để giúp đỡ anh em trong công cuộc
ấy“.
Để đẩy mạnh công tác tuyên truyền và vận động cách mạng ở các thuộc địa, Hội liên
hiệp thuộc địa đã xuất bản báo Le Paria (Người cùng khổ). Nguyễn A’i Quốc là linh
hồn của tờ báo, vừa là chủ nhiệm, kiêm chủ bút, thủ quỹ, báo xuất bản bằng tiếng
Pháp nhưng ở trang đầu cịn có tên báo bằng chữ ả rập và chữ Hán. Số 1 của tờ báo ra
ngày 1 tháng 4 nǎm 1922, trong đó có lời kêu gọi nêu rõ: Báo Le Paria ra đời do sự
thơng cảm chung của các đồng chí ở Bắc Phi, Trung Phi và Tây Phi thuộc Pháp, ở
Ma-đa-gat-xca, ở Đông Dương, Ǎng ti và Guyannơ… Báo kêu gọi họ đoàn kết lại để
đấu tranh cho sự tiến bộ về vật chất và tinh thần của chính họ, hơ hào họ tổ chức lại
nhằm mục đích giải phóng những người bị áp bức khỏi những lực lượng thống trị,
thực hiện tình yêu thương và hữu ái… Báo Le Paria là vũ khí chiến đấu. Sứ mệnh của
nó đã rõ ràng: giải phóng con người.
Tác phẩm của Nguyễn A’i Quốc “Bản án chế độ thực dân Pháp” được xuất bản vào
cuối nǎm 1925. Nhiều bài trong tác phẩm đã được đǎng báo Le Paria và một số báo,
tạp chí ở Pháp và Liên Xô. Bằng những chứng cớ và số liệu cụ thể, những người thật
việc thật Nguyễn A’i Quốc đã thức tỉnh nhân dân các thuộc địa, đồng thời chỉ ra con
đường đấu tranh của cách mạng thuộc địa, Nguyễn A’i Quốc chỉ rõ: “Chủ nghĩa tư
bản là một con đỉa có một cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái
vịi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy người ta phải
đồng thời cắt cả hai vịi. Nếu người ta chỉ cắt một vịi thơi thì cái vịi cịn lại kia sẽ
tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ
lại mọc ra“.
Nhà số 13 và 13/1 (nay là 248-250) đường Vǎn Minh, (Quảng Châu), nơi Nguyễn Ái
Quốc mở lớp huấn luyện cán bộ cách mạng Việt Nam
Trong bài viết nhan đề “Đông Dương” đǎng trong Tạp chí Cộng sản (La Revue
Communiste) số 15 tháng 5 nǎm 1921, Nguyễn A’i Quốc nhấn mạnh : “Ngày mà
hàng trǎm triệu nhân dân châu A’ bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê
tiện của một bọn thực dân lịng tham khơng đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng
khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản
là chủ nghĩa đế quốc họ có thể giúp nhũng người anh em mình ở phương Tây trong
nhiệm vụ giải phóng hồn tồn“.
Tháng 6 nǎm 1923, được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Pháp,
Nguyễn A’i Quốc rời nước Pháp sang Liên Xô. Được thực tiễn cách mạng Nga lúc đó
cổ vũ, Nguyễn A’i Quốc kiên trì đấu tranh bảo vệ và phát triển sáng tạo tư tưởng của
V.I Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, hướng sự chú ý của Quốc tế Cộng sản tới
phong trào đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa.
Nguyễn A’i Quốc đặc biệt quan tâm tới tình cảnh của người nông dân trong các nước
thuộc địa. Họ chiếm đại đa số trong xã hội và cách mạng thuộc địa khơng thể thắng
lợi nếu khơng có sự tham gia của đông đảo nông dân. Tại Hội nghị lần thứ I Quốc tế
Nông dân (tháng 10 nǎm 1923) Nguyễn A’i Quốc được bầu vào Hội đồng Quốc tế
Nông dân và được cử vào đồn Chủ tịch của Hội đồng. Người cịn được mời làm
chuyên gia của Ban thư ký giúp Hội đồng chuẩn bị nội dung cho các cuộc họp và là
chuyên gia về những công việc liên quan đến các thuộc địa.
Người viết nhiều bài báo về tình cảnh nơng dân Bắc Phi, nông dân Trung Quốc, nông
dân Việt Nam. Trong bài phát biểu tại Hội nghị Quốc tế Nông dân, Nguyễn A’i Quốc
đã tố cáo những thủ đoạn thực dân để biến nông dân thành nô lệ với hai bàn tay trắng.
Vì vậy người nơng dân khơng cịn đường sống mà phải đấu tranh, họ là lực lượng
cách mạng vô cùng to lớn. Kết thúc bài phát biểu Nguyễn A’i Quốc kêu gọi: “Thưa
các đồng chí, tơi phải nhắc lại với các đồng chí rằng Quốc tế của các đồng chí chỉ trở
thành một Quốc tế thật sự khi mà không những nông dân phương Tây, mà cả nông
dân ở phương Đông, nhất là nông dân ở các thuộc địa là những người bị bóc lột và bị
áp bức nhiều hơn các đồng chí, đều tham gia Quốc tế của các đồng chí“.
Trong các bài phát biểu tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (nǎm 1924) Nguyễn A’i Quốc
đã đề cập vấn đề về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc,
kêu gọi sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới với cách mạng thuộc địa. Tại phiên
họp XXV ngày 3 tháng 7 nǎm 1924 Nguyễn A’i Quốc chỉ rõ: “Trong tất cả các thuộc
địa Pháp, nạn nghèo đói đều tǎng, sự phẫn uất ngày càng lên cao. Sự nổi dậy của
nơng dân bản xứ đã chín muồi. Trong nhiều nước thuộc địa họ đã vài lần nổi dậy,
nhưng lần nào cũng bị dìm trong máu. Nếu hiện nay nơng dân vẫn cịn ở trong tình
trạng tiêu cực thì ngun nhân là vì họ cịn thiếu tổ chức , thiếu người lãnh đạo. Quốc
tế cộng sản phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và
chỉ cho họ con đườngđi tới cách mạng và giải phóng“.
Cuối nǎm 1924 Nguyễn A’i Quốc yêu cầu được trở về châu A’ để thực hiện hoài bão
giải phóng nhân dân các dân tộc thuộc địa, trong đó có nhân dân Việt Nam
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH SÁNG LẬP CHÍNH ĐẢNG CỦA GIAI CẤP CƠNG
NHÂN VIỆT NAM
(1924-1930)
Bìa sách "Đường Cách mệnh" - Tác phẩm lý luận cách mạng Việt Nam
Ngày 11 tháng 11 nǎm 1924 Nguyễn A’i Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Trong
báo cáo gửi Chủ tịch Đoàn quốc tế cộng sản ngày 18 tháng 12 nǎm 1924, Nguyễn A’i
quốc đã thông báo về việc đã tiếp xúc với nhóm những người Việt Nam yêu nước ở
Quảng Châu để huấn luyện về phương pháp hoạt động tổ chức và sau ba tháng học
xong sẽ trở về Đông Dương, và có một đồn khác sang. Người nhấn mạnh: “Trong
lúc này, đây là biện pháp duy nhất“.
Nguyễn A’i Quốc đã cùng một số đồng chí trực tiếp giảng bài cho các lớp huấn luyện.
Những bài giảng của Người được tập hợp in thành sách mang tên “Đường Cách
mệnh” xuất bản nǎm 1927. Một trong những vấn đề đầu tiên Nguyễn A’i Quốc đặc
biệt quan tâm là đào tạo những người tự nguyện hy sinh phấn đấu suốt đời cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; hiểu lý luận Mác
– Lênin; biết đồn kết và tổ chức nhân dân cùng phấn đấu vì sự nghiệp chung. Phân
tích những bài học kinh nghiệm của nhiều cuộc cách mạng trên thế giới, Nguyễn A’i
Quốc nêu rõ cách mạng Việt Nam phải theo gương cách mạng Nga đánh đuổi đế quốc
giành độc lập dân tộc, đánh đổ phong kiến tay sai đem lại ruộng đất cho nơng dân.
Người nói: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành
công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật…
Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công phải lấy dân
chúng làm gốc, phải có đảng vững bền“.
Tháng 6 nǎm 1925, trên cơ sở số cán bộ được huấn luyện, Nguyễn A’i Quốc thành lập
Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng”, tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Ngày 21 tháng 6 nǎm 1925, báo “Thanh niên” ra đời. Đây là tờ báo cách mạng
làm nhiệm vụ tuyên truyền giới thiệu về chủ nghĩa Lênin và cách mạng Tháng Mười
Nga; giải thích đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Báo là
người tuyên truyền tập thể, người cổ động và tổ chức tập thể, góp phần quan trọng
vào việc xúc tiến thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tháng 5 nǎm 1927, Nguyễn A’i Quốc, rời Quảng Châu, đi Mátxcơva, sau đó đi Béc
lin, tham dự Hội nghị Ban chấp hành mở rộng của Liên đoàn chống chiến tranh đế
quốc tại Brúc xen (Bỉ), đi Y’ và trở về Xiêm (Thái Lan). Cuối nǎm 1929, Người trở
lại Trung Quốc, triệu tập Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam vào cầu nǎm 1930
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH – NGƯỜI TỔ CHỨC VÀ LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM THẮNG LỢI
VÀ SÁNG LẬP NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
(1930-1945)
Sau cao trào 1930-1931, sự khủng bố của thực dân Pháp càng gắt gao hơn, nhiều
chiến sĩ cách mạng bị bắt bớ, tù đày, giết hại. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1931, Nguyễn A’i
Quốc bị chính quyền Anh bắt giam trái phép tại Hồng Kông (Trung Quốc).
Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945
Cuối nǎm 1933, Nguyễn A’i Quốc rời Hồng Kông. Đầu nǎm 1934 Người trở lại Liên
Xô. Tại đây Người vào học trường Quốc tế Lênin, nghiên cứu ở Viện nghiên cứu các
vấn đề dân tộc và thuộc địa, đồng thời tiếp tục theo dõi, chỉ đạo phong trào cách
mạng trong nước trong hnh hình chủ nghĩa phát xít đã công khai đàn áp mọi phong
trào dân chủ và hồ bình. Trong nhiều tài liệu Nguyễn A’i Quốc nêu lên sách lược của
Đảng Cộng sản Đông Dương trong thời kỳ 1936-1939, nhấn mạnh vấn đề tập hợp
mọi tầng lớp nhân dân và thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi đấu
tranh đòi tự do, dân chủ và hồ bình.
Trước những chuyển biến của tình hình thế giới, tháng 10 nǎm 1938, Nguyễn A’i
Quốc rời Liên Xô về Trung Quốc. Tháng 9 nǎm 1940 phát xít Nhật chiếm đóng Đơng
Dương. Cuối nǎm 1940
Người về sát biên giới Việt – Trung , bắt liên lạc với tổ chức Đảng, chuẩn bị về nước.
Người đã mở lớp huấn luyện chính trị để chuẩn bị cán bộ đáp ứng yêu cầu tình hình
nhiệm vụ mới. Người nêu rõ trong tài liệu huấn luyện: “Sự nghiệp giải phóng dân tộc
là sự nghiệp chung của các dân tộc, các giai cấp bị bóc lột ở Đơng Dương. Tồn thể
nhân dân Đông Dương không phân biệt dân tộc nào, giai cấp nào đều phải đồng tâm
hiệp hội đoàn kết cùng nhau mới làm nổi“.
Ngày 28 tháng 1 nǎm 1941, Nguyễn A’i Quốc về nước, Người chọn Cao Bằng làm
cǎn cứ địa xây dựng tổ chức, phát động phong trào cách mạng. Vùng Khuổi Nậm Pác
Bó là nơi họp Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương (tháng 5 nǎm 1941) do Nguyễn
A’i Quốc chủ trì, nơi ra báo Việt Nam độc lập, mở các lớp huấn luyện xây dựng lực
lượng cách mạng. Pác Bó có hang Cốc Bó, nơi Nguyễn A’i Quốc chọn làm chỗ ở và
làm việc của mình.
Ngày 6 tháng 6 nǎm 1941, Nguyễn A’i Quốc gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước
“Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết
lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sơi lửa
nóng… Việc cứu quốc là việc chung, ai là ngườiViệt Nam đều phải kề vai gánh vác
một phần trách nhiệm: người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức
góp sức, người có tài nǎng góp tài nǎng. Riêng phần tôi, xin đem hết tâm lực đi cùng
các bạn, vì đồng bào mưu giành tự do độc lập, dẫu phải hy sinh tính mệnh cũng
khơng nề“.
Tháng 8 nǎm 1942, lấy tên là Hồ Chí Minh và với tư cách là đại diện Mặt trậnViệt
Minh và phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội quốc tế chống xâm lược, Người sang
Trung Quốc. Ngày 29-8-1942 Người bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới
Thạch bắt giam, sau đó bị giải qua gần 30 nhà lao của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng
Tây. Trong thời gian ở tù, Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm thơ nổi tiếng “Nhật ký trong
tù”. Đến nay “Nhật ký trong tù” đã được dịch ra hơn 10 thứ tiếng.
Tháng 9 nǎm 1943, Hồ Chí Minh được trả lại tự do. Tháng 3 nǎm 1944, Người tham
dự Hội nghị các lực lượng cách mạng Việt Nam ở Liễu Châu (Trung Quốc). Tại Hội
nghị này Người đã đọc báo cáo về hoạt động của Mặt trận Việt Minh và Đảng Cộng
sản, nêu rõ tiền đồ của sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam, mối quan hệ mật
thiết và lâu đời giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Tháng 9 nǎm 1944, Hồ Chí
Minh trở lại Cao Bằng. Người gửi thư cho đồng bào toàn quốc kêu gọi chuẩn bị triệu
tập Quốc dân đại hội. Tháng 12 nǎm 1944, Người quyết định thành lập đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của quân đội nhân dânViệt Nam.
Ngày 9 tháng 3 nǎm 1945, phát xít Nhật đảo chính hất cẳng Pháp độc chiếm Đơng
Dương. Cuộc chiến tranh thế giới thứ I cũng bước vào giai đoạn cuối với những
thắng lợi của Liên Xô các nước Đồng minh. Ngày 4 tháng 5 nǎm 1945, Hồ Chí Minh
rời Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang) sau sự kiện Liên Xô tuyên chiến với Nhật
Bản (ngày 9 tháng 8 nǎm 1945) và ồ ạt tiến công đạo quân Quan Đông của chúng,
Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hirôsima (6-8), và Nagadaki (9-8), ngày 10
tháng 8 phe Đồng minh đã gửi công hàm yêu cầu Nhật Bản đầu hàng không điều
kiện. Chớp thời cơ ấy, ngày 12 tháng 8 nǎm 1945, Hồ Chí Minh cùng Ban thường vụ
Trung ương Đảng quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Theo đề nghị
của Người, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã họp tại Tân Trào ngày 13 tháng 8 nǎm
1945. Hội nghị thông qua quyết định Tổng khởi nghĩa, thành lập ủy ban khởi nghĩa
toàn quốc. Ngày 16 tháng 8 nǎm 1945 Quốc dân đại hội Tân Trào đã hồn tồn nhất
trí với chủ trương phát động khởi nghĩa của Đảng. Đại hội đã bầu ra ủy ban giải
phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Trong bức thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Hỡi đồng bào
yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến; toàn quốc đồng bào hãy
đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới
đang ganh nhau tiến bước giành độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến
lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên“. Ngày 19-8, khởi nghĩa
thắng lợi ở Hà Nội, ngày 23-8 thắng lợi ở Huế, ngày 25 tháng 8 thắng lợi ở Sài Gòn.
Ngày 2 tháng 9 nǎm 1945, tại Quảng trường Ba Đình Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc
Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ. Người tun bố:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do
độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy“.
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, NGƯỜI TỔ CHỨC VÀ LÃNH ĐẠO CUỘC ĐẤU
TRANH
GIỮ VỮNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC
DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
(1946-1954)
Sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo
tồn dân đấu tranh xây dựng, củng cố và giữ vững chính quyền non trẻ. Ngay trong
phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời 3-9-1945, Người đề ra những nhiệm vụ
cấp bách lúc đó là động viên tồn dân chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.
Bác thǎm một gia đình ở Việt Bắc
Để giữ vững thành quả cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những biện pháp cần
thiết để xây dựng hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân từ Trung ương tới địa
phương, một chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân. Trong thư gửi ủy ban
nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng tháng 10 nǎm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Nếu khơng có nhân dân thì Chính phủ khơng đủ lực lượng, nếu khơng có Chính
phủ thì nhân dân khơng ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với dân phải đồn kết
thành một khối…. Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ tồn quốc
cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân,
chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp Nhật.
Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải u dân, kính dân thì dân mới u ta, kính ta“.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm hàng đầu tới việc xây dựng chính sách đại đồn kết
dân tộc. Ngày 3 tháng 12 nǎm 1945, Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam
đã khai mạc tại Thủ đô Hà Nội. Nhân dịp này Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi tới
đồng bào các dân tộc thiểu số, Người khẳng định: “Nhờ sự đoàn kết giữa các dân tộc,
nhờ sự hy sinh của tất cả các đại biểu mà chúng ta tranh được quyền tự do độc lập và
xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”. Từ đây về sau các dân tộc đã đoàn
kết phải đoàn kết thêm, đã phấn đấu càng phải phấn đấu thêm nữa, để giữ gìn quyền
độc lập cho vững vàng để xây dựng một nước Việt Nam mới“. Một phần quan trọng
trong trưng bày ở phần này là giới thiệu các tài liệu hiện vật về hoạt động của Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhằm bảo vệ nền độc lập, giữ vững hồ bình ở Việt Nam. Trong
bức thư ngày 23 tháng 11 nǎm 1946 gửi người Việt Nam, người Pháp và thế giới, Chủ
tịch Hồ Chí Minh viết: “Chính phủ và nhân dân Việt Nam kiên quyết cộng tác thật
thà với người Pháp. Trong khi phải giữ chủ quyền của Tổ quốc, cần hy sinh thì cũng
phải kiên quyết hy sinh…. Người Việt và người Pháp có thể và cần phải bắt tay nhau
trong một sự nghiệp cộng tác bình đẳng, thật thà để gây dựng hạnh phúc chung cho
cả hai dân tộc“.
Trước dã tâm của thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta một lần nữa, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã cùng Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến trên
phạm vi cả nước. Sáng ngày 20 tháng 12nǎm 1946, trên làn sóng phát thanh của Đài
tiếng nói Việt Nam, lời kêu gọi cứu nước của Người đã truyền đi khắp nước:
“Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ… Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp
để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, khơng có gươm thì
dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước“.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng quyết định chiến cục Đông
Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ
Một trong những nhân tố quan trọng đảm bảo kháng chiến thắng lợi là sự lãnh đạo
của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể về xây dựng Đảng
nhằm nâng cao vai trị tập hợp, đồn kết và lãnh đạo tồn dân. Trong tác phẩm: “Sửa
đổi lối làm việc” viết nǎm 1947, Người nêu lên những kinh nghiệm, những bài học
thực tiễn có tính lý luận, bồi dưỡng tác phong lãnh đạo của người đảng viên cộng sản.
Người đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao tư cách và đạo đức cách mạng của đảng
viên và khẳng định: “Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài
giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân“.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng phong trào Thi đua yêu nước. Người nhắc nhở
toàn dân: “Mỗi một người lấy việc xung phong trong phong trào thi đua ái quốc làm
nhiệm vụ thiêng liêng của mình“. Người yêu cầu các cán bộ Đảng, Chính quyền và
các đồn thể phải thấm nhuần và thực hiện tư tưởng: “Nước lấy dân làm gốc“, và chỉ
rõ: “Trong công cuộc kháng chiến kiến quốc, lực lượng chính là ở dân, vậy tất cả anh
chị em, các bộ đội cơ quan chính phủ và các đồn thể trong khi tiếp xúc hoặc chung
sống với dân, ai cũng phải nhớ và thực hành.
“Gốc có vững, cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân“.
Tháng 2 nǎm 1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng khai mạc tại
chiến khu Việt Bắc. Trong Báo cáo Chính trị trình bày tại Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu rõ nhiệm vụ chính trị của Đảng là : Đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn
toàn và tổ chức Đảng Lao động Việt Nam, Người nói: “Chúng ta phải có một Đảng
cơng khai, tổ chức hợp với tình hình thế giới và tình hình trong nước để lãnh đạo toàn
dân đấu tranh cho đến thắng lợi Đảng Lao động Việt Nam phải là một đảng to lớn,
mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để. Nhiệm vụ cấp bách nhất của
Đảng ta ngày nay là phải đưa kháng chiến đến thắng lợi, các nhiệm vụ khác đều phải
phụ thuộc vào đó“.
Ngày 6 tháng 12 nǎm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị Trung ương
Đảng thông qua kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng Tư lệnh và quyết định mở chiến
dịch Điện Biên Phủ. Người chỉ thị cho Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp:
“Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng khơng những về qn sự mà cả về
chính trị, khơng những đối với trong nước mà còn đối với quốc tế. Vì vậy tồn qn
tồn dân, tồn Đảng, phải tập trung hồn thành cho kỳ được“.
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
MIỀN BẮC
VÀ ĐẤU TRANH CHỐNG MỸ XÂM LƯỢC, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM THỐNG
NHẤT ĐẤT NƯỚC
(1954-1969)
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc trong vườn hoa Phủ Chủ tịch nǎm 1961
Trở lại Thủ đô Hà Nội trong giai đoạn cách mạng mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ
nhiệm vụ của nhân dân Việt Nam là thi hành đúng Hiệp nghị Giơ ne vơ nǎm 1954 về
Đơng Dương; củng cố hồ bình, đấu tranh để thực hiện thống nhất đất nước bằng
Tổng tuyển cử tự do; củng cố miền Bắc về mọi mặt; mở rộng và củng cố Mặt trận
dân tộc thống nhất trong cả nước. Đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng, Người
nhắc nhở đảng viên phải phấn đấu, chú trọng nâng cao đạo đức cách mạng, coi đó là
nền tảng của mỗi đảng viên để hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của mình. Nǎm 1958
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Đạo đức cách mạng“, trong đó Người nêu lên
tư cách của một người đảng viên là: Phải trung thành tuyệt đối với Đảng, quyết tâm
suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng; ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ
luật của Đảng đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lao động lên trên lợi ích của cá
nhân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, vì Đảng vì dân mà đấu tranh; gương mẫu
trong mọi việc, ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, ln ln dùng phê bình và tự
phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến cơng tác của mình và đồng chí mình tiến
bộ.
Về phần mình, lời nói đi đơi với việc làm, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln là gương sáng
về thực hành đạo đức cách mạng. Những kỷ vật của Người để lại được giới thiệu
trong bảo tàng (như bộ quần áo gụ, đôi dép cao su v.v…) khơng chỉ nói về cuộc sống
giản dị, đức khiêm tốn của một con người mà cịn nói lên nhân cách của một vị lãnh
tụ của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Một ngày Tổ quốc chưa thống nhất, miền Nam chưa
được giải phóng là một ngày tơi ǎn khơng ngon, ngủ khơng n“.
Người ln dành tình cảm sâu đậm với miền Nam, quan tâm theo dõi và cổ vũ từng
bước tiến của cách mạng miền Nam. Trong Thư gửi đồng bào cả nước ngày 6 tháng 7
nǎm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Thống nhất nước nhà là con đường sống của
nhân dân ta. Đại đoàn hết là một lực lượng tất thắng“. Đồng bào miền Nam luôn
hướng về Bác Hồ, về Thủ đô Hà Nội, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc. Những vật lưu niệm từ miền Nam gửi tới Người được trưng bày đã nói lên tình
cảm tha thiết của nhân dân miền Nam đối với Người.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam, tháng 9 nǎm
1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hồ bình thống nhất nước nhà“. Đại hội đã bầu lại
Chủ tịch Hồ Chí Minh là Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam.
Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III miền Bắc bước vào
thực hiện kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất. Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh động viên toàn Đảng toàn dân vừa xây dựng, phát triển kinh
tế, giữ gìn và phát triển nền vǎn hố dân tộc, vừa chǎm lo đến đời sống hàng ngày của
nhân dân. Người cổ vũ nhân dân miền Nam ruột thịt đang chiến dấu anh dũng để giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh
đến việc xây dựng con người mới, Người nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa“. Người đặc biệt quan tâm đến sự
nghiệp giáo dục và chỉ rõ: “Trong công tác giáo dục phải luôn luôn kết hợp chặt chẽ
giữa lý luận và thực hành, giữa giáo dục với lao động, vǎn hoá với đạo đức cách
mạng; phải đẩy mạnh phong trào thi đua hai tốt: Dạy thật tốt và học thật tốt “.
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn đề cao nhiệm vụ miền Bắc phải là nền tảng, là niềm tin đối với đồng
bào miền Nam.
Nǎm 1962, khi tiếp Đoàn đại biểu nhân dân miền Nam ra thǎm miền Bắc, Chủ tịch
Hổ Chí Minh nói: “Hình ảnh miền Nam yêu quý luôn luôn ở trong trái tim tơi“.
Người mong muốn miền Nam sớm được giải phóng để vào thǎm đồng bào, cán bộ và
chiến sĩ thân yêu. Nǎm 1963 khi Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đề nghị
tặng Huân chương Sao vàng cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đề nghị: “Chờ đến
ngày miền Nam hồn tồn giải phóng, Tổ quốc thống nhất, Quốc hội cho phép đồng
bào miền Nam trao cho tôi Huân chương cao q đó. Như vậy thì tồn dân ta sẽ sung
sướng, vui mừng“.
Tháng 8 nǎm 1964 đế quốc Mỹ gây ra sự kiện “Vịnh Bắc Bộ“, và từ tháng 2 nǎm
1965 đã mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc và ồ ạt đưa
quân viễn chinh Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Trước tình hình đó Chủ tịch Hồ Chí
Minh kêu gọi tồn thể nhân dân Việt Nam: “Lúc này chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ
thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước“. Tháng 7 nǎm 1966 Mỹ đã dùng
máy bay ném bom Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phịng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
động viên nhân dân Việt Nam vượt qua hy sinh gian khổ và kêu gọi: “Chiến tranh có
thể kéo dài 5 nǎm, 10 nǎm, 20 nǎm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số
thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết khơng sợ!
Khơng có gì quý hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại
đất nước ta đàng hồng hơn, to đẹp hơn!“.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng tình đồn kết giúp đỡ của nhân dân thế giới đối
với nhân dânViệt Nam và luôn gắn cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam với cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội. Trong những nǎm kháng chiến cứu nước gian khổ, Người nói với nhân dân
Việt Nam: “Nhân dân ta chiến đấu hy sinh chẳng những vì tự do, độc lập riêng của
mình mà cịn vì tự do, độc lập chung của các dân tộc và hồ bình thế giới“. Tháng 11
nǎm 1964, Hội nghị quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam đã được tổ chức tại Thủ
đô Hà Nội với sự tham dự của 64 đoàn đại biểu của 52 nước và tổ chức quốc tế là sự
cổ vũ to lớn đối với cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam.
Về quan hệ với nước Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ln phân biệt sự khác nhau
giữa những người Mỹ xâm lược và nhân dân Mỹ; Người thơng cảm sâu sắc với nỗi
đau của những gia đình, những người phụ nữ Mỹ có người thân tham gia cuộc chiến
tranh xâm lược ở Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết nhiều thư gửi nhân dân
Mỹ, coi họ là những người bạn thân thiết. Trong bức thư gửi nhân dân Mỹ tháng 1
nǎm 1962, Người viết: “Nhân dân Mỹ và nhân dân Việt Nam khơng thù ốn gì nhau.
Nhân dân Việt Nam kính trọng các bạn là nước đầu tiên phất cờ chống chủ nghĩa thực
dân và chúng tơi mong muốn có quan hệ hữu nghị với các bạn“.
Từ nǎm 1965, khi tròn 75 tuổi, chuẩn bị cho cuộc “ra đi” của mình, Bác Hồ bắt đầu
viết Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta. Trong những nǎm còn lại, cứ đến
tháng 5, Bác Hồ lại sửa chữa và viết thêm vào vǎn kiện “tuyệt đối bí mật” này. Trong
Di chúc Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư,
phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân… Đảng cần có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh
tế, vǎn hố, nhằm khơng ngừng nâng cao đời sốngcủa nhân dân…“.
Vào hồi 9 giờ 47 phút ngày 2 tháng 9 nǎm 1969, trái tim của Chủ tịch Hồ Chí Minh
ngừng đập, để lại nỗi tiếc thương vơ hạn cho toàn thể nhân dân Việt Nam và bạn bè
quốc tế. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về những ngày tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà
Nội:
“ Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…. “
VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930) có ý nghĩa lịch sử vơ cùng quan
trọng, mở ra trang sử mới chói lọi của dân tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời là tất yếu khách quan của lịch sử, gắn liền với công lao vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc. Đến nay, 80 năm đã trôi qua, nhưng việc nghiên cứu, tìm hiểu về sự vận
động ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn còn nguyên giá trị khoa học. Đặc biệt,
qua đó, giúp thế hệ trẻ hiểu hơn về Đảng, từ đó phấn đấu, rèn luyện để bước vào hàng
ngũ của Đảng quang vinh.
Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) là một nhà cách mạng,
một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo cơng cuộc đấu tranh giành độc lập,
tồn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong thế kỷ 20. Ông là người viết và đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2 tháng 9
năm 1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa trong thời gian 1945 – 1969, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam trong thời gian 1951 – 1969. Đặc biệt, HCM là người có cơng
lớn đối với việc thành lập ĐCS VN
Vốn sinh ra trong gia đình có truyền thống u nước, giỏi Nho học, nên ngay từ nhỏ
Nguyễn Tất Thành đã có ý chí đuổi thực dân, giải phóng đồng bào. Thất bại của
phong trào chống thuế ở Huế (1908) và các phong trào yêu nước chống Pháp đầu thế
kỷ XX, đã giúp cho Nguyễn Tất Thành hiểu được bản chất dã man và sức mạnh của
bộ máy chính quyền thực dân. Mặc dù rất khâm phục những hoạt động cứu nước của
các vị tiền bối, nhưng Nguyễn Tất Thành đã tự chọn con đường cứu nước riêng của
mình, bằng cách đi ra nước ngoài, đến với các nước phương Tây, xem sự thật đằng
sau tư tưởng Tự do, Bình đẳng và Bác ái là gì, tìm học con đường đấu tranh thích hợp
để sau này trở về giúp đồng bào mình tự giải phóng.
Từ năm 1911 đến năm 1917, chỉ với túi hành trang là lòng yêu nước sâu sắc, nghị lực
phi thường và đôi bàn tay cần cù lao động vốn có của người dân Việt Nam đã giúp
Nguyễn Tất Thành vượt lên trên tất cả những khó khăn, gian khổ để bơn ba tìm hiểu
nhiều nơi trên thế giới. Cuộc hành trình dài sáu năm này đã giúp Người nhận thức rõ
về cuộc sống của thế giới bên ngoài, phân biệt được đâu là bạn, đâu là kẻ thù.
Cuối năm 1917, từ nước Anh, Nguyễn Tất Thành trở về nước Pháp. Tại đây, Người
đã hồ mình cùng nhân dân lao động và tích cực tham gia các hoạt động chính trị.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp, tổ chức duy nhất ở
Pháp bênh vực các dân tộc thuộc địa và theo đuổi lý tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái.
Đến tháng 6 cùng năm, Nguyễn Ái Quốc(tên mới của Nguyễn Tất Thành) thay mặt
Hội Những người Việt Nam yêu nước gửi Bản yêu sách tám điểm đến Hội nghị
Vécxây, đòi quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Vì Hội nghị Vécxây được
tổ chức là nhằm để các nước đế quốc chia nhau quyền lợi sau Chiến tranh thế giới thứ
nhất nên những yêu cầu của Bản yêu sách đã không được quan tâm đến. Tuy nhiên,
sự kiện này đã giúp Người nhận thức rõ hơn bản chất thật của chủ nghĩa đế quốc, đó
là, những lời hứa của các nước đế quốc về việc trao quyền tự quyết cho các dân tộc
thuộc địa chỉ là trò lừa bịp, muốn cứu nước, giải phóng dân tộc thì tự chúng ta phải
đứng lên giành lấy.
Những thông tin về thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (tháng 11/1917) và sự
ra đời của Quốc tế Cộng sản (tháng 3/1919), đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức
của Nguyễn Ái Quốc về con đường hoạt động cách mạng. Ngày 16 và 17/7/1920, báo
L'Humanité (Nhân đạo) đăng bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Đọc bản Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái
Quốc rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ về con đường đấu tranh giải phóng cho dân
tộc mình. Từ đây, Người hồn tồn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba.
Tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc
đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Những hành động này
đã đánh dấu một mốc son quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.
Từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống, Người đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Chân
lý về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc mà suốt gần mười năm qua Người bơn
ba tìm kiếm đến nay đã được tìm thấy.
Như vậy, bằng sự kiện Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con
đường giải phóng dân tộc đúng đắn, phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại, đó
là con đường cách mạng vô sản, đã giúp cách mạng Việt Nam chấm dứt thời kỳ dài bị
khủng hoảng về đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc.
Từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã ra sức nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh
nghiệm cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Đồng thời, Người tham gia viết bài cho
các tờ báo, nhằm tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân và tìm cách bí mật truyền bá
chủ nghĩa Mác-Lênin về nước; từng bước chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ
chức để cho ra đời một chính đảng, kịp thời dẫn dắt phong trào cách mạng trong
nước.
Để giúp các dân tộc thuộc địa, trong đó có Việt Nam hiểu rõ bộ mặt thật của chủ
nghĩa thực dân, giác ngộ con đường đấu tranh cách mạng và đoàn kết lại với nhau,
Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí của mình sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc
thuộc địa (tháng 10/1920) và sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ). Có thể nói,
đây là tổ chức đầu tiên trên thế giới kêu gọi các dân tộc thuộc địa đoàn kết lại để cùng
đấu tranh chống một kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật đến Liên Xô, hoạt động cho Quốc tế Cộng
sản, cụ thể là ở Ban Phương Đông và Quốc tế Nơng dân. Tại đây, Người có điều kiện
trực tiếp nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin một cách có hệ thống, đi sâu
nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga, cách thức tổ chức và hoạt
động của các Đảng Cộng sản, đặc biệt là Đảng Cộng sản Liên Xô…
Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô đến Quảng Châu (Trung Quốc). Đến
Trung Quốc, quốc gia giáp biên với Việt Nam là mong muốn thiết tha từ lâu của
Người. Tại đây, Người có điều kiện thuận lợi hơn để liên lạc với cách mạng Việt
Nam, đẩy mạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước và chuẩn bị cho ra đời
một chính đảng.
Đầu năm 1925, Nguyễn Ái Quốc vận động thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc
địa ở châu Á. Đây là tổ chức đoàn kết các dân tộc thuộc địa ở châu Á để cùng nhau
đứng lên đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, giành lại độc lập dân tộc.
Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Đây
được xem là tổ chức tiền thân của Đảng, có tính chất q độ, phù hợp với trình độ
phát triển của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Qua tổ chức này, những người Việt
Nam yêu nước, dù xuất thân từ thành phần nào cũng rất dễ dàng hiểu và tiếp thu được
chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đi đôi với công tác phát triển tổ chức, Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị về tư tưởng
và chính trị để thành lập một chính đảng ở Việt Nam sau này. Cụ thể, Người trực tiếp
mở và phụ trách Trường huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, gieo những hạt giống
cộng sản đầu tiên cho cách mạng Việt Nam.
Theo sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên cho xuất
bản tờ báo Thanh Niên làm cơ quan tuyên truyền của Hội. Mục đích để truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin về nước, giác ngộ quần chúng, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách
mạng theo khuynh hướng vô sản, đẩy lùi những tư tưởng dân tộc chủ nghĩa tư bản và
tiểu tư sản đang tồn tại ở Việt Nam lúc bấy giờ.
Đầu năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện chính
trị, đào tạo cán bộ đã được in thành tác phẩm Đường kách mệnh. Những tư tưởng cốt
lõi của tác phẩm này là sự kế thừa và phát triển tư tưởng của cuốn Bản án chế độ thực
dân Pháp cũng do Người viết, được xuất bản ở Paris vào năm 1925 trước đó. Tác
phẩm Đường kách mệnh đã chỉ ra rất rõ con đường giải phóng dân tộc, phương pháp
đấu tranh cách mạng, xứng đáng là ngọn cờ chỉ đạo cách mạng Việt Nam trong
những ngày đầu chuẩn bị thành lập Đảng.
Trong khoảng thời gian này, ở Việt Nam, phong trào yêu nước của nhân dân phát
triển rất mạnh. Mở đầu là các cuộc bãi công của công nhân, phong trào đòi thả tự do
cho cụ Phan Bội Châu (1925), phong trào để tang cụ Phan Chu Trinh (đầu năm
1926). Thông qua những hoạt động này là dịp rất tốt để Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên truyền bá sâu rộng hơn chủ nghĩa Mác-Lênin vào giai cấp
công nhân và nhân dân lao động.
Tháng 9/1928, kỳ bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Bắc Kỳ đưa ra chủ
trương "Vơ sản hố", nhằm đưa hội viên vào các nhà máy, đồn điền, hầm mỏ để đẩy
mạnh việc truyền bá và kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với các phong trào đấu tranh
của công nhân.
Như vậy, đến cuối những năm 1920, phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam đã
phát triển lên đến đỉnh cao, bao gồm cả chất và lượng. Trước sự phát triển đó, Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên đã khơng cịn đủ sức lãnh đạo phong trào cách mạng.
Tình hình cách mạng lúc này đòi hỏi bức thiết phải thành lập một Đảng Cộng sản để
tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam tiến lên.
Với khơng khí dâng lên cao mạnh mẽ của phong trào đấu tranh cách mạng, chỉ trong
vòng 7 tháng (từ tháng 6/1929 đến tháng 1/1930), cả nước lần lượt đã ra đời ba tổ
chức cộng sản. Đó là, Đông Dương Cộng sản Đảng (tháng 6/1929), An Nam Cộng
sản Đảng (tháng 10/1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (tháng 1/1930). Sự
xuất hiện ba tổ chức cộng sản cùng hoạt động với mục tiêu thống nhất chung đã
chứng tỏ rằng cách mạng Việt Nam đang phát triển lên đến đỉnh cao, phản ánh kết
quả thành công của quá trình dài chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức của
Nguyễn Ái Quốc để tiến đến thành lập một Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Tuy nhiên,
trong một nước cùng lúc xuất hiện tới ba tổ chức chức cộng sản, cùng một mục tiêu
hoạt động, nhưng lại không đồn kết, thống nhất với nhau, điều đó đã làm ảnh hưởng
xấu đến sự nghiệp chung của cách mạng cả nước. Vì vậy, lúc này, việc thống nhất các
tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất, đủ khả năng lãnh đạo phong
trào cách mạng cả nước vừa là yêu cầu tất yếu khách quan, vừa là chỉ thị của Quốc tế
Cộng sản.
Trước tình hình cấp bách đó, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm (Thái Lan) trở lại Hương
Cảng (Hồng Kông) triệu tập ngay hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản để thống
nhất các tổ chức đó lại và thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất.
Từ ngày 3 đến ngày 7/2/1930, tại Hương Cảng, sau một thời gian ngắn gấp rút chuẩn
bị, với tư cách là đại diện của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị
thống nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam thành một tổ chức duy nhất, lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thơng qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng và Lời kêu gọi do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Tất cả
các tài liệu này được xem là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta. Nội dung
Cương lĩnh chính trị đã nêu rõ đường lối chiến lược và sách lược phù hợp với tình
hình thực tế của cách mạng Việt Nam, đó là đấu tranh giành độc lập dân tộc, thực
hiện mục tiêu người cày có ruộng và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã kết thúc thời kỳ dài mười năm chuẩn bị
cơng phu, khoa học về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
để tiến đến thành lập một Đảng Cộng sản ở Việt Nam, đủ khả năng lãnh đạo phong
trào đấu tranh giành độc lập dân tộc và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã gắn liền với vai trò vĩ đại của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc, thể hiện rõ ở các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu học thuyết chủ nghĩa
Mác-Lênin, đồng thời, hướng cách mạng Việt Nam đi theo con đường đó và giúp
cách mạng Việt Nam thốt khỏi bế tắc đường lối cứu nước. Người đầu tiên gắn chặt
ngọn cờ độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, bằng phương pháp cách mạng đầy tính khoa học, sáng tạo và tinh thần cống
hiến quên mình, Nguyễn Ái Quốc đã tạo ra hệ thống giao thơng liên lạc bí mật, rất
chặt chẽ, đa chiều từ nước ngoài về Việt Nam và ngược lại. Kết quả là Người đã
truyền bá thành công chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam, đánh lùi các tư tưởng cứu
nước sai trái. Tuyển chọn và đào tạo nên đội ngũ cán bộ cộng sản đầu tiên cho cách
mạng Việt Nam.
Thứ ba, bằng uy tín và sự chuẩn bị chu đáo của mình, Nguyễn Ái Quốc đã thống nhất
thành công các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, thành lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tạo sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và tổ chức trong phong trào đấu tranh cách
mạng. Đây là những điều kiện thiết yếu để đưa cách mạng Việt Nam đi đến thành
công.
Thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đồng nghĩa với việc Nguyễn Ái Quốc đã
phá tan sự đơn độc tồn tại lâu đời, thiết lập nên sự đoàn kết, thống nhất hành động
giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng các nước Đông Dương. Đặc biệt là đưa
cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăn khít của cách mạng thế giới.
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở MIỀN BẮC
VÀ ĐẤU TRANH CHỐNG MỸ XÂM LƯỢC, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM
THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
(1954-1969)
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc trong vườn hoa Phủ Chủ tịch nǎm 1961
Trở lại Thủ đô Hà Nội trong giai đoạn cách mạng mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ
nhiệm vụ của nhân dân Việt Nam là thi hành đúng Hiệp nghị Giơ ne vơ nǎm 1954 về
Đông Dương; củng cố hồ bình, đấu tranh để thực hiện thống nhất đất nước bằng
Tổng tuyển cử tự do; củng cố miền Bắc về mọi mặt; mở rộng và củng cố Mặt trận
dân tộc thống nhất trong cả nước. Đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng, Người
nhắc nhở đảng viên phải phấn đấu, chú trọng nâng cao đạo đức cách mạng, coi đó là
nền tảng của mỗi đảng viên để hồn thành nhiệm vụ vẻ vang của mình. Nǎm 1958
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Đạo đức cách mạng“, trong đó Người nêu lên
tư cách của một người đảng viên là: Phải trung thành tuyệt đối với Đảng, quyết tâm
suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng; ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ
luật của Đảng đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lao động lên trên lợi ích của cá
nhân, hết lịng hết sức phục vụ nhân dân, vì Đảng vì dân mà đấu tranh; gương mẫu
trong mọi việc, ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, ln ln dùng phê bình và tự
phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến cơng tác của mình và đồng chí mình tiến
bộ.
Về phần mình, lời nói đi đơi với việc làm, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln là gương sáng
về thực hành đạo đức cách mạng. Những kỷ vật của Người để lại được giới thiệu
trong bảo tàng (như bộ quần áo gụ, đơi dép cao su v.v…) khơng chỉ nói về cuộc sống
giản dị, đức khiêm tốn của một con người mà cịn nói lên nhân cách của một vị lãnh
tụ của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Một ngày Tổ quốc chưa thống nhất, miền Nam chưa
được giải phóng là một ngày tôi ǎn không ngon, ngủ không yên“.
Người ln dành tình cảm sâu đậm với miền Nam, quan tâm theo dõi và cổ vũ từng
bước tiến của cách mạng miền Nam. Trong Thư gửi đồng bào cả nước ngày 6 tháng 7
nǎm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Thống nhất nước nhà là con đường sống của
nhân dân ta. Đại đoàn hết là một lực lượng tất thắng“. Đồng bào miền Nam luôn
hướng về Bác Hồ, về Thủ đơ Hà Nội, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc. Những vật lưu niệm từ miền Nam gửi tới Người được trưng bày đã nói lên tình
cảm tha thiết của nhân dân miền Nam đối với Người.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam, tháng 9 nǎm
1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hồ bình thống nhất nước nhà“. Đại hội đã bầu lại
Chủ tịch Hồ Chí Minh là Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam.
Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III miền Bắc bước vào
thực hiện kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất. Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh động viên tồn Đảng tồn dân vừa xây dựng, phát triển kinh
tế, giữ gìn và phát triển nền vǎn hoá dân tộc, vừa chǎm lo đến đời sống hàng ngày của
nhân dân. Người cổ vũ nhân dân miền Nam ruột thịt đang chiến dấu anh dũng để giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh
đến việc xây dựng con người mới, Người nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa“. Người đặc biệt quan tâm đến sự
nghiệp giáo dục và chỉ rõ: “Trong công tác giáo dục phải luôn luôn kết hợp chặt chẽ
giữa lý luận và thực hành, giữa giáo dục với lao động, vǎn hoá với đạo đức cách
mạng; phải đẩy mạnh phong trào thi đua hai tốt: Dạy thật tốt và học thật tốt “.
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ln đề cao nhiệm vụ miền Bắc phải là nền tảng, là niềm tin đối với đồng
bào miền Nam.
Nǎm 1962, khi tiếp Đoàn đại biểu nhân dân miền Nam ra thǎm miền Bắc, Chủ tịch
Hổ Chí Minh nói: “Hình ảnh miền Nam u q ln ln ở trong trái tim tôi“.
Người mong muốn miền Nam sớm được giải phóng để vào thǎm đồng bào, cán bộ và
chiến sĩ thân yêu. Nǎm 1963 khi Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đề nghị
tặng Huân chương Sao vàng cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đề nghị: “Chờ đến
ngày miền Nam hồn tồn giải phóng, Tổ quốc thống nhất, Quốc hội cho phép đồng
bào miền Nam trao cho tơi Hn chương cao q đó. Như vậy thì tồn dân ta sẽ sung
sướng, vui mừng“.
Tháng 8 nǎm 1964 đế quốc Mỹ gây ra sự kiện “Vịnh Bắc Bộ“, và từ tháng 2 nǎm
1965 đã mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc và ồ ạt đưa
quân viễn chinh Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Trước tình hình đó Chủ tịch Hồ Chí
Minh kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam: “Lúc này chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ
thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước“. Tháng 7 nǎm 1966 Mỹ đã dùng
máy bay ném bom Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phịng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
động viên nhân dân Việt Nam vượt qua hy sinh gian khổ và kêu gọi: “Chiến tranh có
thể kéo dài 5 nǎm, 10 nǎm, 20 nǎm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phịng và một số
thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!
Không có gì q hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại
đất nước ta đàng hồng hơn, to đẹp hơn!“.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng tình đồn kết giúp đỡ của nhân dân thế giới đối
với nhân dânViệt Nam và luôn gắn cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam với cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội. Trong những nǎm kháng chiến cứu nước gian khổ, Người nói với nhân dân
Việt Nam: “Nhân dân ta chiến đấu hy sinh chẳng những vì tự do, độc lập riêng của
mình mà cịn vì tự do, độc lập chung của các dân tộc và hồ bình thế giới“. Tháng 11
nǎm 1964, Hội nghị quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam đã được tổ chức tại Thủ
đô Hà Nội với sự tham dự của 64 đoàn đại biểu của 52 nước và tổ chức quốc tế là sự
cổ vũ to lớn đối với cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam.
Về quan hệ với nước Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ln phân biệt sự khác nhau
giữa những người Mỹ xâm lược và nhân dân Mỹ; Người thông cảm sâu sắc với nỗi
đau của những gia đình, những người phụ nữ Mỹ có người thân tham gia cuộc chiến
tranh xâm lược ở Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết nhiều thư gửi nhân dân
Mỹ, coi họ là những người bạn thân thiết. Trong bức thư gửi nhân dân Mỹ tháng 1
nǎm 1962, Người viết: “Nhân dân Mỹ và nhân dân Việt Nam không thù ốn gì nhau.
Nhân dân Việt Nam kính trọng các bạn là nước đầu tiên phất cờ chống chủ nghĩa thực
dân và chúng tơi mong muốn có quan hệ hữu nghị với các bạn“.
Từ nǎm 1965, khi tròn 75 tuổi, chuẩn bị cho cuộc “ra đi” của mình, Bác Hồ bắt đầu
viết Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta. Trong những nǎm còn lại, cứ đến
tháng 5, Bác Hồ lại sửa chữa và viết thêm vào vǎn kiện “tuyệt đối bí mật” này. Trong
Di chúc Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư,
phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân… Đảng cần có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh
tế, vǎn hố, nhằm khơng ngừng nâng cao đời sốngcủa nhân dân…“.
Vào hồi 9 giờ 47 phút ngày 2 tháng 9 nǎm 1969, trái tim của Chủ tịch Hồ Chí Minh
ngừng đập, để lại nỗi tiếc thương vơ hạn cho toàn thể nhân dân Việt Nam và bạn bè
quốc tế. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về những ngày tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà
Nội:
“ Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…. “